Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nguyên vật liệu tại công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và phát triển nông thôn 658

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.41 KB, 76 trang )

Khãa luËn tèt nghiÖp
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp với nhau nhằm tạo thế đứng cho doanh nghiệp mình đang ngày càng trở
nên gay gắt, khốc liệt. Để có thể đứng vững trong môi trường đó, doanh nghiệp
cần phải tạo ra được những ưu thế riêng có của mình như: chất lượng sản phẩm,
giá cả, mẫu mã, tính hiện đại tiện dụng...
Để có được những ưu thế trên, ngoài yếu tố khoa học kĩ thuật, công nghệ
và trình độ quản lý kinh doanh thì điều kiện tối cần thiết để doanh nghiệp đứng
vững và có uy tín trên thị trường chính là việc quản trị nguyên vật liệu hiệu quả.
Đảm bảo quản trị nguyên vật liệu cho sản xuất là một yêu cầu khách quan,
thường xuyên của mọi đơn vị sản xuất và nó có tác động rất lớn tới kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm
nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong
doanh nghiệp. Nguyên vật liệu được đảm bảo đầy đủ, đồng bộ, đúng chất lượng
là điều kiện quyết định khả năng tái sản xuất mở rộng và góp phần đảm bảo tiến
độ sản xuất trong doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất, nguyên vật liệu là bộ
phận trực tiếp tạo nên sản phẩm, nó chiếm 60-70% trong cơ cấu giá thành sản
phẩm. Do đó, quản trị nguyên vật liệu có vai trò quan trọng trong việc giảm chi
phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của nguyên vật liệu cũng như thực
trạng công tác quản trị nguyên vật liệu tại công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và
phát triển nông thôn 658, tôi chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản
trị nguyên vật liệu tại công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và phát triển nông
thôn 658”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài này là nhằm đạt được sự hiểu biết về
công tác quản trị nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và

1




Khãa luËn tèt nghiÖp
nắm được thực tế thực hiện công tác quản trị nguyên vật liệu tại công ty CP
ĐTXD&PTNT 658 nói riêng. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị góp
phần hoàn thiện công tác quản trị nguyên vật liệu cho công ty.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: dùng số liệu của gói thầu số 4 “ Nhà giảng
đường trung cấp nghề cơ điện và kỹ thuật nông lâm Đông Bắc” thuộc dự án “
Đầu tư xây dựng trường trung cấp nghề cơ điện và kỹ thuật nông lâm Đông BắcLạng Sơn ” để phân tích và làm minh chứng cho thực trạng công tác quản trị
nguyên vật liệu của công ty.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phỏng vấn, quan sát, đọc tài liệu. Từ
thống kê, mô tả và phân tích, làm rõ thực trạng đưa ra được một số giải pháp và
kiến nghị và sử dụng số liệu tổng hợp của phòng Kế hoạch - Kỹ thuật - Dự thầu,
phòng Tài chính kế toán.
5. Kết cấu bài khóa luận:
Ngoài danh mục các từ viết tắt, danh mục sơ đồ bảng biểu và các tài liệu
tham khảo, bài khóa luận được chia thành 3 chương:
Chương I: Quản trị nguyên vật liệu – Những vấn đề lý luận cơ bản.
Chương II: Thực trạng công tác quản trị nguyên vật liệu tại công ty Cổ
phần đầu tư xây dựng và phát triển nông thôn 658.
Chương III: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị nguyên vật liệu
tại công ty Cổ phần đầu tư xây dựng và phát triển nông thôn 658.

2


Khãa luËn tèt nghiÖp


Chương i
quản trị nguyên vật liệu – những vấn đề lý luận cơ bản
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của nguyên vật liệu:
a. Khái niệm

Nguyên vật liệu là những đối tượng lao động doanh nghiệp mua ngoài
hoặc tự sản xuất ra dùng cho mục đích sản xuất ra sản phẩm của doanh nghiệp.
Nguyên vật liệu có thể hiểu là bao gồm “ nguyên liệu” và “ vật liệu”. Trong đó,
nguyên liệu là thuật ngữ để chỉ đối tượng lao động chưa qua chế biến công
nghiệp, còn vật liệu dùng để chỉ những nguyên liệu đã qua sơ chế.
b. Đặc điểm
Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố cơ bản nhất của quá trình sản xuất.
Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì NVL sẽ bị thay
đổi hình dạng và chuyển dịch giá trị một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh
trong kỳ.
Chi phí các loại NVL thường chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản
xuất và giá thành của sản phẩm. Do đó, việc quản lý chặt chẽ NVL ngay từ khâu
thu mua cho đến khâu sử dụng sẽ có ý nghĩa và hiệu quả rất lớn trong việc tiết
kiệm chi phí và tiết kiệm vốn.
Mặt khác, NVL là những tài sản lưu động thuộc nhóm hàng tồn kho,
chúng rất đa dạng và phong phú về chủng loại. NVL cũng tồn tại dưới nhiều
dạng khác nhau, phức tạp vì đời sống lý hóa nên dễ bị tác động bởi điều kiện
thời tiết, khí hậu và môi trường xung quanh.
Từ những đặc điểm trên cho thấy NVL có vai trò rất quan trọng đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

3



Khãa luËn tèt nghiÖp

1.2.

