Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Phát triển bảo hiểm tiền gửi ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.91 KB, 61 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

MỤC LỤC

SV: Lương Thị Hường

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi của một số quốc gia Asean tháng 12 năm
2010.........................................................Error: Reference source not found

SV: Lương Thị Hường

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đang ngày càng
phát triển theo xu hướng hội nhập, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng sau


khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong bối cảnh đó hệ
thống tài chính, ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội để phát triển nhờ tiếp thu được công
nghệ, kỹ năng quản lý cũng như nguồn vốn của nước ngoài, nhưng hệ thống tài
chính của nước ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức từ sự cạnh tranh và phát
triển với nhiều tổ chức nước ngoài có tiềm lực vốn và công nghệ tốt.
Đồng thời, do tiến trình hội nhập, những động thái của thị trường tài chính
thế giới sẽ tác động trực tiếp đến hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam và sự tác
động này càng lớn khi chúng ta hội nhập ngày càng sâu rộng. Chính vì vậy, bên
cạnh những rủi ro truyền thống, hệ thống tài chính ngân hàng của nước ta còn phải
đối mặt với nhiều rủi ro mới. Một câu hỏi đặt ra là làm thế nào để kiểm soát rủi ro,
xây dựng niềm tin của công chúng với hệ thống tài chính ngân hàng? Và đây cũng
là yêu cầu quan trọng đặt ra đối với Chính phủ nước ta.
Mặt khác, hệ thống tài chính ngân hàng được coi là huyết mạch của nền kinh
tế. Sự bất ổn của hệ thống tài chính ngân hàng sẽ gây ra những bất ổn về mặt xã hội
do vậy cần cân bằng giữa sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính ngân hàng
với sự phát triển ổn định. Để đạt được mục tiêu đó, Chính phủ đã sử dụng công cụ
tài chính là Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm
bảo an toàn hệ thống ngân hàng thông qua các công cụ kiểm soát rủi ro.
Sự ra đời và phát triển của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có ý nghĩa rất lớn tác
động gián tiếp đế sự phát triển của nền kinh tế do vậy em đã chọn đề tài “Phát triển
Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” để nghiên cứu trong lần làm đề án môn học của
mình cùng với sự hướng dẫn của cô Nguyễn Lệ Huyền.
Đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý thuyết của bảo hiểm tiền gửi.
Chương II: Thực trạng bảo hiểm tiền gửi từ năm 2000 đến nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam.
SV: Lương Thị Hường

1


Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

Với trình độ và thời gian còn nhiều hạn chế, em đã rất cố gắng nhưng không
thể tránh khỏi những thiếu sót, mong quý thầy cô đóng góp ý kiến để đề tài ngày
càng hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Lương Thị Hường

SV: Lương Thị Hường

2

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1. Vài nét về quá trình phát triển của Bảo hiểm tiền gửi


1.1.1. Sự hình thành và phát triển của Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới.
Mỹ là một trong số các quốc gia sớm triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi
và có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Hoạt động bảo đảm tiền gửi đầu tiên được tiến hành ở New York, Mỹ năm
1829 với danh hiệu “Chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng”, hàm ý bảo
hiểm trách nhiệm đối với tiền gửi ngân hàng và chứng chỉ huy động tiền gửi.
Từ năm 1831 đến năm 1858, năm bang tiếp theo ở Mỹ đã thành lập tổ chức
bảo hiểm tiền gửi. Mặc dù hầu hết các tổ chức BHTG có lúc hoạt động thành đạt
nhưng một số chính sách về ngân hàng có liên quan được ban hành trong những
năm sau đó đã góp phần làm cho các tổ chức này đóng cửa. Thời kỳ thử nghiệm tiếp
theo của hoạt động BHTG cũng diễn ra ở Mỹ vào những năm 1908-1930. Từ 1908
đến 1917 ở Mỹ đã có tám bang thành lập hệ thống BHTG. Tính đến năm 1930 cả
tám hệ thống này đã đóng cửa do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế bât lợi làm cho
nhiều ngân hàng ở tám bang này đóng cửa và dẫn đến các tổ chức BHTG ở đó bị
mất khả năng thanh toán.
Hoạt động ngân hàng ở Mỹ đầu những năm 30 tiếp tục gặp khó khăn. Trong
giai đoạn 1930-1933 mỗi năm có hơn 1000 ngân hàng ngừng hoạt động, đỉnh cao là
năm 1933 có 4000 ngân hàng thương mại phải ngừng hoạt động. Trước tình hình đó
ngày 1 tháng 1 năm 1934 Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) chính thức hoạt
động đây được coi là tổ chức BHTG đầu tiên trên thế giới.
Tiếp theo FDIC trong những năm 1960, trên thế giới có sáu quốc gia thành
lập tổ chức BHTG, những năm 1970 có thêm bốn quốc gia. Hầu hết các quốc gia
triển khai hoạt động BHTG công khai vào những năm cuối 1990. Tính đến năm
2010 trên thế giới có 98 quốc gia có tổ chức hoạt động BHTG. Đặc biệt, ngày 6
tháng 5 năm 2002 Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi Quốc tế (IADI) được thành lập có trụ
sở đặt tại Thụy Sĩ. Đến nay IADI đã có 52 tổ chức BHTG các nước là thành viên, 6
hiệp hội, 5 quan sát viên và 12 đối tác (tính đến năm 2008) điều đó đánh dấu sự

SV: Lương Thị Hường


3

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

quan tâm chung của nhiều nước về hoạt động BHTG và hứa hẹn một động lực mới
thúc đẩy phát triển hoạt động này trên thế giới.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
Từ năm 1986, đổi mới toàn diện mang tính chiến lược đã mở đầu thời kỳ
phát triển mới của đất nước. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã thực hiện cải cách
chuyển dần từ tập trung bao cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Số
lượng các ngân hàng thương mại cổ phần, đặc biệt là quỹ tín dụng và hợp tác xã tín
dụng đã tăng lên mạnh mẽ nhưng cũng nhanh chóng đổ vỡ hàng loạt vào những
năm 1989-1990.
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á tuy ảnh hưởng không lớn đến
nền kinh tế của Việt Nam do chúng ta chưa thực sự mở cửa nhưng cũng đã tạo áp
lực buộc hệ thống ngân hàng Việt nam phải cải cách cơ cấu một cách toàn diện
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng năng lực cạnh tranh và khôi phục lòng tin
của công chúng.
Kinh nghiệm sụp đổ hệ thống hợp tác xã tín dụng và tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á 1997 cho thấy, một nguyên tắc chung thống nhất
trong hoạt động của nền kinh tế thị trường là có rủi ro thì phải có các biện pháp
phòng ngừa, xử lý. Hoạt động ngân hàng càng hội nhập sâu rộng càng tiềm ẩn
những yếu tổ rủi ro bao gồm cả những rủi ro mang tính hệ thống do vậy ngày 07
tháng 07 năm 2000 Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) ra đời và chính thức
đi vào hoạt động. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) là công cụ thực hiện

chính sách BHTG. BHTGVN là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận, được Nhà nước cấp vốn điều lệ ban đầu 1000 tỷ đồng (đến nay
là 5000 tỷ đồng), là định chế tài chính quan trọng và duy nhất trong lĩnh vực BHTG
được Chính phủ thành lập. Đây là một sự kiện quan trọng vì lần đầu tiên trong hoạt
động của hệ thống ngân hàng Việt Nam có một hình thức bảo hiểm công khai, nhằm
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự
ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt
động ngân hàng. Đây cũng là bước đi thích hợp trong tiến trình phát triển kinh tế thị
trường, hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới.

