Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận Chứng minh nhà quản lý công chịu áp lực hơn nhà quản lý tư (Lý luận quản lý công)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.27 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN
LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG
ĐỀ TÀI: CHỨNG MINH NHÀ QUẢN LÝ CÔNG
CHỊU ÁP LỰC HƠN NHÀ QUẢN LÝ TƯ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................2
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ QUẢN LÝ CÔNG................................2
1.1. Khái niệm...............................................................................................................2


1.2. Đặc điểm.................................................................................................................3
CHƯƠNG 2. CHỨNG MINH NHÀ QUẢN LÝ CÔNG CHỊU ÁP LỰC HƠN
NHÀ QUẢN LÝ TƯ....................................................................................................4
2.1. Nhà quản lý công chịu sự chi phối mạnh mẽ của chính trị....................................4
2.2. Nhà quản lý công chịu sự chi phối của hệ thống pháp luật....................................6
2.3. Nhà quản lý công chịu sự ràng buộc của các quy định về sử dụng tài chính.........8
2.4. Nhà quản lý công có mục tiêu hoạt động: đảm bảo lợi ích của quốc gia, tập thể và
cá nhân...........................................................................................................................8
2.5. Nhà quản lý công phải bảo đảm hiệu quả kinh tế gắn liền với hiệu quả xã hội.....9
2.6. Nhà quản lý công phải chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quyền lực nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội và của quần chúng nhân dân.................................9
2.7. Nhà quản lý công phải tuân theo quy trình làm việc nghiêm ngặt.......................10

2.8. Nhà quản lý công có phạm vi ảnh hưởng rộng rãi hơn, tác động đến nhiều đối
tượng trong xã hội.......................................................................................................11
2.9. Nhà quản lý công mang tính đại diện cho cộng đồng..........................................12
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN GIẢM NHẸ ÁP LỰC CHO
NHÀ QUẢN LÝ CÔNG............................................................................................12
3.1. Nâng cao năng lực của nhà quản lý công.............................................................12
3.2. Xây dựng cơ chế quản lý, quy trình làm việc khoa học.......................................15
3.3. Tạo động lực làm việc cho nhà quản lý công thông qua các chính sách..............16
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................18


PHẦN MỞ ĐẦU

Bất kỳ một nhà nước nào cũng thực hiện hai chức năng cơ bản, chức năng
quản lý, điều tiết để duy trì trật tự xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước
(chức năng cai trị) và chức năng cung cấp các dịch vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu
chung của xã hội (chức năng xã hội hay chức năng phục vụ). Để thực hiện các chức
năng này, nhà nước lập ra các cơ quan để cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ của mình,
hoạt động đó gọi là quản lý công, chủ thể tiến hành hoạt động này gọi là nhà quản lý
công.
Nhà quản lý công là những cá nhân hay nhóm người thực hiện các hoạt động
quản lý trong khu vực công. Những người này có thể chia ra hai nhóm chủ yếu:
những người nắm quyền lực nhà nước để điều tiết xã hội (nhóm cán bộ, công chức)
và nhóm người thực hiện các hoạt động sự nghiệp (viên chức sự nghiệp). Trong khi
nhóm thứ nhất có hoạt động mang tính tương đối đặc thù (sử dụng quyền lực nhà

nước) thì nhóm thứ hai hoạt động gần giống như trong khu vực tư nhân.
Mặc dù việc quản lý các công việc của nhà nước và quản lý doanh nghiệp tư có
nhiều điểm tương đồng (cùng sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực để đạt mục tiêu)
nhưng sự khác biệt về phạm vi, môi trường hoạt động, mục tiêu và quy trình quản lý
đòi hỏi các nhà quản lý công phải đáp ứng các yêu cầu khắt khe hơn về kiến thức,
năng lực, phẩm chất,… so với các nhà quản lý doanh nghiệp tư.
Chính vì những đặc điểm trên mà nhiều người đã nhận định: “Trong hoạt động
quản lý, các nhà quản lý trong khu vực công thường chịu nhiều áp lực hơn các nhà
quản lý trong khu vực tư”.

1



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ QUẢN LÝ CÔNG
1.1. Khái niệm
Một số cách hiểu từ nhà quản lý (Manager) như sau:
- Là một cá nhân trong tổ chức chỉ huy người khác hoạt động và thông qua
người khác để đạt được mục tiêu.
- Là người chịu trách nhiệm quản lý, điều hành một bộ phận hay toàn bộ một tổ
chức.
- Nhà quản lý công là những cá nhân hay nhóm người thực hiện các hoạt động
quản lý trong khu vực công. Những người này có thể chia ra hai nhóm chủ yếu:
những người nắm quyền lực nhà nước để điều tiết xã hội (nhóm cán bộ, công chức)

và nhóm người thực hiện các hoạt động sự nghiệp (viên chức sự nghiệp). Trong khi
nhóm thứ nhất có hoạt động mang tính tương đối đặc thù (sử dụng quyền lực nhà
nước) thì nhóm thứ hai hoạt động gần giống như trong khu vực tư nhân.
Căn cứ vào chức năng quản lý, nhà quản lý công có thể hiểu theo nghĩa rộng
và theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, thì tất cả những người tham gia vào bộ máy quản lý, bao
gồm: nhà quản lý cấp cao; nhà quản lý tham mưu và nhà quản lý nghiệp vụ.
- Nhà quản lý cấp cao: là những người đứng đầu một tổ chức, một bộ phận. Họ
có quyền ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định và chịu trách nhiệm về quyết
định của mình trước cấp có thẩm quyền.
- Nhà quản lý tham mưu: là những người có trình độ và thông thạo về một lĩnh
vực chuyên môn nào đó. Họ không có quyền ra quyết định mà chỉ giúp nhà quản lý

