Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Chuẩn kiến thức kĩ năng lịch sử lớp 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 35 trang )

LỚP 7
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ THẾ GIỚI TRUNG ĐẠI
Chủ đề 1 XÃ HỘI PHONG KIẾN CHÂU ÂU (PHƯƠNG TÂY)
1. Trình bày sự hình thành xã hội PK châu Âu
Cuối thế kỉ V, người Giéc-man xâm chiếm, tiêu diệt các quốc gia cổ đại phương
Tây, thành lập nhiều vương quốc mới : Ăng-glô Xắc-xông, Phơ-răng, Tây Gốt, Đông
Gốt...
Trên lãnh thổ Rô-ma, người Giéc-man đã chiếm ruộng đất của chủ nô, đem
chia cho nhau; phong cho các tướng lĩnh, quý tộc các tước vị như: công tước, hầu
tước... Những việc làm của người Giéc-man đã tác động đến xã hội, dẫn tới sự hình
thành các tầng lớp mới:
- Lãnh chúa phong kiến: là các tướng lĩnh và quý tộc có nhiều ruộng đất và tước vị,
có quyền thế và rất giàu có.
- Nông nô: là những nô lệ được giải phóng và nông dân, không có ruộng đất, làm
thuê, phụ thuộc vào lãnh chúa.
Từ những biến đổi trên đã dẫn tới sự ra đời của xã hội PK châu Âu.
2. Em biết gì về các lãnh địa của các lãnh chúa phong kiến
Lãnh địa PK là khu đất rộng, trở thành vùng đất riêng của lãnh chúa PK - như một
vương quốc thu nhỏ.
Lãnh địa gồm có đất đai, dinh thự với tường cao, hào sâu, kho tàng, đồng cỏ, đầm
lầy... của lãnh chúa. Nông nô nhận đất canh tác của lãnh chúa và nộp tô thuế, ngoài ra
còn phải nộp nhiều thứ thuế khác. Lãnh chúa bóc lột nông nô, họ không phải lao động,
sống sung sướng, xa hoa.
Đặc trưng cơ bản của lãnh địa: là đơn vị kinh tế, chính trị độc lập mang tính tự
cung, tự cấp, đóng kín của một lãnh chúa.
3. Em biết gì về các thành thị trung đại trong xã hội PK châu Âu ?
Nguyên nhân ra đời của các thành thị trung đại là do :
- Vào thời kì PK phân quyền: các lãnh địa đều đóng kín, không có trao đổi, buôn bán,
giao thương với bên ngoài.
- Từ cuối thế kỉ XI, do sản xuất thủ công phát triển, thợ thủ công đã đem hàng hóa
ra những nơi đông người để trao đổi, buôn bán, lập xưởng sản xuất.


- Từ đấy hình thành các thị trấn rồi phát triển thành thành phố, gọi là thành thị
trung đại.
Hoạt động và vai trò của các thành thị trung đại :
Cư dân chủ yếu của thành thị là thợ thủ công và thương nhân, họ lập ra các
phường hội, thương hội để cùng nhau sản xuất và buôn bán.
Hoạt động trên của các thành thị trung đại đã có vai trò thúc đẩy sản xuất, làm cho xã
hội PK phát triển.
4. Chủ nghĩa tư bản ở châu Âu được hình thành như thế nào ?
Từ cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI, do nhu cầu phát triển sản xuất cùng những tiến
bộ về kĩ thuật hàng hải như: la bàn, hải đồ, kĩ thuật đóng tàu... đã thúc đẩy những cuộc
phát kiến lớn về địa lí như: B. Đi-a-xơ đến cực Nam châu Phi (1487) ; Va-xcô đơ Ga-
ma đến Tây Nam Ấn Độ (1498) ; C. Cô-lôm-bô tìm ra châu Mĩ (1492) ; Ph. Ma-gien-
lăng đi vòng quanh trái đất (1519 - 1522).
Các cuộc phát kiến địa lí đã thúc đẩy thương nghiệp phát triển, đem lại nguồn lợi
nhuận khổng lồ cho những quý tộc, thương nhân. Đó là quá trình tích lũy tư bản nguyên
thủy (tạo ra số vốn đầu tiên và những người lao động làm thuê). Tầng lớp này trở nên
giàu có nhờ cướp bóc của cải, tài nguyên và buôn bán, trao đổi ở các nước thuộc địa. Họ
mở rộng sản xuất, kinh doanh, lập đồn điền, bóc lột sức lao động người làm thuê, giai
cấp tư sản ra đời. Cùng đó là giai cấp vô sản được hình thành từ những người nông nô bị
tước đoạt ruộng đất, buộc phải vào làm thuê trong các xí nghiệp của tư sản.
Từ những tiền đề và điều kiện vừa nêu trên, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
được hình thành, ra đời ngay trong lòng xã hội phong kiến châu Âu.
5. Em hiểu gì về phong trào Văn hóa Phục hưng ?
Vào cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI, do sự kìm hãm, vùi dập của chế độ phong
kiến đối với các giá trị văn hóa. Sự lớn mạnh của giai cấp tư sản có thế lực về kinh tế
nhưng không có địa vị chính trị, xã hội nên đấu tranh giành địa vị chính trị, xã hội, mở
đầu bằng cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa.
Cuộc đấu tranh đó phát triển thành “phong trào Văn hóa Phục hưng” : Đó
là sự phục hưng những tinh hoa giá trị tinh thần của nền văn hóa cổ Hi Lạp và Rô-
ma, đồng thời phát triển nó ở tầm cao hơn (sáng tạo nền văn hóa mới của giai cấp