SV: Lương Thị Hường

4

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

1.2. Bản chất và vai trò của Bảo hiểm tiền gửi.
1.2.1. Bản chất của Bảo hiểm tiền gửi.

a. Khái niệm.
Có nhiều khái niệm về bảo hiểm tiền gửi
- BHTG là một biện pháp phòng ngừa rủi ro được nhiều quốc gia thực hiện
nhằm bảo vệ các khoản tiền gửi của khách hàng trong trường hợp ngân hàng không
có khả năng chi trả cho khách hàng.
- Bảo hiểm tiền gửi là cơ chế bảo hiểm nhằm bảo đảm ổn định của hệ thống

tín dụng thông qua việc đảm bảo chi trả một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi cho
người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán.
Theo luật bảo hiểm tiền gửi Việt Nam:
- Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền cho người được bảo hiểm
tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm
vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.
- Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không
vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự
ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh
của hoạt động ngân hàng.
- Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng được nhận
tiền gửi của cá nhân.
b. Đặc điểm của Bảo hiểm tiền gửi.
Nói chung bảo hiểm tiền gửi tất cả các nước đều có một số đặc điểm như sau:
- Chỉ bảo hiểm các khoản tiền gửi. Nhiều quốc gia loại trừ không bảo hiểm
các khoản tiền đầu tư, tiền gửi liên ngân hàng và các khoản tiền gửi của ban lãnh
đao, các cổ đông lớn của tổ chức huy động tiền gửi. Lý do loại trừ đó là các nhà đầu
tư, các nhà kinh doanh ngân hàng là những người nắm vững quy luật thị trường, do
vậy trước khi đầu tư họ cân nhắc mức độ rủi ro, ban lãnh đạo và các cổ đông lớn
của các tổ chức huy động tiền gửi là những người nắm vững và chịu trách nhiệm về
tình hình tài chính của tổ chức này, do vậy họ có thể bảo vệ quyền lợi của mình mà
không phải dựa vào bảo hiểm tiền gửi.

SV: Lương Thị Hường

5

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

- Người mua bảo hiểm là các ngân hàng, các tổ chức huy động tiền gửi
khác. Người hưởng lợi từ bảo hiểm tiền gửi là những người gửi tiền tại tổ chức
được bảo hiểm. Người gửi tiền không phải làm thủ tục đăng ký mua bảo hiểm tiền
gửi. Bằng việc tham gia hệ thống Bảo hiểm tiền gửi của tổ chức nhận tiền gửi, tất cả
các khoản tiền gửi trong giới hạn và phạm vi bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi đều tự động được bảo hiểm.
- Bảo hiểm tiền gửi là loại hình dịch vụ mang tính xã hội cao, xuất phát từ
một trong các mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là góp phần đảm bảo tính
ổn định của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ là toàn xã hội.
Xuất phát từ mục đích của chính sách bảo hiểm tiền gửi mà dịch vụ bảo hiểm tiền
gửi được coi là hàng hóa công cộng. Tính chất công cộng của dịch vụ bảo hiểm tiền
gửi là ở chỗ bảo hiểm tiền gửi đáp ứng nhu cầu chung của toàn xã hội, tức là nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định
của các tổ chức tín dụng và bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động
ngân hàng. Ai cũng có quyền bình đẳng được tiếp cận đến loại hàng hóa dịch vụ
này, và việc người này sử dụng không ảnh hưởng đến nhiều người khác sử dụng
chúng. Dù muốn hay không, ta cũng không thể loại trừ sự thụ hưởng dịch vụ bảo
hiểm tiền gửi một cách tuyệt đối. Mặc dù người hưởng lợi trực tiếp từ bảo hiểm tiền
gửi là người gửi tiền và các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhưng những đối
tượng khác vẫn được hưởng lợi một cách gián tiếp. Người gửi tiền có tiền gửi thuộc
đối tượng được bảo hiểm được hưởng lợi trực tiếp khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Khi có rủi ro ngân hàng, tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán, bị đóng
cửa, người gửi tiền sẽ được tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thanh toán tiền bảo hiểm.
Đây chính là số tiền mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cam kết với tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi khi thực hiện bảo hiểm. Các tổ chức huy động tiền gửi cũng được

hưởng lợi. Hơn ai hết, người sản xuất thường biết rõ hơn người tiêu dùng về sản
phẩm mà họ bán. Các chủ ngân hàng và giám đốc ngân hàng biết rõ về tình hình tài
chính của họ hơn là khách hàng. Do thiếu khả năng tiếp cận thông tin nên trong
điều kiện vốn nhàn rỗi có hạn, khách hàng đắn đo khi quyết định đem tiền gửi vào
tổ chức huy động tiền gửi hay lựa chọn một kệnh đầu tư sinh lời khác và cũng đắn
đo khi quyết định lựa chọn ngân hàng để gửi tiền. Khi tiền gửi được bảo hiểm,

SV: Lương Thị Hường

6

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

khách hàng an tâm hơn khi lựa chọn tổ chức nhận tiền gửi. Các tổ chức huy động
tiền gửi, nhờ vậy sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng và huy động được nhiều
tiền gửi hơn. Trên thực tế khi ngân hàng được bảo hiểm góp phần làm cho kinh tế ít
biến động ổn định hơn, rủi ro sẽ giảm bớt đối với các doanh nghiệp. Mặt khác các
đối tượng vay tiền sẽ sử dụng tiền vay an toàn và hiệu quả hơn, các dự án đầu tư
cũng hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho phát triển các ngành nghề kinh tế khác. Xã hội
bình ổn, các ngành nghề kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, giảm thất nghiệp,… đời sống nhân dân được nâng cao.
Như vậy gián tiếp hay trực tiếp, chúng ta đều được hưởng lợi từ bảo hiểm
tiền gửi và không thể loại trừ sự thụ hưởng một cách tuyệt đối một cá nhân, hoặc
một tổ chức trong xã hội.
- Bằng chứng của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là Giấy chứng nhận bảo