cấp cao soạn thảo các quyết định quản lý và chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn.
- Nhà quản lý nghiệp vụ: là những người thành thạo và tinh thông nhiệp vụ,
như thông tin, kiểm tra, giám sát, kế toán, kiểm kê… Họ không có quyền ra quyết
định nhưng giúp nhà quản lý cấp cao trong việc bảo đảm cho tổ chức vận hành theo
mục tiêu, kế hoạch đã định.
Theo nghĩa hẹp, nhà quản lý công bao gồm những người trực tiếp ra quyết định
và tổ chức thực hiện quyết định quản lý.

2


1.2. Đặc điểm

Giống như tất cả các nhà quản lý khác, các nhà quản lý công cũng phải thực
hiện những chức năng quản lý khi thực hiện nhiệm vụ quản lý của mình.
Henry Fayol khi xác định tính chất việc làm của các nhà quản lý đã chỉ ra 5
chức năng chủ yếu của hoạt động quản lý hành chính là: dự báo và lập kế hoạch; thiết
kế tổ chức; phối hợp; chỉ đạo điều hành và kiểm soát.
Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng trình bày những quan điểm khác nhau về
chức năng quản lý, như L. Gulick (07 chức năng quản lý: POSDCORB) hoặc G. T.
Allion đưa ra 08 chức năng quản lý (quản lý nội bộ và quản lý các yếu tố bên ngoài).
Tuy nhiên, do môi trường thực hiện các hoạt động quản lý công khác với khu
vực tư nhân, các nhà quản lý công bên cạnh các đặc điểm của nhà quản lý tư nhân
còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác:
- Sự chi phối mạnh mẽ của chính trị.

- Sự chi phối của hệ thống pháp luật: tuân theo pháp luật; chịu trách nhiệm
trước pháp luật.
- Sự ràng buộc của các quy định pháp luật do sử dụng nguồn lực công cộng.
- Mục tiêu hoạt động: đảm bảo lợi ích của quốc gia, tập thể và cá nhân.
- Bảo đảm hiệu quả kinh tế gắn liền với hiệu quả xã hội.
- Chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội và của quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, các nhà quản lý công còn bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như
tính đại diện cho cộng đồng (tầng lớp xã hội, vùng, miền...), tính ổn định cao so với
khu vực tư…

3



CHƯƠNG 2. CHỨNG MINH NHÀ QUẢN LÝ CÔNG CHỊU ÁP LỰC
HƠN NHÀ QUẢN LÝ TƯ
2.1. Nhà quản lý công chịu sự chi phối mạnh mẽ của chính trị
Chính trị là phạm vi hoạt động gắn với quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia, dân
tộc và các nhóm xã hội khác nhau xoay quanh một vấn đề trung tâm, vấn đề giành,
giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.
Hoạt động của bộ máy nhà nước là việc thực hiện quyền lực chính trị của giai
cấp cầm quyền, tuân thủ ý chí chính trị của giai cấp cầm quyền. Nhà nước tiến hành
các hoạt động quản lý đời sống kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền.
Trong đó, nhà quản lý công là chủ thể thực hiện các công việc của bộ máy nhà nước

và chịu sự chi phối mạnh mẽ của chính trị.
Thứ nhất, nhà quản lý công có trách nhiệm cụ thể hóa các đường lối, chủ
trương của Đảng thành các chính sách, quy định pháp luật và tổ chức thực hiện trên
thực tế.
Chẳng hạn, chủ trương cải cách hành chính được đề cập trong nhiều Văn kiện
Đại hội Đảng từ khóa VII (năm 1995) đến nay, đã được Nhà nước thể chế hóa thành
Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 về Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 và Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày
08/11/2011 về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 20112020.
Thứ hai, các cơ quan hành chính nhà nước tổ chức thực hiện các chính sách,
pháp luật đã ban hành dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng trong mỗi cơ quan.
Cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm xây dựng văn bản, chương trình,

kế hoạch hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước và bảo đảm
thực hiện sự lãnh đạo của tổ chức đảng trong mỗi cơ quan. Sự lãnh đạo của tổ chức
đảng trong cơ quan hành chính nhà nước là sự lãnh đạo trực tiếp, gắn liền với hoạt
động của các cơ quan hành chính. Tổ chức đảng thực hiện vai trò này thông qua việc
ban hành các nghị quyết và giám sát việc triển khai các nghị quyết đó. Thông qua sự
lãnh đạo và giám sát trực tiếp của mình, các tổ chức đảng có thể chấn chỉnh kịp thời
những quan điểm, hành vi sai trái với đường lối, chủ trương của Đảng.

