GIÁO TRÌNH
NHỮNG NỀN VĂN
MINH THẾ GIỚI
1
2
3
LỜI DẪN
1- Khái niệm văn minh:
Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức là
trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Trái với văn minh là dã man.
Ví dụ: văn minh Phương Đông, văn minh Hy Lạp...
Chữ văn minh trong tiếng Pháp là civilisation, trong tiếng Anh là civilization, còn có nghĩa là hoạt
động khai hóa làm thoát khỏi trạng thái nguyên thủy.
Như vậy, khi định nghĩa văn minh, người ta đã đề cập đến một khái niệm mới, đó là văn hóa.
Vậy văn hóa là gì? Văn hóa là một từ tiếng Hán, do Lưu Hướng, người thời Tây Hán nêu ra đầu
tiên. Nhưng lúc bấy giờ, hai chữ văn hóa có nghĩa là “dùng văn để hóa”, nói một cách khác, văn hóa tức là
giáo hóa. Đến thời cận đại, nghĩa của chữ văn hóa có phần khác trước.
Nguyên là, chữ văn hóa trong tiếng Anh và tiếng Pháp là culture. Chữ này có nguồn gốc từ chữ La
tinh cultura nghĩa là trồng trọt, cư trú, luyện tập, lưu tâm... Đến giữa thế kỉ XIX, do sự phát triển của các
khoa nhân loại học, xã hội học, dân tộc học..., khái niệm văn hóa đã thay đổi. Người đầu tiên đưa ra định
nghĩa mới về văn hóa là Taylor, nhà nhân loại học đầu tiên của nước Anh, ông nói: “Văn hóa là một tổng
thể phức tạp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật phong tục và cả những năng lực,
thói quen mà con người đạt được trong xã hội”. Sau đó, các học giả đã đua nhau đưa ra những định nghĩa
về văn hóa. Trên cơ sở ấy, người Nhật Bản đã dùng hai chữ văn hóa để dịch chữ culture của phương Tây,
và do đó, chữ văn hóa mới có nghĩa như ngày nay.
Hiện nay, đa số học giả cho rằng, văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Như vậy, văn hóa cùng xuất hiện đồng thời với loài người.
Khi con người biết chế tạo ra công cụ đá cũng là khi họ bắt đầu sáng tạo ra văn hóa. Dần dần, ngoài
văn hóa vật chất, họ còn sáng tạo ra nghệ thuật, tôn giáo... Trên cơ sở nền văn hóa nguyên thủy, đến giai
đoạn nhất định, loài người mới tiến vào thời kì văn minh.
Như thế, văn hóa và văn minh đều là những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra
trong tiến trình lịch sử, nhưng văn hóa và văn minh khác nhau ở chỗ văn hóa là toàn bộ những giá trị mà
loài người sáng tạo ra từ khi loài người ra đời đến nay, còn văn minh chỉ là những giá trị mà loài người
sáng tạo ra trong giai đoạn phát triển cao của xã hội.
Vậy thì giai đoạn phát triển cao đó là giai đoạn nào? Đó là giai đoạn có nhà nước. Thông thường
vào thời kì thành lập nhà nước thì chữ viết cũng xuất hiện, do đó văn hóa có một bước phát triển nhảy vọt.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh cụ thể, có một số nơi, khi nhà nước ra đời vẫn chưa có chữ viết, nhưng đó là
những trường hợp không điển hình.
Liên quan tới khái niệm văn hóa và văn minh còn có khái niệm văn hiến. Trong bài Bình Ngô Đại Cáo,
Nguyễn Trãi viết: “Xét như nước Đại Việt ta, thực là một nước văn hiến”. Vậy, văn hiến là gì? Khổng Tử
nói: “Lễ của đời Hạ, ta có thể nói được, nhưng nước Kỉ (nước còn bảo tồn lễ của đời Hạ) không đủ chứng
minh; lễ của đời Ân, ta có thể nói được nhưng nước Tống (nước còn bảo tồn lễ của đời Ân) không đủ
chứng minh. Đó là vì văn hiến không đủ, nếu đủ thì ta có thể chứng minh.”.
Như vậy, văn hiến là một thuật ngữ chỉ chung sử sách và các chế độ chính sách. Có sử sách tức là
đã bước vào thời kì văn minh, do đó trước đây, dưới thời phong kiến, khi chưa có chữ văn minh với nghĩa
như ngày nay, chữ văn hiến thực chất là văn minh. Như vậy, câu “Xét như nước Đại Việt ta thực là một
nước văn hiến” có nghĩa là “Xét như nước Đại Việt ta thực là một nước văn minh”.
Tóm lại, các khái niệm văn hóa, văn minh và văn hiến, ngoài những nghĩa riêng biệt không lẫn lộn
được như đối với từng cá nhân, chỉ có thể nói trình độ văn hóa, không thể nói trình độ văn minh, ngược lại,
đối với xã hội, chỉ có thể nói thời đại văn minh, không thể nói thời đại văn hóa, nói chung, ba thuật ngữ này
có nghĩa rất gần nhau. Chỗ khác nhau là, văn minh là giai đoạn phát triển cao của văn hóa, còn văn minh và
4
văn hiến khác nhau ở chỗ văn minh (civilisation) là một từ mới du nhập, còn văn hiến là một từ cổ ngày nay
không dùng nữa.
2- Các nền văn minh lớn trên thế giới:
Loài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa
vật chất và tinh thần. Nhưng mãi đến cuối thiên kỉ IV TCN, xã hội nguyên thủy bắt đầu tan rã ở Ai Cập,
nhà nước bắt đầu ra đời, từ đó loài người mới bắt đầu bước vào thời kì văn minh.
Trong thời cổ đại, tức là từ cuối thiên kỉ IV, đầu thiên kỉ III TCN, đến những thế kỉ trước sau CN, ở
phương Đông tức là ở châu Á và ở Đông Bắc châu Phi có bốn trung tâm văn minh lớn, đó là Ai Cập,
Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Có một tình hình chung nổi bật là cả bốn trung tâm văn minh này đều
nằm trên những vùng chảy qua của những con sông lớn. Đó là sông Nin ở Ai Cập, sông Ơphrat và sông
Tigrơ ở Tây Á, sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung
Quốc. Chính nhờ sự bồi đắp của những dòng sông lớn ấy nên đất đai ở những nơi này trở nên màu mỡ,
nông nghiệp có điều kiện phát triển trong hoàn cảnh nông cụ còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của nhà
nước, do đó cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh, và hơn thế nữa đã sáng tạo nên những nền văn
minh vô cùng rực rỡ.
Muộn hơn một ít, ở phương Tây đã xuất hiện nền văn minh của Hy Lạp cổ đại. Nền văn minh Hy
Lạp có cơ sở đầu tiên từ thiên kỉ III TCN, nhưng tiêu biểu cho nền văn minh Hy Lạp là những thành tựu từ
khoảng thế kỉ VII TCN trở về sau.
Đến thế kỉ VI TCN, nhà nước La Mã bắt đầu thành lập. Kế thừa và phát triển văn minh Hy Lạp, La
Mã trở thành trung tâm văn minh thứ hai ở phương Tây. Đến thế kỉ II TCN, La Mã chinh phục Hy Lạp và
tiếp đó chinh phục các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp ở phương Đông, trở thành đế quốc rộng lớn,
hùng mạnh, duy nhất ở phương Tây. Văn minh La Mã vốn chịu ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp, vốn có
cùng một phong cách, giờ đây lại hòa đồng làm một, nên hai nền văn minh này được gọi chung là văn minh
Hy-La.
Văn minh Hy-La vô cùng xán lạn, là cơ sở của văn minh châu Âu sau này. Nhưng sau khi đế quốc
Tây La Mã diệt vong, nền văn minh đó bị lụi tàn, mãi đến thế kỉ VI, văn minh phương Tây mới bắt đầu
được phục hưng và từ đó mới phát triển mạnh mẽ và liên tục cho đến ngày nay.
Như vậy, trên thế giới có hai khu vực văn minh lớn: phương Đông và phương Tây. Thời cổ đại,
phương Đông có bốn trung tâm văn minh là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc.
Thời trung đại, cả Tây Á và Ai Cập đều nằm trong bản đồ đế quốc Arập nên ở phương Đông chỉ
còn lại ba trung tâm văn minh lớn ở Arập, Ấn Độ và Trung Quốc. Trong các nền văn minh ấy, văn minh Ấn
Độ và Trung Quốc được phát triển liên tục trong tiến trình lịch sử. Ngoài những trung tâm văn minh lớn
còn có những nền văn minh của các quốc gia nhỏ và của từng thời kì lịch sử như nền văn minh sông Hồng,
nền văn minh Đại Việt...
