Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận Chức năng hoạch định chính sách công, Liên hệ việc thực hiện trong khu vực công ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.22 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN
Môn học: LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG
Đề tài: TRÌNH BÀY CHỨC NĂNG HOẠCH ĐỊNH
CHÍNH SÁCH CÔNG LIÊN HỆ VIỆC THỰC HIỆN TRONG
KHU VỰC CÔNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

TP.HCM - năm 2017


LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,
đời sống kinh tế - xã hội thay đổi ngày một nhanh chóng. Bên cạnh đó, quá
trình hội nhập và toàn cầu hóa cũng như cuộc khủng hoảng tài chính khu vực
và thế giới đã tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống người dân. Xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội và trình độ
dân trí ngày càng cao đã đặt ra đòi hỏi ngày càng lớn đối với Nhà nước. Đồng
thời, các biến động lớn về môi trường, tài nguyên, dân số…đặt ra nhiều thách
thức đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng và ban hành các Chính sách công để
giải quyết. Các chính sách được nhà nước ban hành trong thời gian qua đã tác
động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội, giải quyết nhiều vấn đề bức thiết,
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân... Tuy nhiên, quá trình
hoạch định và thực thi chính sách vẫn còn nhiều bất cập.
Trong nền hành chính nhà nước, Chính sách công (CSC) là bộ phận nền
tảng, trọng yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu
thành khác của nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ công chức; tài chính công... Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành
của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) thì CSC là công cụ tiền đề, không thể thay thế và chi phối các công
cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó
giải thích vì sao trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt
quan tâm tới việc nâng cao vai trò của CSC như là một công cụ hữu hiệu
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói riêng và đẩy mạnh chất lượng


của sự nghiệp đổi mới nói chung.

Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng

cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động hoạch định và thực thi
CSC ở nước ta đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra những vấn đề gì cần giải
quyết?


Bài tiểu luận này sẽ tập trung giải quyết các nội dung:
1.
2.
3.

Lý luận về chức năng hoạch định chính sách.
Thực tiễn về hoạch định CSC trong khu vực công ở nước ta hiện nay.
Giải pháp nâng cao chất lượng hoạch định CSC trong khu vực công ở
nước ta hiện nay.



NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
1. Khái niệm, ý nghĩa của chức năng
Ở nước ta, chính sách đã được Hiến pháp quy định tại Điều 26 Hiến
pháp 1992, sửa đổi năm 2001: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc
dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…”. Như vậy, CSC là một trong
những công cụ cơ bản được nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ quản lý nhà nước. Tuy nhiên vẫn đang tồn tại cụm từ “chính sách của
Đảng và Nhà nước”, nhưng trên thực tế ở nước ta, Đảng lãnh đạo nhà nước và

xã hội thông qua việc đề ra các cương lĩnh, chủ trương, đường lối,… Đây
chính là những căn cứ chính để nhà nước cụ thể hóa, ban hành các CSC. Vì
vậy, CSC là do Nhà nước ban hành, là sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối
của Đảng.
CSC ở Việt Nam thường được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm
pháp luật nhằm tạo căn cứ pháp lý cho việc thi hành, song nó bao gồm những
phương án hành động không mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng, kích
thích phát triển. Đối với một chu trình chính sách chung thường được bắt đầu
từ việc hoạch định chính sách, tiếp theo là thực thi chính sách và sau một
khoảng thời gian thực hiện cần phải tiến hành đánh giá chính sách để điều
chỉnh, bổ sung chính sách…
1.1. Khái niệm
Hoạch định chính sách là quá trình nghiên cứu, xây dựng và ban hành
đầy đủ một chính sách. Giá trị pháp lý của một chính sách được thể hiện ở thể
thức, nội dung và thẩm quyền ban hành của các cơ quan quản lý nhà nước.
Hoạch định chính sách tức là viết văn kiện chính sách thể hiện những gì
mà chính sách mong muốn đạt được cũng như những điều kiện cần thiết để
đạt được các mong muốn đó. Hay nói khác, hoạch định chính sách là làm rõ
hơn việc giải quyết vấn đề chính sách.