tư sản).
Phong trào diễn ra với các nội dung: lên án nghiêm khắc Giáo hội Ki-tô, đả phá trật
tự xã hội phong kiến ; đề cao những giá trị con người, đề cao khoa học tự nhiên, xây dựng
thế giới quan duy vật. Có thể kể tên những nhân vật lịch sử và danh nhân văn hóa tiêu biểu
như : nhà thiên văn học Cô-péc-ních, nhà toán học và triết học xuất sắc R. Đê-các-tơ, họa sĩ
Lê-ô-na đơ Vanh-xi, nhà soạn kịch U. Sếch-xpia...
Phong trào Văn hóa Phục hưng đã có ý nghĩa thức tỉnh và phát động quần chúng đấu
tranh chống lại xã hội phong kiến bảo thủ, lạc hậu ; đồng thời mở đường cho sự phát triển
văn hóa ở một tầm cao mới của châu Âu và nhân loại.
Chủ đề 2. XÃ HỘI PHONG KIẾN PHƯƠNG ĐÔNG
1. So sánh quá trình hình thành và phát triển của xã hội PK ở các nước
phương Đông và phương Tây để rút ra những điểm khác biệt ?
Xã hội PK phương Đông :
- Hình thành sớm, vào thời kì trước CN (như Trung Quốc), phát triển chậm, mức
độ tập quyền cao hơn so với xã hội PK phương Tây.
- Quá trình khủng hoảng, suy vong kéo dài và sau này rơi vào tình trạng lệ thuộc
hoặc trở thành thuộc địa của CNTB phương Tây.
Xã hội PK phương Tây :
- Ra đời muộn (thế kỉ V), nhưng phát triển nhanh.
- Xuất hiện CNTB trong lòng chế độ PK.
- Lúc đầu quyền lực của nhà vua bị hạn chế trong lãnh địa, mãi đến thế kỉ XV khi
các quốc gia PK thống nhất, quyền lực mới tập trung trong tay nhà vua.
2. Trình bày những nét chính về cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ PK ?
Cơ sở kinh tế chủ yếu của chế độ PK là sản xuất nông nghiệp, kết hợp với chăn
nuôi và một số nghề thủ công. Sản xuất nông nghiệp đóng kín ở các công xã nông thôn
(phương Đông) hay các lãnh địa (phương Tây).
Tư liệu sản xuất, ruộng đất nằm trong tay lãnh chúa hay địa chủ, giao cho nông
dân hay nông nô sản xuất.
Xã hội gồm hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân lĩnh canh (phương Đông),
lãnh chúa phong kiến và nông nô (phương Tây). Địa chủ, lãnh chúa bóc lột nông dân và

nông nô bằng địa tô.
Riêng ở xã hội PK phương Tây, từ thế kỉ XI, công thương nghiệp phát triển mạnh.
LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN GIỮA THẾ KỈ XIX
Chủ đề 3. BUỔI ĐẦU ĐỘC LẬP THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ (Thế kỉ X)
I. Những nét chính về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của buổi đầu độc
lập thời Ngô - Đinh - Tiền Lê ?
A. Về chính trị :
1. Nhà Ngô (939-965)
Ngô Vương 938-944 ; Dương Bình Vương 945-950 ; Hậu Ngô Vương 951-965
Đánh đuổi quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939), đóng đô ở Cổ Loa.
Ngô Vương đặt ra các chức quan văn võ, qui định triều nghi, lập bộ máy chính quyền
mang tính chất tập quyền.
Ngô Quyền chỉ ở ngôi được sáu năm. Lúc sắp mất, Ngô Quyền đem con là Ngô
Xương Ngập ủy thác cho người em vợ là Dương Tam Kha. Dương Tam Kha là con của
Dương Đình Nghệ, em của bà Dương Hậu. Nhưng khi Ngô Quyền mất rồi. Dương Tam
Kha phản bội lòng tin của Ngô Quyền, cướp lấy ngôi, tự xưng là Bình Vương (945-950).
Ngô Xương Ngập phải chạy trốn vào núi. Dương Tam Kha bèn bắt người con thứ của
Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Ngô Xương Văn, trong một dịp đi hành
quân dẹp loạn, đem quân trở ngược lại bắt được Dương Tam Kha, giáng Kha xuống bậc
công.
Ngô Xương Văn xưng vương và cho người đi rước anh về cùng làm vua. Không
bao lâu Ngô Xương Ngập bệnh chết (954). Thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu, khắp
nơi loạn lạc. Trong một chuyến đi dẹp loạn (965), Xương Văn bị trúng tên chết. Kể từ
đấy, nhà Ngô không còn là một thế lực trung tâm của đất nước nữa. Con của Xương
Văn là Ngô Xương Xí trở thành một trong 12 sứ quân.
Từ đó đất nước trải qua một thời kỳ nội chiến tranh quyền khốc liệt mà sử sách gọi là
loạn 12 sứ quân. Sau nhờ Đinh Bộ Lĩnh (924-979) đánh thắng tất cả các sứ quân, đất nước
mới thoát cảnh nội chiến.
2. Nhà Đinh (968-980) - Đại Cồ Việt
Đinh Tiên Hoàng 968-979 ; Đinh Tuệ (Đinh Toàn) 980