Ở phương Tây, thời cổ đại chỉ có nền văn minh Hy-La, đến thời trung đại cũng chỉ có một trung
tâm văn minh mà chủ yếu là Tây Âu.
Ngoài những nền văn minh ở lục địa Á, Âu, Phi, ở châu Mỹ, trước khi bị người da trắng chinh
phục, tại Mêhicô và Pêru ngày nay đã từng tồn tại nền văn minh của người Maya (Mayas), Adơtec
(Aztèque) và Inca (Incas).
Đến thời cận đại, do sự tiến bộ nhanh chóng về khoa học kĩ thuật, nhiều nước phương Tây đã trở
thành những quốc gia phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự. Dựa vào ưu thế đó, các nước này đua
nhau chinh phục thế giới. Cùng với việc biến hầu hết các nước ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh
thành thuộc địa của các cường quốc châu Âu, văn minh phương Tây đã truyền bá khắp thế giới.
Tuy trong lịch sử, trên thế giới đã tồn tại những nền văn minh như vậy, nhưng những nền văn minh
ấy không phải hoàn toàn biệt lập với nhau. Thông qua các hoạt động như chiến tranh, buôn bán, truyền
giáo..., các nền văn minh ấy đã được tiếp xúc với nhau, do đó đã học tập lẫn nhau. Nhiều thành tựu của văn
5
minh Trung Quốc, Ấn Độ và Arập không những đã truyền bá cho nhau mà còn truyền sang Tây Âu. Ngược
lại, Ấn Độ và Tây Á cũng đã tiếp thu nhiều yếu tố của văn minh Hy Lạp. Đến thời trung đại, trước thế kỉ
XVI, phương Tây vẫn lạc hậu hơn phương Đông, do đó phương Tây đã học tập rất nhiều phát minh quan
trọng của phương Đông như chữ số, toán học, y học, kĩ thuật làm giấy, nghề in, thuốc súng, la bàn, thậm
chí cả phong cách giao tiếp và nếp sống văn minh. Chính những thành tựu đó đã góp phần rất quan trọng
vào việc thúc đẩy sự phát triển rất nhanh chóng của nền văn minh phương Tây.
Nội dung của lịch sử văn minh bao gồm trình độ phát triển kinh tế, quan hệ xã hội, hôn nhân, gia
đình, phong tục, y phục, nhà cửa cư trú cho đến thể chế chính trị và các thành tựu về văn hóa tinh thần như
chữ viết, văn học, sử học, tư tưởng, nghệ thuật, luật pháp, khoa học, kĩ thuật, giáo dục, tôn giáo... song ở
đây chỉ giới thiệu những thành tựu chủ yếu về văn hóa tinh thần, chứ không trình bày dàn trải tất cả mọi
vấn đề của văn minh.
VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI
I- Địa lý và dân cư:
Ai Cập ở vùng Đông Bắc châu Phi, nằm dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực sông Nin, sông Nin bắt
nguồn từ vùng xích đạo của châu Phi, dài 6700 km, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài 700 km. Miền đất
đai do sông Nin bồi đắp chỉ rộng 15-25 km, ở phía Bắc có nơi rộng đến 50 km vì ở đây sông Nin chia thành
nhiều nhánh trước khi đổ ra biển. Hàng năm, từ tháng 6 đến tháng 11, nước sông Nin dâng cao đem theo
một lượng phù sa rất phong phú bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày càng thêm màu mỡ. Chính vì
vậy, nên kinh tế ở đây phát triển sớm tạo điều kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất
thế giới. Cũng chính vì vậy, nhà sử học Hy Lạp Hêrôđôt nói rằng: “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”.
Tuy vậy, về mặt địa hình, Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín, phía Bắc, là Địa Trung Hải,
phía Đông giáp Biển Đỏ, phía Tây giáp sa mạc Xahara, phía Nam giáp Nubi, nơi giáp giới ấy là một vùng
núi hiểm trở khó qua lại. Chỉ có ở Đông Bắc, vùng kênh đào Xuyê sau này, người Ai Cập cổ đại mới có thể
qua lại với vùng Tây Á.
Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nin từ Nam lên Bắc: miền Thượng Ai Cập (miền
Nam) là một dải lưu vực hẹp, miền Hạ Ai Cập (miền Bắc) là một đồng bằng hình tam giác.
Về tài nguyên thiên nhiên, Ai Cập có rất nhiêu loại đá quý như đá vôi, đá badan, đá hoa cương, đá
mã não... Kim loại thì có đồng, vàng, còn sắt thì phải đưa từ bên ngoài vào.
Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Arập, nhưng thời cổ đại, cư dân ở đây là người Libi, người
da đen và có thể có cả người Xêmit di cư từ châu Á tới nữa.
II- Các thời kỳ lịch sử của Ai Cập cổ đại:
Nhà nước Ai Cập cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỉ IV TCN. Từ đó cho đến năm 525 TCN, theo
cách phân chia của Manêtông, tác giả sách Lịch sử Ai Cập, sống vào thế kỉ III TCN, lịch sử Ai Cập cổ đại
được chia thành 5 thời kì là Tảo vương quốc, Cổ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc và Hậu
kì vương quốc gồm tất cả 31 vương triều.
1. Thời kì Tảo vương quốc (khoảng 3200 - 3000 TCN)
Vào khoảng nửa sau thiên niên kỉ IV TCN, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân hóa
giàu nghèo, các công xã nông thôn đã liên hiệp lại thành những nhà nước nhỏ đầu tiên gọi là châu. Dần dần,
những châu ấy hợp lại thành hai miền Thượng và Hạ Ai Cập. Tiếp đó, qua đấu tranh, hai miền Thượng và
Hạ Ai Cập mới thống nhất thành nước Ai Cập. Từ khi nhà nước Ai Cập thống nhất ra đời cho đến khoảng
năm 3000 TCN, ở Ai Cập đã trải qua hai vương triều là vương triều I và vương triều II và được gọi chung
là thời Tảo vương quốc.
Ngay từ thời kì này, người cổ Ai Cập đã biết sử dụng công cụ bằng đồng đỏ, biết dùng cày và dùng
súc vật để kéo cày.
Người đứng đầu nhà nước là một ông vua chuyên chế gọi là Pharaông.
2. Thời kì Cổ vương quốc (khoảng 3000 - 2200 TCN)
6
Thời kì Cổ vương quốc bao gồm 8 vương triều, từ vương triều III đến vương triều X. Đầu thời Cổ
vương quốc, chế độ tập quyền trung ương càng được củng cố, kinh tế cũng phát triển hơn trước. Trên cơ sở
ấy, các Pharaông đã huy động sức người sức của để xây dựng cho mình những Kim tự tháp rất đồ sộ.
Nhưng từ vương triều V, thế lực của chính quyền trung ương bắt đầu suy giảm, đến vương triều VII, nền
thống nhất không duy trì được nữa.
3. Thời kì Trung vương quốc (khoảng 2200 - 1570 TCN)
Thời kì Trung vương quốc bao gồm 7 vương triều, từ vương triều XI đến vương triều XVII, trong
đó, thời kì thống trị của vương triều XI và vương triều XII là thời kì ổn định nhất. Nhưng đến năm 1750
TCN, ở Ai Cập đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa của dân nghèo. Từ đó Ai Cập bị suy yếu. Đến năm 1710
TCN, miền Bắc Ai Cập bị người Híchxốt ở Palextin chinh phục và thống trị 140 năm. Trong thời gian ấy,
miền Nam Ai Cập cũng phải thần phục vương triều ngoại tộc ấy.
4. Thời kì Tân vương quốc (1570 - khoảng 1100 TCN)
Năm 1570 TCN, người Híchxốt bị đánh đuổi khỏi Ai Cập, đất nước lại được thống nhất, thời Tân
vương quốc bắt đầu. Thời kì này gồm 3 vương triều, từ vương triều XVIII đến vương triều XX. Các vua
đầu vương triều XVIII tích cực thi hành chính sách xâm lược bên ngoài đã chinh phục được Xyri, Phênixi,
Palextin ở châu Á và Libi, Nubi ở châu Phi.
Cuối vương triều XVIII, do thế lực của tầng lớp tăng lữ thờ thần Mặt trời Amôn phát triển quá
mạnh, lấn át cả uy quyền của vua, vì vậy, để làm suy yếu thế lực của tầng lớp tăng lữ, vua Ichnatôn đã tiến
hành một cuộc cải cách tôn giáo, nhưng chính sách cải cách này chỉ được thi hành một thời gian ngắn mà
thôi.
Về công cụ sản xuất, từ thời Trung vương quốc, đồng thau đã ra đời nhưng chất lượng còn kém và
còn ít. Đến thời Tân vương quốc, đồng thau mới được sử dụng rộng rãi, đồng thời sắt đã bắt đầu xuất hiện
nhưng còn rất hiếm.