Hoạch định CSC là toàn bộ quá trình nghiên cứu, xây dựng và ban hành
đầy đủ một CSC. Sau khi ban hành, CSC sẽ có hiệu lực thực thi với mọi tổ
chức và cá nhân trong xã hội. Giá trị pháp lý của CSC được thể hiện ở thể
thức, nội dung và thẩm quyền ban hành của cơ quan nhà nước.
Hoạch định CSC có vai trò đặc biệt quan trọng trong chu trình chính
sách. Hoạch định CSC là điểm khởi đầu trong tiến trình chính sách nhằm cho
ra đời một CSC có tác dụng tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội.
1.2. Ý nghĩa
Một CSC tốt sẽ có những ý nghĩa sau đây:

- Hoạch định chính sách mở đường cho cả tiến trình chính sách. Chu
trình chính sách là một vòng xoáy ốc theo hướng ngày càng hoàn thiện, trong
đó hoạch định chính sách được xem là bước chuyển lên bậc cao hơn trong
mỗi chu trình. Những vấn đề được đúc kết trong suốt tiến trình chính sách
được coi là nền tảng để củng cố việc xây dựng chính sách cho chu kỳ sau.
Như vậy, hoạch định chính sách luôn là điểm khởi đầu cho chu trình chính
sách.
- Hoạch định CSC khởi xướng vấn đề mà xã hội cần giải quyết bằng
chính sách. Vấn đề trong đời sống xã hội rất phong phú và đa dạng và vận
động không ngừng theo các quy luật khách quan. Mỗi loại vần đề có liên quan
đến một hay nhiều quá trình kinh tế - xã hội và được giải quyết bằng các công
cụ và cách thức khác nhau, trong đó có việc ban hành các chính sách.
- Hoạch định CSC củng cố niềm tin của dân chúng vào nhà nước. Hoạch
định CSC là khởi xướng những vấn đề chính sách, đó là những nhu cầu bức
xúc cần được giải quyết để duy trì các hoạt động xã hội theo định hướng.
Những chính sách đưa ra giải quyết được những mong mỏi của dân chúng sẽ
làm cho họ tin tưởng vào sự điều hành của nhà nước, yên tâm đi theo nhà
nước.
- Hoạch định CSC tập hợp được toàn bộ hệ thống quản lý vào các hoạt
động theo định hướng. Khi hoạch định chính sách các hoạt động cụ thể của


toàn bộ hệ thống quản lý sẽ được định hướng về cả mục tiêu và biện pháp.
Mặc dù mỗi cơ quan quản lý nhà nước đều phải thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình một cách độc lập, song nếu chính sách được ban hành thì các cơ
quan này sẽ phải phối hợp với nhau để thực hiện các mục tiêu quản lý chung
theo quy định.
- Hoạch định CSC truyền đạt cơ chế quản lý của nhà nước đến nền kinh
tế. Cơ chế quản lý của nhà nước tồn tại theo các quy luật phù hợp với từng
điều kiện không gian và thời gian. Nếu cơ chế quản lý phù hợp với cơ chế vận

hành của nền kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển sẽ thức đẩy kinh tế - xã
hội của đất nước phát triển và ngược lại (Quy luật phù hợp của kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạn tầng). Nhận thức đầy đủ về vai trò của CSC sẽ giúp
chúng ta có ý thức hơn khi nghiên cứu xây dựng các chính sách.
2. Quy trình hoạch định chính sách công
Quy trình hoạch định CSC bao gồm các giai đoạn khác nhau có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau từ giai đoạn xác định mục tiêu đến giai đoạn ban hành
chính sách.
Bước 1: Xác định mục tiêu hoạch định chính sách công
Muốn ban hành một chính sách, trước tiên phải thuyết phục được chủ thể
ban hành chính sách về sự cần thiết phải giải quyết vấn đề bằng công cụ chính
sách và qua chủ thể ban hành chính sách thuyết phục các đối tượng thực thi
chính sách về lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường của chính sách sẽ ban hành.
Toàn bộ nội dung thuyết phục đó được coi là mục tiêu hoạch định chính sách,
bao gồm việc xác định các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể. Trong thực
tế, khi nêu mục tiêu hoạch định CSC người ta thường quan tâm đến một số
vấn đề sau:
- Tính bức xúc của vấn đề chính sách đối với đời sống xã hội;
- Tính phức tạp của vấn đề chính sách;
- Tính thời cơ của ban hành chính sách;
- Khả năng giải quyết vấn đề bằng chính sách của nhà nước;