hiểm tiền gửi do tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cấp cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi.
- Tất cả các tổ chức bảo hiểm đều quy định phạm vi và giới hạn bảo hiểm
một cách chặt chẽ. Người gửi tiền không thể mua thêm bảo hiểm cho các khoản tiền
gửi của mình để được các tổ chức bảo hiểm chi trả nhiều hơn giới hạn bảo hiểm.
Các khoản tiền gửi ngoài giới hạn bảo hiểm sẽ không được các tổ chức Bảo hiểm
tiền gửi thanh toán mà được xử lý như các món nợ khác của tổ chức tài chính bị phá
sản. Giới hạn bảo hiểm này bao gồm cả tiền gửi gốc và lãi cộng dồn từ ngày gửi
tiền đến thời điểm tổ chức tham gia bảo hiểm gặp rủi ro đượcbảo hiểm. Tuy nhiên
các khoản tiền gửi có tính chất khác nhau có thể được bảo hiểm khác nhau. Tổ
chức Bảo hiểm tiền gửi có quyền thế quyền chủ nợ đối với các khoản tiền gửi được
bảo hiểm đã chi trả. Nói chung tất cả các quốc gia đều không chi trả cho các khoản
tiền gửi được chi trả ở nước ngoài do không kiểm soát được mức độ rủi roc ho các
khoản tiền gửi đó.
c. Bản chất của bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi thực chất là một loại hình bảo hiểm mà theo đó nó đảm
bảo nghĩa vụ chi trả trong tương lai các khoản tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng
mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Vì là một loại hình bảo hiểm nên bảo

SV: Lương Thị Hường

7

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền


hiểm tiền gửi cũng mang bản chất của các loại hình bảo hiểm nói chung, tức là hoạt
động theo nguyên tắc số đông bù số ít nhưng bên cạnh đó nó còn mang tính chất
đặc thù, đó là:
- Bảo hiểm tiền gửi là công cụ được sử dụng để thực hiện chính sách công
của từng quốc gia.
- Hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi thường không vì mục tiêu lợi
nhuận. Mục đích chủ yếu của việc thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi nhằm góp
phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng và
ổn định xã hội.
1.2.2. Vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
- Đối với người gửi tiền: bảo hiểm tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ người gửi tiền, nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính,
ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ người tiêu dùng nói chung và người
gửi tiền nói riêng là yêu cầu đặt ra đối với mỗi Chính phủ. Bảo vệ người tiêu dùng
là để đảm bảo cân bằng giữa sự phát triển và đảm bảo quyền lợi của người dân
trong xã hội dân sự. Do đó, bảo hiểm tiền gửi là một công cụ tài chính hữu hiệu
được hầu hết các Chính phủ sử dụng để bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền. Đồng
thời bảo hiểm tiền gửi giúp xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng đối với
hệ thống tài chính ngân hàng và đó là yêu cầu đặt ra đối với bất kỳ Chính phủ nào
trên thế giới. Nếu người dân không tin tưởng vào hệ thống ngân hàng thì trước hết
hệ thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng và sau đó toàn bộ nền kinh tế cũng chịu ảnh
hưởng nghiêm trọng, vì hệ thống tài chính ngân hàng là công cụ huy động vốn cho
nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đến nay là một minh chứng cho
thấy sự khủng hoảng niềm tin của người dân Mỹ vào khả năng thanh toán của các
ngân hàng của họ, họ đã rút tiền ồ ạt, không gửi tiền cho các ngân hàng nữa và điều
này cũng cho thấy vai trò của người gửi tiền đối với sự tồn tại, sự phát triển của hệ
thống ngân hàng quốc gia.
Qua đó cho thấy bảo hiểm tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc xây dựng
và củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng. Bảo hiểm

tiền gửi xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng
thông qua một số hoạt động như: cung cấp đầy đủ hơn cho công chúng thông tin về

SV: Lương Thị Hường

8

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

các ngân hàng; thực hiện các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát rủi ro đối với tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi; hỗ trợ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi gặp
khó khăn về tải chính nhằm phục hồi hoạt động của tổ chức đó; xử lý tổ chức tín
dụng vị đổ vỡ; góp phần thúc đẩy và đảm bảo hoạt động tài chính, ngân hàng phát
triển an toàn, lành mạnh và nâng cao kỷ cương thị trường; bảo hiểm tiền gửi tạo sự
cạnh trạnh bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng; đảm bảo sự phát triển an toàn, lành
mạnh của các tổ chức tín dụng.
- Đối với hệ thống ngân hàng: góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành
mạnh hoạt động ngân hàng. Mặc dù vai trò chủ đạo của bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ
người gửi tiền nhưng bảo hiểm tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc tạo sự phát
triển lành mạnh hoạt động ngân hàng. Vì bảo hiểm tiền gửi đã tạo ra sự công bằng,
tạo ra sân chơi bình đẳng cho tất cả các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các tổ chức tín
dụng có quy mô nhỏ. Ngoài ra bảo hiểm tiền gửi còn góp phần đảm bảo an toàn
lành mạnh cho hoạt động ngân hàng trong trường hợp tổ chức tín dụng gặp khó
khăn thì bảo hiểm tiền gửi sẽ dùng biện pháp hỗ trợ tài chính, và trong tình thế
không thể cứu vãn được nữa thì bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra chi trả tiền cho người

gửi tiền.
- Bảo hiểm tiền gửi góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn phục vụ phát
triển kinh tế và ổn định xã hội. Từ vai trò bảo vệ người gửi tiền và củng cố niềm tin
của người gửi tiền đối với hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi có vai trò
quan trọng thúc đẩy quá trình huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế. Để thu hút
được vốn trong dân tức là phải có hoạt động gửi tiền của người dân vào các ngân
hàng thay vì cất giữ dưới dạng tiền mặt hoặc các loại tài sản khác. Do đó người dân
cần phải có niềm tin đối với hệ thống tài chính ngân hàng nếu người dân biết được
có tổ chức bảo hiểm tiền gửi thay mặt Chính phủ để bảo vệ tiền gửi của họ thì họ sẽ
yên tâm hơn khi gửi tiền vào ngân hàng.
- Góp phần xử lý khủng hoảng tài chính ngân hàng: một trong những
nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính ngân hàng là để xảy ra hiện tượng rút
tiền hàng loạt. Trong khi đó hoạt động tài chính ngân hàng là hoạt động mang tính
nhạy cảm và lan truyền cao do vậy hiện tượng đó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Trong trường hợp này, bảo hiểm tiền gửi là một lá chắn quan trọng để ngăn chặn

SV: Lương Thị Hường

9

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

hiện tượng đó. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 2008 vừa qua, bảo hiểm
tiền gửi đã là công cụ đắc lực góp phần giúp các Chính phủ tạo lập lòng tin của dân
chúng đối với hệ thống ngân hàng tài chính.