Sau vương triều XVIII, Ai Cập ngày càng suy yếu.
5. Ai Cập từ thế kỉ X - I TCN
Từ thế kỉ X TCN, Ai Cập hết bị chia cắt lại bị ngoại tộc thống trị. Đặc biệt, từ năm 525 TCN, Ai
Cập bị nhập vào đế quốc Ba Tư ở Tây Á. Năm 332 TCN, Ai Cập bị Alếchxăngđrơ ở Makêđônia chinh
phục. Sau khi đế quốc Makêđônia tan rã, Ai Cập thuộc quyền thống trị của một vương triều Hy Lạp gọi là
vương triều Ptôlêmê (305-30 TCN). Đến năm 30 TCN, Ai Cập thành một tỉnh của đế quốc La Mã.
III- Những thành tựu:
1. Chữ viết, văn học
Chữ viết Khoảng hơn 3000 nămTCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng hình. Muốn
chỉ một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả những khái niệm trừu tượng thì họ
mượn ý. Thí dụ để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu bò đang cúi xuống; để nói
lên sự công bằng thì họ vẽ lông chim đà điểu (vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau). Từ chữ tượng hình,
sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái. Vào thiên niên kỉ II TCN, người Híchxốt
đã học cách viết của người Ai Cập để ghi lại các ngôn ngữ của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít
nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ cái A, B... Những chữ tượng
hình của người Ai Cập được khắc trên đá, viết trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây sậy
papyrus. Đây là một loại “giấy” cổ xưa nhất, do vậy ngôn ngữ nhiều nước trên thế giới, giấy được gọi là
papes, papier... Năm 1822, một nhà ngôn ngữ học người Pháp là Sampôliông ( Champollion ) đã tìm cách
đọc được thứ chữ này.
Văn học Những tác phẩm tiêu biểu còn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Đối thoại
của một người thất vọng với linh hồn của mình, Người nông phu biết nói những điều hay...
2. Tôn giáo
7
Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi vùng thờ mỗi vị thần
riêng của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến thời kì thống nhất quốc gia, bên cạnh những vị thần
riêng của mỗi địa phương còn có các vị thần chung như thần Mặt trời (Ra), thần sông Nin (Osiris).
Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi con người chết đi, linh hồn thoát
ra ngoài nhưng có thể một lúc nào đó lại tìm về nơi xác (Họ tin rằng như khi bị ngất , hồn thoát ra ngoài
tạm thời). Vì vậy những người giàu có tìm mọi cách để giữ gìn thể xác. Kĩ thuật ướp xác vì vậy cũng rất
phát triển.
3. Kiến trúc điêu khắc
Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất phải kể đến là
các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên để làm nơi yên nghỉ cho các
pharaon là Imhotép. Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim tự tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim
tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo. Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp (Kheops) cao tới 146m, đáy hinh
vuông, mỗi cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy
người Ai Cập có câu “Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước Kim
tự tháp”.
Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời sau qua các công
trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp Khephren. Bức tượng
mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể hiện Khephren là chúa tể với trí khôn
của con người và sức mạnh của sư tử.
4. Khoa học tự nhiên
Thiên văn học Người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung hoàng đạo và sao
Thuỷ,Kim, Hoả, Mộc, Thổ. Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự quan sát sao Lang (Sirius). Một năm
của họ có 365 ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần họ thấy sao Lang xuất hiện đúng đường chân trời. Họ
chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Năm ngày còn lại được xếp vào cuối
năm làm ngày lễ. Để chia thời gian trong ngày, họ đã chế ra đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước.
Toán học Do yêu cầu làm thủy lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người Ai Cập cổ cũng
sớm được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo các phép tính cộng trừ, còn khi cần
nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần. Về hình học, họ đã tính được diện tích của các
hình hình học đơn giản; đã biết trong một tam giác vuông thì bình phương cạnh huyền bằng tổng bình
phương hai cạnh góc vuông. Pi của họ tính là 3,14…
Y học Người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại , mắt, răng, dạ dày... Họ đã
biết giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.
VĂN MINH LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI
I- Địa lý và dân cư:
Lưỡng Hà (Mésopotamie) nghĩa là miền giữa hai sông, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mêđốt là ở giữa
và pôtamốt là sông. Hai sông đó là sông Tigrơ ở phía Đông và Ơphrát ở phía Tây. Cả hai sông này đều bắt
nguồn từ miền rừng núi Acmênia chảy qua lãnh thổ nước Irắc ngày nay rồi đổ ra vịnh Ba Tư (Pécxích).
Về mùa xuân, tuyết ở cao nguyên Acmênia tan làm nước ở hai sông Tigrơ và Ơphrát dâng cao gây
nên lũ lụt làm ngập cả một vùng rộng lớn. Nhưng chính nhờ nước lụt, đất đai ở đây không ngừng được bồi
đắp và trở nên mầu mỡ. Lượng phù sa ở đây nhiều đến nỗi, qua mấy nghìn năm, cả một vùng biển rộng lớn
ở cửa sông này đã trở thành đồng bằng, bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gấn 200km. Cũng vì vậy, hai
dòng sông Tigrơ và Ơphrát vốn đổ ra biển bằng hai cửa sông khác nhau đã nhập lại thành một dòng trước
khi ra biển. Chính nhờ có đất đai phì nhiêu như vậy nên cũng như Ai Cập cổ đại, khi công cụ sản xuất còn
tương đối thô sơ, kinh tế ở đây vẫn có điều kiện phát triển; do đó đã sớm bước vào xã hội văn minh.
Trong khi Lưỡng Hà là một vùng màu mỡ thuận lợi cho cuộc sống của con người như vậy thì về địa
hình, Lưỡng Hà là một vùng hoàn toàn để ngỏ ở mọi phía, không có những biên giới hiểm trở bảo vệ, vì
8
vậy trong mấy ngàn năm lịch sử, vùng này đã trở thành nơi tranh giành của nhiều tộc người khác nhau, dẫn
đến sự hưng vong của nhiều quốc gia hùng mạnh một thời.
Về tài nguyên, Lưỡng Hà hiếm đá quý và kim loại, nhưng lại có một loại đất sét rất tốt, vì vậy, đất
sét đã trở thành vật liệu chủ yếu của ngành kiến trúc, chất liệu để viết, thậm chí đất sét còn được đưa vào
các truyện huyền thoại.
Cư dân xưa nhất ở Lưỡng Hà là người Xume. Họ từ Trung Á di cư đến miền Nam Lưỡng Hà vào khoảng
thiên kỉ IV TCN. Tại đây, họ đã lập nên nhiều thành bang như Ua, Êriđu, Lagát, Urúc...
Đến thiên kỉ III TCN, người Accát thuộc tộc Xêmit từ vùng thảo nguyên Xyri đến định cư ở miền
Trung Lưỡng Hà. Tại đây họ đã lập nên quốc gia Accát nổi tiếng một thời. Cuối thiên kỉ III TCN, người
Amôrít, một chi nhánh của người Xêmít cũng từ phía Tây tràn vào Lưỡng Hà. Chính họ đã thành lập quốc
gia cổ Babilon nổi tiếng nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại.
Ngoài ra còn có nhiều tộc người khác ở vùng lân cận cũng tràn vào Lưỡng Hà. Các tộc người trước
sau tới Lưỡng Hã lại đồng hóa với nhau làm cho thành phần cư dân ở đây hết sức phức tạp.
II- Các thời kỳ lịch sử của Lưỡng Hà cổ đại:
1. Những nhà nước của người Xume
Vào khoảng đầu thiên kỉ III TCN, ở miền Nam Lưỡng Hà, nơi cư trú của người Xume, do sự phát
triển của lực lượng sản xuất, do sự phân hóa giàu nghèo, đã xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ lấy một thành thị
làm trung tâm gọi là những thành bang. Giữa các thành bang ấy thường diễn ra những cuộc đấu tranh để
tranh giành đất đai và nguồn nước. Đến giữa thiên kỉ III, trong số các thành bang ở miền Nam Lưỡng Hà,
nổi bật nhất là Lagát, nhưng sau đó không lâu, thành bang Umma ở phía Bắc đã đánh bại Lagát. Tiếp đó,
Umma còn chinh phục được nhiều thành bang khác và thống nhất miền Nam Lưỡng Hà (cũng gọi là vùng
Xume).
2. Accat
Thành bang Accat do một chi nhánh người Xêmit thành lập ở phía Bắc vùng Xume. Đến thời vua
Xacgôn (2369-2314 TCN), Accat trở thành một quốc gia hùng mạnh. Xacgôn đã tấn công và chinh phục
được toàn bộ vùng Xume và như vậy lần đầu tiên đã thống nhất cả vùng Lưỡng Hà. Tiếp đó, Accat còn
chiếm được các khu vực xung quanh thành lập một quốc gia lớn mạnh ở Tây Á. Xacgôn tự xưng là “vua
của bốn phương”. Tuy vậy, sự hùng mạnh của Accat cũng không duy trì được lâu. Đến cuối thế kỉ XXIII
TCN, Accat bị người Guti ở Đông Bắc chinh phục và thống trị trong một thời gian khá dài.
