Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm sức khỏe tai nạn con người tại công ty bảo hiểm dầu khí đông đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.86 KB, 88 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

LỜI MỞ ĐẦU
Sức khỏe là vốn quý của con người, là nền tảng quan trọng giúp con người
vững bước hơn trong cuộc sống. Tuy nhiên, mỗi người có lẽ đều ít nhiều một lần
trong đời đối mặt với các vấn đề về sức khỏe, gây ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc
sống, công việc,…Ở Việt Nam, từ năm 1992, BHYT Việt Nam đã ra đời nhằm giúp
đỡ mọi người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro về sức khỏe để ổn định đời
sống, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Trong suốt bước đường phát triển từ đó đến
nay, BHYT Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, số lượng người tham
ngày càng tăng, phạm vi và quyền lợi của người tham gia từng bước được mở
rộng,...Song không thể phủ nhận những mặt hạn chế nhất định, độ bao phủ tuy rộng
nhưng chất lượng dịch vụ còn yếu kém, dịch vụ cung ứng chưa tương xứng, chưa
đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của nhiều đối tượng khác nhau,...Cùng với
sự phát triển không ngừng của xã hội, mức sống của con người ngày càng được cải
thiện. Con người không chỉ bó hẹp mình trong những ham muốn vật chất mà còn
quan tâm nhiều hơn tới đời sống tinh thần, đặc biệt là nhu cầu chăm sóc sức khỏe.
Thấu hiểu những mong muốn đó, một loại hình bảo hiểm đã ra đời, không chỉ khắc
phục những hạn chế của chế độ BHYT mà còn bổ sung, hỗ trợ đắc lực cho sự phát
triển của BHYT. Đó chính là bảo hiểm sức khỏe tai nạn con người.
Hòa chung với xu thế phát triển của thị trường bảo hiểm nói chung và thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng, Tổng công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam
PVI cũng từng bước quan tâm đến nghiệp vụ bảo hiểm cộng đồng này. Năm 2011,
với doanh thu phí bảo hiểm gốc đạt 209 tỷ đồng, chiếm 6,69% thị phần, PVI tiếp
tục giữ vững vị trí số 3 toàn thị trường về nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe và tai nạn
con người. Là một trong những công ty bảo hiểm thành viên, Công ty bảo hiểm dầu
khí Đông Đô đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của Tổng công ty bảo
hiểm dầu khí Việt Nam, không chỉ dừng lại ở việc góp phần hoàn thành kế hoạch


kinh doanh của Tổng công ty mẹ, mà còn giúp củng cố thương hiệu PVI – nhà bảo
hiểm công nghiệp hàng đầu Việt Nam, tạo dấu ấn đẹp trong lòng khách hàng. Bảo
hiểm sức khỏe và tai nạn con người là nghiệp vụ có những đóng góp nhất định vào
tổng doanh thu phí bảo hiểm của công ty. Tuy nhiên, thực tế những năm vừa qua
cho thấy vẫn tồn tại những hạn chế như tỷ lệ bồi thường cao, nạn trục lợi bảo hiểm
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

2
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

còn diễn ra khá phổ biến,…
Xuất phát từ những lý do trên, qua quá trình thực tập tại công ty, em đã mạnh
dạn lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm sức
khỏe tai nạn con người tại công ty bảo hiểm dầu khí Đông Đô”. Mục đích nghiên
cứu của đề tài này là trình bày, phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh
của sản phẩm bảo hiểm sức khỏe tai nạn con người tại công ty bảo hiểm dầu khí
Đông Đô để thấy những mặt đạt được và chưa đạt được của công ty, từ đó đề xuất
những giải pháp, phương hướng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Kết cấu đề tài ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục và danh
mục sơ đồ bảng biểu, được chia thành 3 chương:
Chương I: Tổng quan về bảo hiểm sức khỏe tai nạn con người và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm
Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm sức khỏe
tai nạn con người tại công ty bảo hiểm dầu khí Đông Đô
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo
hiểm sức khỏe tai nạn con người tại công ty bảo hiểm dầu khí Đông Đô

Để hoàn thành đề tài này, em đã nhận đươc sự giúp đỡ tận tình của các cán
bộ chuyên môn ở công ty bảo hiểm dầu khí Đông Đô và đặc biệt là sự quan tâm chỉ
bảo tận tình của cô giáo trực tiếp hướng dẫn – tiến sĩ Nguyễn Thị Chính. Em xin tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đối với những quan tâm giúp đỡ đó. Song do những hạn chế về
thời gian, kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên bài viết này không thể tránh khỏi
những thiếu xót. Em rất mong nhận được những góp ý chân thành quý báu của cô
giáo giúp em hoàn thiện hơn cho đề tài này.

SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

3
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM SỨC KHỎE TAI NẠN CON NGƯỜI VÀ
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM

1.1. Khái quát về bảo hiểm sức khỏe tai nạn con người
BHSK và TNCN là một trong các sản phẩm của bảo hiểm phi nhân thọ, đây
là một sản phẩm chủ lực của các doanh nghiệp. Để tạo nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp bảo hiểm khai thác hiệu quả loại hình bảo hiểm này, luật kinh doanh bảo
hiểm sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/7/2011 đã sửa đổi vào điều 7, công nhận bảo
hiểm sức khỏe là một loại hình bảo hiểm bên cạnh hai loại hình truyền thống là bảo
hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ.Theo luật kinh doanh bảo hiểm thì:“bảo
hiểm sức khỏe là loại hình bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm bị
thương tật, tai nạn, ốm đau, bệnh tật hoặc chăm sóc sức khỏe được doanh

nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm”.
Bảo hiểm sức khỏe bao gồm 3 loại: bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm y tế và
bảo hiểm chăm sóc sức khỏe.
1.1.1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của bảo hiểm sức khỏe tai nạn con
người
1.1.1.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm sức khỏe tai nạn con người
Mỗi người trong chúng ta đều ít nhiều một lần trong đời đối mặt với các vấn
đề về sức khỏe. Tuy nhiên, trước những tác động của môi trường sống hiện đại,
ngày càng nhiều người lo lắng khi phải “sống chung” với những rủi ro tiềm ẩn làm
suy giảm sức khỏe. Nguồn thực phẩm không an toàn, môi trường ô nhiễm bởi các
chất độc hại … là một trong những nguy cơ đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khỏe của mọi người dân không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Theo khảo
sát, tỉ lệ mắc các bệnh lý nghiêm trọng ngày càng tăng cao trong xã hội không chỉ
ảnh hưởng đến tinh thần mà còn là gánh nặng về tài chính cho mỗi gia đình. Ngày
nay, sự tiến bộ vượt bậc của y học có thể giúp chúng ta điều trị thành công các bệnh
lý nghiêm trọng, tuy nhiên chi phí điều trị và thuốc men vẫn luôn là nỗi bận tâm của
nhiều người.
Không chỉ đơn thuần đến từ các yếu tố đã được biết trước, sức khỏe của mỗi
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

4
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

người chúng ta đều đang bị đe dọa bởi những rủi ro tiềm ẩn không lường trước. Nếu
không có mộtchuẩn bị tốt cho những tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống thì
chúng ta sẽ bị rủi ro “đánh ngã” và kéo theo đó là hàng loạt những bước trượt dài.