Sau khi dẹp tan loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế tức là Đinh
Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình).
Đồng thời với gian đoạn này, ở Trung Hoa, nhà Tống làm chủ đất nước và tiêu
diệt nước Nam Hán (970). Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang thông hiếu. Đến năm 972 nhà
vua sai Đinh Liễn đem quà sang cống. Vua Tống bèn phong cho Đinh Tiên Hoàng làm
An Nam Quận vương và Đinh Liễn làm Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ.
Đinh Tiên Hoàng đặt ra những luật lệ hình phạt nặng nề như bỏ phạm nhân vào
dầu hay cho hổ báo xé xác.
Quân đội dưới thời Đinh Tiên Hoàng đã được tổ chức chặt chẽ, phân ra làm các
đơn vị như sau:
Đạo = 10 quân; Quân = 10 lữ ; Lữ = 10 tốt; Tốt = 10 ngũ ; Ngũ = 10 người.
Năm 979, nhân lúc Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn say rượu, nằm ở sân điện, một
tên quan hầu là Đỗ Thích giết chết cả hai. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ
56 tuổi.
Sau khi Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết chết, đình thần tìm bắt được Đỗ Thích
và đem giết chết đi rồi tôn người con nhỏ là Đinh Tuệ (Đinh Toàn), mới sáu tuổi lên làm
vua. Quyền bính ở cả trong tay Thập Đạo Tướng quân Lê Hoàn. Lê Hoàn lại có quan hệ
chặt chẽ với người vợ góa của Đinh Tiên Hoàng là Dương Thái Hậu nên uy thế rất lừng
lẫy. Các công thần cũ của Đinh Bộ Lĩnh như Nguyễn Bặc, Đinh Điền đem quân vây
đánh Lê Hoàn nhưng bị Lê Hoàn tiêu diệt và giết cả.
3. Nhà Tiền Lê (980-1009)
Lê Đại Hành 980-1005 ; Lê Long Việt 1005 ; Lê Long Đĩnh 1005-1009
Nhà Tống lợi dụng sự rối ren trong triều nhà Đinh, chuẩn bị cho quân sang xâm
lược Đại Cồ Việt. Thái hậu Dương Vân Nga trao long cổn (áo bào của vua Đinh Tiên
Hoàng - tượng trưng cho uy quyền của nhà vua) cho Lê Hoàn và cùng quan lại, quân
lính tôn Lê Hoàn lên làm vua.
Lê Hoàn lên ngôi, lấy hiệu là Lê Đại Hành, lập nên nhà Tiền Lê. Để có thời gian
chuẩn bị, nhà vua phái sứ giả qua xin hòa hoãn cùng nhà Tống. Đồng thời nhà vua gấp
rút bày binh bố trận. Đầu năm 981, quân Tống theo hai đường thủy bộ, vào đánh Đại Cồ
Việt. Lê Đại Hành một mặt cho quân chặn đánh toán quân bộ ở Chi Lăng (Lạng Sơn).

Tướng Hầu Nhân Bảo, cầm đầu toán quân bộ, mắc mưu trá hàng của Lê Hoàn, bị chém
chết; quân sĩ bị diệt quá nửa, tan rã. Toán quân thủy bị chặn ở Bạch Đằng, nghe tin thất
bại, bèn tháo chạy về nước.
Dù chiến thắng, Lê Đại Hành vẫn giữ đường lối hòa hoãn, cho thả các tù binh về
nước, đồng thời cho người sang nhà Tống xin triều cống. Thấy thế không thắng được
Lê Đại Hành, vua Tống đành chấp thuận, phong cho ông làm Tiết độ sứ.
Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất thắng lợi đã biểu thị ý chí quyết
tâm chống giặc ngoại xâm của quân dân ta; chứng tỏ bước phát triển mới của đất nước
và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc của Đại Cồ Việt.
Không còn lo lắng việc chống Tống nữa, Lê Đại Hành sửa sang mọi việc trong nước.
Ông mở mang kinh đô Hoa Lư, củng cố bộ máy chính quyền trung ương, sắp xếp các đơn
vị hành chính. Để khuyến khích hoạt động nông nghiệp, Lê Đại Hành làm lễ cày ruộng
Tịch điền, mở đầu cho tục lệ này ở đất nước. Về đối ngoại, nhà vua tuy thần phục nhà Tống
và chịu lệ cống, nhưng hoàn toàn không lệ thuộc gì cả.
Lê Hoàn làm vua được 24 năm, mất năm 1005, thọ 65 tuổi.
Sau khi Lê Đại Hành mất, Thái tử Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị Long
Đĩnh sai người giết chết. Các hoàng tử đánh nhau trong 8 tháng để tranh ngôi. Cuối
cùng Lê Long Đĩnh diệt được các hoàng tử khác và lên ngôi vua cai trị đất nước.
Lê Long Đĩnh là người hoang dâm, không thiết gì việc xây dựng đất nước, chỉ
lo đến việc ăn chơi. Do bị bệnh hoạn, mỗi khi thiết triều, Lê Long Đĩnh không thể
ngồi được mà phải nằm, nên sử sách gọi ông ta là Lê Ngọa Triều. Lê Long Đĩnh lại
rất tàn ác, đặt ra nhiều hình phạt dã man để mua vui. Lê Long Đĩnh ở ngôi 4 năm
(1005-1009) thì chết. Triều đình đưa người dòng họ khác là Lý Công Uẩn lên ngôi
vua.
B. Về kinh tế:
Thời kì này, quyền sở hữu ruộng đất nói chung thuộc về làng xã, theo tập tục
chia nhau cày cấy, nộp thuế, đi lính và làm lao dịch cho nhà vua. Việc đào vét kênh
mương, khai khẩn đất hoang... được chú trọng, nên nông nghiệp ổn định và bước đầu
phát triển; nghề trồng dâu tằm cũng được khuyến khích; nhiều năm được mùa.
Đã xây dựng một số công trường thủ công: từ thời Đinh đã có những xưởng đúc

tiền, chế tạo vũ khí, may mũ áo... xây cung điện, chùa chiền. Các nghề thủ công truyền
thống cũng phát triển như dệt lụa, làm gốm.
Nhiều trung tâm buôn bán và chợ làng quê được hình thành. Nhân dân hai nước
Việt - Tống thường qua lại trao đổi hàng hóa ở vùng biên giới.
Tóm lại, thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, nước ta đã bước đầu xây dựng nền kinh tế tự
chủ trong điều kiện đất nước đã độc lập, các triều vua đã có một số biện pháp khuyến
nông như đào vét kênh, vua tổ chức lễ cày Tịch điền; về thủ công nghiệp, các thợ lành
nghề không còn bị bắt đưa sang Trung Quốc... nên kinh tế đã có sự phát triển.
C. Về văn hóa xã hội:
Xã hội chia thành 3 tầng lớp: tầng lớp thống trị gồm vua, quan văn võ (cùng một
số nhà sư); tầng lớp bị trị mà đa số là nông dân tự do, cày ruộng công làng xã; tầng lớp
cuối cùng là nô tì (số lượng không nhiều).
Nho học chưa tạo được ảnh hưởng, giáo dục chưa phát triển. Đạo Phật được
truyền bá rộng rãi, chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhà sư được nhân dân quý
trọng. Nhiều loại hình văn hóa dân gian như ca hát, nhảy múa, đua thuyền... tồn tại và
phát triển trong thời gian này.
II. Trình bày ngắn gọn công lao của các vị anh hùng dân tộc: Ngô Quyền, Đinh Bộ
Lĩnh, Lê Hoàn?
Ngô Quyền: Người tổ chức và lãnh đạo quân dân ta làm nên chiến thắng trên
sông Bạch Đằng năm 938. Đó là một chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta, kết thúc ách
thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc đối với nước ta, mở ra kỉ
nguyên độc lập, tự chủ của đất nước.
Ngô Quyền xưng vương, đặt nền móng cho một quốc gia độc lập, đã khẳng định
nước ta có giang sơn, bờ cõi riêng, do người Việt làm chủ và tự quyết định vận mệnh
của mình.
Đinh Bộ Lĩnh: Là người có công lớn trong việc dẹp “Loạn 12 sứ quân”. Vì trước
nguy cơ ngoại xâm mới (mưu đồ xâm lược nước ta của nhà Tống) đòi hỏi phải nhanh chóng
thống nhất lực lượng để đối phó. Đó cũng là nguyện vọng của nhân dân ta thời bấy giờ. Đinh
Bộ Lĩnh đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó.
Việc Đặt tên nước (là Đại Cồ Việt), chọn kinh đô và không dùng niên hiệu của