3. Vương triều III của Ua (2132-2024 TCN)
Sau khi người Guti bị đánh đuổi, quyền thống trị ở Lưỡng Hà chuyển sang tay vương triều III của
Ua, một thành bang cổ xưa của Xume. Phạm vi thống trị của vương triều này cũng rất rộng. Ua đã ban bố
một bộ luật mà ngày nay đã phát hiện được một số đoạn. Đó là bộ luật cổ nhất trong lịch sử thế giới. Như
vậy, dưới thời vương triều III, Ua đã trở thành một nước lớn mạnh ở Lưỡng Hà, nhưng đến cuối thế kỉ XXI
TCN thì bị suy yếu và bị liên quân của Elam (một bộ tộc ở phía Đông) và Mari (một thành bang ở phía
Bắc) đánh bại.
4. Cổ Babilon
Babilon là một thành phố do người Amôrit thành lập ở trung tâm Lưỡng Hà. Trong thời kì đầu,
Babilon còn tương đối yếu, nhưng đến nửa đầu thế kỉ XVIII TCN, dưới thời vua Hammurabi (1792-1750
TCN), Babilon trở thành quốc gia hùng mạnh nổi tiếng nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại. Hammurabi đã
lần lượt đánh bại các thành bang xung quanh, thống nhất được hầu hết vùng Lưỡng Hà. Trên cơ sở đó, ông
đã xây dựng bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền trung ương. Đặc bìệt, ông đã ban hành một bộ luật gọi
là bộ luật Hammurabi. Đây là một bộ luật cổ được giữ lại tương đối nguyên vẹn.
Đến thời Babilon, kinh tế Lưỡng Hà có những tiến bộ rất đáng kể. Công cụ đồng thau được dùng
phổ biến, sắt cũng đã xuất hiện nhưng còn tương đối hiếm. Cư dân Lưỡng Hà đă biết sử dụng cày có lưỡi
đồng thau do bò kéo. Hơn nữa, họ còn biết sử dụng loại cày có lắp bộ phận gieo hạt.
9
Như vậy dưới thời Hammurabi, Babilon không những được ổn định vê chính trị mà kinh tế và văn
hóa cũng rất phát triển. Nhưng sau khi Hammurabi chết, Babilon bị suy yếu dần. Trong vòng 1000 năm,
tình hình Babilon rất rối ren, đồng thời nhiều lần bị ngoại tộc tấn công và thống trị. Đến năm 732 TCN,
Babilon bị một quốc gia hùng mạnh ở phía Bắc là Atxiri xâm chiếm, đến năm 729 TCN thì trở thành một
bộ phận của Atxiri.
5. Tân Babilon và Ba Tư
Từ giữa thế kỉ VII TCN, Atxiri bắt đấu suy yếu. Nhân tình hình ấy, năm 626 TCN, một viên tướng
người Canđê, một chi nhánh của tộc Xêmit tên là Nabôpôlaxa, người được cử làm Tổng đốc của Atxiri ở
miền Nam Lưỡng Hà đã tuyên bố Babilon độc lập. Để phân biệt với Cổ Babilon, quốc gia này được gọi là
Tân Babilon.
Ngay sau đó, Tân Babilon liên minh với nước Mêđi ở phía Đông Bắc cùng tấn công Atxiri. Năm
605, Atxiri diệt vong. Đất đai của Atxiri bị chia làm hai phần: nửa phía Bắc thuộc về Mêđi, nửa phía Nam
thuộc về Babilon. Để tăng thêm tình hữu nghị giữa hai nước đồng minh, Nabôpôlaxa đã hỏi công chúa
Mêđi cho con trai của mình là Nabusôđênôxo. Năm 604 TCN, Nabôpôlaxa chết, Nabuxôđônôxo lên nối
ngôi. Đây là thời ki cường thịnh nhất của Tân Babilon. Chính Nabusôđônôxo đã ra lệnh xây vườn hoa trên
không nổi tiếng.
Năm 562 TCN, Nabusôđônôxo chết. Từ đó tình hình nội bộ Tân Babilon không được ổn định. Trong khi
đó, ở Iran bắt đầu xuất hiện nước Ba Tư hùng mạnh. Năm 550 TCN, Ba Tư đánh bại Mêđi, Babilon cũng
trở thành mục tiêu chinh phục của Ba Tư. Năm 538 TCN, quân Ba Tư tấn công và chiếm được thành
Babilon. Tân Babilon cũng trở thành một bộ phận của đế quốc Ba Tư.
Năm 328 TCN, đế quốc Ba Tư bị Alêchxăngđrơ Makêđônia tiêu diệt. Cả Tây Á bị nhập vào đế
quốc Makêđônia. Sau khi Alêchxăngđrơ chết, đế quốc Makêđônia bị phân chia, Babilon nằm trong vương
quốc của Xêlơcut, một tướng của Alêchxăngđrơ.
III- Những thành tựu:
1. Chữ viết, văn học
Chữ viết Từ cuối thiên niên kỉ IV đầu thiên niên kỉ III TCN, người Lưỡng Hà đã sáng tạo ra chữ
tượng hình. Đầu tiên chữ viết của họ là những hình vẽ, về sau họ đơn giản thành những nét vạch có ý nghĩa
tượng trưng cho một hình vẽ nào đó. Họ thường dùng đầu cây sậy vót nhọn vạch lên những tấm đất sét còn
mềm để lại dấu vết như hình những chiếc đinh. Vì vậy người ta hay gọi là chữ hình đinh, chữ hình góc, hay
chữ tiết hình. Ngày nay, người ta còn lưu giữ được khoảng 2200 tấm sách bằng đất sét ở nhà bảo tàng của
thành phố Ninivơ (kinh đô của đế quốc Atxiri xưa kia). Chữ tiết hình do người Sumer phát minh ra đầu
tiên, về sau nhiều dân tộc ở Lưỡng Hà đều sử dụng và có biến đổi. Chữ tiết hình trở thành thứ chữ để giao
tiếp giữa các dân tộc ở Tây Á thời cổ đại. Về sau, người Phênixi, một dân tộc chuyên buôn bán quanh Địa
Trung Hải thời đó đã dựa vào chữ hình góc của người Lưỡng Hà, một phần chữ tượng hình của người Ai
Cập cổ đã đặt ra hệ thống chữ cái A, B... Từ chữ Phênixi đã hình thành ra chữ Hy Lạp cổ. Từ chữ Hy Lạp
cổ đã hình thành ra chữ Latinh và chữ Slavơ và từ đó hình thành nên chữ viết của nhiều dân tộc trên thế
giới ngày nay.
Văn học Các thể loại văn học chính ở Lưỡng Hà thời cổ thường là các thần thoại, anh hùng ca. Tiêu
biểu là các truyện Khai thiên lập địa, Nạn hồng thuỷ, Gingamet.
2. Tôn giáo
Thời kì đầu người Lưỡng Hà theo đa thần giáo, mỗi nơi có một vị thần riêng. Có nơi cùng một lúc
thời nhiều thần. Họ thời các lực lượng tự nhiên như thần Trời (Anu), thần Mặt Trời (Samat), thần Đất
(Enlin), thần Biển (Ea), thần Ái Tình (Istaro)... Về sau, cùng với sự xác lập quyền lực tối cao của hoàng đế,
thần Macđúc (Mardouk) đã trở thành vị thần chung cho toàn đế quốc. Thần Samat được coi là con của thần
Mặt Trăng (vì người Sumer cho rằng ngày là do đêm sinh ra), Samat chuyên chịu trách nhiệm về tư pháp
10
(Trên cột đá ghi bộ luật của Hammurabi có khắc hình thần Samat đang trao bộ luật cho Hamurabi để vua
thay thần trị dân).
3. Nhà nước và pháp luật
Nhà nước ban đầu của người Sumer được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế, đứng đầu là
nhà vua được gọi là Patêsi nắm tất cả các quyền lực tối cao, lời nói của vua là luật pháp. Đến thời vương
quốc Hammurabi thì tổ chức bộ máy nhà nước tương đối hoàn thiện.
Thế kỉ XVIII TCN, dưới thời Hammrabi ông cũng cho ra đời một bộ luật, bộ luật này gồm 282 điều
khoản, được khắc trên một tấm đá cao 2m25, rộng 2m. Đây là bộ luật cổ nhất thế giới mà con người ngày
nay biết được.