- Khả năng tồn tại của chính sách;
- Hiệu quả kinh tế - xã hội của chính sách.
Bước 2: Xây dựng dự thảo các phương án chính sách công
Xây dựng dự thảo các phương án chính sách công nhằm cho ra đời
những dự kiến chính sách để nhà nước có thể sử dụng cho quá trình quản lý
xã hội. Do hoạt động kinh tế - xã hội chịu tác động của nhiều quy luật khách
quan nên người ta có thể giải quyết vấn đề phát sinh bằng nhiều cách khác

nhau. Việc dự thảo các phương án chính sách của nhà nước là một tất yếu
khách quan, xây dựng các phương án khác nhau để có điều kiện lựa chọn
phương án giải quyết tối ưu, hoặc kết hợp các phương án giải quyết mang lại
hiệu quả.
Ở nước ta, cơ quan xây dựng dự thảo các phương án CSC thường là các
Bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Bước 3: Lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất
Lựa chọn phương án chính sách là bước tiếp theo của hoạch định CSC,
nhằm xác định được dự thảo chính sách tốt nhất trong các phương án dự thảo.
Khi lựa chọn phương án chính sách cần căn cứ vào các tiêu chuẩn của một
chính sách tốt, bao gồm:
- Chính sách phải hướng mạnh vào mục tiêu;
- Phải tạo ra động lực mạnh để kinh tế - xã hội phát triển;
- Phải phù hợp với tình hình thực tế và điều kiện để thực hiện;
- Phải có tính khả thi cao;
- Phải đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý;
- Phải đảm bảo hiệu quả kinh tế gắn với hiệu quả xã hội.
Việc xem xét, lựa chọn phương án có thể sử dụng phương pháp so sánh,
SWOT, cho điểm. Để lựa chọn phương án tối ưu, không chỉ dừng lại ở cấp hoạch
định chính sách, mà cần mở rộng đến các đối tượng thực thi chính sách để đảm
bảo tính khách quan, tạo được sự đồng thuận giữa chủ thể và khách thể quản lý.


Bước 4: Hoàn thiện phương án lựa chọn
Phương án lựa chọn mới chỉ đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của một
chính sách, còn cần phải bổ sung, hoàn thiện về nội dung theo các yêu cầu của
chủ thể và đối tượng chính sách. Để hoàn thiện phương án lựa chọn cần gửi
phương án đến các đối tượng thực thi để xin ý kiến đóng góp. Các ý kiến
đóng góp phải được Ban dự thảo nghiên cứu sử dụng để bổ sung, hoàn thiện

dự thảo. Hoàn thiện phương án lựa chọn cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo tính chính trị: chính sách đó phải phục vụ cho mục tiêu của
giai cấp cầm quyền. Một chính sách đưa ra càng ít sự chống đối càng tốt.
- Đảm bảo tính hợp pháp của chính sách: Không trái với Hiến pháp và
pháp luật của nhà nước.
- Kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội, nhận được sự ủng hộ của
các tầng lớp nhân dân, mang lại hiệu quả xã hội rõ rệt. Ví dụ, Chính sách phát
triển nông thôn mới; chính sách xóa đói, giảm nghèo...
- Phù hợp với điều kiện kinh tế, trình độ dân trí, văn hóa... Ví dụ: Xây
dựng đường tàu cao tốc Bắc – Nam; Chương trình tổng thể cải cách hành
chính 2001-2010...
- Tính tới tác động trước mắt, tác động lâu dài (xuất khẩu than; cho thuê
rừng).
- Phù hợp với xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá. Chính sách phải phù
hợp với chính sách của các nước trong khu vực và thế giới, nhất là khi Việt
Nam đã ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), ASEAN, AFTA, TPP.
Bước 5: Thẩm định phương án chính sách công
Sau bước hoàn thiện phương án lựa chọn, dự thảo phương án chính sách
mới chỉ là một dự thảo chính sách tối ưu về mặt lý thuyết, nó vẫn có khoảng
cách so với thực tế. Vì thế cần phải thẩm định dự thảo chính sách để nó thật
sự phù hợp với thực tế, đảm bảo tính khả thi khi chính sách được ban hành.
Thẩm định phương án chính sách là những hoạt động thử nghiệm các tính
năng của chính sách trong những điều kiện nhất định.