hoàng đế Trung Quốc đã khẳng định đất nước ta là “nước Việt lớn”, nhà Đinh có ý thức
xây dựng nền độc lập, tự chủ.
Lê Hoàn: Là người tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống lần
thứ nhất năm 981 giành thắng lợi, có ý nghĩa to lớn.
Thắng lợi ấy đã biểu thị ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của quân dân ta;
chứng tỏ bước phát triển mới của đất nước và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc của Đại
Cồ Việt.
Trong giai đoạn lịch sử củng cố bảo vệ nền độc lập và buổi đầu xây dựng đất nước,
Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn là những vị anh hùng dân tộc, được nhân ta kính trọng,
biết ơn, nhiều nơi lập đền thờ.
Chủ đề 4. NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI LÝ (thế kỉ XI - đầu thế kỉ XIII)
I. Nhà Lý đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước như thế nào?
1. Trình bày sơ lược bối cảnh ra đời của nhà Lý, việc dời đô ra Thăng Long và tổ
chức bộ máy nhà nước thời Lý?
Bối cảnh ra đời nhà Lý:
Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Tiên Sơn, Hà Bắc) không có cha, mẹ họ
Phạm. Thời niên thiếu của Lý Công Uẩn trải qua trong môi trường Phật giáo. Năm lên
ba, Lý Công Uẩn làm con nuôi cho nhà sư Lý Khánh Vân (vì thế ông mang họ Lý).
Sau đó ông lại là đệ tử của Sư Vạn Hạnh và ở hẳn trong chùa Lục Tổ (còn gọi là chùa
Cổ Pháp).
Lớn lên, Lý Công Uẩn được giữ một chức nhỏ trong đội cấm quân của vua Lê Đại
Hành. Ông nổi tiếng là người liêm khiết và được giới Phật giáo ủng hộ. Năm 1005, sau
khi Lê Đại Hành mất, các hoàng tử tranh ngôi, Thái tử Long Việt lên ngôi chỉ mới ba
ngày thì bị Lê Long Đĩnh giết. Lý Công Uẩn không ngại ngần, ôm xác người vua mới
mà khóc. Lê Long Đĩnh lên ngôi, phong Lý Công Uẩn làm Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy
sứ, thống lĩnh toàn thể quân túc vệ.
Lê Long Đĩnh chết vào năm 1009 sau một thời gian trị vì tàn bạo. Lúc bấy giờ
giới Phật giáo với các vị cao tăng danh tiếng như sư Vạn Hạnh đang có uy tín trong xã
hội và trong triều đình đang chán ghét nhà Lê, họ cùng quan đại thần là Đào Cam Mộc
đưa Lý Công Uẩn lên làm vua.

Lý Công Uẩn lên ngôi, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, lập nên nhà Lý. Nhà Lý truyền
được tám đời nên sử sách thường gọi là Lý Bát Đế (không kể đời Lý Chiêu Hoàng).
Lý Thái Tổ với việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La (đổi tên là thành Thăng Long):
Sau khi lên làm vua, Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp nên cho dời đô về Đại
La (1010) và đổi tên Đại La thành Thăng Long (Hà Nội). Thăng Long bấy giờ nằm vào
vị trí trung tâm của đất nước, là nơi hội tụ của đường bộ, đường sông. Theo quan niệm
của người xưa, Thăng Long có "được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn
phương Đông Tây Nam Bắc; tiện hình thế núi sông sau trước... Xem khắp nước Việt ta
chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của
đế vương muôn đời" (Chiếu dời đô).
Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý:
Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt và tiến hành xây dựng chính quyền
quân chủ bằng cách tổ chức bộ máy nhà nước gồm :
Chính quyền TW: đứng đầu là vua, dưới có quan đại thần và các quan ở hai ban
văn, võ.
Chính quyền địa phương: cả nước được chia thành 24 lộ, dưới lộ là phủ, dưới
phủ là huyện, dưới huyện là hương, xã.
Đó là chính quyền quân chủ, nhưng khoảng cách giữa chính quyền với nhân dân,
giữa vua với dân chưa phải là đã xa lắm. Nhà Lý luôn coi dân là gốc rễ sâu bền.
2. Trình bày những nét chính về luật pháp, quân đội và chính sách đối nội, đối
ngoại thời Lý:
Luật pháp:
Năm 1042, nhà Lý ban hành bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta có tên là bộ
Luật Hình thư.
Bao gồm những quy định chặt chẽ việc bảo vệ nhà vua và cung điện, xem trọng
việc bảo vệ của công và tài sản của nhân dân; nghiêm cấm việc giết mổ trâu bò, bảo vệ
sản xuất nông nghiệp. Người phạm tội bị xử phạt nghiêm khắc.
Quân đội:
Quân đội thời Lý bao gồm có quân bộ và quân thủy. Vũ khí có giáo mác, dao,
kiếm, cung, nỏ, máy bắn đá. Trong quân còn chia làm hai loại: cấm quân và quân địa