Điều này đặc biệt quan trọng một khi chúng ta là người trụ cột trong gia đình. Và
những lúc như vậy, bảo hiểm sức khỏe thật sự rất cần thiết. Ngoài ích lợi trong việc
giúp chúng ta giảm đi được những gánh nặng tài chính khi chẳng may mắc phải vấn
đề về sức khỏe mà nó còn là một “liều thuốc” an tâm cho chúng ta mỗi khi đến bệnh
viện. Đây cũng là một giải pháp phòng ngừa rủi ro tốt nhất. Điều đầu tiên có thể
thấy, bảo hiểm sức khỏe rất hữu ích nếu bạn phải đứng trước những hóa đơn viện
phí, thuốc men với những số tiền “chóng mặt”. Khi mua bảo hiểm sức khỏe, người
được bảo hiểm sẽ được chi trả toàn bộ chi phí nằm viện, chi phí điều trị trong ngày
và chi phí vận chuyển cấp cứu.
1.1.1.2. Tác dụng của bảo hiểm sức khỏe tai nạn con người:
Xem xét mối quan hệ giữa sự phát triển của ngành bảo hiểm trong tương
quan chung với sự phát triển của toàn nền kinh tế ở nhiều nuớc, nhiều nhà kinh tế
học đã khẳng định tác dụng to lớn, cũng như vai trò không thể thiếu của bảo hiểm
đối với nền kinh tế, đặc biệt là bảo hiểm con người. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của
một thị trường bảo hiểm con người mạnh là một trong những yếu tố cơ bản của bất
cứ nền kinh tế thành công nào.
Tác dụng của bảo hiểm con người nói chung và BHSK và TNCN nói riêng
thể hiện rõ trên nhiều phương diện. Ngoài việc góp phần ổn định đời sống nhân dân,
bảo hiểm con người còn sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được
nguồn vốn lớn để đầu tư vào các lĩnh vực khác. Cũng nhờ đó mà ngân sách nhà
nước hàng năm có nguồn đóng góp không nhỏ, mọi người có được tâm lý an tâm
trong kinh doanh, trong cuộc sống, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất được tăng
cường.
 Góp phần ổn định đời sống, là chỗ dựa tinh thần cho người được bảo
hiểm
Giải quyết những khó khăn về mặt tài chính do các rủi ro gây ra, nhằm góp
phần ổn định đời sống nhân dân là tác dụng chủ yếu của BHSK và TNCN và cũng
xuất phát chính từ nhu cầu này mà bảo hiểm con người đã ra đời. Nói đến bảo hiểm
là nói đến khả năng bồi thường khi có rủi ro tổn thất xảy ra, và vai trò của các công
SV: Phan Thị Thu Trang

Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

5
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

ty bảo hiểm là cung cấp các loại dịch vụ đặc biệt nhằm khôi phục khả năng vật chất,
tài chính như trước khi xảy ra rủi ro. Mặt dù hệ thống bảo trợ xã hội và các tổ chức
xã hội có thể trợ cấp khó khăn nhưng cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt, chưa
đảm bảo được lâu dài về mặt tài chính.Tham gia BHSK và TNCN sẽ phần nào giải
quyết được những khó khăn đó.
 Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Bên cạnh khả năng giải quyết các hậu quả của rủi ro, bảo hiểm còn góp phần
thực hiện một nội dung trong các biện pháp rủi ro. Đó là đề phòng và hạn chế mức
thấp nhất những tổn thất có thể xảy. Nhờ đó, những thiệt hại đáng tiếc về người và
tài sản được giảm thiểu và những hậu quả về kinh tế - xã hội cũng được chủ động
phòng tránh.
 Sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để
đầu tư vào lĩnh vực khác
Trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh, người ta luôn phai tính đến
những rủi ro có thể gặp phải, và luôn muốn chủ động trong tình uống xấu nhất. Việc
tự khắc phục rủi ro đòi hỏi các cá nhân, tổ chức phải bỏ ra một khoản tiền lớn lập
quỹ dự phòng. Xét trên toàn xã hội, tổng các quỹ dự phòng sẽ là một khoản tiền
không nhỏ, có nhả năng sinh lợi lớn nếu đem đầu tư.
 Thực hành tiết kiệm, chống lạm phát
BHSK và TNCN còn là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền
mặt nhàn rỗi nằm ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành tiết kiệm góp
phần chống lạm phát.

 Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống
Khi kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng được nâng
cao thì người ta càng có nhu cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai. Môi trường
kinh doanh cũng như môi trường xã hội đang dần xuất hiện những rủi ro mới. Thế
giới đang biến triển hết sức phức tạp, khó đoán như chiến tranh, khủng bố, xung
đột. Trong tình hình như vậy, BHSK và TNCN chính là một giải pháp hữu hiệu, góp
phần tích cực tạo ra tâm lý an tâm trong kinh doanh và trong cuộc sống cho con
người.
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

6
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

 Góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội
Khi tổ chức các dịch vụ BHSK và TNCN luôn cần một mạng lưới đại lý khai
thác, nhân viên sử dụng máy vi tính, thống kê, kế toán rất lớn vì đối tượng và phạm
vi rộng, thời gian dài, cho nên phát triển các dịch vụ này sẽ tạo công ăn việc làm
cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc giáo dục con cái, tạo ra một nếp sống
đẹp, tiết kiệm có kế hoạch.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm sức khỏe tai nạn con người
Nằm trong nhóm các sản phẩm BHCN PNT, BHSK TNCN cũng mang
những đặc điểm chung của BHCN PNT với một số đặc điểm cơ bản sau:
 Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở
đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và sức khoẻ con
người.
 Người được bảo hiểm thường được quy định trong một khoảng tuổi nào

đó. Các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những người có độ tuổi
quá thấp hoặc quá cao do việc quản lý rủi ro rất phức tạp.
 Thời hạn BHSK TNCN ngắn hơn và thường chỉ trong vòng một năm,
thậm chí có nghiệp vụ thời hạn bảo hiểm chỉ có trong vài ngày hoặc vài giờ đồng hồ
như bảo hiểm tai nạn hành khách. Vì vậy phí bảo hiểm thường được gộp vào đóng
một lần khi kí kết hợp đồng bảo hiểm. Ngoài ra cũng có những hợp đồng được nộp
thành hai lần trong một năm như bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm vật chất
xe….
 Các nghiệp vụ BHSK TNCN thường được triển khai kết hợp với các
nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Việc triển khai kết
hợp này sẽ làm giảm chi phí khai thác, chi phí quản lý…tạo điều kiện cho công ty
bảo hiểm giảm phí, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm.
1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm
Trong những năm qua, thị trường bảo hiểm Việt Nam nhìn chung đã có
những bước phát triển rất đáng ghi nhận. Với chính sách mở cửa, khuyến khích
cạnh tranh của Nhà nước, trên thị trường đã xuất hiện rất nhiều công ty bảo hiểm
mới, cạnh tranh gay gắt với nhau. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập
WTO, tình hình cạnh tranh dịch vụ bảo hiểm hứa hẹn sẽ ngày càng sôi động hơn.
Để có thể đứng vững và phát triển trong môi trường kinh doanh mới đòi hỏi mỗi
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