4. Nghệ thuật, kiến trúc
Ở Lưỡng Hà ít gỗ đã, các công trình kiến trúc ở đây phần lớn được xây dựng bằng gạch nhưng cũng
rất nguy nga, hùng vĩ. Nổi bật nhất trong nghệ thuật kiến trúc Lưỡng Hà là thành cổ Babilon và vườn treo
Babilon được xây dựng vào khoảng thế kỉ VII TCN.
Thành Babilon (ở phía nam Batđa ngày nay)được xây bằng gạch có chu vi 16km, cao 30m, dày từ 6m đến
8,5m và có 7 cửa. Cổng thành Isơta được bọc đồng và trang trí bằng những bức phù điêu rất sinh động.
Vườn treo Babilon được người Hy Lạp cổ đại xếp vào một trong bảy kì quan thế giới. Đây là một
khu vườn được xây vươn lên trời xanh, cao 77m và gồm có 4 tầng. Trên mỗi tầng có trồng những loại hoa
thơm cỏ lạ sưu tầm từ Ai Cập tới Ấn Độ. Nước chảy róc rách, cây xanh mát mắt, chim hót véo von. Tây Á
cảnh quan phần lớn là núi và sa mạc, những đoàn lái buôn trên “con đường tơ lụa” khi đi đến đây thì thật là
gặp cảnh thiên đường dưới hạ giới.
5. Khoa học tự nhiên
Toán học Ban đầu người Sumer sử dụng hệ đếm cơ số 5, về sau nhiều tộc người ở Lưỡng Hà sử
dụng đồng thời cả cơ số 10 và cơ số 60. Ngày nay, chúng ta còn chịu ảnh hưởng của họ qua việc chia độ
trên vòng tròn và chia thời gian.
Hình học Người Lưỡng Hà cổ đã biết tính diện tích các hình hình học đơn giản, đã biết về quan hệ
giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông. Họ đã biết tính phân số, lũy thừa, khai căn bậc 2 và căn bậc 3; đặc
biệt là họ đã giải được phương trình 3 ẩn số.
Thiên văn học Người Lưỡng Hà cổ lập ra khá nhiều đài để quan sát thiên văn, các nhà thiên văn
hồi đó còn là các nhà chiêm tinh học. Họ cũng chia bầu trời làm 12 cung hoàng đạo, đã tính trước được
nhật thực và nguyệt thực. Họ làm ra lịch dựa vào Mặt Trăng, một năm của họ cứ một tháng 29 ngày lại một
tháng 30 ngày. Như vậy sau 12 tháng chỉ có 354 ngày, còn thiếu so với năm dương lịch. Để khắc phục hạn
chế này, người ta đã biết thêm vào tháng nhuận.
Y học Người Lưỡng Hà đã biết cách chữa trị các bệnh khác nhau về tiêu hóa, thần kinh, hô hấp và
đặc biệt là bệnh về mắt. Y học đã chia thành nội khoa, ngoại khoa, họ cũng đã biết giải phẫu. Thần bảo trợ
cho Y học là thần Ninghizita với hình tượng con rắn quấn quanh cây gậy mà ngày nay ngành y ở một số
nước vẫn lấy làm biểu tượng.
VĂN MINH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I- Địa lý và dân cư:
Ấn Độ là một bán đảo ở Nam Á, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn ngang, trong đó có dãy
Himalaya nổi tiếng. Ấn Độ chia làm hai miền Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn
Độ có hai con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên đồng
bằng lưu vực sông Ấn được gọi là vùng Pungiáp (vùng Năm sông).
Tên nước Ấn Độ là gọi theo tên con sông này. Sông Hằng ở phía Đông được coi là một dòng sông
thiêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm
11
mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông này đã bồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền Bắc Ấn Độ
vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh của đất nước này.
Cư dân Ấn Độ, về thành phần chủng tộc, gồm hai loại chính: người Đraviđa chủ yếu cư trú ở miền
Nam và người Arya chủ yếu cư trú ở miền Bắc. Ngoài ra còn có nhiều tộc khác như người Hy Lạp, người
Hung Nô, người Arập... Họ dần dần đồng hóa với các thành phần cư dân khác, do đó vấn đề bộ tộc ở Ấn
Độ là một vấn đề hết sức phức tạp.
Thời cổ trung đại, phạm vi địa lí của nước Ấn Độ bao gồm cả các nước Pakixtan, Bănglađét và
Nêpan ngày nay.
II- Các thời kỳ lịch sử của Ấn Độ cổ đại:
1. Thời kì văn minh khu vực sông Ấn (từ đầu thiên kỉ III đến giữa thiên kỉ II TCN).
Từ khoảng đầu thiên kỉ III TCN, nhà nước Ấn Độ đã ra đời, nhưng cả giai đoạn từ đó cho đến
khoảng giữa thiên kỉ lI TCN, trước đây chưa được biết đến. Mãi đến năm 1920 và 1921, nhờ việc phát hiện
ra hai thành phố Harappa và Môhenjô Đarô cũng rất nhiều hiện vật bị chôn vùi dưới đất ở vùng lưu vực
sông Ấn, người ta mới biết được thời kì lịch sử này. Những hiện vật khảo cổ học chỉ giúp người ta biết
được tình hình phát triển của các ngành kinh tế và văn hóa, qua đó có thể suy ra đây là thời kì đã có nhà
nước, chứ chưa biết được lịch sử cụ thể, vì vậy người ta gọi thời kì này là thời kì văn hóa Harappa hoặc
thời kì văn minh lưu vực sông Ấn.
2. Thời kì Vêda (từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN).
Thời kì này, lịch sử Ấn Độ được phản ánh trong các tập Vêđa nên gọi là thời Vêđa. Vêđa vốn là
những tác phẩm văn học, gồm có 4 tập là: Rich Vêđa, Xama Vêđa, Atácva Vêđa và Yagiva Vêđa, trong đó
Rich Vêđa được sáng tác vào khoảng giữa thiên kỉ II đến cuối thiên kỉ II TCN, còn 3 tập Vêđa khác thì
được sáng tác vào khoảng đầu thiên kỉ I TCN.
Chủ nhân của thời kì Vêđa là người Arya (nghĩa là “Người cao quý”) mới di cư từ Trung Á vào Ấn
Độ. Địa bàn sinh sống của họ trong thời kì này chủ yếu là vùng lưu vực sông Hằng. Trong giai đoạn đầu
của thời Vêđa, người Arya đang sống trong giai đoạn tan rã của xã hội nguyên thủy đến khoảng cuối thiên
kỉ II TCN, họ mới tiến vào xã hội có nhà nước. Chính trong thời kì này, ở Ấn Độ đã xuất hiện hai vấn đề có
ảnh hưởng rất quan trọng và lâu dài trong xã hội nước này, đó là chế độ đẳng cấp (varna) và đạo Bàlamôn.
3. Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII.
- Các quốc gia ở miền Bắc Ấn Độ và sự xâm lược của Alếchxăngđrơ Makêđônia.
Bắt đầu từ thế kỉ VI TCN, Ấn Độ mới có sử sách ghi chép về tình hình chính trị của đất nước mình.
Lúc bấy giờ ở miền Bắc Ấn Độ có 16 nước, trong đó mạnh nhất là nước Magađa hạ lưu sông Hằng. Trong
số các nước như ở Tây Bắc Ấn Độ, chỉ có nước Po là tương đối lớn. Năm 327 TCN, sau khi tiêu diệt Ba
Tư, quân đội Makêđônia do Alếchxăngđrơ chỉ huy đã tấn công Ấn Độ. Quân đội của nước họ chiến đấu rất
dũng cảm nhưng cuối cùng bị thất bại. Alếchxăngđrơ định tiến sang phía Đông tấn công nước Magađa
nhưng quân sĩ đã quá mệt mỏi sau một cuộc trường chinh nhiều năm nên phải rút lui, chỉ để lại một lực
lượng như chiếm đóng ở hai cứ điểm đã chiếm được mà thôi.
- Vương triều Môrya (321-187 TCN).
Ngay sau khi Alêchxăngđrơ rút lui, ở Ấn Độ đã dấy lên phong trào đấu tranh giải phóng chống lại
sự chiếm đóng của quân Makêđônia. Thủ lĩnh của phong trào này là Sanđragupta, biệt hiệu là Môrya (chim
công). Quân Makêđônia bị đuổi khỏi Ấn Độ, Sanđragupta làm chủ được cả vùng Pungiáp. Tiếp đó, ông tiến
quân về phía Đông giành được ngôi vua ở Magađa; lập nên một triều đại mới gọi là vương triều Môrya,
triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại.
Đến thời Axôca (273-236 TCN), vương triều Môrya đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất. Đạo Phật
ra đời từ khoảng thế kỉ V TCN, đến thời kì này được phát triển nhanh chóng và trở thành quốc giáo. Sau
khi Axôca chết, vương triều Môrya suy sụp nhanh chóng, nước Magađa thống nhất dần dần tan rã, đến năm
28 TCN thì diệt vong.
12
- Nước Cusan.