Như vậy bảo hiểm tiền gửi có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với hệ
thống ngân hàng mà còn có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế của một quốc gia
chính vì vậy mà loại hình bảo hiểm này đang nhận được sự quan tâm của rất nhiều
người dân nói chung và các nhà hoạch định chính sách nói riêng.
1.3. Nội dung cơ bản của bảo hiểm tiền gửi.
1.3.1. Đối tượng bảo hiểm.
- Đối tượng tham gia bảo hiểm: Đối tượng tham gia bảo hiểm là các tổ chức
tín dụng. Công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm trách nhiệm của các tổ chức tín dụng đối
với các khoản tiền gửi.
- Đối tượng được bảo hiểm:
1.3.2. Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm.
- Số tiền bảo hiểm: Số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào số dư tiền
gửi trong bảo cáo số dư tiền gửi mỗi quý của tổ chức tín dụng. Đây chính là số tiền
được trả cho tất cả các khoản tiền gửi (bao gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân hay
tổ chức gửi tiền tại tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi.
- Phí bảo hiểm: Phí bảo hiểm là số tiền tổ chức tín dụng phải trả cho công ty

bảo hiểm để công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm số dư tiền gửi của tổ chức tín dụng tại
thời điểm cuối mỗi quý. Phí bảo hiểm mà tổ chức tín dụng phải trả cho người bảo
hiểm theo từng quý được tính theo công thức
P= m×

×G

Trong đó: P- Phí bảo hiểm theo quý;
m- Số dư tiền gửi;
R- Tỷ lệ phí bảo hiểm;
G- Số ngày của một quý;
365- Số ngày trong năm.
Mức phí bảo hiểm tiền gửi có thể được điều chỉnh tùy theo sự đánh giá của cơ

quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng.

SV: Lương Thị Hường

10

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

1.3.3. Phạm vi bảo hiểm.
Trong bảo hiểm tiền gửi, các rủi ro sau đây được bảo hiểm
- Sự phá sản của tổ chức tín dụng: Phá sản là trường hợp tổ chức tín dụng
không thể trả nợ một cách đầy đủ hoặc tổ chức tín dụng không thể tiếp tục kinh
doanh vì bị thiếu vốn. Trong trường hợp này các công việc kinh doanh của tổ chức
phải được giao cho ban thanh lý tài sản xử lý các tài sản còn lại theo đúng quy định
pháp lý về phá sản của Nhà nước.
- Sự giải thể bắt buộc của tổ chức tín dụng: Giải thể bắt buộc là do không
tuân thủ các quy tắc, luật lệ của Nhà nước hoặc có thể do chủ nợ đề nghị tòa án ra
lệnh tuyên bố giải thể vì bị tổ chức tín dụng từ chối thanh toán và chỉ có cách này
mới hy vọng thu hồi được tiền.
- Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay mất
khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng: Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có
thẩm quyền xét thấy tổ chức tín dụng mặc dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng
không đúng mục đích đã đề ra, không muốn tòa án can thiệp mà quyết định thanh lý
không cho tổ chức tín dụng hoạt động tiếp. Trong trường hợp này, công ty bảo hiểm
sẽ giải quyết bồi thường cho những người gửi tiền nhưng sẽ được thế quyền để

được hưởng số tiền thanh lý tái sản hay đòi nợ.
- Giải thể tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản
của tổ chức tín dụng: Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của tổ chức tín dụng là
tình trạng tổ chức tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn
khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn. Tuy nhiên, không muốn tòa án can thiệp, các cổ đông của tổ chức tín dụng
chấp nhận tuyên bố giải thể. Trong trường hợp này, công ty bảo hiểm cũng có trách
nhiệm bồi thường đối với các khoản tiền gửi đến kỳ hạn mà tổ chức tín dụng không
thanh toán hết sau khi có quyết định giải thể.
- Không thể thực hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì một
mệnh lệnh của tòa án đối với tổ chức tín dụng: Xảy ra trong trường hợp tổ chức tín
dụng cố ý không thanh toán nợ và chủ nợ đệ đơn lên tòa án để có lệnh bắt buộc tổ
chức tín dụng phải tuyên bố phá sản hay thanh lý để trả nợ, các chủ nợ cho rằng chỉ
có cách này họ mới thu được các khoản nợ. Lệnh của tòa án cũng được áp dụng khi:

SV: Lương Thị Hường

11

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

Tổ chức tín dụng không có phương án hòa giải và có giải pháp tổ chức lại hoạt động
kinh doanh của tổ chức tín dụng theo yêu cầu của tòa án; tổ chức tín dụng không
tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các phương án hòa giải và các giải pháp tổ
chức lại hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng; trong thời hạn tổ chức lại kinh

doanh, tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng những thỏa thuận tại hội nghị của
các chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản; hết thời hạn tổ chức lại hoạt
động kinh doanh mà tổ chức tín dụng vẫn kinh doanh không có hiệu quả và các chủ
nợ yêu cầu tòa án phải có tuyên bố phá sản tổ chức tín dụng.
Mặc dù phạm vi bảo hiểm rất rộng nhưng trong bảo hiểm tiền gửi rất rộng
nhưng trong bảo hiểm tiền gửi cũng có những rủi ro loại trừ. Những rủi ro loại trừ là
những rủi ro gây ra sự phá sản, thanh lý hay giải thể một tổ chức tín dụng trong các
trường hợp sau đây:
- Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán đã nêu
trong pháp lệnh ngân hàng của tổ chức tín dụng: Tổ chức tín dụng đã có điều lệ và
quy chế hoạt động riêng nhưng cũng phải tuân thủ các quy định hiện hành khác của
Nhà nước. Nếu tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ, tín
dụng, thanh toán trong pháp lệnh ngân hàng của tổ chức tín dụng dẫn đến phá sản
thì công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường.
- Giải thể tự nguyện vì nguyên nhân: Do cổ đông nhân thức thấy mục tiêu
khi thành lập tổ chức tín dụng không đạt được; do cổ đông muốn thu hồi lại vốn
hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của tổ chức tín dụng
- Ngừng hoạt động do những nguyên nhân: Tổ chức tín dụng ngừng hoạt
động vì chiến tranh, đình công, bạo loạn dân sự, nội chiến. Đây là những rủi ro loại
trừ không thông thường, không liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ. Khi tổ
chức tín dụng bị phá sản, thanh lý, giải thể do các rủi ro này, công ty bảo hiểm cũng
không chịu trách nhiệm bồi thường cho những người gửi tiền.
1.3.4. Giải quyết bồi thường.
Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm, tổ chức tín dụng phải thông bảo
cho công ty bảo hiểm biết kèm theo các giấy tờ:
- Giấy yêu cầu bồi thường
- Giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm

SV: Lương Thị Hường


12

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

- Báo cáo thực trạng hoạt động của tổ chức tín dụng đến ngày xảy ra rủi ro
- Lệnh của tòa án, tuyên bố phá sản, quyết định giải thể hay thanh lý
- Bản kê khai danh sách những người gửi tiền chưa được thanh toán tính
đến ngày xảy ra rủi ro
- Bản kê khai chi tiết dư nợ cho vay tính đến ngày xảy ra rủi ro
Sau khi xem xét các chứng từ có liên quan tới việc trả tiền bồi thường cho tổ
chức tín dụng và người gửi tiền đến, nếu thuộc phạm vi bảo hiểm thì công ty bảo
hiểm sẽ bồi thường cho người gửi tiền. Số tiền bồi thường cao nhất của bảo hiểm là
số dư tiền gửi (tính cả gốc lẫn lãi) vào thời điểm tổ chức tín dụng xảy ra rủi ro
nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
1.4. Kính nghiệm quốc tế trong việc xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi.
Hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả là nhân tố góp phần ổn định hệ thống tài
chính ngân hàng. Lựa chọn tổ chức và mô hình hoạt động bảo hiểm tiền gửi phù
hợp là tiền đề để tổ chức bảo hiểm tiền gửi phát triển, hỗ trợ tích cực cho quá trình
xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả.
1.4.1. Quy định về chính sách bảo hiểm.
- Cơ chế tham gia: Bảo hiểm tiền gửi là công cụ thực hiện chính sách công
nên xu hướng trên thế giới hiện nay chủ yếu là quy định việc tham gia bảo hiểm tiền
gửi bắt buộc. Trong thực tế có rất ít quốc gia quy định cơ chế tham gia bảo hiểm
tiền gửi là tự nguyện. Trong 74 hệ thống bảo hiểm tiền gửi được nghiên cứu chỉ có
8 hệ thống tham gia tự nguyện, còn 55 hệ thống tham gia bắt buộc.

- Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi: Thông thường là tổ chức tín dụng
hoặc không phải là tổ chức tín dụng nhưng có hoạt động ngân hàng phải tham gia
bảo hiểm tiển gửi bắt buộc, bao gồm: ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo
hiểm, công ty tài chính, hiệp hội tín dụng, ngân hàng hợp tác.
- Loại tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tiền gửi: Bên cạnh việc bảo vệ
đồng nội tệ, một số quốc gia có áp dụng bảo hiểm cho ngoại tệ, thứ nhất là nhằm
kích thích quá trình huy động vốn, đặc biệt là lượng kiều hối gửi từ nước ngoài về
và thứ hai là nhằm đảm bảo sự công bằng đối với người gửi tiền.

SV: Lương Thị Hường

13

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

- Hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm tiền gửi: Theo thông lệ quốc tế,
hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm dao động từ 1 đến 9 lần GDP/người. Ở châu
Á mức chi trả bình quân là 4 lần thu nhập quốc nội bình quân đầu người một năm.
Vd: Indonesia thực hiện chi trả cho mỗi người gửi tiền tại một tổ chức tín
dụng là 100.000.000 Rp (11.000 USD). Hạn mức này gấp khoảng 9,6 lần GDP cảu
Indonesia.
Tuy nhiên trong thực tế tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà mỗi quốc gia có
cách xác định hạn mức chi trả khác nhau. Cụ thể là các quốc gia thường căn cứ vào
điều kiện kinh tế - xã hội, bối cảnh hoạt động tài chính ngân hàng để điều chỉnh hạn
mức chi trả cho phù hợp.

1.4.2. Những vấn đề liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
- Năng lực tài chính: Theo chỉ tiêu tính toán về an toàn trong hoạt động,
Quỹ bảo hiểm tiền gửi của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đảm bảo tỷ lệ 0,15% - 1,5%
trong tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm. Hoặc cũng có một số quốc gia còn đưa ra
quỹ mục tiêu là 2,5% tổng số tiền gửi trong hệ thống ngân hàng.
- Phí bảo hiểm tiền gửi: Hiện nay trên thế giới có hai hệ thống phí bảo hiểm
tiền gửi là hệ thống phí đồng hạng và hệ thống phí trên cơ sở rủi ro. Tuy nhiên, ngày
càng có nhiều quốc gia đã chuyển từ hệ thống phí trên cơ sở động hàng sang hệ
thống phí trên cơ sở rủi ro. Hệ thống phí trên cơ sở rủi ro có nhiều ưu việt như đảm
bảo sự công bằng giữa các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, đảm bảo nguyên tắc,
kỷ cương thị trường và kích thích sự phát triển của thị trường tài chính – ngân hàng.
1.4.3. Các nghiệp vụ cơ bản.
- Nghiệp vụ kiểm tra, giám sát
- Nghiệp vụ tiếp nhận xử lý
1.4.4. Quy định về tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
- Mô hình tổ chức: Trên thế giới hiện nay có hai loại mô hình bảo hiểm tiền
giới đang được thực hiện thông dụng:
• Một là bảo hiểm tiền gửi chi trả giản đơn là mô hình mà chức năng chủ
yếu của tổ chức bảo hiểm tiền gửi là thực hiện việc chi trả tiền gửi cho người gửi
tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị đổ vỡ.

SV: Lương Thị Hường

14

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

• Mô hình giảm thiểu rủi ro là mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ thực
hiện nhiều chức năng như kiểm tra, giám sát, xử lý đổ vỡ, chi trả tiền gửi… nhằm
mục đích giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền, tổ chức tham gia, doanh nghiệp.
Xu hướng trên thế giới hiện nay là các nước thiết kế tổ chức bảo hiểm tiền
gửi theo mô hình giảm thiểu rủi ro. Thực tế đã chứng minh nếu Chính phủ thiết kế
và sử dụng tốt mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo mô hình giảm thiểu rủi ro sẽ
góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tốt hơn.
- Mô hình hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi: Việc thiết kế mô hình
của tổ chức bảo hiểm tiền gửi của mỗi quốc gia sẽ do Chính phủ nước đó quyết định
về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Các quốc gia trên thế giới
đều có những quy định khác nhau về cơ quan quản lý tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy để tạo sự chủ động và độc lập cho tổ chức bảo
hiểm tiềng gửi trong quá trình hoạt động thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi nên trực
thuộc Quốc hội hoặc thuộc Chính phủ.
1.4.5. Kinh nghiệm tính phí bảo hiểm, hạn mức trả tiền bảo hiểm và phát
triển mô hình hoạt động bảo hiểm tiền gửi hiệu quả ở một số quốc gia trên thế
giới.
1.4.5.1. Kinh nghiệm tính phí bảo hiểm ở một số quốc gia
Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
phải nộp cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi để bảo hiểm cho tiền gửi của người được
bảo hiểm tiền gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đây là loại phí có tính chất
bắt buộc đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi để thực hiện chính sách bảo
hiểm tiền gửi. Mục tiêu của việc thu phí bảo hiểm là nhằm hình thành nguồn quỹ
Bảo hiểm tiền gửi có sẵn để xử lý đổ vỡ ngân hàng và thực hiện mục tiêu bảo vệ
người gửi tiền.
- Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Mỹ (FDIC): FDIC áp dụng phí đồng hạng
từ năm 1933 đến năm 1991. Năm 1991, Quốc hội Mỹ ban hành đạo luật cải tiến
hoạt động FDIC cho phép FDIC áp dụng tính phí theo rủi ro. Vào thời điểm đó, các

nàh lập pháp Mỹ đã nhận thấy cần đẩy nhanh tốc độ tích lũy Bảo hiểm tiền gửi
nhằm đảm bảo nguồn lực ứng phó tốt hơn với rủi ro tăng cao của hệ thống ngân
hàng; đồng thời, hạn chế tính trạng tổ chức tài chính có rủi ro thấp phải tài trợ phần
SV: Lương Thị Hường