phương.
Quân đội nhà Lý được tổ chức có quy mô. Dưới đời Lý Thánh Tông, tổ chức quân
đội được chia làm bốn lộ là tả, hữu, tiền, hậu. Tất cả gồm có 100 đội, mỗi đội có lính kị
và lính bắn đá. Binh pháp nhà Lý rất nổi tiếng, nhà Tống bên Trung Hoa đã từng bắt
chước, áp dụng binh pháp này cho quân đội của mình. Đến thời Lý Thần Tông có một ít
thay đổi trong cơ chế quân đội. Quân lính được sáu tháng một lần đổi phiên nhau về làm
ruộng. Nhờ thế, nhân lực cho nền nông nghiệp vẫn được bảo đảm.
Chính sách đối nội, đối ngoại:
Về đối nội, nhà Lý coi trọng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Về đối ngoại, đặt quan hệ ngoại giao bình thường với nhà Tống và Cham-pa. Kiên
quyết bảo toàn chủ quyền, lãnh thổ.
3. Trình bày những chuyển biến về kinh tế, xã hội, văn hóa thời Lý:
Về kinh tế:
Do đất nước đã độc lập, hòa bình và ý thức dân tộc cùng những chính sách quản
lí, điều hành phù hợp của nhà Lý nên kinh tế đã có bước phát triển.
Nông nghiệp: Nhà nước có nhiều biện pháp quan tâm sản xuất nông nghiệp (lễ
cày tịch điền, khuyến khích khai hoang, đào kênh mương, đắp đê phòng lụt, cấm giết
hại trâu bò...), nhiều năm mùa màng bội thu.
Thủ công nghiệp và xây dựng: nghề dệt, làm đồ gốm, xây dựng chùa chiền, cung
điện, nhà cửa rất phát triển. Các nghề làm đồ trang sức bằng vàng, bạc; làm giấy, đúc đồng,
rèn sắt... đều được mở rộng. Nhiều công trình nổi tiếng đã được các thợ thủ công dựng nên
như chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên (Hà Nội), vạc Phổ Minh (Nam Định).
Thương nghiệp: việc mua bán trong nước và với nước ngoài được mở mang hơn
trước. Cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) là nơi giao thương buôn bán với nước ngoài rất
sầm uất.
Về xã hội:
Vua quan là bộ phận chính trong giai cấp thống trị, một số quan lại, một số ít dân
thường có nhiều ruộng cũng trở thành địa chủ.
Thành phần chủ yếu trong xã hội là nông dân gắn bó với làng, xã; họ phải làm các
nghĩa vụ với nhà nước và nộp tô cho địa chủ; một số đi khai hoang lập nghiệp ở nơi

khác. Những người làm nghề thủ công sống rải rác ở các làng, xã phải nộp thuế và làm
nghĩa vụ đối với nhà vua. Nô tì phục vụ trong cung điện, các nhà quan.
Về văn hóa, giáo dục:
Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long, năm 1076, mở Quốc tử
giám. Nhà nước rất quan tâm giáo dục, khoa cử. Văn học chữ Hán bước đầu phát triển.
Các vua Lý rất sùng đạo Phật, khắp nơi đều dựng chùa, tô tượng, đúc chuông...
Ca hát, nhảy múa, trò chơi dân gian; kiến trúc, điêu khắc... đều phát triển với phong
cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt; tiêu biểu là chùa Một Cột, tượng Phật A-
di-đà, hình rồng thời Lý,...
Việc xây dựng Văn Miếu, Quốc tử giám đánh dấu sự ra đời của nền giáo dục Đại
Việt. Những thành tựu về văn hóa - nghệ thuật đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn
hóa riêng của dân tộc - văn hóa Thăng Long.
II. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075 - 1077) dưới thời Lý đã diễn
ra như thế nào?
1. Âm mưu xâm lược Đại Việt của nhà Tống được thể hiện như thế nào?
Từ giữa thế kỉ XI, tình hình nhà Tống gặp phải những khó khăn: nội bộ mâu
thuẫn, nông dân nổi lên khởi nghĩa, vùng biên ải phía Bắc Tống bị hai nước Liêu - Hạ
quấy nhiễu... Đối với Đại Việt, nhà Tống quyết định dùng chiến tranh để giải quyết tình
trạng khủng hoảng trong nước và đưa nước ta trở lại chế độ đô hộ như trước.
Nhà Tống xúi giục Cham-pa đánh lên từ phía Nam, còn ở biên giới phía Bắc của
Đại Việt chúng ngăn cản việc buôn bán, dụ dỗ, mua chuộc các tù trưởng dân tộc làm
phản.
2. Trước âm mưu xâm lược của nhà Tống, nhà Lý đã chủ động chuẩn bị
kháng chiến ra sao?
Nhà Lý đã cử Lý Thường Kiệt làm người chỉ huy, tổ chức cuộc kháng chiến.
Quân đội được mộ thêm người và tăng cường canh phòng, luyện tập, làm thất bại âm
mưu dụ dỗ của nhà Tống. Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt đem quân đánh Cham-
pa.
Thực hiện chủ trương “tiến công trước để tự vệ”, tháng 10 - 1075, Lý Thường Kiệt
đem 10 vạn quân bất ngờ tấn công vào châu Khâm, châu Liêm (Quảng Đông), sau khi