Bước 6: Quyết nghị ban hành chính sách công
Sau khi thực hiện các bước từ xác định mục tiêu chính sách đến thẩm
định phương án chính sách, chúng ta đã có đầy đủ căn cứ để kết luận tính hiệu
lực, hiệu quả và tính khả thi cỉa chính sách. Những kết luận đó cho phép
chúng ta quyết định có đưa chính sách vào thực thi trong đời sống hay không.

Quyết nghị chính sách là hình thức pháp lý hoá chính sách trước khi đưa vào
thực hiện, để chính sách thực sự có tính pháp lý, thu hút được sự tham gia của
các cơ quan quản lý nhà nước và của mọi tầng lớp nhân dân.
3. Một số vấn đề cần quan tâm khi hoạch định CSC
- Cần có chiến lược trong xây dựng chính sách, tránh tư duy theo nhiệm kỳ;
- Chính sách cần tương đối ổn định. Hiện tượng phổ biến hiện nay, nhất là ở
các cơ quan hành chính nhà nước là “Tân quan tân chính sách”;
- Tìm mọi biện pháp để có được những thông tin cần thiết liên quan đến
chính sách;
- Xem xét các nguồn lực cần thiết cho việc tổ chức thực hiện chính sách.
- Xây dựng chính sách cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan:
Quốc hội, Chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, người dân,
các nhà khoa học, chuyên gia.
II. THỰC TIỄN VỀ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG TRONG
KHU VỰC CÔNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Kết

quả đạt được
Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các

bước như sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các
phương án chính sách, lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện
phương án lựa chọn, thẩm định phương án chính sách, quyết nghị ban hành
chính sách, công bố chính sách.
Thời gian qua, việc hoạch định CSC ở nước ta đã cho ra đời nhiều chính
sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã


góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta trong hơn 30 năm
thực hiện công cuộc đổi mới.

Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định CSC đã đạt được một số kết
quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu,
cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân
sự, ngoại giao…). Một số CSC quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn,
bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập
và hoàn thiện được một hệ thống CSC khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng
được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị
trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền lương cơ
bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền
gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá
nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính
sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, … Theo đó, nhiều chính sách
đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định giá cả
thị trường và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế trong điều kiện khủng
hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những phản ứng kịp thời của nhà
nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và khu vực. Bên cạnh
đó, một số chính sách đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế, giảm
đầu tư từ ngân sách nhà nước như: phát triển nông nghiệp công nghệ cao, cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước,...
2. Hạn chế, khó khăn


Quy trình hoạch định CSC tuy đã được nghiên cứu cải tiến theo hướng
hiện đại, tiện lợi, dân chủ nhưng nhìn tổng thể vẫn theo cách "có một không
hai" - theo dẫn chứng của Giáo sư Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu kinh tế
Nhật Bản. Theo đó, có thể chỉ ra những bất cập chủ yếu như:

Thứ nhất, các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các
cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính
sách thường là do các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan đặc biệt của Chính
phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện.
Như vậy, CSC được ban hành dựa trên suy xét, phân tích tình hình thực
tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự
tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp vào xây dựng
các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi
chính sách là rất hạn chế.
Rất ít các CSC được ban hành xuất phát từ ý tưởng của những đối tượng
bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện chính sách do
những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên nhân cơ
bản làm cho một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi không đem
hiệu quả như nhà quản lý mong muốn.
Thứ hai, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo
chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND
tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất
dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản
lý mà không tính tới tổng thể chung.
Thứ ba, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình
hình quản lý, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính
sách trong lĩnh vực quản lý được giao và cũng chính là cơ quan dự thảo, do
đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính khách quan,
toàn diện.