4


Thứ ba, các hoạt động quản lý nhà nước được triển khai thực hiện với sự tham

gia tích cực của đội ngũ đảng viên trong bộ máy nhà nước.
Các đảng viên trong cơ quan hành chính nhà nước có nghĩa vụ gương mẫu thực
hiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phù hợp với cương vị, chức trách,
nhiệm vụ được giao. Các đảng viên ưu tú của Đảng được bổ nhiệm giữ các chức vụ
trong các cơ quan hành chính nhà nước hợp thành đội ngũ những người lãnh đạo, các
công chức cấp cao, chuyên gia, chuyên viên... Thông qua đội ngũ này, các đường lối,
chủ trương của Đảng được chuyển hóa thành hoạt động cụ thể, sinh động trong bộ
máy nhà nước.
Thứ tư, hoạt động quản lý nhà nước chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.
Hoạt động quản lý nhà nước chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan, tổ
chức (Cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội, …), đồng thời cũng chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.

Kiểm tra, giám sát của Đảng là một phương thức cơ bản để bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động quản lý nhà nước. Đảng thực hiện kiểm tra, giám sát các tổ
chức đảng và các đảng viên trong các cơ quan nhà nước để phát hiện, khuyến khích
những nhân tố tích cực, đồng thời chấn chỉnh kịp thời các hiện tượng tiêu cực, vi
phạm đường lối, chủ trương, điều lệ của Đảng. Kiểm tra, giám sát của Đảng được
thực hiện nghiêm túc và thường xuyên là điều kiện quan trọng để bảo đảm cho hoạt
động quản lý nhà nước theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng.
Khu vực công phụ thuộc vào định hướng chính trị và phục vụ chính trị. Vì vậy
các nhà quản lý trong khu vực công cũng chịu sự chi phối mạnh mẽ của chính trị hơn
các nhà quản lý trong khu vực tư.
2.2. Nhà quản lý công chịu sự chi phối của hệ thống pháp luật
Nhà nước được xem là trụ cột của hệ thống chính trị, đây là chủ thể cơ bản tiến

hành các hoạt động để nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối của đảng chính trị
thành chính sách, pháp luật và tổ chức, triển khai để đưa chính sách, pháp luật vào
thực tiễn cuộc sống, sự thành bại của đảng chính trị phụ thuộc rất lớn đến kết quả
hoạt động của bộ máy nhà nước.

5


Và trong bộ máy nhà nước, nhà quản lý công đóng vai trò là người trực tiếp
ban hành các quyết định quản lý và tổ chức thực hiện. Nhà quản lý công là người
thực thi pháp luật và chỉ được hoạt động trong khuôn khổ, phạm vi pháp luật cho
phép, điều này được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, nhà quản lý công được tuyển dụng, sử dụng, quản lý theo pháp luật
quy định.
Ở khu vực tư, các nhà quản lý tư được tuyển dụng, sử dụng, quản lý dựa trên
các yêu cầu công việc của một bộ phận, một tổ chức. Việc tuyển dụng, sử dụng và
quản lý các nhà quản lý tư tuân theo các quy định chung của pháp luật và các quy
định cụ thể tại từng bộ phận, từng tổ chức. Quá trình tuyển dụng, sử dụng và quản lý
các nhà quản lý tư cũng linh hoạt, nhanh chóng và dễ dàng, chủ yếu nhằm đáp ứng
nhu cầu của công việc, chú trọng năng lực công tác.
Ngược lại, ở khu vực công, tất cả các quy trình tuyển dụng, sử dụng và quản lý
các nhà quản lý công đều có quy định cụ thể rõ ràng về số lượng, tiêu chuẩn, điều
kiện, lương thưởng, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, … tại các văn bản pháp luật và
mang tính chất bắt buộc thi hành. Quy trình tuyển dụng, sử dụng và quản lý các nhà

quản lý công chặt chẽ, cụ thể và nghiêm ngặt hơn rất nhiều so với các nhà quản lý tư.
Bên cạnh năng lực, các nhà quản lý công còn phải đáp ứng các yêu cầu về phẩm chất
đạo đức chính trị và các yêu cầu cụ thể của vị trí công tác.
Thứ hai, thẩm quyền hoạt động của nhà quản lý công do pháp luật quy định.
Ví dụ: Thẩm quyền của Đội trưởng Công an nhân dân quy định tại điểm b
khoản 2, Điều 39, Luật Xử phạt vi phạm hành chính quy định phạt tiền không quá
1.500.000 đồng.
Như vậy nhà quản lý trong trường hợp trên chỉ được thực hiện thẩm quyền của
mình trong phạm vi điều luật quy định. Trường hợp, nhà quản lý công không thực
hiện, hoặc thực hiện không đúng đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Điều này
khác với nhà quản lý tư vì nhà quản lý công chịu sự tác động, ràng buộc về mặt luật
pháp ở mức độ cao hơn.

Trong khi đó, hoạt động của nhà quản lý tư chủ yếu bị ràng buộc bởi điều lệ
của tổ chức, mà điều lệ của tổ chức do chính tổ chức đó đặt ra, có thể thay đổi nếu
cảm thấy không còn phù hợp. Tất nhiên, mọi hoạt động của quản lý tư cũng nằm

6


trong khuôn khổ của pháp luật của một quốc gia nhất định, nhưng xét về mặt tác động
trực tiếp thì rõ ràng không thể bằng nhà quản lý công.
Thứ ba, trách nhiệm pháp lý của nhà quản lý công nặng hơn nhà quản lý tư nếu
xảy ra vi phạm.
Hoạt động của nhà quản lý công chịu sự ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý. Do