Trong khi tình hình chia cắt ở Ấn Độ đang diễn ra trầm trọng thì vào thế kỉ I, tộc Cusan (cùng một
huyết thống với người Tuốc) từ Trung Á tràn vào chiếm được miền Tây Bắc Ấn Độ lập thành một nước
tương đối lớn. Vua nước Cusan lúc bấy giờ là Canixca (78-123) cũng là một người rất tôn sùng đạo Phật
nên thời kì này Phật giáo cũng rất hưng thịnh. Sau khi Canixca chết, nước Cusan ngày càng suy yếu, lãnh
thổ chỉ còn lại vùng Pungiáp và tồn tại đến thế kỉ V thì diệt vong.
- Vương triều Gupta và vương triều Hácsa.
Trong thế kỉ III, Ấn Độ lại bị chia cắt trầm trọng. Năm 320, vương triều Gupta được thành lập,
miền Bắc và một phần miền Trung Ấn Độ tạm thời thống nhất một thời gian. Từ năm 500-528, phần lớn
miền Bắc Ấn Độ bị người Eptalil xâm chiếm và thống trị, đến năm 535, triều Gupta diệt vong.
Năm 606, vua Hácsa lại dựng lên một vương triều tương đối hùng mạnh ở miền Bắc Ấn Độ. Chính
trong thời kì này, nhà sư Huyền Trang của Trung Quốc đã sang Ấn Độ để tìm kinh Phật. Năm 648, Hácsa
chết, quốc gia hùng mạnh do ông dựng lên cũng tan rã.
Từ đó cho đến thế kỉ XII, Ấn Độ bị chia cắt càng trầm trọng và nhiều lần bị ngoại tộc xâm nhập. Đặc biệt
từ đầu thế kỉ XI, Ấn Độ thường bị các vương triều Hồi giáo ở Ápganixtan tấn công và đến năm 1200, toàn
bộ miền Bắc Ấn Độ bị nhập vào Ápganixtan.
4. Ấn Độ từ thế kỉ XIII - XIX.
- Thời kì Xuntan Đêli (1206-1526).
Năm 1206, viên Tổng đốc của Ápganixtan ở miền Bắc Ấn Độ đã tách miền Bắc Ấn Độ thành một
nước riêng tự mình làm Xuntan (vua), đóng đô ở Đêli, gọi là nước Xuntan Đêli (vương quốc Hồi giáo
Đêli). Từ đó đến năm 1526, ở miền Bắc Ấn Độ đã thay đổi đến 5 vương triều, nhưng đều do người ngoại
tộc theo Hồi giáo thành lập, đồng thời đều đóng đô ở Đêli nên thời kì này gọi là thời kì Xuntan Đêli.
- Thời kì Môgôn (1526-1857).
Nước Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206. Sau khi Thành Cát Tư Hãn chết (1227),
đế quốc Mông Cổ chia thành nhiều nước. Dòng dõi của người Mông Cổ ở Trung Á đều Tuốc hóa và đều
theo đạo Hồi. Từ thế kỉ XIII, người Mông Cổ ở Trung Á nhiều lần tấn công Ấn Độ. Năm 1526, họ chiếm
được Đêli thành lập vương triều mới gọi là vương triều Môgôn (Mông Cổ). Từ giữa thế kỉ XVIII, thực dân
Anh bắt đầu chinh phục Ấn Độ, đến năm 1849, Ấn Độ hoàn toàn biến thành thuộc địa của Anh, vương
triều Môgôn đến năm 1857 bị diệt vong.
III- Những thành tựu:
1. Chữ viết, văn học
Chữ viết Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày
nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ họa. Thế kỉ VII TCN, ở đây
đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế
kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanscrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam
Á sau này.
Văn học Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là
bản trường ca gồm 220 000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu
Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội
Ấn Độ thời đó. Ramayana là một bộ sử thi dài 48 000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử
Rama và công chúa Sita. Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á.
Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana. Thời cổ đại ở Ấn Độ
còn có tâp ngụ ngôn “Năm phương pháp” chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của
một số dân tộc Á - Âu.
2. Nghệ thuật
13
Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á.
Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể
hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo.
Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn
Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều
gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích họa rất đẹp.
Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào
khoảng thế kỉ VII - XI. Tiêu biểu cho các công trình Ấn Độ giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn,
gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.
Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế
kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII.
3. Khoa học tự nhiên
Thiên văn Người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30
ngày. (Như vậy năm bình thường có 360 ngày). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận.
Toán học Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi
là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản,
ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học). Họ đã
tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam
giác, Pi = 3,1416.
Vật lí Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông thái ở Ấn
Độ đã viết “Trái đất do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”.
Y học Y học cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương
sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “Y học toát yếu” và
“Luận khảo về trị liệu”.
4. Tư tưởng, tôn giáo:
Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như đạo Balamôn, đạo Phật, đạo Jain và đạo Xích.
- Đạo Balamôn
Đạo Balamôn ra đời vào khoảng thế kỉ XV TCN, trong hoàn cảnh đang có sự bất bình đẳng rất sâu
sắc về đẳng cấp và đạo này chứng minh cho sự hợp lí của tình trạng bất bình đẳng đó. Đạo Balamôn không
có người sáng lập, không có giáo chủ. Đạo Balamôn thờ thần Brama (thần Sáng tạo), Visnu(thần Bảo vệ),
Siva (thần Hủy diệt, có hủy diệt cái cũ thì mới có thể sáng tạo cái mới)...
Về mặt xã hội, đạo Balamôn là công cụ để bảo vệ chế độ đẳng cấp. Giáo lí quan trọng nhất của đạo
Balamôn là thuyết luân hồi mà sau này nhiều tôn giáo khác chịu ảnh hưởng. Trong quá trình phát triển, đạo
Balamôn có thể chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn Vêđa (thế kỉ XV TCN - thế kỉ V TCN), giai đoạn Balamôn
(thế kỉ V TCN - đầu CN), giai đoạn Ấn Độ giáo (đầu CN - nay)
- Đạo Phật
Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu là Sakya
Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Lịch
Phật, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập niết bàn.
Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (bốn điền suy xét kì diệu):
Khổ đế Suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo.
Nhân đế -Tập đế Nguyên nhân của sự khổ là dục tức lòng ham muốn
Diệt đế Con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo
Đạo đế Con đường để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo
Đức Phật còn đề ra tám con đường chính trực để tu hành-Bát chánh:
Chánh kiến Phải có tín ngưỡng đúng đắn.
14
Chánh tư duy Phải có suy nghĩ đúng đắn.
Chánh ngữ Phải có lời nói đúng.
Chánh nghiệp Phải có hành động đúng.
Chánh mệnh Phải có cuộc sống đúng đắn.
Chánh tinh tiến Phải có những ước mơ đúng đắn.
Chánh niệm Phải có những điều tưởng nhớ đúng đắn.
Chánh định Phải tập trung tư tưởng mà suy nghĩ.
Đạo Phật còn đề ra Ngũ giới:
Bất sát sinh Không giết hại các động vật.
Bất đạo tặc Không trộm cướp.
Bất vọng ngữ Không nói dối.
Bất tà dâm Không tham vợ hay chồng của người khác.
Bất ẩm tửu Không uống rượu.
Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của đạo Phật là thuyết duyên khởi. Do quan niệm duyên khởi
sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô tạo giả, Vô ngã, Vô thường:
Vô tạo giả Quan niệm thế giới này không do một đấng tối cao nào tạo ra, tự nhiên mà có và vô cùng
vô tận. Như vậy là đạo Phật không dựa vào một đấng tối cao nào để giải thích về sự xuất hiện thế giới như
các tôn giáo khác.
Vô ngã Không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là tập hợp của Ngũ
uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài.
Vô thường Vạn vật trong thế giới này biến đổi không ngừng, không có gì là vĩnh cửu cả.
Qua những giáo lí ban đầu của đạo Phật như vậy, ta thấy lúc đầu đạo Phật chỉ là một triết lí về nhân
sinh quan. Đạo Phật sơ khai lúc đầu không thời bất cứ một vị thần thánh nào. Ngay cả Phật tổ Thích Ca
Mâu Ni cũng không tự coi mình là thần thánh. Tuy Phật tổ Thích Ca Mâu Ni có tổ chức các tăng đoàn Tỳ
Kheo (đoàn thể những tăng lữ khất thực) để đi truyền bá đạo Phật ở khắp nơi nhưng đó không phải là một
tổ chức tôn giáo có hệ thống chùa tháp như ngày nay.
Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công do chế độ đẳng cấp gây ra, thì đạo Phật lại chủ trương
không phân biệt đẳng cấp, kêu gọi lòng thương người (từ bi hỉ xả), tránh điều ác, làm điều thiện. Những lời
kêu gọi sự công bằng, lòng nhân đức đó đã được đông đảo người dân hưởng ứng.