7
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

công ty bảo hiểm phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp
mình cũng như cho mỗi sản phẩm được doanh nghiệp đưa ra thị trường. Không nằm

ngoài xu hướng phát triển đó, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ cũng luôn quan
tâm đến việc nâng cao NLCT, coi đó là mục tiêu quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.2.1.Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
Theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, nội dung hoạt động của một
DNBH bao gồm :
+ Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm, gồm nhận tái bảo hiểm và
nhượng tái bảo hiểm
+ Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất
+ Giám định tổn thất
+ Đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi
hoàn
+ Quản lý quỹ và đầu tư vốn
+ Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật
Xét về hoạt động kinh doanh của DNBH, đó là hoạt động vì mục đích lợi
nhuận, lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói
chung phải tính đến những đặc điểm sau:
 Đối tượng kinh doanh đa dạng: Bảo hiểm thương mại có đối tượng bảo hiểm
là tài sản, trách nhiệm dân sự và con người. Mỗi đối tượng bảo hiểm bao
gồm rất nhiều nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp vụ là một hoạt động kinh doanh
dưới hình thức doanh nghiệp bán sản phẩm bảo hiểm ra thị trường và thu về
phí bảo hiểm. Phí đó được tính toán trên cơ sở khoa học đảm bảo thu bù chi,
làm nghĩa vụ đối với Nhà nước và có lãi cho doanh nghiệp. Với đối tượng
bảo hiểm đa dạng như vậy, quy luật số lớn trong kinh doanh bảo hiểm càng
phát huy tác dụng, do đó mục đích lợi nhuận sẽ đạt được.
 Hoạt động kinh doanh bảo hiểm có vốn pháp định lớn: Nguồn vốn của
DNBH bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm thu được, lãi đầu tư,….Trong đó,
vốn điều lệ phải đảm bảo như mức vốn pháp định do luật quy định (Công ty
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

8
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

BHNT là 600 tỷ đồng, Công ty BHPNT là 300 tỷ đồng). Vốn pháp định lớn
như vậy là do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh rủi
ro.
 Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn phải có dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm:
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải trích lập dự phòng nghiệp vụ từ phí
bảo hiểm của từng nghiệp vụ đối với phần trách nhiệm giữ lại của doanh
nghiệp. Bởi lẽ, kinh doanh bảo hiểm có sự tích lũy rủi ro, phí bảo hiểm thu
được các DNBH phải trích lập dự phòng bồi thường, dự phòng dao động lớn,
dự phòng toán học,….
 Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn gắn kết với hoạt động đầu tư: Hoạt
động đầu tư là một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
DNBH. Hoạt động đầu tư vừa góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều
kiện mở rộng quy mô doanh nghiệp, tăng quỹ phúc lợi, vừa tăng thu nhập
cho người lao động, vừa góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn
vốn đầu tư phát triển gồm có: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện,
các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng, vốn nhàn rỗi từ dự phòng
nghiệp vụ bảo hiểm.
 Các DNBH hoạt động kinh doanh phải tuân thủ quy định của Luật kinh
doanh bảo hiểm, các quy định khác của pháp luật có liên quan và các điều
ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia: Điều này nhằm đảm bảo
cho hoạt động kinh doanh của DNBH đi đúng hướng, đạt hiệu quả cao, đảm
bảo lợi ích của người tham gia, lợi ích của DNBH và lợi ích của Nhà nước.
1.2.2.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm

1.2.2.1.Khái niệm
Lý luận về cạnh tranh từ lâu đã có rất nhiều các học giả quan tâm nghiên
cứu. Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành, phát triển của sản xuất và trao
đổi hàng hoá (kinh tế hàng hoá, mà cao hơn chính là kinh tế thị trường). Nó phản
ánh mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi
mục đích lợi nhuận tối đa. Mặc dù "cạnh tranh" không phải là một khái niệm mới
nhưng để có được một định nghĩa thống nhất thì rất khó. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác
nhau, quan niệm và nhận thức về vấn đề cạnh tranh, phạm vi và các cấp độ áp dụng
nó cũng khác nhau. C.Mác khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản đã đề cập đến cạnh
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

9
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

tranh và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Theo C. Mác: "Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản để giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu
ngạch". Trong ngôn ngữ học, khái niệm cạnh tranh được hiểu là "cố gắng giành
phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi
ích như nhau". Theo Đại từ điển tiếng Việt thì cạnh tranh là sự "tranh đua giữa
những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, giành phần hơn, phần thắng về
mình". Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học " Cạnh tranh là sự đấu tranh đối lập giữa
các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên
cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được". Như vậy nếu hình
dung toàn bộ nền kinh tế như một trường đua trong thể thao, ai tham gia vào đó
cũng đều mong muốn đạt giải bằng sự cố gắng hết mình, thì cạnh tranh là động lực

cho sự phát triển của nền kinh tế - xă hội, nó làm cho mỗi thành viên trong xã hội
đều phải luôn tự hoàn thiện mình để đạt được kết quả cao nhất có thể. Từ thực tế đã
cho thấy, có rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về cạnh tranh. Tuy nhiên,
xét theo quan điểm tổng hợp thì có thể hiểu khái niệm cạnh tranh như sau: Cạnh
tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện
pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt mục tiêu kinh tế của mình,
thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện
sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong
quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi
nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Xét trên phương diện doanh nghiệp, theo định nghĩa của CIEM và UNDP thì "Năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị
phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và
ngoài nước". Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là khả
năng cạnh tranh bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản
phẩm và dịch vụ trên thị trường trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Có bốn yếu tố cơ bản tạo nên năng lực cạnh tranh của DN, biểu thị cách thức cơ bản
để giảm chi phí và tạo sự khác biệt hoá sản phẩm mà bất kỳ một DN nào ở một
ngành nào cũng có thể áp dụng, cụ thể:
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

10
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

Yếu tố thứ nhất là hiệu quả: Hiệu quả thường được đo bằng số yếu tố đầu
vào cần thiết (chi phí) để tao ra một đơn vị đầu ra (sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận).

DN càng nâng cao được hiệu quả thì chi phí đầu vào để tạo ra một đơn vị đầu ra
càng thấp và như vậy thì DN sẽ có năng lực cạnh tranh cao dựa trên chi phí.
Yếu tố thứ hai là chất lượng: Chất lượng sản phẩm là những đặc tính của sản
phẩm được thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Chất lượng
gắn với khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã định cho sản phẩm. Theo ISO 9000
"Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng
thỏa mãn những nhu cầu đã được công bố hoặc chấp nhận". Người cung cấp phải
tối ưu hoá chất lượng sản phẩm, không được để "thấp" hơn nhu cầu nhưng cũng
không nên thừa hay "cao" quá mức cần thiết để khỏi ảnh hưởng đến giá cả. Sản
phẩm có chất lượng cao giúp DN tăng uy tín, từ đó có thể tăng giá bán.
Yếu tố thứ ba là đổi mới: Đổi mới bao gồm sự hoàn thiện về sản phẩm, công
nghệ, hệ thống quản lý, cơ cấu tổ chức... của DN. Trong đó đổi mới công nghệ được
coi là nguồn chính của năng lực cạnh tranh, nó giúp DN khác biệt hóa sản phẩm so
với đối thủ cạnh tranh hoặc giảm chi phí sản xuất. Các DN vì thế thường sản xuất theo
seri sản phẩm, không duy trì lâu hoặc với khối lượng lớn một sản phẩm nào đó.
Yếu tố thứ tư là nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng: Để đáp ứng nhu cầu
khách hàng, DN cần cung cấp các mặt hàng mà họ cần và đúng thời điểm họ muốn.
Việc nâng cao hiệu quả, chất lượng và đổi mới suy cho cùng là nhằm mục
tiêu đáp ứng các nhu cầu rất đa dạng của khách hàng.
Giữa ba cấp độ năng lực cạnh tranh nói trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
tạo điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có
năng lực cạnh tranh quốc gia cao thì đòi hỏi phải có nhiều DN có năng lực cạnh
tranh. Và ngược lại các DN chỉ có thể cạnh tranh tốt trong nền kinh tế quốc gia

SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


11
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

thuận lợi, chính sách kinh tế vĩ mô rõ ràng, môi trường đầu tư ổn định và kết cấu hạ
tầng đảm bảo...
Mặt khác tính năng động nhạy bén trong quản lý DN cũng là một yếu tố
quan trọng, bởi vì trong cùng một môi trường kinh doanh có DN thành công nhưng
cũng có DN bị thất bại.
Bên cạnh đó DN chỉ có sức cạnh tranh cao khi sản phẩm của mình có năng
lực cạnh tranh cao so với đối thủ cạnh tranh và được xã hội chấp nhận. Năng lực
cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ngoài chất lượng nội tại còn phụ thuộc nhiều vào
danh tiếng và uy tín của DN.
Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ là cơ sở, điều
kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của DN và của nền kinh tế đất nước. Hiện nay
nước ta đang tiến sâu vào quá trình hội nhập thì yêu cầu nâng cao năng lực cạnh
tranh trên cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ ngày càng trở
nên bức bách. Trong đó tính chủ động tịch cực, sáng tạo của các doanh nghiệp giữ
vai trò quyết định.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm
Để đánh giá NLCT của một sản phẩm bảo hiểm trên thị trường, trước tiên
cần phải xem xét các chỉ tiêu đánh giá NLCT của DNBH về sản phẩm đó. Với các
DNBH nói chung và mỗi DNBHPNT nói riêng, NLCT của doanh nghiệp về một
sản phẩm được đánh giá dựa trên các chỉ tiêu dưới đây:
a.Quy mô và năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Năng lực tài chính không chỉ là yếu tố quyết định tới NLCT của DNBH mà
còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm. Vì khi xem xét
tiềm lực tài chính của nhà bảo hiểm, với một khả năng tài chính mạnh nhà bảo hiểm
sẽ giúp khách hàng có cơ sở để tin tưởng và tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp,
đẩy mạnh doanh thu cho sản phẩm, từ đó góp phần nâng cao NLCT cho sản phẩm.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được phản ánh qua: quy mô vốn, quy mô tài

sản, quy mô các quỹ DPNV,….
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

12
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu gồm vốn điều lệ được góp khi thành lập doanh
nghiệp, các quỹ và các khoản lãi tích lũy. Vốn điều lệ là vốn ghi trong điều lệ doanh
nghiệp được góp khi thành lập doanh nghiệp. Đối với những ngành quy định vốn
pháp định khi thành lập, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải luôn duy trì
mức vốn điều lệ đã góp không được thấp hơn mức vốn pháp định. Đặc biệt với hoạt
động kinh doanh bảo hiểm có chu trình kinh doanh đảo ngược thì việc đảm bảo
nguồn vốn chủ sở hữu là vô cùng quan trọng để thực hiện các cam kết với khách
hàng. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam hiện nay quy định mức vốn pháp định
cho doanh nghiệp bảo hiểm là ……
Nhưng để có khả năng tài chính mạnh, từ đó mở rộng hoạt động kinh doanh,
các DNBH thường có vốn lớn hơn nhiều so với vốn pháp định và luôn tìm mọi biện
pháp để tăng số vốn điều lệ của mình.
Tài sản
Nguồn tài sản chính là sự thể hiện ra bên ngoài tiềm lực tài chính của mỗi
DNBH. Khi khách hàng muốn đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp sau khi
xem xét số vốn điều lệ thì họ sẽ nhìn vào nguồn tài sản mà doanh nghiệp đang nắm
giữ.
Do đặc thù của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh dịch vụ nên tài
sản của doanh nghiệp không chỉ là nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương

tiện vận tải,…mà còn chủ yếu tồn tại dưới các hình thức như: các quỹ đầu tư ngắn
hạn, bất động sản hay tiền gửi ngân hàng…Trong đó các tài sản dưới dạng các
khoản đầu tư thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản và có vai trò vô cùng
quan trọng đối với các công ty vì tài sản của DNBH chủ yếu hình thành từ nguồn
vốn vay là phí thu được của khách hàng. Sau khi thu được phí bảo hiểm, doanh
nghiệp sẽ sử dụng các nguồn vốn này đem đầu tư. Đầu tư chính là cách hữu hiệu để
phát triển quỹ tài chính và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nguồn tài sản của
doanh nghiệp càng nhiều chứng tỏdoanh nghiệp có nền tảng tài chính tốt nên tăng
sức cạnh tranh doanh nghiệp cũng như các sản phẩm bảo hiểm.
Dự phòng nghiệp vụ
DPNV là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm, được trích lập
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

13
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

và hạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích thanh toán các trách nhiệm đã
được xác định trước và phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, Thực chất
đây là nguồn vốn vay của nhà bảo hiểm vì sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm,
DNBH đã có trong tay một khoản lớn phí nhưng nếu trong thời hạn bảo hiểm có sự
kiện bảo hiểm xảy ra, DNBH phải tiến hành bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm.
Nhưng nhiều khi số tiền phải chi trả lớn hơn nhiều lần so với phí bảo hiểm thu được
và rủi ro xảy ra trên quy mô lớn, do vậy để đảm bảo nghĩa vụ của mình đối với
khách hàng doanh nghiệp buộc phải thiết lập các khoản DPNV.
Đối với DNBHPNT, các quỹ dự phòng bao gồm 3 loại quỹ quan trọng nhất
là dự phòng phí, dự phòng bồi thường và dự phòng dao động lớn.

Việc trích lập các quỹ dự phòng không chỉ là yêu cầu có tính chất kỹ thuật
mà còn bắt buộc, có tính pháp lý cao đối với DNBH.
Nếu các khoản dự phòng phí được thực hiện một cách chính xác, hợp lý thì
doanh nghiệp có khả năng đảm bảo được quyền lợi đối với khách hàng, góp phần
nâng cao uy tín của doanh nghiệp, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và gia tăng sức cạnh
tranh của sản phẩm đó trên thị trường.
Việc trích lập các khoản dự phòng đầy đủ hàng năm là vô cùng cần thiết đối
với mỗi DNBHPNT và quy mô của các quỹ được trích cũng khá lớn. Để đảm bảo
khả năng sinh lợi của nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời này, các nhà bảo hiểm thường sử
dụng phần lớn các nguồn quỹ này đem đi đầu tư ở nhiều lĩnh vực và hình thức đầu
tư như đầu tư bất động sản, mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, mua cổ
phiếu, cho vay thế chấp….Tuy nhiên do đây là nguồn vốn vay nên các khoản đầu tư
này phải được đảm bảo tính thanh khoản, có thể nhanh chóng chuyển sang tiền mặt
để chi trả và bồi thường cho khách hàng khi có sự kiện bảo hiểm bất ngờ xảy ra.
Nếu doanh nghiệp đảm bảo trích đúng và đầy đủ các khoản dự phòng, sẽ tạo
niềm tin nơi khách hàng và từ đó sẽ hăng hái tham gia bảo hiểm tại công ty, gia tăng
doanh thu cho sản phẩm, từ đó gia tăng NLCT.
b. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bảo hiểm
Sự thành công của một doanh nghiệp cần có sự góp mặt của rất nhiều nguồn
lực khác nhau trong đó nguồn nhân lực luôn được coi là nhân tố cơ bản nhất, trực
tiếp nhất quyết định đến chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