tiêu diệt các căn cứ, kho tàng của giặc, quân ta tiếp tục tấn công châu Ung (Quảng tây).
Sau 42 ngày chiến đấu, quân ta hạ thành Ung Châu và nhanh chóng rút về nước.
Đây là một chủ trương hết sức độc đáo, táo bạo và sáng tạo, trong binh pháp gọi là
“tiên phát chế nhân” (đánh trước để khống chế kẻ thù). Tiến công để tự vệ chứ không
phải là xâm lược. Cuộc tiến công diễn ra rất nhanh chỉ nhằm vào các căn cứ quân sự,
kho tàng, quân lương mà quân Tống chuẩn bị để tiến hành cuộc xâm lược. Sau khi thực
hiện mục đích của mình, quân ta nhanh chóng rút về nước.
3. Trình bày diễn biến cuộc kháng chiến chống Tống ở giai đoạn 2 (1076 - 1077) của
quân dân Đại Việt?
Sau khi rút quân về nước, Lý Thường Kiệt cho xây dựng các tuyến phòng thủ ở
các vị trí hiểm yếu, chiến lược gần biên giới phía Bắc (nơi ta dự đoán quân giặc nhất
định sẽ phải đi qua). Đặc biệt là tuyến phòng thủ chủ yếu trên bờ Nam sông Như
Nguyệt.
Sông Như Nguyệt là đoạn sông Cầu chảy qua huyện Yên Phong (bờ Bắc là Bắc
Giang, bờ Nam là Bắc Ninh ngày nay). Đây là đoạn sông có vị trí rất quan trọng, vì nó
án ngữ mọi con đường từ phía Bắc chạy về Thăng Long. Phòng tuyến dài gần 100 km,
được đắp bằng đất, cao, vững chắc; bên ngoài còn có mấy lớp giậu tre dày đặc. Quân
chủ lực của ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy trực tiếp đóng giữ phòng tuyến quan trọng
này.
Cuối năm 1076, nhà Tống cử một đạo quân lớn theo hai đường thủy, bộ tiến hành
xâm lược Đại Việt.
Tháng 1 - 1077, 10 vạn quân bộ do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy vượt biên giới qua
Lạng Sơn tiến xuống. Quân ta chặn đánh, đến trước bờ Bắc sông Như Nguyệt quân Tống
bị quân ta chặn lại. Quân thủy của chúng cũng bị chặn đánh ở vùng ven biển nên không thể
tiến sâu vào để hỗ trợ cho cánh quân bộ.
Quân Tống nhiều lần tấn công vào phòng tuyến sông Như Nguyệt để tiến xuống
phía Nam, nhưng bị quân ta đẩy lùi. Quân Tống chán nản, tuyệt vọng, chết dần chết mòn.
Cuối năm 1077, quân ta phản công, quân Tống thua to.
Quân ta chủ động kết thúc chiến tranh bằng đề nghị “giảng hòa”, quân Tống chấp
nhận ngay và rút về nước. Cách kết thúc cuộc kháng chiến của Lý Thường Kiệt rất độc

đáo: để đảm bảo mối quan hệ bang giao hòa hiếu giữa hai nước sau chiến tranh, không
làm tổn thương danh dự của nước lớn, bảo đảm hòa bình lâu dài. Đó là truyền thống
nhân đạo của dân tộc ta.
III. Nhân vật tiêu biểu
Ngoài những ông vua lỗi lạc của nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông, nước Việt thời Lý còn có những nhân vật nổi tiếng như Lê
Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành, Lê Văn Thịnh... đặc biệt có Lý Thường Kiệt, một nhà quân
sự tài ba và Ỷ Lan Nguyên phi, một người phụ nữ đã phát huy được khả năng trong việc
cai trị đất nước.
Ỷ Lan nguyên phi
Ỷ Lan quê ở làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Hà Bắc). Năm 1062, vua Lý Thánh
Tông đã 40 tuổi mà không có con nên thường đi các nơi để cầu tự. Một hôm vua qua
làng Thổ Lỗi, trong khi mọi người đổ ra đường xem xa giá thì bà đang hái dâu, chỉ đứng
dựa cây lan mà nhìn. Vua thấy thế làm lạ, cho gọi đến để hỏi. Thấy bà xinh đẹp, đối đáp
dịu dàng lại thông minh sắc sảo, vua đưa về cung và phong làm Ỷ Lan phu nhân. Năm
1066 bà sinh Thái tử Càn Đức và được phong là Nguyên phi.
Lúc bấy giờ giữa Đại Việt và Cham-pa đang xảy ra chiến tranh biên giới. Vua Lý
Thánh Tông phải thân chinh đi đánh (1069). Vua giao cho bà quyền giám quốc. Sau
nhiều trận không thành công, Lý Thánh Tông rút quân về nước. Trên đường về kinh đô,
nghe báo là bà Ỷ Lan thay vua trị nước được yên vui, Thánh Tông nghĩ: "Người đàn bà
trị nước còn được như thế, ta đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông
hèn lắm à!” Vua đem quân trở lại và lần này chiến thắng.
Năm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức mới bảy tuổi lên nối ngôi. Bà
được phong làm Thái phi. Có tài liệu ghi rằng lúc bấy giờ Thái hậu họ Dương buông
rèm lo việc triều chính. Ỷ Lan lên làm Hoàng Thái Hậu (tức Linh Nhân Thái Hậu) giúp
vua trị nước. Trước họa nhà Tống lăm le xâm lăng Đại Việt, bà đã nghe theo lời Lý
Thường Kiệt cho gọi Lý Đạo Thành trở lại giữ chức Thái phó Bình Chương quân quốc
trọng sự để lo việc triều chính. Đây là lúc triều đình nhà Lý tổ chức thắng lợi cuộc
kháng chiến chống quân Tống. Lý Thường Kiệt đã đem quân đánh sang tận Ung Châu,
Liêm Châu, năm sau chặn đứng quân xâm lăng ở sông Như Nguyệt buộc chúng phải rút