15

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

phí cho các tổ chức có rủi ro cao. FDIC đã nghiên cứu xây dựng và áp dụng thử
nghiệm tính phí Bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro trong vòng hai năm và đến
năm 1993 chính thức áp dụng. Phương pháp tính phí Bảo hiểm tiền gửi tại Mỹ tiếp
tục được sửa đổ, bổ sung nhằm phù hợp với những thay đổi của hệ thống ngân
hàng. Một đặc điểm đáng lưu ý là trong giai đoạn từ 1997-2007, khi tỷ lệ quỹ mục
tiêu của FDIC đã đạt mức theo yêu cầu của Luật định, FDIC đã giảm tỷ lệ phí, trong
đó những ngân hàng có mức độ rủi ro thấp nhất không phải nộp phí. Trong giai
đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, FDIC đã áp dụng một loạt các biện
pháp điều chỉnh hệ thống phí nhằm đảm bảo đủ nguồn lực xử lý ngân hàng đổ vỡ
tại Mỹ. Các giải pháp chủ yếu bao gồm: thay đổi cơ sở tính phí Bảo hiểm tiền gửi từ
tổng số tiền gửi được bảo hiểm sang tổng tài sản; tăng tỷ lệ phí; áp dụng hình thức
thu trước 3 năm phí Bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi.
- Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan (CDIC): CDIC áp dụng hệ
thống phí đồng hạng từ năm 1985 đến năm 1999. Từ năm 1999 đến nay, CDIC triển
khai hệ thống phí theo mức độ rủi ro. Về tổng thể, CDIC xếp hạng tổ chức thành viên
bằng cách sử dụng 2 nhóm chỉ tiêu chính là: tỷ lệ mức đủ vốn; điểm tổng hợp của hệ

thống xếp hạng dữ liệu kiểm tra do hệ thống cảnh báo sớm tính toán. Hệ thống phí
theo mức độ rủi ro của CDIC sử dụng tổng hợp hai nhóm đánh giá trên để áp dụng
các mức phí phù hợp cho các nhóm tổ chức tương ứng. Trong giai đoạn 2000-2007,
CDIC áp dụng phương pháp tính phí với ba mức là 0,05%; 0,055% và 0,06% tổng số
dư tiền gửi được bảo hiểm. Sau một thời gian áp dụng, CDIC đã rút ra kết luận:
khoảng cách về tỷ lệ phí giữa các nhóm ngân hàng thấp đã không khuyến khích một
cách có hiệu quả các ngân hàng hướng tới quản lý rủi ro tốt hơn và giảm thiểu rủi ro.
Vì vậy năm 2007, CDIC đã áp dụng phí năm với các mức 0,03%; -0,04%; -0,06% và
-0,07%. Như vậy, nhóm có rủi ro cao nộp phí với tỷ lwj cao hơn gấp đôi so với nhóm
có rủi ro thấp. Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính vừa qua, với việc quỹ dự trữ
Bảo hiểm tiền gửi bị âm 1,8 tỷ USD, Luật Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan cho phép
CDIC tăng phí Bảo hiểm tiền gửi để bù đắp thâm hụt quỹ.
1.4.5.2. Kinh nghiệm quốc tế về hạn mức trả tiền bảo hiểm.
Hạn mức trả tiền bảo hiểm luôn là yếu tố quan trọng trong chính sách Bảo
hiểm tiền gửi của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo

SV: Lương Thị Hường

16

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

hướng dẫn của Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), việc xác định hạn mức
chi trả bảo hiểm cần đồng bộ với 2 mục tiêu cơ bản của chính sách bảo hiểm tiền
gửi là bảo vệ những người gửi tiền nhỏ, thiếu thông tin về ngân hàng và góp phần

bảo đảm sự ổn định tài chính. Việc xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm cũng cần
đảm bảo đồng thời 2 nguyên tắc: thứ nhất, hạn mức trả tiền bảo hiểm đủ cao để duy
trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng; thứ hai, hạn mức trả tiền
bảo hiểm đủ thấp để người gửi tiền quy mô lớn không chủ quan với hoạt động ngân
hàng thiếu an toàn và rủi ro, qua đó kiểm soát rủi ro đạo đức, tránh tình trạng mạo
hiểm trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Khi xem xét hạn mức trả tiền bảo hiểm, các quốc gia thường tính tới các yếu
tố liên quan bao gồm: thu nhập GDP bình quân đầu người và các yếu tố liên quan
khác như lạm phát, tỷ giá, lòng tin của người dân vào hệ thống tài chính – ngân
hàng; tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/ tổng số người gửi tiền được bảo
hiểm; tỷ lệ tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ/ tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm và
mức độ rủi ro của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
Trong giai đoạn kinh tế phát triển tương đối ổn định, thường các quốc gia
duy trì hạn mức trả tiền bảo hiểm trong giới hạn từ 2,5-5 lần GDP bình quân đầu
người và bảo vệ được khoảng 80% người gửi tiền và khoảng 30% tổng số dư tiền
gửi được bảo hiểm. Theo khảo sát của Ủy ban ổn định tài chính (FSB), như được
thể hiện ở biểu đồ dưới đây, hạn mức trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền trong giai
đoạn khủng hoảng 2008-2009 có thay đổi từ 2240 USD đến hơn 1 triệu USD, với
mức bình quân vào khoảng 145000 USD. Nếu so với GDP của từng nước hạn mức
trả tiền bảo hiểm bằng từ 83% (Argentina) đến 8000% (Indonesia).
Đối với những nước được khảo sát, trung bình 84% tổng số người gửi tiền
được bảo hiểm được bảo hiểm toàn bộ, cao nhất là Brazil (98,9%) và thấp nhất là Ý
(55%). Với hạn mức trả tiền bảo hiểm 250000 USD, FDIC (Mỹ) có thể bảo hiểm
đầy đủ cho 99,7% (có thể coi là toàn bộ) người gửi tiền. Hạn mức của EU bảo vệ
được 98% người gửi tiền. Về tỉ lệ tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số dư
tiền gửi, 19 nước có cung cấp số liệu trong đó trung bình là 42%, cao nhất là Mỹ
(79%), EU là 60%. Bên cạnh đó, kinh nghiệm cho thấy lạm phát, sự thay đổi thành
phần và quy mô tiền gửi có thể ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị của hạn mức, khiến