14
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính


với các DNBH cũng không ngoại lệ, hơn nữa là một ngành kinh doanh dịch vụ vô
hình nên nguồn nhân lực càng đóng vai trò quan trọng, là tài sản quý giá góp phần
nâng cao NLCT của doanh nghiệp nói chung và của từng nghiệp vụ nói riêng. Khi
một DNBH có đội ngũ nhân lực chất lượng cao cả về chuyên môn nghiệp vụ và đạo
đức nghề nghiệp thì sẽ mang lại sự thỏa mãn cho khách hàng, tạo uy tín cho doanh
nghiệp. Đặc biệt là sản phẩm BHSK TNCN liên quan tới vấn đề chăm sóc sức khỏe
của người được bảo hiểm nên rất cần sự hướng dẫn và tư vấn của các nhân viên bảo
hiểm để chọn sản phẩm phù hợp. Vậy, một đội ngũ nhân lực tốt có thể để lại ấn
tượng trong lòng khách hàng, làm việc mang lại hiệu quả cao từ đó duy trì khách
hàng cũ và có thêm nhiều khách hàng mới giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh cả
với những đối thủ nặng ký trên thị trường.
Do sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được mong đợi và khá trừu tượng,
khách hàng đa dạng và hiểu biết về bảo hiểm còn nhiều hạn chế nên hoạt động kinh
doanh bảo hiểm còn gặp không ít khó khăn đặc biệt là khâu khai thác, chào bán sản
phẩm. Để có thể đạt được kết quả và hiệu quả cao trong kinh doanh, đòi hỏi mỗi
DNBH cần có một đội ngũ nhân lực vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao lại
có đạo đức nghề nghiệp tốt, vì trong bảo hiểm dễ xảy ra trục lợi khi có sự phối hợp
giữa cán bộ của DNBH và khách hàng.
Việc đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của một DNBH được thực hiện
thông qua đánh giá các chỉ tiêu sau:
+ Số lượng và trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty nói chung
và cán bộ nhân viên phụ trách về nghiệp vụ BHSK TNCN nói riêng.
+ Năng suất lao động bình quân trong doanh nghiệp:

=
Trong đó:
là năng suất lao động bình quân trong kỳ1 lao động
D là doanh thu của DNBH trong kỳ

SV: Phan Thị Thu Trang

Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

15
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

là số lượng lao động bình quân trong kỳ của DNBH
+ Thu nhập bình quân và các chính sách đãi ngộ đối với các nhân viên
Đánh giá năng lực quản lý của doanh nghiệp thông qua các tiêu chí:
+ Cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp: Một mô hình tổ chức gọn nhẹ
vừa mang tính chuyên biệt nhưng lại hoạt động hiệu quả và linh hoạt sẽ góp phần
nâng cao năng lực quản lý điều hành cũng như đáp ứng được các yêu cầu trong quá
trình hoạt động kinh doanh.
+ Trình độ chuyên môn và trình độ quản lý của ban điều hành công ty sẽ
giúp đưa ra được các chiến lược, các quyết định kinh doanh đúng đắn trong từng
giai đoạn phát triển.
+ Tính linh hoạt và thích nghi của DNBH: Do thị trường bảo hiểm thường
xuyên biến động và các đối thủ cạnh tranh của DNBH cũng không ngừng thay đổi
chiến lược kinh doanh của mình nên để có thể chiến thắng và tồn tại trong cạnh
tranh thì buộc các DNBH phải tự làm mới mình. Để đánh giá tính đổi mới của
DNBH hay của sản phẩm người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
- Sự đổi mới về tư duy và chiến lược kinh doanh theo những biến động của
thị trường
- Sự đổi mới về sản phẩm như: cải tiến về chất lượng, thay đổi về giá cả, giá
trị gia tăng của các sản phẩm được triển khai, thiết kế sản phẩm mới,….
+ Ứng dụng CNTT trong việc quản lý điều hành DNBH nói chung và quản
lý về nghiệp vụ BHSK TNCN nói riêng: Ngày nay, CNTT giữ một vai trò không hề
nhỏ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Và trong hoạt động kinh doanh bảo

hiểm, việc ứng dụng CNTT đã và đang trở thành một yếu tố tác động trực tiếp tới
NLCT của DNBH và sản phẩm. Với sự hỗ trợ của các phần mềm quản lý, đánh giá
rủi ro, kế toán phục vụ thu chi,…đã giúp cho các DNBH có thể thu thập và xử lý
thông tin dữ liệu nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian, giúp
cho việc giao dịch với khách hàng diễn ra thuận tiện nên DNBH sẽ có nhiều lợi thế
trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh.
c. Thị phần và thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm
Thị phần của DNBH:
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

16
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

Hầu hết các DNBH khi gia nhập thị trường thường đặt mục tiêu cao nhất cho
mình là chiếm được phần càng lớn càng tốt trong miếng bánh thị trường hay còn gọi
là thị phần mà doanh nghiệp chiếm giữ.
Thị phần của DNBH là tỷ lệ % thị trường của DNBH nắm giữ so với các đối
thủ cạnh tranh. Thị phần gồm có thị phần tuyệt đối và thị phần tương đối.
Thị phần tuyệt đối là tỷ lệ % kết quả tiêu thụ sản phẩm của DNBH này so với
kết quả tiêu thụ sản phẩm cùng loại của các DNBH khác trên thị trường.
Thị phần tương đối của DNBH được tính theo tỷ lệ thị phần của DNBH
Thị phần của DNBH

=

Thị phần của SPBH


=

Doanh thu phí của DNBH
Doanh thu phí của toàn thị trường
Doanh thu phí về sản phẩm của doanh nghiệp
Doanh thu phí về sản phẩm của toàn thị trường

Việc xác định thị phần của DNBH (SPBH) chính là xác định chỗ đứng của
DNBH trên thị trường. Do vậy, thi phần luôn được coi là chỉ tiêu hàng đầu khi đánh
giá NLCT của doanh nghiệp hoặc của sản phẩm.Thị phần của doanh nghiệp càng
lớn chứng tỏ vị thế của doanh nghiệp trên thị trường càng cao, sự tín nhiệm của
khách hàng đối với doanh nghiệp càng lớn, họ càng có điều kiện mở rộng và phát
triểnnên NLCT của các SPBH mà doanh nghiệp đó đang triển khai sẽ có NLCT
càng cao vì khách hàng đã biết nhiều đến uy tín của doanh nghiệp.
Ngược lại, NLCT đó càng mạnh mẽ thì có nhiều khách hàng sẽ chọn SPBH
của doanh nghiệp, càng góp phần giúp doanh nghiệp gia tăng thị phần.
Thương hiệu của DNBH về sản phẩm BHSK TNCN:
Theo tâm lý chung của đại đa số khách hàng, họ thường có xu hướng tiêu
dùng những sản phẩm thông qua việc biết tới thương hiệu của doanh nghiệp sản
xuất chúng vì chỉ khi có một thương hiệu mạnh mới mang tới cho khách hàng sự an
tâm về chất lượng và giá cả của sản phẩm, dịch vụ mà họ chọn mua. Một thương
hiệu được nhiều người biết tới sẽ có tác dụng lớn thu hút khách hàng tới tiêu dùng
sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường nhưng ngược lại chính
niềm tin và sự tín nhiệm của khách hàng cũng góp phần không nhỏ tạo dựng thương
hiệu, uy tín của doanh nghiệp. Thương hiệu không chỉ tạo sự phát triển bền vững
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