- Đạo Jain
Đạo Jain cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI TCN. Đạo này chủ trương bất sát sinh một cách cực
đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.
- Đạo Xích (Sikh)
Đạo Xích xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ XV. Giáo lí của đạo Xích có sự kết hợp giáo lí của
Ấn Độ giáo và giáo lí của đạo Hồi. Tín đồ đạo Xích tập trung rất đông ở bang Punjap và ngôi đền thiêng
liêng của họ là ngôi đền Vàng ở Punjap.
VĂN MINH TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Trung Quốc là một trong những nơi xuất hiện nền văn minh sớm thời cổ -trung đại. Văn minh
Trung Hoa thời cổ - trung đại có ảnh hưởng rất lớn tới các nước phương Đông.
I- Địa lý và dân cư:
Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử là một nước lớn ở Đông Á. Trên lãnh thổ Trung Quốc có
hai con sông lớn chảy qua, đó là Hoàng Hà (dài 5.464 km) ở phía Bắc và Trường Giang (dài 6.300 km) ở
phía Nam. Hoàng Hà từ xưa thường gây ra lũ lụt, nhưng do đó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy
nơi đây trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc.
15
Khi mới thành lập nước (vào khoảng thế kỉ XXI TCN) địa bàn Trung Quốc chỉ mới là một vùng
nhỏ ở trung lưu lưu vực Hoàng Hà. Từ đó lãnh thổ Trung Quốc được mở rộng dần, nhưng cho đến thế kỉ III
TCN, tức là đến cuối thời cổ đại, phía Bắc của biên giới Trung Quốc chưa vượt quá dãy Vạn lí trường
thành ngày nay, phía Tây mới đến Đông Nam tỉnh Cam Túc và phía Nam chỉ bao gồm một dải đất nằm dọc
theo hữu ngạn Trường Giang mà thôi.
Từ cuối thế kỉ III TCN Trung Quốc trở thành một nước phong kiến thống nhất. Từ đó nhiều triều
đại của Trung Quốc đã chinh phục các nước xung quanh, do đó có những thời kì biên giới của Trung Quốc
được mở ra rất rộng. Đến thế kỉ XVIII lãnh thổ Trung Quốc về cơ bản được xác định như hiện nay.
Trung Quốc là một trong những nơi từ rất sớm đã có loài người cư trú. Năm 1929, ở Chu Khẩu
Điếm (ở Tây Nam Bắc Kinh) giới khảo cổ học Trung Quốc đã phát hiện được xương hóa thạch của một
loại người vượn sống cách đây khoảng 400.000 năm. Những xương hóa thạch của người vượn được phát
hiện sau đó trên lãnh thổ Trung Quốc đã cung cấp những niên đại xưa hơn, đặc biệt người vượn Nguyên
Mưu (Vân Nam) phát hiện năm 1977 có niên đại đến 1.700.000 năm.
Về mặt chủng tộc, cư dân ở lưu vực Hoàng Hà thuộc giống Mông Cổ, đến thời Xuân Thu được gọi
là Hoa Hạ, nói tắt là Hoa hoặc Hạ. Đó là tiền thân của Hán tộc sau này. Còn cư dân ở phía Nam Trường
Giang thì khác hẳn cư dân vùng Hoàng Hà về ngôn ngữ và phong tục tập quán, tục cắt tóc, xăm mình, đi
chân đất. Đến thời Xuân Thu các tộc này cũng bị Hoa Hạ đồng hóa.
Dưới thời quân chủ, ở Trung Quốc, tên nước được gọi theo tên triều đại. Đồng thời, từ thời cổ đại,
người Trung Quốc cho rằng nước họ là một quốc gia văn minh ở giữa, xung quanh là các tộc lạc hậu gọi là
Man, Di, Nhung, Địch, vì vậy đất nước của họ còn được gọi là Trung Hoa hoặc Trung Quốc. Tuy vậy các
danh từ này chỉ dùng để phân biệt với các vùng xung quanh chứ chưa phải là tên nước chính thức. Mãi đến
năm 1912 khi triều Thanh bị lật đổ, quốc hiệu Đại Thanh bị xóa bỏ, cái tên Trung Hoa mới trở thành tên
nước chính thức nhưng thông thường người ta quen gọi là Trung Quốc.
II- Các thời kỳ lịch sử của Trung Quốc cổ đại:
1. Thời kì cổ đại
Trung Quốc đã trải qua xã hội nguyên thủy. Theo truyền thuyết, thời viễn cổ ở Trung Quốc có một
thủ lĩnh mà đời sau thường nhắc đến gọi là Phục Hy. Đến nửa đầu thiên kỉ III TCN, ở vùng Hoàng Hà xuất
hiện một thủ lĩnh bộ lạc gọi là Hoàng Đế. Hoàng Đế họ Cơ, hiệu là Hiên Viên, được coi là thủy tổ người
Trung Quốc. Đến cuối thiên kỉ III TCN, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ đều là dòng dõi của Hoàng Đế.
Nghiêu và Thuấn tuy chỉ là những thủ lĩnh liên minh bộ lạc nhưng đời sau cho họ là những ông vua tốt nhất
trong lịch sử Trung Quốc.
Tương truyền rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, đến khi Thuấn già, Thuấn
lại nhường ngôi cho Vũ. Nhưng sau khi Vũ chết con của Vũ là Khải được tôn lên làm vua, Trung Quốc bắt
đầu bước vào xã hội có nhà nước.
Thời cổ đại ở Trung Quốc có ba vương triều nối tiếp nhau là Hạ, Thương, Chu.
- Hạ (khoảng thế kỉ XXI đến XVI TCN)
Tuy Vũ chưa xưng vương nhưng ông được coi là người đặt cơ sở cho triều Hạ. Thời Hạ, người
Trung Quốc chỉ mới biết đồng đỏ, chữ viết cũng chưa có. Sau 4 thế kỉ, đến thời vua Kiệt, bạo chúa nổi
tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, triều Hạ diệt vong.
- Thương (còn gọi là Ân, thế kỉ XVI-XII TCN)
Người thành lập nước Thương là Thang. Nhân khi vua Kiệt tàn bạo, nhân dân oán ghét, Thang đem
quân diệt Hạ. Thời Thương, người Trung Quốc đã biết sử dụng đồng thau, chữ viết cũng đã ra đời. Đến
thời vua Trụ (cũng là môt bạo chúa nổi tiếng), Thương bị Chu tiêu diệt.
- Chu (thế kỉ XI đến III TCN).
Người thành lập triều Chu là Văn Vương. Trong hơn 8 thế kỉ tồn tại, triều Chu chia làm hai thời kì
là Tây Chu và Đông Chu. Từ khi thành lập đến năm 771 TCN, triều Chu đóng đô ở Cảo Kinh ở phía Tây
16
nên gọi là Tây Chu. Nói chung, Tây Chu là thời kì xã hội Trung Quốc tương đối ổn định. Từ năm 770
TCN, vua Chu dời đô sang Lạc Ấp ở phía Đông từ đó gọi là Đông Chu. Thời Đông Chu tương đương với
hai thời kì Xuân Thu (722-481 TCN) và Chiến Quốc (403-221 TCN). Đây là thời kì nhà Chu ngày càng sụy
yếu. Trong khi đó, giữa các nước chư hầu diễn ra cuộc nội chiến triền miên để giành quyền bá chủ, tiến tới
tiêu diệt lẫn nhau để thống nhất Trung Quốc, thời Xuân Thu đồ sắt bắt đầu xuất hiện, đến thời Chiến Quốc
thì được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.
2. Thời kì trung đại.
Thời ki trung đại nói chung là thời kì thống trị của các vương triều phong kiến trên đất nước Trung
Quốc thống nhất.
Thời kì này bắt đầu từ năm 221 TCN tức là từ khi Tần Thủy Hoàng thành lập triều Tấn cho đến
năm 1840 tức là năm xảy ra cuộc chiến tranh Thuốc phiện giữa Trung Quốc và Anh làm cho Trung Quốc từ
một nước phong kiến trở thành một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa.