đó, nếu xảy ra vi phạm họ phải gánh chịu những bất lợi về mặt chế tài. Cụ thể là các
mức xử phạt được quy định Luật cán bộ, công chức; những hành vi vi phạm nghiêm
trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với nhà quản lý tư trường hợp xảy ra vi phạm nếu ở mức độ hành chính chỉ
bị xử phạt theo nội quy, quy chế hoạt động của công ty, hình thức phạt thường đánh
vào lợi ích kinh tế của các chủ thể, rõ ràng mức độ chịu ảnh hưởng của chế tài thấp
hơn so với nhà quản lý công.
Dĩ nhiên, nếu nhà quản lý tư vi phạm luật hình sự cũng phải bị truy cứu nhưng
đó là một khía cạnh khác. Ở đây, chúng ta đang bàn tới sự tương quan nội dung về
mức độ vi phạm giữa hai chủ thể để thấy rằng nhà quản lý công chịu nhiều áp lực hơn
nhà quản lý tư.
2.3. Nhà quản lý công chịu sự ràng buộc của các quy định về việc sử dụng

tài chính
Nhà quản lý công tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ của mình dựa trên nguồn
cung cấp tài chính từ ngân sách nhà nước. Nguồn tài chính là một công cụ chung cho
cả nhà quản lý công và nhà quản lý tư nhưng chúng không có cùng quy tắc sử dụng.
Nguồn tài chính của khu vực tư độc lập và mang tính linh hoạt, chủ động và
mang tính ảnh hưởng ở phạm vi hẹp hơn so với nguồn tài chính trong khu vực công.
Trong khi đó, các nguồn tài chính của khu vực công chủ yếu lấy từ thuế và lệ
phí của các thành viên trong xã hội để phục vụ cho các mục đích chung của xã hội. Vì
vậy, việc quản lý, sử dụng phải tuân theo các quy định của pháp luật và chịu sự kiểm
tra, giám sát nghiêm khắc của cơ quan có thẩm quyền, của cộng đồng.
2.4. Nhà quản lý công có mục tiêu hoạt động: đảm bảo lợi ích của quốc
gia, tập thể và cá nhân


7


Trong khu vực công, các nhà quản lý thường phải cố gắng dung hòa các quyết
định để đối phó với rất nhiều áp lực (các nhóm lợi ích, dư luận xã hội…) để đảm bảo
lợi ích của quốc gia và sự hài hòa lợi ích của các tập thể, cá nhân.
Các chính sách họ đưa ra không vì mục tiêu của một cá nhân, một nhóm hay
một địa phương nào mà đặt lợi ích của quốc gia lên trên hết.
Ví dụ: Chương trình tổng thể cải cách hành chính; Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2020; Nghị quyết của chính phủ về đẩy mạnh phân cấp quản lý...
2.5. Nhà quản lý công phải bảo đảm hiệu quả kinh tế gắn liền với hiệu quả

xã hội
Đối với nhà quản lý tư thì hiệu quả kinh tế là mục tiêu hàng đầu họ đặt ra và
theo đuổi. Tuy nhiên, trong khu vực công nói chung và đối với nhà quản lý công nói
riêng mục tiêu họ theo đuổi là phải đảm bảo hiệu quả kinh tế gắn liền với hiệu quả xã
hội. Và trong các trường hợp phải lựa chọn giữa lợi ích kinh tế và hiệu quả xã hội thì
họ vẫn chấp nhận mất đi một phần, hoặc không có lợi ích kinh tế để đảm bảo cho
hiệu quả xã hội.
Ví dụ: có thể thấy rõ vấn đề này khi nghiên cứu các hoạt động cung cấp dịch
vụ công cũng như các chương trình phúc lợi xã hội (dịch vụ y tế, giảm học phí, bán
nhà cho người thu nhập thấp, trợ cấp thất nghiệp, chương trình xóa đói giảm nghèo,
xây dựng các doanh nghiệp ở miền núi; xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất…).
Vì vậy, các nhà quản lý công phải chịu áp lực rất lớn, họ phải xem xét các vấn

đề dưới nhiều góc độ, khía cạnh, đưa ra nhiều phương án khác nhau và chọn lựa
phương án tốt nhất, phù hợp nhất để vừa có thể mang lại lợi ích kinh tế vừa có thể
đảm bảo hiệu quả xã hội của các chính sách.
2.6. Nhà quản lý công phải chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan
quyền lực nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và của quần chúng nhân dân
Thứ nhất, nhà quản lý công chịu sự chi phối, giám sát của cơ quan quyền lực
nhà nước.
Quốc hội và Hội đồng nhân dân là các cơ quan quyền lực thực hiện quyền
giám sát đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở những cấp độ khác

8



nhau, chính vì vậy nhà quản lý công cũng chịu sự giám sát chặt chẽ từ các cơ quan
này.
Ví dụ: Hoạt động của các nhà quản lý công ở bộ, ban, ngành, đơn vị sự nghiệp
công lập, doanh nghiệp nhà nước chịu sự kiểm soát của Quốc hội; các cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân.
Ở nước ta, trong một số trường hợp luật quy định nhà lãnh đạo đồng thời là
nhà quản lý. Ví dụ: tại khoản 1, Điều 22, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 quy định nhiệm vụ của Chủ tịch UBND tỉnh cụ thể như sau: “là lãnh đạo, điều
hành công việc của Ủy ban nhân dân tỉnh; lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn
trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh”; đồng thời Khoản 8 của điều này cũng quy định
nhiệm vụ “quản lý và tổ chức sử dụng có hiệu quả công sở, tài sản, các phương tiện