17
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

cho doanh nghiệp mà nó còn là một rào cản vô hình vô cùng lợi hại hạn chế sự gia
nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh trong tương lai. Chính vì vậy, có thể
khẳng định rằng việc xây dựng thương hiệu có thể coi là vấn đề mang tính sống còn
đối với mỗi doanh nghiệp mà đặc biệt là những doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm
là lời hứa như DNBH trên thương trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Kinh nghiệm của rất nhiều công ty hàng đầu trên thế giới đã chứng minh,
thương hiệu là một tiêu chí hàng đầu về đánh giá NLCT của DNBH và NLCT về
sản phẩm của doanh nghiệp đó. Việc đánh giá thương hiệu chính là việc đánh giá
hình ảnh của doanh nghiệp được định vị như thế nào trong con mắt người tiêu dùng.
Khách hàng biết đến công ty như thế nào qua việc biết tới sản phẩm, tên tuổi, logo,
slogan,…của doanh nghiệp.
Thương hiệu là khối tài sản vô hình vô cùng to lớn đối với mỗi DNBH,
nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng sâu sắc hiện nay, các nhà bảo
hiểm phải làm gì để giữ gìn và phát triển thương hiệu của mình? Đó thực sự là một
bài toán hóc búa vì mỗi thương hiệu của mỗi doanh nghiệp không thể được hình
thành và phát triển một sớm một chiều mà nó là kết quả của một quá trình phấn đấu
lâu dài và kiên trì theo phương châm, chiến lược kinh doanh của bản thân mỗi
doanh nghiệp. Một thương hiệu nếu chỉ được tạo lập thông qua việc quảng cáo,
khuếch trương tên tuổi của doanh nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng thì không thể là một thương hiệu bền vững. Thương hiệu chỉ thực sự bền
vững trên thương trường khi nó được xây dựng nên từ con đườngchất lượng. Chất
lượng của bộ máy lãnh đạo, của từng cá nhân trong doanh nghiệp, chất lượng của
các sản phẩm mà doanh nghiệp đó mang tới cho khách hàng và những đóng góp của
doanh nghiệp vào sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Như vậy, nếu DNBH đã hoặc đang cố gắng xây dựng cho mình một thương

hiệu tốt thì chắc chắn các sản phẩm của họ cũng sẽ có NLCT rất cao.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm, một loại hình bảo hiểm và
cả DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là: Doanh thu và lợi nhuận.
Doanh thu của DNBH phản ánh tổng hợp kết quả kinh doanh trong một thời
kỳ nhất định (thường là 1 năm). Nó là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác có liên quan
phục vụ phân tích hoạt động kinh doanh trong DNBH. Chỉ tiêu này bao gồm các bộ
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

18
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

phận cấu thành: doanh thu về hoạt động kinh doanh BH và tái bảo hiểm; thu nhập từ
đầu tư và các khoản thu khác.
Chi phí của DNBH là toàn bộ số tiền DNBH chi ra trong kỳ phục vụ quá
trình hoạt động kinh doanh trong vòng 1 năm.
Dựa vào kết quả thu chi sẽ tính được lợi nhuận mà DNBH thu được trong 1
năm. Có 2 chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận trước thuế = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp
Các chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận cũng có thể tính riêng cho từng
nghiệp vụ bảo hiểm. Khi đó, cần đảm bảo nguyên tắc: những khoản thu, chi nào có
liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ phải được tính trực tiếp cho nghiệp vụ đó (như:
phí bảo hiểm, chi bồi thường, STBH chi trả,…), những khoản thu gián tiếp (chi
quản lý doanh nghiệp, thu nhập đầu tư,…) phải được phân bổ theo tỷ lệ giữa doanh

thu phí bảo hiểm nghiệp vụ so với tổng doanh thu phí bảo hiểm nói chung.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Hiệu quả kinh doanh của DNBH là thước đo sự phát triển của bản thân
doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả
kinh doanh nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Hiệu quả kinh doanh của DNBH luôn gắn với những mục tiêu kinh tế - xã
hội. Trước hết là những mục tiêu của DNBH, sau đó là của ngành bảo hiểm và toàn
bộ nền kinh tế - xã hội. Bởi vì bảo hiểm không chỉ mang tính kinh tế, mà còn mang
tính xã hội. Cho nên khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của một DNBH không chỉ
xét trên góc độ kinh tế mà còn phải xét trên góc độ phục vụ xã hội.
+ Đứng trên góc độ kinh tế: Hiệu quả kinh doanh của DNBH được đo bằng
tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí chi ra trong kỳ:
Hd = D/C (1)
Hc = L/C (2)
Trong đó:
Hd, Hc: Hiệu quả kinh doanh của DNBH tính theo doanh thu và lợi nhuận
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

19
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

D: Doanh thu trong kỳ
C: Tổng chi phí chi ra trong kỳ
L: Lợi nhuận thu được trong kỳ
Chỉ tiêu (1) nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu, chỉ tiêu (2) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao

nhiêu đồng lợi nhuận cho DNBH. Các chỉ tiêu trên càng lớn càng tốt, vì với chi phí
nhất định, DNBH sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng.
+ Đứng trên góc độ xã hội:
Hiệu quả kinh doanh của DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu sau:
Hx = Ktg/Cbh (3)
Hx = Kbt/Cbh (4)
Trong đó:
Hx: hiệu quả xã hội của DNBH
Cbh: Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh BH trong kỳ
Ktg: Số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ
Kbt: Số khách hàng được bồi thường trong kỳ
Chỉ tiêu (3) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ thu hút được bao
nhiêu khách hàng tham gia bảo hiểm, chỉ tiêu (4) nói lên cùng với đồng chi phí đó
đã góp phần giải quyết và khắc phục hậu quả cho bao nhiêu khách hàng gặp rủi ro
trong kỳ nghiên cứu.
Một số chỉ tiêu cụ thể:
+ Tỷ suất lợi nhuận:
Lợi nhuận ròng

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng doanh thu

=

Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản

=

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu

= Lợi nhuận ròng


Tổng doanh thu
Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản

* 100%

* 100%
* 100%

SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

20
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Vốn chủ sở hữu

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là một tỷ số tài chính dùng để theo dõi tình hình
sinh lợi của doanh nghiệp. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng dành cho cổ