Ví dụ: Thực hiện Nghị quyết số 89/2015/QH13 của Quốc hội khóa 13,
kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 09/6/2015 về điều chỉnh chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh nhiệm kỳ quốc hội khóa 13, năm 2015 và chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh năm 2016 và Quyết định số 1273/QĐ-TTg ngày

7/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự
án luật, pháp lệnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Cục phát triển doanh nghiệp)
được phân công chủ trì xây dựng dự án Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngày 25/12/2015 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Phiên họp thứ nhất để
công bố quyết định thành lập và ra mắt Ban soạn thảo và Tổ biên tập của Dự
án Luật và tiến hành bàn bạc, góp ý để xây dựng đề cương, bộ khung cho Dự
án Luật. Mặc dù trong danh sách Ban soạn thảo và Tổ biên tập có đầy thủ các
thành viên của các Bộ, Ngành (đặc biệt là Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà
nước, Bộ Công Thương...), nhưng trong phiên họp quan trọng này đều không
có mặt của các thành viên của các Bộ, Ngành được coi là quan trọng như đã
nêu ở trên. Như vậy, rõ ràng, tính phối hợp trong các chương trình ban hành
chính sách giữa các Bộ, Ban, Ngành là không cao.
Có thể nói rằng hiện tượng việc của Bộ nào thì Bộ ấy lo vẫn còn là điều
phổ biến. Do không có mặt trong cuộc họp nên chắc chắn sự thống nhất trong
từng vấn đề chính sách là không có, do vậy rất dễ khi chính sách đó được thực
thi thì sự chênh chính sách, chồng chéo chính sách hoặc mâu thuẫn, trái
ngược về chính sách là rất dễ xảy ra.
Thứ tư, quy trình hoạch định chính sách còn bị khép kín; việc lấy ý kiến
tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít,
nếu có thì hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính
chủ động.
Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân
dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là
vô hình chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn,
trong hoạch định chính sách việc dự báo chính sách rất quan trọng.


Thời gian qua, khi một số biến động về giá cả, tình trạng lạm phát trên
thế giới và ở nước ta, cho thấy việc dự báo chính sách còn nhiều yếu kém. Dự
báo chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong hoạch định

chính sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì việc dự
báo chính sách gặp rất nhiều khó khăn.
Trong quá trình hoạch định CSC chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất
để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính
sách. Trong khi đó, chính sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà
nước, càng không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất
phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách
biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội và có các
phương án giải quyết phù hợp với thực tế. Một chính sách đúng đắn phải từ
thực tế khách quan.
Thứ năm, năng lực của đội ngũ tham gia hoạch định chính sách còn hạn
chế. Điều này dẫn đến tình trạng bỏ sót vấn đề chính sách hoặc nhìn nhận
cách giải quyết vấn đề chưa đúng. Do tầm nhìn hạn hẹp của đội ngũ hoạch
định chính sách nên khi chính sách đưa vào thực thi mới nảy sinh nhiều bất
cập hoặc tình trạng chưa thực thi đã vấp phải phản đối của dư luận và phải
sửa (ví dụ điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội).
Thứ sáu, công tác hoạch định CSC hiện nay chưa theo kịp với tình hình
hội nhập của đất nước. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế, các CSC bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi nhất định trong
lãnh thổ của một quốc gia mà còn bị chi phối bởi các yếu tố mang tính toàn
cầu.
Ví dụ: chính sách đối với vấn đề phát triển nông nghiệp. Qua sự kiện giá
gạo trên thị trường thế giới bị đẩy lên cao, vấn đề an ninh lương thực đặt ra…
Chính sách phát triển nông nghiệp ở nước ta cần phải có sự tính toán, cân
nhắc, điều chỉnh lại. Như vậy, CSC của một quốc gia cũng đang phải chịu
nhiều sự chi phối ở mức độ và phạm vi rộng lớn hơn.


Trong việc hoạch định CSC cần phải có sự tổng kết, phân tích, đánh giá
tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các biện

pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án chính
sách phù hợp với thực tế.
Thứ bảy, việc đánh giá tác động của chính sách trước khi ban hành hiện
nay tại Việt Nam còn rất hạn chế. Việc phản biện chính sách trước khi ban
hành là việc làm rất quan trọng để có thể lường trước được những mặt tiêu
cực có thể do thực thi chính sách mang lại cho đối tượng chịu tác động trực
tiếp của chính sách đó. Hiện nay các nước trên thế giới hoạt động phản biện
chính sách là một khâu rất quan trọng nhưng tại Việt Nam thì hoạt động này
lại bị coi nhẹ.
Do tồn tại những thực trạng trên cho nên dẫn tới hệ quả là các chính sách
thực thi hiệu quả chưa cao như: kết quả phát triển kinh tế - xã hội còn thấp;
các chính sách khi đưa vào thực thi có khi không thực sự phù hợp với địa
phương đó do thiếu sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành; chính sách xóa đói giảm
nghèo còn chồng chéo nên dẫn đến hiệu quả không cao; đào tạo nguồn nhân
lực hay là các chính sách khác triển khai còn nhiều bất cập.v.v
3. Nguyên nhân của hạn chế