SV: Lương Thị Hường


17

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

nó không còn phù hợp với mục tiêu chính sách công. Bởi vậy mà việc điều chỉnh
hạn mức theo định kỳ là cần thiết. Ở những nước có nền kinh tế phát t riển và ổn
định với tỷ lệ lạm phát thấp và hệ thống tài chính tốt, việc điều chỉnh này có thể dễ
dự đoán và ít xảy ra hơn so với những nước có hệ thống tài chính đang phát triển
hoặc đang trải qua giai đoạn bất ổn. Chẳng hạn tại Mỹ, FDIC được trao quyền xem
xét lại hạn mức 5 năm một lần. Trong khi đó tại Zimbabwe, nơi có lạm phát cao,
hạn mức được xét lại 2-3 lần một năm. Theo thông tin của IADI, trong năm 2012 đã
có một số tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thay đổi hạn mức như Úc, Thái Lan, Peru,
Trinidad&Tobaco, Ukcraina.
Thay đổi hạn mức trả tiền bảo hiểm là một cấu phần không thể thiếu trong
tổng thể giải pháp chính sách ứng phó với những diễn biến xấu của hệ thống tài
chính trong cuộc khủng hoảng toàn cầu vừa qua. Trong khủng hoảng, niềm tin của
người dân nói chung và người gửi tiền nói riêng có xu hướng sụt giảm, vì vậy, tăng
hạn mức hoặc chuyển sang chi trả không giới hạn giúp bảo vệ tốt hơn quyền lợi
người gửi tiền, tạo tâm lý yên tâm, qua đó hạn chế tình trạng rút tiền hàng loạt khi
có sự cố về ngân hàng. Theo thống kế của IMF và IADI, trong giai đoạn khủng
hoảng toàn cầu vừa qua có 48 quốc gia và vùng lãnh thổ thực hiện một số giải pháp
mới trong chính sách điều chỉnh hạn mức bảo hiểm tiền gửi. Trong đó có 19 nước
áp dụng hình thức bảo đảm toàn bộ đối với các khoản tiền gửi, 23 nước tăng hạn
mức trả tiền bảo hiểm không xác định thời hạn kết thúc, và 6 nước tăng hạn mức trả

tiền bảo hiểm tạm thời. Trong khủng hoảng, các quốc gia tại châu Á duy trì mức độ
bảo vệ cao từ 5 đến 80 lần GDP bình quân đầu người. Tại Đông Nam Á, hầu hết các
quốc gia đã nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi hoặc chuyển sang đảm bảo toàn bộ.
Sau khủng hoảng, các quốc gia rút lui cơ chế bảo lãnh toàn bộ và quy về cơ chế bảo
hiểm có hạn mức. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đều duy trì hạn mức cao hơn giai
đoạn trước khủng hoảng tài chính.
1.4.5.3. Kinh nghiệm phát triển mô hình hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở một
số quốc gia.
- Mỹ: Cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra đầu những năm 1990 đã chứng
kiến việc trao thẩm quyền xử lý đổ vỡ sau khủng hoảng cao hơn cho FDIC, thể hiện
bằng các nội dung sửa đổi trong Luật Cải cách Tổng công ty BHTG liên bang Mỹ

SV: Lương Thị Hường

18

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

(FDICIA) năm 1991 và Luật ưu tiên người gửi tiền 1993. Theo nội dung cải cách,
hoạt động xử lý ngân hàng của FDIC hoàn toàn độc lập với quyết định của tòa án;
tòa án không được thực hiện bất cứ hành động nào nhằm hạn chế hoặc tác động đến
việc thực thi thẩm quyền của FDIC trong vai trò là tổ chức tiếp nhận đổ vỡ; hoạt
động tiếp nhận của FDIC được miễn mọi khoản thuế và không chịu sự giám sát của
bất kỳ cơ quan nào khác. Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, sự ra
đời của Luật cải cách phố Wall và bảo vệ người tiêu dùng tài chính (Dodd-Frank) đã

cho FDIC quyền xử lý một số tổ chức tài chính phi ngân hàng. Mô hình hoạt động
của tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro tại Mỹ được xem là rất thành công. Mặc dù đã
có rất nhiều ngân hàng (tổng số có 321 ngân hàng) đổ vỡ trong giai đoạn khủng
hoảng 2007-2010 tại Mỹ nhưng quyền lợi của người gửi tiền tại các ngân hàng đều
được bảo hiểm, bản thân các ngân hàng bị đổ vỡ cũng được xử lý một cách êm
thấm. Điều này thể hiện vai trò rất quan trọng và hiệu quả hoạt động của FDIC.
Cùng với những cải cách tích cực và toàn diện hệ thống giám sát tài chính của
Chính phủ Mỹ, FDIC đã thể hiện tốt vai trò là cơ quan tạo lập và khôi phục niềm tin
của công chúng vào thị trường tài chính.
- Hàn quốc: Là nước có cải cách tài chính mạnh mẽ tại Châu Á, mô hình
hoạt động BHTG của tổ chức BHTG (là Tổng công ty BHTG Hàn Quốc – KDIC)
được cụ thể hóa trong luật với quy định về tư cách pháp nhân, quyền hạn, trách
nhiệm và chức năng, đặc biệt là vai trò xử lý đổ vỡ, can thiệp, giám sát các tổ chức
tài chính. Trong việc đảm bảo ổn định hệ thống tài chính, cơ sở pháp lý tại Hàn
Quốc nêu rõ sự hợp tác đa phương chặt chẽ giữa các tổ chức trong mạng an toàn tài
chính “Chính phủ Hàn Quốc và các cơ quan giám sát tài chính phải thông báo cho
KDIC những diễn biến chính như việc tạm ngừng hoạt động, thu hồi giấy phép của
tổ chức tài chính…”.Trong quá trình hình thành và phát triển, KDIC được trao thẩm
quyền và tăng cường năng lực theo mô hình một tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro.
Để ngăn chặn đổ vỡ và giảm thiểu thiệt hại qua kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng
ngân hàng Châu Á, KDIC đang nâng cao vị thế của mình thông qua tăng cường chia
sẻ thông tin giữa các thành viên mạng an toàn tài chính, cải thiện các mô hình giám
sát, kỹ thuật phân tích, trong đó có quyền yêu cầu các cơ quan quản lý và tổ chức tài
chính thực thi các biện pháp thích hợp dựa trên hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra

SV: Lương Thị Hường

19

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

tại chỗ. Trong cuộc khủng hoảng 1996-1998, KDIC đã góp phần tích cực giúp hệ
thống tài chính Hàn Quốc vượt qua khó khăn khi tái cấu trúc 655 tổ chức tài chính
đổ vỡ với số tiền khoảng 126 tỷ USD.
- Nga: Người ta chứng kiến những sửa đổi mô hình BHTG thông qua nội
dung cải cách pháp lý, trong đó có nội dung trao cho Cơ quan BHTG Liên bang
Nga (DIA) quyền tiếp nhận xử lý, hỗ trợ tài chính kèm theo điều kiện nắm cổ phần,
dàn xếp việc bán tài sản của ngân hàng khi mất khả năng thanh toán.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc lựa chọn mô hình BHTG phù hợp tùy
thuộc vào đặc thù phát triển kinh tế - xã hội, trình độ phát triển, cấu trúc hệ thống tài
chính, nhu cầu bảo vệ người gửi tiền. Tính hiệu quả của mô hình BHTG được nhìn
nhận ở góc độ bản chất của hoạt động bảo hiểm là “lấy số đông bù số ít” nhưng phải
mang tính đặc thù là thực hiện các mục tiêu chính sách công, trong đó mục tiêu
quan trọng nhất là bảo vệ người gửi tiền, duy trì niềm tin vào hệ thống ngân hàng và
góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.