đông và doanh thu của công ty. Tỷ số này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu
phần trăm trong doanh thu. Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh
doanh có lãi; tỷ số càng lớn nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là
công ty kinh doanh thua lỗ.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu – ROE là tỷ số tài chính để đo khả năng
sinh lợi trên mỗi đồng vốn cổ phần ở một công ty cổ phần. Tỷ số này cho biết cứ
100 đồng vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần này tạo ra bao nhiều đồng lợi


nhuận. Nếu tỷ số này mang giá trị dương, là công ty làm ăn có lãi; nếu mang giá
trị âm là công ty làm ăn thua lỗ.
Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản – ROA là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả
năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp. Nếu tỷ số này lớn hơn 0,
thì có nghĩa doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng cao cho thấy doanh nghiệp làm
ăn càng hiệu quả. Còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0, thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Mức
lãi hay lỗ được đo bằng phần trăm của giá trị bình quân tổng tài sản của doanh
nghiệp. Tỷ số cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của
doanh nghiệp.
+ Cổ tức cho các cổ đông: Sau khi công ty thu được lợi nhuận sau thuế, một
phần lợi nhuận này sẽ được giữ lại để thực hiện tái đầu tư, phần còn lại được chia
cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức. Cổ tức các cổ đông nhận được càng lớn
chứng tỏ hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Các chỉ tiêu về chi phí: Trong kinh doanh bảo hiểm, vấn đề chi phí có vai
trò khá quan trọng vì tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh sẽ giúp các nhà bảo
hiểm có điều kiện để giảm phí, tăng chất lượng dịch vụ khách hàng từ đó tạo điều
kiện nâng cao NLCT cho sản phẩm.
Tỷ lệ bồi
thường

=

Tổng số tiền chi trả trong kỳ về nghiệp vụ

* 100%

Tổng phí bảo hiểm thu được trong kỳ về

SV: Phan Thị Thu Trang

Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

21
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
nghiệp vụ

Đây là chỉ tiêu rất quan trọng khi đánh giá tình hình hoạt động của DNBH về
bất kỳ nghiệp vụ nào. Nó phản ánh số phí bảo hiểm mà doanh nghiệp sử dụng để
chi trả. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ chi phí mà doanh nghiệp phải chi cho sản
phẩm càng lớn, gây ảnh hưởng đến NLCT của sản phẩm và ngược lại.

Tỷ lệ chi quản lý =

Chi quản lý về nghiệp vụ
Tổng phí bảo hiểm của nghiệp vụ

* 100%

Tỷ lệ này cho biết để khai thác được một đồng phí bảo hiểm, doanh nghiệp
phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí cho quản lý nghiệp vụ.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo
hiểm
NLCT của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. NLCT của sản
phẩm phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm,
uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán,….
Với mỗi sản phẩm bảo hiểm nói chung và các sản phẩm BHSK và TNCN nói
riêng,mỗi DNBH khi triển khai sản phẩm của mình trên thị trường đều phải cân

nhắc về NLCT của sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Về cơ bản, các DNBH
thường quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến NLCT của sản phẩm như sau:
1.2.3.1. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm bảo hiểm nói chung và BHSK và TNCN nói riêng
được đánh giá thông qua mức độ thỏa mãn yêu cầu của khách hàng cùng với các
dịch vụ sau bán hàng như giám định, bồi thường,…
Mỗi sản phẩm bảo hiểm đều được biểu hiện trên hợp đồng bảo hiểm (trong
quy tắc, điều khoản, biểu phí). Nội dung cơ bản của một hợp đồng bảo hiểm thường
bao gồm:






Đối tượng bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ
Thời hạn bảo hiểm
Mức phí bảo hiểm và phương thức nộp phí

SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

22
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính


 Các quy định về việc giải quyết bồi thường và xử lý tranh chấp nếu có
Có thể thấy chính những yếu tố này kết hợp với nhau tạo nên chất lượng của
mỗi sản phẩm bảo hiểm. Bên cạnh đó, còn phải kể đến chất lượng của khâu giám
định tổn thất và giải quyết bồi thường, chi trả. Thực hiện tốt khâu này một cách chủ
động, nhanh chóng, chính xác, hợp lý chính là sự biểu hiện cụ thể trách nhiệm và
nghĩa vụ của DNBH đối với khách hàng của mình.
1.2.3.2. Giá cả sản phẩm
Cạnh tranh bằng giá phải được đảm bảo về mặt luật pháp thông qua các quy
định về quản lý phí bảo hiểm. Sau đó phí bảo hiểm phải đảm bảo yêu cầu về mặt tài
chính của doanh nghiệp, bao gồm khả năng chi trả bồi thường, các chi phí hoạt
động và đảm bảo có lãi.
Với mục tiêu theo hướng cạnh tranh, doanh nghiệp thực hiện việc định giá
sản phẩm dựa trên giá cả sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh thực tế hoặc đối thủ
cạnh tranh tiềm năng. Cụ thể, DNBH sẽ phải xem xét các yếu tố:
 Số lượng đối thủ cạnh tranh và số sản phẩm cạnh tranh
 Yếu tố chi phí gắn với sản phẩm của từng đối thủ cạnh tranh
 Nguồn lực tài chính của từng đối thủ nói chung cũng như nguồn lực từng
đối thủ cạnh tranh dành riêng cho sản phẩm
 Vai trò của sản phẩm trong danh mục sản phẩm của đối thủ cạnh tranh
 Hành vi định giá trước đây của từng đối thủ
 Phản ứng dự kiến của từng đối thủ cạnh tranh trước sự thay đổi của giá cả
 Điểm mạnh, điểm yếu của từng đối thủ cạnh tranh
Tiếp cận với những thông tin này sẽ giúp DNBH đưa ra những mức giá phù
hợp cho sản phẩm của mình trong mối quan hệ với giá của các sản phẩm của các
đối thủ cạnh tranh.
Hiện nay, cạnh tranh bằng phí được DNBH PNT thực hiện thông qua hoạt
động hạ phí mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Thông thường các DNBH tìm
cách hạ phí thông qua giảm chi phí hành chính, chi phí quản lý, chi phí ký kết hợp
đồng,…


1.2.3.3. Dịch vụ đi kèm sản phẩm
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

23
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

Trong điều kiện kinh tế thị trường, muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh
doanh, trước hết các doanh nghiệp phải bảo vệ được thị phần thị trường hiện có của
mình, sau đó bằng các biện pháp cạnh tranh sẽ phát triển dần sang thị trường tiềm
năng mà mình đã xác định. Do đặc thù của sản phẩm bảo hiểm, nên trong kinh
doanh bảo hiểm vấn đề tổ chức dịch vụ khách hàng, giữ khách hàng luôn được coi
trọng. Các DNBH luôn đánh giá và nhận thức rất cao công tác này vì:
 Làm tốt công tác dịch vụ khách hàng trước hết là giữ được khách hàng,
nhất là những khách hàng truyền thống, có STBH lớn. Từ đó giúp tiết kiệm chi phí
khai thác ban đầu, tăng thêm kinh nghiệm phòng tránh rủi ro. Hơn thế, khách hàng
cũ còn có khả năng lôi kéo khách hàng mới về với DNBH.
 Công tác dịch vụ khách hàng còn tạo ra sự khác biệt so với các đối thủ
cạnh tranh (nhất là trong giao tiếp, chăm sóc, dẫn dụ khách hàng), từ đó nhiều
khách hàng sẽ chung thủy hơn với DNBH. Đồng thời còn tạo cảm giác cho họ về
những quyền lợi mà họ được hưởng không chỉ có giá trị của sản phẩm bảo hiểm mà
cả chất lượng phục vụ.
 Thực hiện tốt công tác dịch vụ khách hàng cũng góp phần cải thiện môi
trường làm việc, nâng cao uy tín của DNBH.
 Một khi đã giữ được khách hàng cũ và lôi kéo them nhiều khách hàng
mới nhờ công tác dịch vụ khách hàng không chỉ góp phần tăng doanh thu mà còn
tiết kiệm được nhiều khoản chi khác.