về nước. Trong việc trị nước, Thái hậu coi trọng việc phát triển nông nghiệp, bảo vệ trâu
bò dùng làm sức kéo. Thương những phụ nữ nghèo khổ phải đem thân thế nợ, không
thể lập gia đình, bà cho xuất tiền chuộc họ và tìm người gả chồng cho. Thái hậu cũng
chú ý mở mang đạo Phật. Tương truyền bà đã cho xây dựng đến 100 ngôi chùa để mong
chuộc lại lỗi đã bức tử Dương Thái Hậu cùng các cung nữ trước kia.
Lý Thường Kiệt
Lý Thường Kiệt vốn tên là Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt, quê ở làng An Xá,
huyện Quảng Đức (Cơ Xá, Gia Lâm, Hà Nội). Từ nhỏ ông đã ham chuộng cả văn lẫn
võ, thích đọc sách và tập luyện võ nghệ. Năm 20 tuổi, ông được bổ làm một chức quan
nhỏ trong đội kị binh. Sau theo lời khuyên của vua Lý Thái Tông, ông tự hoạn để vào
làm quan trong cung. Ông được thăng dần lên đến chức Đô tri nội thị sảnh, trông coi
mọi việc trong cung vua. Đến năm 1069, ông được cử làm Đại tướng theo vua Lý
Thánh Tông tiến công Cham-pa. Lý Thường Kiệt bắt được Chế Củ trong dịp này khi
tiến quân đến tận biên giới Chân Lạp (vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay). Chiến
thắng trở về, ông được phong làm Phụ quốc Thái phó, tước Khai quốc công và được
vua Lý nhận làm con nuôi, vì thế ông đổi sang họ Lý và có tên là Lý Thường Kiệt.
Năm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức (7 tuổi, con của Ỷ Lan Nguyên
phi) lên nối ngôi, tức là Lý Nhân Tông, Thái hậu Thượng Dương cùng Thái sư Lý Đạo
Thành là phụ chính nhưng Lý Thường Kiệt giúp Ỷ Lan (đã trở thành Linh Nhân Thái
hậu) truất quyền phụ chính của Thái hậu Thượng Dương, giáng Lý Đạo Thành xuống
làm Tả gián nghị Đại phu và đổi đi trấn nhậm ở Nghệ An. Ỷ Lan lên làm Phụ chính còn
Lý Thường Kiệt làm Tể tướng.
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Tống đang gặp khó khăn về mọi mặt. Tể tướng
của nhà Tống là Vương An Thạch đưa ra Tân pháp để giải quyết những bế tắc của
Trung Quốc. Một trong những biện pháp của Tân pháp Vương An Thạch là phải tạo
nên uy danh cho nhà Tống bằng cách bành trướng xuống phía Nam, xâm lăng Đại Việt.
Do vậy nhà Tống cho tích trữ lương thảo, quân dụng tại các thành Ung Châu (Quảng
Tây), Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông) để chuẩn bị cho cuộc xâm lăng. Trước
tình thế đó Lý Thường Kiệt chủ trương như sau: "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem
quân ra đánh trước để chặn mũi nhọn của giặc". Trước hết để củng cố nội bộ, ông đề

nghị cùng Ỷ Lan mời Lý Đạo Thành về lại triều đình giữ chức Thái phó trông coi việc
triều chính. Trước họa nước, Lý Đạo Thành hợp lực cùng Lý Thường Kiệt tích cực
chuẩn bị việc đối phó.
Cuối năm 1075, Lý Thường Kiệt đem 10 vạn quân tiến sang đất Tống đánh vào
Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu. Sau 42 ngày vây hãm, quân Việt chiếm được thành
Ung Châu. Sau khi phá hủy phần lớn căn cứ hậu cần của quân Tống, tháng 4.1076, Lý
Thường Kiệt cho rút quân về. Cuối năm ấy, nhà Tống cử tướng Quách Quỳ đem 30 vạn
quân theo hai đường thủy bộ sang xâm lược Đại Việt. Lý Thường Kiệt cho lập phòng
tuyến kiên cố dọc theo sông Như Nguyệt để chặn địch. Đồng thời ông cũng cho quân đón
đánh thủy binh địch và đã ngăn được hai cánh quân thủy bộ của địch phối hợp với nhau.
Trên phòng tuyến Như Nguyệt, chiến trận diễn ra ác liệt. Để cổ vũ quân sĩ, ông làm nên bài
thơ và cho người đêm khuya vào đền thờ Trương Hát ở bờ Nam sông Như Nguyệt giả thần
nhân đọc vang lên:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)
Nhờ thế tinh thần quân sĩ thêm hăng hái. Sau hơn ba tháng đánh không thắng, lực
lượng bộ binh không thể sang sông vì thiếu thủy binh hỗ trợ, quân Tống bị chết mất quá
nửa lại thêm bệnh tật đe dọa, Quách Quỳ lâm vào thế quẫn bách. Lý Thường Kiệt chủ
động đề nghị hòa để mở lối thoát cho quân địch nhằm sớm chấm dứt chiến tranh. Đến
tháng ba năm 1077 Quách Quỳ rút quân về nước. Từ đấy quân Tống từ bỏ ý định xâm
lược Đại Việt.
Chủ đề 5
NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI TRẦN (THẾ KỈ XIII - XV) VÀ NHÀ HỒ (ĐẦU
THẾ KỈ XV)

I. Nước Đại Việt dưới thời Trần:
1. Trình bày những nguyên nhân làm cho nhà Lý sụp đổ và nhà Trần được
thành lập?
Từ cuối thế kỉ XII đầu thế kỉ XIII, nhà Lý suy yếu: vua quan ăn chơi xa hoa, bất lực,
không chăm lo đến đời sống nhân dân; kinh tế khủng hoảng, mất mùa làm nhân dân li tán,
đói khổ, bất mãn và nổi dậy khởi nghĩa. Các thế lực phong kiến ở các địa phương đánh giết
lẫn nhau càng làm cho nhà Lý thêm suy yếu.
Lý Huệ Tông không có con trai, chỉ có hai người con gái. Công chúa cả Thuận Thiên,
gả cho Trần Liễu, con trưởng của Trần Thừa. Người con gái thứ hai là Chiêu Thánh, rất
được Lý Huệ Tông yêu mến và lập làm Thái tử. Năm 1224, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho
Chiêu Thánh và vào ở trong chùa Chân Giáo.
Dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng lấy con trai thứ của Trần Thừa
là Trần Cảnh làm chồng và sau đó nhường ngôi cho Trần Cảnh, triều Lý chấm dứt, triều
Trần thay thế. Một cuộc đảo chính không đổ máu đã thành công.
Trong hoàn cảnh đó, nhà Trần thành lập, thay nhà Lý quản lí đất nước là việc làm
cần thiết để ổn định tình hình chính trị, xã hội, cải thiện đời sống cho nhân dân, xây
dựng và bảo vệ đất nước.
2. Nêu và nhận xét về những điểm mới và khác trong việc xây dựng bộ máy
chính quyền, quản lí, điều hành đất nước thời Trần so với thời Lý?
Nhà Trần xây dựng chính quyền mới dựa theo cơ cấu bộ máy nhà nước thời Lý,
được tổ chức theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền, gồm 3 cấp: triều đình, các
đơn vị hành chính trung gian từ lộ, phủ, huyện, châu và cấp hành chính cơ sở là xã.
Tuy nhiên, nhà nước quân chủ trung ương tập quyền được tổ chức hoàn chính và
chặt chẽ hơn thời Lý. Đó là:
- Ở triều đình có thêm chức danh Thái thượng hoàng (vua cha) cùng với con cai
quản đất nước (trong thời gian đầu khi con mới lên ngôi).
- Bộ máy hành chính ở triều đình và các địa phương được tổ chức quy củ và đầy đủ
hơn như: có thêm nhiều cơ quan quản lí nhà nước về các mặt như: Quốc sử viện, Thái y
viện, Hà sứ, Khuyến nông sứ, Đồn điền sứ...; cả nước được chia lại thành 12 lộ; các quý tộc
họ Trần được phong vương hầu và ban thái ấp.