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc hạn chế của công tác hoạch định
chính sách công, sau đây là một số nguyên nhân cơ bản:
Một là, hạn chế trong tổ chức bộ máy hoạch định chính sách. Trình tự
ban hành chính sách được quy định cụ thể trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008, và hiện nay là Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015, trong đó quy định trình tự, thủ tục các bước tiến hành chi
tiết, cụ thể, nhưng thực tế cho thấy còn rất nhiều hạn chế trong quá trình phối
hợp giữa các cơ quan liên quan trong việc ban hành chính sách. Sự phối hợp
giữa các bộ với địa phương còn lỏng lẻo và không có một cơ chế rõ ràng


trong quá trình hoạch định dẫn đến thông tin được cung cấp không đầy đủ và
thiếu chính xác.

Bên cạnh đó, quan hệ giữa cơ quan lập pháp và hành pháp trong quá
trình thiết kế chính sách còn rời rạc, chưa chặt chẽ. Ví dụ, có đến 95% sáng
kiến pháp luật là do Chính phủ đề xuất, song theo thể chế hiện hành, hoạt
động giữa Chính phủ và Quốc hội còn có sự tách rời, chưa phối hợp chặt chẽ
với nhau.
Hai là, năng lực hoạch định chính sách của đội ngũ công chức còn yếu.
Đội ngũ hoạch định chính sách ở nước ta còn yếu và thiếu, chưa có đủ năng
lực thực tế. Rất nhiều chính sách ban hành chỉ giải quyết các triệu chứng của
vấn đề chứ chưa khắc phục được nguyên nhân, thậm chí còn làm vấn đề trở
nên trầm trọng hơn. Bên cạnh đó, nhiều chính sách không tính đến các tác
động ngược chiều. Ví dụ, bên cạnh những thành công và kết quả đáng kể thì
chính sách khai hoang, xây dựng kinh tế mới đã vô tình làm cho tình trạng tàn
phá rừng trở nên nghiêm trọng; hoặc chính sách cải cách giáo dục làm cho
việc học trở nên quá tải với học sinh và làm gia tăng tình trạng dạy thêm, học
thêm…
Ba là, thiếu sự tham gia của người dân và các nhóm lợi ích trong quá
trình hình thành chính sách. Chính sách là công cụ quản lý của Nhà nước,
được ban hành để giải quyết các vấn đề phát sinh trong xã hội. Mỗi chính
sách khi ban hành sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các nhóm người khác nhau
theo hướng làm tăng chi phí (hoặc lợi ích) của mỗi nhóm. Vì vậy, mỗi nhóm
lợi ích, đặc biệt là các nhóm đặc thù đều mong muốn có sự tác động vào quá
trình hoạch định chính sách theo hướng có lợi cho tổ chức mình. Tuy nhiên,
quá trình hoạch định chính sách hiện nay còn thiếu sự tham gia của các nhóm
lợi ích, hoặc nếu có thì sự tham gia mang nặng tính hình thức dẫn đến chính
sách khi ban hành có mục tiêu không phù hợp và thiếu tính khả thi.


Bốn là, thiếu kênh thông tin đối thoại giữa Chính phủ với các tổ chức, cá
nhân. Quá trình hoạch định CSC hiện nay chưa tạo được kênh thông tin tốt
nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là những

đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. Trong khi đó, chính sách không thể
là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nước, càng không phải là ý chí áp đặt
của cá nhân người có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ
việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh
trong đời sống kinh tế - xã hội và có các phương án giải quyết phù hợp với
thực tế. Quá trình đó đòi hỏi sự đóng góp tích cực từ phía người dân, đối
tượng chịu ảnh hưởng của chính sách.
III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠCH ĐỊNH CSC
TRONG KHU VỰC CÔNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Để các chính sách công đi vào đời sống xã hội một cách rõ ràng, nhanh
chóng và có hiệu quả nhất, chúng ta cần đổi mới quy trình hoạch định CSC
theo hướng dân chủ, huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là
của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng chính sách. Từng bước tạo lập một quy
trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội
cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính
sách, nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có tác động trực tiếp và
lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.
Thứ nhất, tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch
định chính sách. Hiện nay, việc tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính
sách hoặc đóng góp vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của
các đối tượng chịu tác động bởi chính sách còn nhiều hạn chế. Không nhiều
CSC được ban hành xuất phát từ ý tưởng của những đối tượng bị chính sách
chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện chính sách do những nhà quản
lý xây dựng nên nhiều chính sách không có tính khả thi và khó thực hiện. Do
vậy, cần phải tăng cường sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân và coi


đây là một yêu cầu bắt buộc trong quá trình hoạch định chính sách, tạo điều
kiện để mọi người dân nắm được thông tin và đóng góp vào các dự thảo chính
sách liên quan trực tiếp đến mình.

Thứ hai, tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ và các nhóm
lợi ích, đặc biệt là các doanh nghiệp. Hiện nay, việc phối hợp giữa các tổ chức
với cơ quan nhà nước còn khá rời rạc. Thông thường, khi có dự thảo chính
sách, các cơ quan nhà nước mới gửi cho các bên có liên quan (trong đó có các
tổ chức có lợi ích liên quan). Vì thế, ý kiến của các nhóm lợi ích thường ở thế
bị động. Do đó, cần tạo ra kênh đối thoại, trao đổi thường xuyên giữa các
nhóm lợi ích và Nhà nước để các ý kiến, nguyện vọng của các nhóm lợi ích
được truyền tải một cách nhanh nhất đến các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ ba, hình thành nhóm nghiên cứu và thiết kế chính sách. Cần xem
xét hình thành nhóm chuyên gia nghiên cứu độc lập chịu trách nhiệm trực tiếp
trước Thủ tướng Chính phủ, được tuyển chọn từ các chuyên viên, công chức
trẻ, có trình độ từ các bộ, ngành để tham gia, lồng ghép ý tưởng. Nhóm này có
trách nhiệm xây dựng chính sách của Chính phủ, thường xuyên có tương tác
hai chiều với Thủ tướng Chính phủ và các bộ, cơ quan thực thi chính sách.
Thứ tư, thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan xây dựng chính sách.
Việc hoạch định các chính sách hiện nay còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa
các bộ, thường chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu kế hoạch hành động
cụ thể. Mỗi bộ, ngành có nhiều kế hoạch nhưng lại không xác định được lĩnh
vực ưu tiên. Do đó, để xây dựng chính sách một cách toàn diện nhất, cần xây
dựng các quy định phối hợp và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ,
ngành. Đồng thời, xác định trách nhiệm giữa các cơ quan một cách cụ thể
hơn.
Ngoài các giải pháp trên, chúng ta có một vài giải pháp như sau: các
doanh nghiệp hoặc các nhà khoa học có thể vạch ra một chiến lược trình
Chính phủ. Lấy các nhu cầu thực sự của dân, của Doanh nghiệp để làm cơ sở
hoạch định chính sách. Chính sách không đơn thuần chỉ là một văn bản hành
chính của Nhà nước; Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thẩm định và


phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có tác

động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội…


KẾT LUẬN
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế, mỗi chính sách khi ban
hành đều có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước và của người dân. Do đó, hoàn thiện quá trình hoạch định nhằm nâng
cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách là một yêu cầu quan trọng đòi hỏi
mỗi cấp, mỗi ngành phải nỗ lực để tạo ra những chính sách tốt cho xã hội.
Hoạch định chính sách luôn giữ vai trò to lớn trong cả tiến trình chính
sách, hoạch định tốt thì mới có thể có chính sách tốt. Tuy vậy việc hoạch định
chính sách công ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Để làm tốt vai trò
của Nhà nước trong việc quản lý xã hội chúng ta cần phải đổi mới cơ chế
hoạch định CSC sao cho phù hợp với thực tiễn của đất nước và xu thế quốc tế
hóa của thế giới.



×