làm việc và ngân sách nhà nước được giao trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp
luật”.
Trong trường hợp này, chủ thể trong luật định vừa là nhà lãnh đạo, vừa là nhà
quán lý, do đó sẽ chịu áp lực rất lớn từ nhiều phía, đặc biệt là các cơ quan quyền lực
nhà nước.
Thứ hai, nhà quản lý công chịu sự giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và
của quần chúng nhân dân.
Ở nước ta, các tổ chức chính trị - xã hội là một trong ba bộ phận cấu thành hệ
thống chính trị. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các thành viên của Mặt trận trong việc giám sát và phản biện xã hội.
Xuất phát từ vai trò, nhiệm vụ của mình các tổ chức chính trị - xã hội có sự tác
động nhất định đến hoạt động của các nhà quản lý, nhất là trong việc kiểm tra, giám

sát.
Mặt khác, hoạt động của những nhà quản lý công có phạm vi ảnh hưởng rộng
rãi hơn, tác động đến nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực trong xã hội. Vì vậy, phạm vi
chịu sự giám sát của các chủ thể trong xã hội sẽ lớn hơn các nhà quản lý tư nên chịu
nhiều áp lực hơn là điều tất yếu.
2.7. Nhà quản lý công phải tuân theo quy trình làm việc nghiêm ngặt
Trong khu vực tư, các nhà quản lý tư làm việc chú trọng hiệu quả và chủ yếu
quan tâm đến kết quả đạt được hơn là quá trình thực hiện. Các nhà quản lý tư chủ
động, linh hoạt và lựa chọn cho bản thân, tổ chức mình quy trình làm việc phù hợp,

9



không mang tính khuôn mẫu, bắt buộc để đạt được kết quả mong muốn. Vì vậy, quy
trình làm việc của họ mang tính cá nhân, nội bộ và ít công khai ra trước công chúng.
Trong khi đó, hoạt động quản lý nhà nước do những nhà quản lý công trong bộ
máy nhà nước tiến hành với yêu cầu về tính liên tục của các hoạt động, sự tuân thủ
các quy định pháp lý, trách nhiệm giải trình, tính chuyên môn hóa và tính nghề
nghiệp cao. Do vậy, hoạt động quản lý nhà nước được các nhà quản lý công tiến hành
theo các trình tự và quy tắc riêng, đảm bảo tính tuân thủ nghiêm ngặt về quy trình. Và
các quy trình công việc của nhà quản lý công cũng phức tạp và khuôn mẫu hơn so với
các nhà quản lý tư.
Đồng thời, quy trình làm việc của nhà quản lý công phải bảo đảm tính công
khai, minh bạch để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể xem xét, kiểm tra. Kỳ vọng

của công chúng đối với các nhà quản lý công là phải hành động một cách công bằng,
trách nhiệm, giải trình rõ ràng, trung thực. Do đó, các nhà quản lý công có nhiều áp
lực hơn các nhà quản lý tư trong quá trình làm việc.
2.8. Nhà quản lý công có phạm vi ảnh hưởng rộng rãi hơn, tác động đến
nhiều đối tượng trong xã hội
Đối với nhà quản lý tư, khi họ tổ chức và thực hiện các quyết định quản lý, kết
quả thực hiện đó chỉ ảnh hưởng đến phạm vi nội bộ của tổ chức họ, không có hiệu lực
thi hành hoặc ảnh hưởng đến bên ngoài tổ chức.
Tuy nhiên, đối với các nhà quản lý công - người tổ chức và thực hiện các chính
sách nhà nước thì kết quả các chính sách này mang tính ảnh hưởng rộng rãi và tác
động đến nhiều đối tượng trong xã hội.
Nhà quản lý công đưa ra chính sách đúng đắn, phù hợp thì mang lại lợi ích,

hiệu quả cao, tạo sự phát triển cho xã hội và là nền tảng để tiếp tục thực hiện các
chính sách liên quan.
Ngược lại, trường hợp để xảy ra sai phạm thì nó sẽ gây ảnh hưởng ở phạm vi
lớn, có thể trong cả nước hoặc có thể ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, giữa các chính sách công có mối liên hệ
tác động lẫn nhau, sự sai phạm ở một chính sách có thể làm ảnh hưởng đến các chính
sách khác, các lĩnh vực khác. Điều đó đòi hỏi các nhà quản lý công đòi hỏi phải thận

10


trọng trong từng quyết định tránh để xảy ra sai phạm, ảnh hưởng đến sự phát triển

của đất nước.
2.9. Nhà quản lý công mang tính đại diện cho cộng đồng, chịu nhiều áp lực
trước báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng và dư luận
Nếu như các nhà quản lý tư chỉ là người đại diện mang tính cá nhân, mang tính
hình ảnh của một tổ chức thì các nhà quản lý công chính là người đại diện cho cơ
quan nhà nước, cho cộng đồng.
Các nhà quản lý công phải tuân thủ những quy định về chuẩn mực ứng xử khi
thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội. Các hành vi không phù hợp với
chuẩn mực của các nhà quản lý công không chỉ ảnh hưởng đến hình ảnh của cá nhân
họ mà còn ảnh hưởng đến cả bộ máy nhà nước và bị dư luận lên án.
Hơn nữa, các nhà quản lý công phải liên kết chặt chẽ và thường xuyên với báo
chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Những quyết định của họ thường được

báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng biết, công bố rộng rãi và được dư luận
quan tâm ở mức độ cao, còn quyết định của nhà quản lý tư lại ít được công bố với
báo chí. Nhà quản lý tư thường tiếp xúc với báo giới khi họ cần quảng bá thương hiệu
hay sản phẩm mới của mình.
Chính vì thế, các nhà quản lý công phải luôn thận trọng, cân nhắc và đảm bảo
tác phong về mọi mặt khi xuất hiện trước cộng đồng, báo chí và các phương tiện
thông tin đại chúng.
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN GIẢM NHẸ ÁP LỰC
CHO NHÀ QUẢN LÝ CÔNG
3.1. Nâng cao năng lực của nhà quản lý công
Năng lực của các nhà quản lý công quyết định chất lượng hoạt động của khu
vực công. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, kinh tế đất nước phát triển, các

vấn đề xã hội được giải quyết hiệu quả, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
quan hệ quốc tế phát triển… phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của đội ngũ công chức
nhà nước.
Nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường không chấp nhận tư duy

11


làm việc ỷ lại, quan liêu, vô trách nhiệm, kém hiệu quả. Để cải cách hành chính thành
công và hướng tới xây dựng nền hành chính công mới phát triển hiệu quả, những nhà
quản lý công cần có kiến thức, có năng lực và trình độ thật sự. Bên cạnh đó, sự cạnh

tranh với các thành phần kinh tế trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài, việc
thực hiện mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân cũng đòi hỏi thái độ làm việc mới, có chất lượng hơn, trách nhiệm hơn của
đội ngũ công chức nhà nước. Những nhà quản lý công không thể thờ ơ, vô trách
nhiệm đối với người dân và doanh nghiệp và họ phải đáp ứng được những đòi ngày
càng cao của nhân dân. Vì vậy việc nâng cao năng lực của các nhà quản lý công ở
nước ta hiện nay càng trở nên cấp bách.
Để nâng cao năng lực cho các nhà quản lý công cần có nhiều giải pháp đồng
bộ. Trong đó, giải pháp về đào tạo bồi dưỡng các nhà quản lý công là giải pháp trực
tiếp nhằm nâng cao năng lực của các nhà quản lý công. Trong nhóm các giải pháp về
đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan, tổ chức cần thực hiện một số công việc sau:
Thứ nhất, xác định đúng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng.

Trước hết cần phải xác định được những năng lực đã có, năng lực cần có (dựa
vào việc đánh giá hiệu suất lao động; kết quả đạt được trong công việc hay những trải
nghiệm hàng ngày; chiến lược, mục tiêu của tổ chức; các hoạt động hoạch định kế
hoạch chức nghiệp, …) từ đó xác định được những năng lực cần phải đào tạo, bồi
dưỡng.
Khoảng thiếu hụt giữa năng lực cần có và năng lực đã có là năng lực cần phải
bổ sung, phát triển. Ngoài ra, để xác định được các năng lực đã có, cần có hay năng
lực cần phải bổ sung, có thể phỏng vấn trực tiếp hoặc phát phiếu điều tra tình hình
thực tế năng lực và nhu cầu phát triển năng lực của từng cá nhân công chức.
Các cơ quan hành chính nhà nước cần phân tích và xây dựng bản nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng cho từng cán bộ, công chức ở các vị trí khác nhau. Bản nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng này xác định rõ các năng lực còn thiếu hoặc chưa đáp ứng được yêu

cầu và cần phải bổ sung trong từng khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai, đổi mới triệt để nội dung, hình thức và phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng.

12


Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, Nhà nước cần kết hợp 2 hình thức
đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch, bậc và hình thức đào tạo, bồi dưỡng theo vị
trí việc làm và chức danh để khắc phục tình trạng đào tạo hình thức, cốt để có đủ
chứng chỉ, bằng cấp phục vụ cho việc thi nâng ngạch hay lên chức như hiện nay. Như
vậy, muốn áp dụng hình thức đào tạo nhằm phát triển năng lực cần phải xây dựng hai

loại khung năng lực: khung năng lực cho các ngạch công chức và khung năng lực cho
từng vị trí việc làm và chức danh cụ thể. Trên cơ sở các khung năng lực chuẩn xây
dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho các ngạch cán bộ, công chức và cho
các vị trí công việc, các chức danh thích hợp.
Kết hợp các hình thức đào tạo, bồi dưỡng đa dạng, phong phú, phù hợp với
từng đối tượng; tổ chức các khóa bồi dưỡng xen kẽ với các đợt tập huấn, trao đổi kinh
nghiệm quản lý, chú trọng học phải đi đôi với hành.
Chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải thiết thực, phù hợp với từng đối tượng,
tránh chỉ đào tạo lý thuyết chung chung làm tốn kém nhiều công sức và thời gian
nhưng kết quả thu được lại rất hạn chế.
Mở rộng phương pháp giảng dạy tình huống (case studies). Chúng ta có thể lấy
các tình huống trong quản lý hành chính nhà nước, quản lý nhân sự hành chính hay

sự phá sản của tập đoàn kinh tế nhà nước… để đưa vào chương trình giảng dạy (Vụ
cưỡng chế thu hồi đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng; vụ phá sản của Vinashin, xuất khẩu
gạo; đào tạo không gắn với nhu cầu xã hội…). Phương pháp này đã được áp dụng
thành công và mang lại hiệu quả ở nhiều học viện và trường hành chính công của các
nước.
Thứ ba, coi trọng quá trình tự đào tạo.
Khoa học, kỹ thuật phát triển không ngừng nên mỗi nhà quản lý công phải coi
việc tự học tập nâng cao trình độ, năng lực là công việc thường xuyên, liên tục. Chỉ
có như vậy nhà quản lý công mới nắm bắt được những thành tựu mới của khoa học,
kỹ thuật và theo kịp những thay đổi của môi trường chính trị trong nước và quốc tế.
Bản thân mỗi nhà quản lý công phải xây dựng kế hoạch tự đào tạo cho bản
thân để nâng cao năng lực bằng một số biện pháp thông dụng sau:


13


- Cần phải đọc nhiều sách. Đọc sách là một việc làm cần thiết để tích lũy kiến
thức. Trong đọc sách, vấn đề rất quan trọng là tìm được sách cần đọc.
- Kết bạn với những người có hiểu biết rộng và có kinh nghiệm: Tích lũy kiến
thức không hẳn chỉ dựa vào việc đọc sách. Thảo luận, tọa đàm, kết bạn với những
người có hiểu biết rộng, có kinh nghiệm cũng là một kênh quan trọng để thu nhận
kiến thức, nâng cao trình độ, năng lực.
Singapore, Hàn Quốc và một số nước khác rất quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức trẻ bằng cách thường xuyên phát cho họ những tài liệu,

sách báo về chuyên môn và các kiến thức cần thiết và thanh toán các khóa học của cá
nhân.
Thứ tư, nâng cao năng lực cho nhà quản lý công tại nơi làm việc.
Cần nhận thức rằng, nâng cao năng lực cho nhà quản lý công không phải chỉ
thông qua các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng tại các cơ sở đào tạo. Trong nhiều trường
hợp, áp dụng các biện pháp phát triển năng lực của nhà quản lý công tại nơi làm việc
gắn liền với công việc lại phát huy tác dụng. Một số biện pháp phát triển năng lực
phù hợp với môi trường hành chính nhà nước cần được chú ý như:
- Kèm cặp, huấn luyện. Đây là một phương pháp đào tạo phát triển năng lực tại
chỗ. Mỗi cá nhân được giao cho nhà một nhà quản lý hoặc một người làm chuyên
môn giỏi kèm cặp, huấn luyện. Ngoài cơ hội quan sát, các cá nhân còn phải thực hành
ngay và được chỉ định một số công việc quan trọng đòi hỏi các kỹ năng cần thiết. Ở

Nhật Bản, các nhà quản lý có kinh nghiệm bắt buộc phải giành 30% thời gian làm
việc trong ngày để kèm cặp, giúp đỡ các công chức trẻ.
- Trao quyền ra quyết định cho cấp dưới. Các nhà quản lý cần phải trao quyền
cho cấp dưới để nâng cao năng lực làm việc của họ. Khi cấp dưới được tự chủ và tự
chịu trách nhiệm về một vấn đề nào đó, thông thường họ sẽ phải cố gắng để đạt được
kết quả tốt nhất.
- Giao thêm các nhiệm vụ mới cho cấp dưới. Việc giao các nhiệm vụ mới vượt
quá khả năng của cấp dưới đòi hỏi cá nhân công chức phải vượt ra khỏi những gì đã
biết và qua đó học thêm được những kỹ năng mới. Khi công chức được giao thêm
công việc mới họ sẽ phải nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp, hướng đi và cách thức

14



tiếp cận công việc mới đồng thời họ sẽ phải vượt lên những khó khăn để giải quyết
những tình huống mới nảy sinh. Qua thực tiễn giải quyết công việc, những năng lực
mới của công chức sẽ hình thành và hoàn thiện.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức góp phần nâng cao năng lực của họ
từ đó giúp họ giải quyết các vấn đề nhanh chóng, dễ dàng, giảm được các áp lực của
nhà quản lý công.
3.2. Xây dựng cơ chế quản lý, quy trình làm việc khoa học
Hướng chủ yếu của giải pháp này là tập trung vào việc hoàn thiện việc xây
dựng kế hoạch công tác, phân bố thời giờ làm việc một cách hợp lý, xây dựng và
hoàn thiện các quy trình, quy chế giải quyết công việc, xây dựng chức trách, nhiệm

vụ cá nhân rõ ràng cho từng vị trí công tác trong bộ máy quản lý. Đặc biệt phải chú ý
hoàn thiện công tác thông tin, xây dựng các cơ sở dữ liệu thông tin cần thiết và ứng
dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ xử lý các cơ sở dữ liệu thông tin đó
phục vụ cho việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quản lý. Đổi mới qui
trình và nâng cao chất lượng các khâu chuẩn bị, xây dựng, thẩm định và ban hành các
văn bản qui phạm pháp luật, văn bản quản lý hành chính nhằm giảm thiểu các sai sót,
nâng cao chất lượng công việc.
Đây là giải pháp khá quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng công việc
và hiệu quả làm việc của nhà quản lý công. Đặc biệt là áp dụng công nghệ thông tin
vào xây dựng, quản lý và xử lý các cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ việc ra và tổ chức
thực hiện các quyết định quản lý.
Bên cạnh đó, cần triển khai có kết quả chương trình hiện đại hoá công sở. Hiện