Điều đó chứng tỏ nhà Trần đã quan tâm hơn đến nhiều mặt hoạt động của đất
nước và năng lực quản lí được nâng cao.
Bên cạnh đó là việc nhà Trần rất quan tâm đến pháp luật như ban hành bộ luật
mới mang tên “Quốc triều hình luật” (nội dung giống như bộ luật Hình thư thời Lý
nhưng được bổ sung thêm). Luật xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản. Đồng thời có
những biện pháp để tăng cường và hoàn thiện cơ quan pháp luật như thành lập Thẩm
hình viện, là cơ quan chuyên việc xét xử kiện cáo.
Những việc làm trên đã làm cho pháp luật nhà nước được thực hiện nghiêm minh;
góp phần tích cực, có hiệu quả vào việc củng cố vương triều nhà Trần, ổn định xã hội và
phát triển kinh tế.
3. Nêu những chủ trương và biện pháp tích cực, tiến bộ của nhà Trần trong
việc xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng?
Nhà Trần đã có những chủ trương và biện pháp tích cực, tiến bộ trong việc xây
dựng quân đội, củng cố quốc phòng:
Quân đội thời Trần, gồm có cấm quân (đạo quân bảo vệ kinh thành, triều đình và
nhà vua) và quân ở các lộ; ở làng xã có hương binh; ngoài ra còn có quân của các vương
hầu. Bố trí tướng giỏi, quân đông ở những vùng hiểm yếu, nhất là biên giới phía Bắc.
Đó là cách tổ chức rất chặt chẽ và chuyên nghiệp với tinh thần chủ động và cảnh giác
cao, tạo ra sức mạnh tổng hợp giữa quân chủ lực và quân địa phương trong luyện tập và
phòng thủ.
Quân đội được tuyển và huấn luyện theo chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh
trong dân), “quý hồ tinh bất quý hồ đa” (quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông); coi
trọng học tập binh pháp và huấn luyện võ nghệ. Việc binh lính luân phiên tại ngũ và về
làm ruộng, vừa bảo đảm việc huấn luyện đội quân thường trực lại vừa bảo đảm phát
triển kinh tế.
Với chủ trương: lấy đoản binh thắng trường trận, lấy ngắn đánh dài, xây dựng tình
đoàn kết “tướng sỹ một lòng phụ tử”, đoàn kết quân dân, khoan thư sức dân làm kế sâu
rễ, bền gốc... cùng cách tổ chức, huấn luyện nói trên, nhà Trần đã xây dựng được một
đội quân tinh nhuệ, củng cố vững chắc sức mạnh quốc phòng, phát huy được sức mạnh
tổng hợp trong phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước.

4. Trình bày những nét chính sự phát triển kinh tế, văn hóa thời Trần?
Kinh tế:
+ Nông nghiệp: công cuộc khai khẩn đất hoang, thành lập làng xã được mở rộng,
đê điều được củng cố. Các vương hầu, quý tộc chiêu tập dân nghèo đi khai hoang lập
điền trang. Nhà Trần ban thái ấp cho quý tộc, đặt chức Hà đê sứ để trông coi việc đắp
đê. Nhờ vậy nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và phát triển.
+ Thủ công nghiệp: do nhà nước trực tiếp quản lí, rất phát triển và mở rộng nhiều
ngành nghề: làm đồ gốm, dệt vải, đúc đồng, rèn sắt, chế tạo vũ khí, đóng thuyền đi
biển...
+ Thương nghiệp: chợ mọc lên ngày càng nhiều ở các làng xã. Ở kinh thành
Thăng Long, bên cạnh Hoàng thành, đã có 61 phường. Buôn bán với nước ngoài cũng
phát triển, nhất là ở cảng Vân Đồn (Quảng Ninh).
Văn hóa:
+ Tín ngưỡng cổ truyền được duy trì và có phần phát triển hơn như tục thờ cúng tổ
tiên và các anh hùng dân tộc...
+ Đạo Phật tuy vẫn phát triển nhưng không bằng thời Lý. Nho giáo ngày càng
phát triển, có địa vị cao và được trọng dụng.
+ Các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian: ca hát, nhảy múa, hát chèo, các trò
chơi... vẫn được duy trì, phát triển.
+ Nền văn học (bao gồm cả chữ Hán, chữ Nôm) phong phú, đậm đà bản sắc dân
tộc, chứa đựng sâu sắc lòng yêu nước, tự hào dân tộc phát triển rất mạnh ở thời Trần,
làm rạng rỡ cho nền văn hóa Đại Việt như: Hịch tướng sỹ của Trần Quốc Tuấn, Phú
sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu...
Giáo dục và khoa học - kĩ thuật:
+ Quốc tử giám được mở rộng, các lộ, phủ đều có trường học, các kì thi được tổ chức
ngày càng nhiều.
+ Năm 1272, tác phẩm Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu ra đời. Y học có Tuệ Tĩnh là thầy
thuốc nổi tiếng.
+ Về khoa học, Hồ Nguyên Trừng và các thợ thủ công chế tạo được súng thần công
và đóng các loại thuyền lớn.

Nghệ thuật:

×