Công tác dịch vụ khách hàng thường được xem xét dưới 2 nội dung: dịch vụ
chăm sóc khách hàng và dịch vụ hỗ trợ khách hàng
Dịch vụ chăm sóc khách hàng được thực hiện sau khi giao kết hợp đồng bảo
hiểm, thông qua những lời thăm hỏi, tặng quà trong các dịp lễ tết, sinh nhật, trong
tư vấn đề phòng và hạn chế tổn thất….
Đối với các DNBH PNT, dịch vụ hỗ trợ khách hàng thường được thực hiện
dưới hình thức tổ chức các “Hội nghị khách hàng”, nhằm mục đích duy trì mối liên
hệ thường xuyên với họ. Qua hội nghị khách hàng, DNBH sẽ nắm bắt được nhu cầu
của khách hàng về các loại sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm, những ý kiến đóng góp
của họ về mỗi loại sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp đã tung ra thị trường,
những vấn đề còn tồn tại trong các khâu dịch vụ,….
1.2.3.4. Hệ thống phân phối sản phẩm
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

24
GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

Hình thức cạnh tranh này biểu hiện rất phong phú và đa dạng, gồm: phân
phối trực tiếp (gặp gỡ trực tiếp, điện thoại, thư tín, mail, …), phân phối gián tiếp
(công ty môi giới, đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ). Việc lựa chọn kênh phân phối của
DNBH có mối quan hệ tương tác với thị trường mục tiêu và sản phẩm mà DNBH
chào bán. Mục tiêu của kênh phân phối là giới thiệu và bán sản phẩm theo cách vừa
đem lại hiệu quả cho DNBH vừa thích hợp với người tiêu dùng. Các DNBH thường
định kỳ điều chỉnh kênh phân phối để tăng tính cạnh tranh nhằm đạt hiệu quả cao
trong bán hàng.
Kênh phân phối trực tiếp là thích hợp khi khách hàng có sự am hiểu nhất

định về sản phẩm bảo hiểm, đặc biệt đối với các sản phẩm bảo hiểm mang tính đại
trà và đã được triển khai từ trước. Kênh phân phối gián tiếp nên được sử dụng khi
DNBH chào bán nhiều loại sản phẩm bảo hiểm cùng lúc, đặc biệt với các sản phẩm
mới được triển khai trên thị trường hoặc những sản phẩm đặc biệt, ít tính phổ thông
hoặc với nhóm khách hàng có yêu cầu đặc biệt về sản phẩm bảo hiểm.
1.2.3.5. Quảng bá sản phẩm
Nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, các DNBH phải thực hiện các hoạt
động xúc tiến bán hàng, phổ biến nhất là 2 công cụ: tuyên truyền quảng cáo trên các
phương tiện thông tin đại chúng và các hoạt động quan hệ với công chúng. Hình
thức cạnh tranh này thường đòi hỏi chi phí lớn, các doanh nghiệp áp dụng hình thức
này thường là các doanh nghiệp có vốn lớn, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm và
phải có chiến lược khai thác từng thị trường mục tiêu một cách rõ ràng, chính xác
thì mới hiệu quả.
Các phương tiện thông tin đại chúng truyền thống được sử dụng để quảng
cáo bao gồm: vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí, bảng hiệu, áp
phích. Hiện nay, mạng internet cũng đang trở thành một dạng phương tiện thông tin
đại chúng phổ biến vì các DNBH đã và đang xây dựng những trang web cho phép
người sử dụng máy tính có thể tìm hiểu các thông tin về sản phẩm và về DNBH.
Các hình thức quảng cáo này cung cấp cho khách hàng các thông tin về sản phẩm,
xây dựng sự ưa thích của khách hàng đối với sản phẩm, củng cố thái độ hay thói
quen mua hiện thời của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Để tăng
tính cạnh tranh trên thị trường, một số DNBH cũng thực hiện truyền thông về lớp
sản phẩm vượt trội hẳn so với lớp sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

25

GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính

1.2.4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo
hiểm
Cạnh tranh là quy luật phổ biến nhất, tác động mạnh mẽ nhất tới quá trình
vận hành của nền kinh tế thị trường nên bất cứ doanh nghiệp nào khi thị tham gia
thị trường đều phải đương đầu với cạnh tranh. Đó là một cuộc chiến tranh mà họ
không thể không đối mặt. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay và khi
nền kinh tế ngày càng phát triển, cạnh tranh diễn ra trên quy mô ngày càng rộng
hơn với mức độ khốc liệt hơn trong mọi lĩnh vực và một ngành dịch vụ như bảo
hiểm cũng không phải ngoại lệ. Một sản phẩm bảo hiểm chỉ thực sự chiếm lĩnh
được thị trường, chiến thắng các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam khi có được NLCT. NLCT của DNBH về một sản phẩm
là khả năng sản phẩm đó được tiêu thụ nhanh chóng trong khi thị trường có rất
nhiều nhà bảo hiểm cũng đang triển khai sản phẩm tương tự.
Xuất phát từ những đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm khiến cho việc chào
bán sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn, các doanh nghiệp thường đổ xô vào các sản
phẩm đang được thị trường ưa chuộng bằng cách cải tiến cho sản phẩm của mình
hoàn thiện hơn, tăng cường truyền thông quảng cáo sâu rộng, giảm phí để thu hút
khách hàng, tăng hoa hồng,….Điều này đã khiến cho cạnh tranh trên thị trường bảo
hiểm diễn ra vô cùng khốc liệt và đôi lúc có thể nói là không lành mạnh. Sự cạnh
tranh không chỉ diễn ra giữa các DNBH trong nước với nhau, giữa DNBH trong
nước và nước ngoài mà còn giữa các DNBH với các dịch vụ tài chính khác như
ngân hàng,….Chính áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt này đã khiến cho vấn đề
nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm bảo hiểm trở nên quan trọng hơn bao giờ hết
nhằm góp phần nâng cao NLCT cho toàn doanh nghiệp.
Thực tế không chỉ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam mà thị trường bảo hiểm
thế giới cũng đã chứng minh rằng khách hàng luôn muốn tham gia bảo hiểm tại
những DNBH lớn, có uy tín trên thị trường vì thực chất bán bảo hiểm chính là bán
lời hứa, lời cam kết của công ty đối với khách hàng. Một thương hiệu mạnh có thể

cam kết sẽ mang tới cho khách hàng những sản phẩm đạt tiêu chuẩn, giúp họ có thể
tìm kiếm, lựa chọn sản phẩm một cách dễ dàng phù hợp với nhu cầu của mình. Vì
vậy, nâng cao NLCT của doanh nghiệp là yêu cầu cấp thiết để định vị hình ảnh của
doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng giúp DNBH có thể nâng cao NLCT cho sản
phẩm. NLCT của sản phẩm tăng cao sẽ góp phần tăng sức cạnh tranh cho doanh
SV: Phan Thị Thu Trang
Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B


×