đại hoá nền hành chính, hiện đại hoá công sở phải phù hợp với trình độ tổ chức khoa
học lao động của bộ máy quản lý.
Xây dựng cơ chế quản lý, quy trình làm việc khoa học sẽ giúp cho các nhà
quản lý công tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả làm việc từ đó góp phần giảm
bớt áp lực.
3.3. Tạo động lực làm việc cho nhà quản lý công thông qua các chính sách
Để nâng cao năng lực của nhà quản lý công cũng cần có một số biện pháp tạo
động lực thông qua các chính sách. Đây là các giải pháp có tác động gián tiếp nhưng

15



không vì thế mà nó không có tác động nhằm khuyến khích, động viên các nhà quản
lý công học tập, tu dưỡng nâng cao năng lực của mình. Các giải pháp này bao gồm:
Thứ nhất, chế độ thi tuyển công khai, công bằng.
Tất cả các nhà quản lý công phải được tuyển chọn qua các kỳ thi tuyển công
chức công khai và công bằng, tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội cạnh tranh, ngăn
chặn mọi hành vi dùng quyền lực làm ảnh hưởng đến kết quả thi tuyển. Tất cả mọi
công chức bất luận đảng tịch, chủng tộc, tôn giáo … đều được đối xử công bằng
trong thi tuyển. Có như vậy khu vực công mới tuyển được người thật sự tài giỏi và
đây cũng là cách khuyến khích mọi người không ngừng học tập nâng cao trình độ,
năng lực.
Ở Nhật Bản, việc thi tuyển công chức nhà nước giao cho Viện nhân sự Nhật
Bản phụ trách (các bộ không tổ chức thi tuyển riêng mà hàng năm gửi kế hoạch nhân

sự về Viện nhân sự…). Hàng năm, Viện này tổ chức 3 kỳ thi tuyển công chức loại I
(cao cấp), loại II và loại III. Những người trùng tuyển công chức loại I sẽ được đào
tạo để trở thành những nhà quản lý cao cấp trong tương lai. Những người trúng tuyển
loại II và loại III là những người làm việc chuyên môn, như bác sĩ, kỹ sư, kế toán,
văn thư… Để được thi tuyển công chức loại I, các thí sinh phải là người tốt nghiệp
xuất sắc các trường đại học có danh tiếng ở trong nước và nước ngoài.
Thứ hai, sử dụng cán bộ, công chức hợp lý, đúng ngành nghề được đào tạo,
tránh tình trạng “ngồi nhầm chỗ” như vẫn phổ biến hiện nay.
Thứ ba, thực hiện việc phân công công việc rõ ràng, đề cao trách nhiệm cá
nhân, đặc biệt là những người quản lý cao cấp.
Thứ tư, có chế độ kiểm tra, sát hạch nghiêm túc, thưởng người giỏi, phạt người
yếu kém. Mọi công chức làm việc có kết quả như nhau thì được đãi ngộ như nhau,

người có thành tích cao được khen thưởng thỏa đáng. Chế độ sát hạch cần được thực
hiện nghiêm túc, căn cứ vào những tiêu chuẩn cụ thể và cần thực hiện việc thi công
chức lãnh đạo theo nhiệm kỳ. Xây dựng cơ chế, chính sách tạo ra sự cạnh tranh, tổ
chức thi cạnh tranh, thải loại những nhà quản lý không đủ năng lực ra khỏi vị trí quản
lý, thay thế những nhà quản lý khác có năng lực hơn.

16


Thứ năm, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, đề bạt, nâng lương công chức dựa
trên năng lực công tác. Việc bố trí công việc, nâng lương, đề bạt cần căn cứ vào kết
quả làm việc của công chức đó.

Thứ sáu, có chế độ tiền lương thỏa đáng cho công chức, đảm bảo cho họ có
cuộc sống ổn định, không thấp hơn mức lương của khu vực tư nhân để công chức yên
tâm, có thời gian và tâm trí cho việc học, nâng cao trình độ. Việc tăng lương phải
thích ứng với “nguyên tắc vật giá”. Tăng lương phải dựa vào năng lực làm việc, chứ
không chỉ căn cứ vào thời gian công tác như hiện nay.
Thứ bảy, tạo môi trường làm việc dân chủ, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau để mọi
người động viên, khuyến khích nhau chủ động nâng cao trình độ về mọi mặt.
Các chính sách tạo động lực làm việc trên sẽ giúp cho các nhà quản lý công có
môi trường làm việc thoải mái, nâng cao hiệu quả làm việc, góp phần giảm đi các áp
lực mà họ đang gánh.

17



PHẦN KẾT LUẬN
Nhà quản lý luôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của bất kỳ tổ chức nào. Trong khu vực công, tầm quan trọng của các nhà quản lý lại
càng ở mức cao hơn vì nó tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, trong
hoạt động quản lý, các nhà quản lý trong khu vực công thường chịu nhiều áp lực hơn
các nhà quản lý trong khu vực tư.
Nhận thức được vấn đề trên, trong những năm qua, vai trò của các nhà quản lý
công ngày càng được Nhà nước quan tâm, cụ thể là một trong 05 mục tiêu quan trọng
của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 là:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình

độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Vì lẽ đó, mỗi
nhà quản lý công cần tự chủ động trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng nhằm
đáp ứng các yêu cầu của công việc, nâng cao hiệu quả công tác và tự giảm bớt áp lực
cho mình để thực hiện các nhiệm vụ mà Nhà nước và nhân dân giao cho.

18



×