Trong thời gian hơn 2.000 năm đó, Trung Quốc đã trải qua các triều đại sau đây:
- Tấn (221-206 TCN)
- Tây Hán (206 TCN - 8 TCN)
- Tân (9-23)
- Đông Hán (25-220)
- Thời kì Tam quốc: Nguy, Thục, Ngô (220-280)
- Tấn (265-420)
- Thời kì Nam Bắc triều (420-581)
- Tùy (581-618)
- Đường (618-907)
- Thời kì Ngũ đại Thập quốc (907-960)
- Tống (960-1279) chia thành 2 thời kì Bắc Tống (960-1127) Nam Tống (1127-1279)
- Nguyên (1271-1368)
- Minh (1368-1644)
- Thanh (1644-1911)
Trong thời trung đại, Hán, Đường, Tống, Minh là những vương triều lớn, đó cũng là những thời kì
Trung Quốc rất cường thịnh và phát triển về mọi mặt, Nguyên và Thanh cũng là hai triều đại lớn, nhưng
triều Nguyên do người Mông Cổ thành lập, triều Thanh do tộc Mãn Châu lập nên, trong xã hội tồn tại mâu
thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt do đó đã hạn chế sự phát triển về văn hóa, triều Thanh tuy
tồn tại đến năm 1911, nhưng từ năm 1840, tính chất của xã hội Trung Quốc đã thay đổi nên đã chuyển sang
thời kì lịch sử cận đại.
III- Những thành tựu:
1. Chữ viết, văn học, sử học
Chữ viết Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa, xương
thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên Thạch cổ văn, Kim
văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông
được gọi là chữ Tiểu triện.
Văn học Kinh thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân - Thu, được
Khổng tử sưu tập và chỉnh lí. Kinh thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng. Thơ Đường là thời kì đỉnh cao
của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả nổi bật lên ba nhà thơ lớn đó là Lí Bạch, Đỗ Phủ,
Bạch Cư Dị. Tới thời Minh-Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: “Tam quốc
chí diễn nghĩa” của La Quán Trung, “Thủy hử” của Thi Nại Am, “Tây du kí” của Ngô Thừa Ân, “Nho lâm
ngoại sử” của Ngô Kính Tử, “Hồng Lâu Mộng” của Tào Tuyết Cần... trong đó “Hồng lâu mộng” được
đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.
17
2. Sử học
Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân-Thu đã đặt các quan
chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu.
Thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại tác phẩm “Sử kí Tư Mã Thiên” chép lại lịch
sử Trung Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.
Thời Đông Hán, có các tác phẩm “Hán thư” của Ban Cố, “Tam quốc chí” của Trần Thọ, “Hậu Hán thư”
của Phạm Diệp.
Thời Minh-Thanh, các bộ sử như “Minh sử”, “Tứ khố toàn thư” là những di sản văn hóa đồ sộ của
Trung Quốc.
3. Khoa học tự nhiên và kĩ thuật
Toán học Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất hiện
cuốn “Chu bễ toán kinh”, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa 3 cạnh trong một
tam giác vuông. Thời Đông Hán, đã có cuốn “Cửu chương toán thuật”, trong sách này đã nói đến khai căn
bậc 2, căn bậc 3, phương trình bậc1, đã có cả khái niệm số âm, số dương. Thời Nam-Bắc triều có một nhà
toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265, đây là một con số cực kì chính
xác so với thế giới hồi đó.
Thiên văn học Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800 vì sao. Họ
đã xác định được chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can-Chi. Thế kỉ IV
TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt trời. Thế kỉ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ
để dự báo động đất. Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn “Thụ thời lịch” xác định
một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII.
Y dược học Thời Chiến Quốc đã có sách “Hoàng đế nội kinh” được coi là bộ sách kinh điển của y
học cổ truyền Trung Hoa. Thời Minh có cuốn “Bản thảo cương mục” của Lí Thời Trân. Cuốn sách này
được dịch ra chữ Latinh và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời
đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học Trung Quốc.
Kĩ thuật Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân
loại, đó là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào khoảng năm 105 do Thái Luân. Nghề
in bằng những chữ rời đã được Tất Thăng sáng tạo vào đời Tuỳ. Đồ sứ cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa.
Từ thế kỉ VI, họ đã chế ra diêm quẹt để tạo ra lửa cho tiện dụng.
4. Hội họa, điêu khắc, kiến trúc
Hội họa Hội họa Trung Quốc có lịch sử 5000-6000 năm với các loại hình: bạch họa, bản họa, bích
họa. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thủy mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn “Lục pháp
luận” của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội họa từ đời Hán đến đời Tuỳ.
Điêu khắc Ở Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu.
Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho
tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay.
Kiến trúc Cũng có những công trình rất nổi tiếng như Vạn lí trường thành (6700 km), Thành Tràng
An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.
5. Tư tưởng, tôn giáo
- Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành
Âm dương tức lưỡng nghi là 2 yếu tố cơ bản có tính chất đối lập và chế ngự lẫn nhau, chúng tác
động lẫn nhau tạo thành tất cả mọi vật trong vũ trụ. Dương có các tính chất như: giống đực, ánh sáng, nóng,
chủ động, rắn rỏi… Âm có các tính chất như: giống cái, bóng tối, lạnh, thụ động, mềm mỏng… Mọi tai dị
trong thiên nhiên sở dĩ xảy ra là do không điều hòa được 2 lực lượng ấy.
Bát quái là 8 yếu tố vật chất tạo thành thế giới: Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm), Tốn (gió),
Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (hồ). Trong Bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất. Thuyết
18
Bát quái mang tính duy vật và biện chứng nhưng những yếu tố tích cực rất hạn chế. Sự gán ghép nội dung
cho các quẻ (như Li là lửa, là con gái đầu lòng) là hoàn toàn không có cơ sở khoa học nên thuyết này đã trở
thành cơ sở tốt cho việc bói toán.
Ngũ hành là 5 tác động tạo thành sự vật: Mộc (gỗ có tính chất động, khởi đầu), Hỏa (lửa có tính
chất nhiệt, phát triển), Thổ (đất có tính chất nuôi dưỡng, sinh sản), Kim (kim loại có tính chất thu lại), Thủy
(nước có tính chất tàng chứa). Quy luật biến đổi của vạn vật là do mối quan hệ “tương sinh” và “tương
khắc”. Tương sinh là sinh ra nhau; cụ thể là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy,
Thủy sinh Mộc. Tương khắc là chống lại nhau; cụ thể là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa,
Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Có tương sinh mà không tương khắc thì không thăng bằng, không phát triển
bình thường được. Có tương khắc mà không tương sinh thì không thể có sự sinh trưởng biến hóa. Như vậy,
qui luật tương sinh tương khắc của Ngũ hành, về bản chất, chính là sự cụ thể hóa thuyết Âm dương.
Thuyết Âm dương Ngũ hành ra đời vào thời Chiến Quốc là cơ sở để giải thích biến hóa và phát triển
của tự nhiên cũng như của xã hội.
- Nho giáo
Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc do Khổng Tử (551-479 TCN) sáng
lập. Nho gia chủ trương Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức để làm chuẩn mực cho mọi sinh
hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời: Nhân (lòng yêu thương), Nghĩa (cư xử theo
lẽ phải), Lễ (sự tôn trọng, hòa nhã), Trí (sự hiểu biết), Tín (giữ lời hứa).
Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở
nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con).
Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có: Công (khéo léo trong việc làm), Dung (hòa nhã
trong sắc diện), Ngôn (mềm mại trong lời nói), Hạnh (đức hạnh trong lối sống).
Nho gia đề cao tư tưởng Chính danh định phận và Thiên mệnh, trọng “Lễ trị” hơn “Pháp trị”. Giá trị
quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người.
Mạnh Tử (371-289 TCN) là người thừa kế và phát triển học thuyết Nho giáo thêm một bước. Mặc
dù tin vào mệnh trời nhưng nếu con người biết tu dưỡng có thể thay đổi được ngoại giới. Mạnh Tử cho
rằng đạo đức bẩm sinh được giáo dục tốt sẽ đạt đến cực thiện còn không sẽ mai một. Về chính trị Mạnh Tử
chủ trương đường nhân chính và thống nhất. Nhân chính là dùng đạo đức để trị nước, quí dân hơn quí vua.
Thống nhất là chấm dứt chiến tranh giữa các nước bằng con đường nhân chính chứ không bằng biện pháp
chiến tranh.
Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh
“bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho
giáo.
- Đạo gia
Người đề xuất học thuyết Đạo gia là Lão Tử và người phát triển học thuyết này là Trang Tử. Hai
ông đã thể hiện tư tưởng của mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam Hoa kinh.
Theo Lão Tử, “Đạo” là cơ sở đầu tiên của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Qui luật
biến hóa tự thân của mỗi sự vật ông gọi là “Đức”. Lão Tử cho rằng mọi vật sinh thành, phát triển và suy
vong đều có mối liên hệ với nhau. Đạo đức trong Đạo gia là một phạm trù triết học khác với Nho gia là
thuộc phạm trù lí luận.
Tới thời Trang Tử, tư tưởng của phái Đạo gia mang nặng tính buông xuôi, xa lánh cuộc đời. Họ cho
rằng mọi hoạt động của con người đều không thể cưỡng lại “đạo trời”, từ đó sinh tư tưởng an phận, lánh
đời.
- Đạo giáo
19