SV: Lương Thị Hường

20

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY.
2.1. Cơ sở pháp lý của bảo hiểm tiền gửi.
Các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về tổ chức và hoạt động bảo
hiểm tiền gửi:
- Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về bảo
hiểm tiền gửi; Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP
- Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
- Điều lệ và tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ban hành
kèm theo Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/06/2000 của Thủ tướng Chính
phủ
- Quyết định số 13/2008/QĐ-TTg ngày 18/01/2008 về việc ban hành Quy
chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (thay thế Quyết định số
145/2000/QĐ-TTg ngày 19/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
Quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam)
- Luật Bảo hiểm tiền gửi được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 có hiệu lực
từ ngày 01 tháng 01 năm 2013 đây được coi là bước tiến quan trọng khẳng định sự
quan tâm của Đảng, Quốc hội và Chính phủ trong thực hiện chính sách bảo vệ
người gửi tiền ở Việt Nam. Những nội dung cơ bản của luật bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam
+ Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm tiền gửi: mục tiêu của hoạt
đọng bảo hiểm tiền gửi đã được quy định rõ ràng trong các văn bản trước đây và
một lần nữa được khẳng định chính thức tại Luật Bảo hiểm tiền gửi: “ Hoạt động
Bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp

phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an
toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng”. Quy định này hoàn toàn phù hợp với

SV: Lương Thị Hường

21

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

khuyến nghị của Bộ nguyên tắc cơ bản để phát triển hệ thống Bảo hiểm tiền gửi
hiệu quả của IADI (nguyên tắc 1 – xác định mục tiêu) là mục tiêu chính sách công
cần được quy định rõ ràng và chính thức tại các văn bản có giá trị pháp lý cao nhất.
Nguyên tắc hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi vẫn tiếp tục kế thừa từ cơ sở pháp lý
trước đây khi yêu cầu tham gia bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân. Điều này cũng phù hợp với
Bộ nguyên tắc cơ bản (nguyên tắc 8 – tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi và phạm
vi bảo hiểm), là cơ sở để tập trung nguồn lực bảo vệ người gửi tiền khi xảy ra đổ vỡ,
và hơn thế nữa, hỗ trợ quá trình giám sát thường xuyên các tổ chức nhận tiền gửi,
đảm bảo các tổ chức này tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật.
Hoạt động Bảo hiểm tiền gửi phải công khai minh bạch, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. So với Nghị định 89 và Nghị định 109 về
bảo hiểm tiền gửi được ban hành trước đây, Luật Bảo hiểm tiền gửi đã tách bạch và
quy định rõ ràng hơn nguyên tắc này.
+ Về chủ thể được bảo hiểm tiền gửi: Với mục tiêu bảo vệ những người gửi
tiền nhỏ, lẻ, thiếu thông tin đồng thời cũng để khắc phục những hạn chế của quy

định pháp luật về chủ thể được Bảo hiểm tiền gửi, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định
không bảo hiểm cho tiền gửi của hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và
công ty hợp danh. Vì tiền gửi của các tổ chức mang tính luân chuyển cao, chủ yếu
nhằm mục đích thanh toán chứ không nhằm mục đích tiền gửi tiết kiệm, và thực tế
trong hơn 10 năm qua, số tiền gửi của các đối tượng này không lớn mà chủ yếu là
tiền gửi của cá nhân. Do đó, Luật Bảo hiêm tiền gửi quy định chủ thể được Bảo
hiểm tiền gửi là cá nhân.
+ Tiền gửi được bảo hiểm: so với cơ sở pháp lý trước đây, Luật Bảo hiểm
tiền gửi tiếp tục chính sách bảo hiểm cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân
dưới nhiều hình thức, tuy nhiên không tiếp tục bảo hiểm cho tiền gửi hộ gia đình, tổ
hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi. Mức sở hữu vốn tại các tổ chức tín dụng của cá nhân không được bảo
hiểm tiền gửi giàm từ 10% (Nghị định 89/1999/NĐ-CP) xuống 5%. Điều chỉnh này
phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội cũng như sự thay đổi trong quy mô vốn của các
tổ chức tín dụng hiện nay.

SV: Lương Thị Hường

22

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Lệ Huyền

+ Hạn mức Bảo hiểm tiền gửi: về hạn mức bảo hiểm tiền gửi, Luật quy định
“ Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân
hàng Nhà nước trong từng thời kỳ”. Việc không quy định hạn mức Bảo hiểm tiền

gửi bằng số tuyệt đối mà giao cho Thủ tường Chính phủ quy định như trong Luật
Bảo hiểm tiền gửi là hợp lý vì việc điều chỉnh một quy định của Luật là rất phức
tạp, trong khi hạn mức bảo hiểm tiền gửi là yếu tố cần được điều chỉnh khá linh
hoạt phù hợp với từng thời kỳ đặc biệt là giai đoạn xảy ra khủng hoảng. Hiện nay,
hạn mức được áp dụng là 50 triệu đồng theo Nghị định 109/2005/NĐ-CP đã không
còn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam để có thể bảo vệ tốt cho người
gửi tiền do tỷ lệ lạm phát cao, thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng khá
nhanh. Điều này cũng đòi hỏi Chính phủ cần có những điều chỉnh phù hợp và kịp
thời nhằm bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền. tránh gây ảnh hưởng đến hoạt
động của các tổ chức tín dụng.
+ Thời điểm trả tiền cho người gửi tiền: Việc xác định thời điểm trả tiền bảo
hiểm phù hợp thể hiện cam kết của Nhà nước đối với người dân trong việc bảo đảm
chi trả ngay lập tức khoản tiền bảo hiểm trong hạn mức Bảo hiểm tiền gửi cho
người gửi tiền khi tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi đổ vỡ nhằm củng cố niềm tin
của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, hạn chế hiện tượng rút tiền hàng loạt
tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, qua đó giảm thiểu tình trạng mất khả
năng thanh toán của ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân
hàng. Do vậy, để đảm bảo đạt mục tiêu của Bảo hiểm tiền gửi và phù hợp với quy
định tại Luật các tổ chức tín dụng 2010, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định rõ ràng
thời điểm tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ trả tiền cho người gửi tiền, cụ thể
là: “Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước có
văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp
phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc Ngân hàng Nhà nước có văn bản xác định
chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả
năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền”.
+ Quyền và nghĩa vụ của người gửi tiền được bảo hiểm: đây là một điểm
mới của Luật Bảo hiểm tiền gửi so với cơ sở pháp lý trước đây. Nếu như trong cơ sở

SV: Lương Thị Hường


23

Lớp: Kinh tế bảo hiểm 51B


×