Các cách phân loại nguyên vật liệu:

Nguyên vật liệu là yếu tố đầu vào quyết định rất lớn đến hiệu quả của quá
trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, do đặc điểm là rất phong phú, đa dạng về
chủng loại và chất lượng, cho nên để phục vụ cho công tác quản lý NVL một
cách hiệu quả nhất thì yêu cầu đặt ra là phải tiến hành phân loại NVL. Phân loại
NVL là quá trình sắp xếp NVL theo từng loại, từng nhóm trên một căn cứ nhất
định, tùy thuộc vào từng loại hình cụ thể của từng doanh nghiệp.
Có thể sử dụng nhiều tiêu thức khác nhau để tiến hành phân loại NVL.
Tùy theo yêu cầu quản lý NVL mà mỗi doanh nghiệp có thể áp dụng các cách
phân loại sau:
a. Phân loại theo công dụng của NVL
Theo cách phân loại này, NVL bao gồm:
-Nguyên vật liệu chính: là đối tượng lao động chủ yếu, cấu thành nên thực
thể của sản phẩm và quyết đinh chất lượng của sản phẩm.
-Nguyên vật liệu phụ: là những vật liệu có tác dụng phục vụ trong quá
trình sản xuất, được sử dụng kết hợp với nguyên vật liệu chính làm tăng chất
lượng, mẫu mã của sản phẩm hoặc được sử dụng để đảm bảo cho công cụ lao
động hoạt động bình thường hoặc dùng để phục vụ cho nhu cầu kỹ thuật, nhu
cầu quản lý.
-Nhiên liệu: là những thứ được tiêu dùng cho sản xuất năng lượng như
than, dầu mỏ, hơi đốt… Nhiên liệu thực chất là vật liệu phụ được tách thành một
nhóm riêng do vai trò quan trọng của nó và nhằm mục đích quản lý và hạch toán
thuận tiện hơn.
-Phụ tùng thay thế: gồm các loại phụ tùng, chi tiết được sử dụng để thay

thế, sửa chữa máy móc, thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải.

4


Khãa luËn tèt nghiÖp
-Thiết bị xây dựng cơ bản: bao gồm các loại thiết bị cần lắp, không cần
lắp, các vật kết cấu dùng cho công tác xây dựng cơ bản, trong công nghiệp.
-Vật liệu khác: là các loại vật liệu không được xếp vào các loại kể trên.
Chủ yếu là các loại phế liệu thu hồi từ quá trình sản xuất, hoặc từ việc thanh lý
TSCĐ.
b. Phân loại theo nguồn hình thành NVL
Theo cách phân loại này, NVL bao gồm:
-Vật liệu tự chế: là vật liệu doanh nghiệp tự tạo ra để phục vụ cho nhu cầu
sản xuất.
-Vật liệu mua ngoài: là loại vật liệu doanh nghiệp không tự sản xuất mà do
mua ngoài từ thị trường trong nước và nhập khẩu.
-Vật liệu khác: là loại vật liệu hình thành do được cấp phát, biếu tặng, góp
vốn liên doanh.
c. Phân loại theo mục đích sử dụng của NVL
Theo cách phân loại này, NVL bao gồm:
-Vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm.
-Vật liệu dùng cho các nhu cầu khác: phục vụ cho sản xuất chung, cho
nhu cầu bán hàng, cho quản lý doanh nghiệp.
1.3.

Tầm quan trọng của công tác quản trị nguyên vật liệu:

Như trên đã nói, NVL là một trong ba yếu tố cơ bản nhất của quá trình sản
xuất trong hầu hết các doanh nghiệp. Hơn nữa chi phí NVL lại chiếm tỷ trọng

lớn trong tổng chi phí sản xuất, vì vậy mà nó ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận và
vốn của doanh nghiệp. Mặt khác, một doanh nghiệp thường sản xuất kinh doanh
rất nhiều loại sản phẩm khác nhau và có xu thế ngày càng đa dạng hóa những sản
phẩm của mình. Để sản xuất mỗi loại sản phẩm lại đòi hỏi phải có một số lượng
5


Khãa luËn tèt nghiÖp
một chi tiết, bộ phận và NVL rất đa dạng, nhiều chủng loại. Hơn nữa, lượng
NVL cần sử dụng vào những việc khác nhau và thường xuyên thay đổi. Vì vậy,
tổng số danh mục các loại vật tư, nguyên liệu và chi tiết bộ phận mà doanh
nghiệp phải quản lý rất nhiều và phức tạp, đòi hỏi phải cập nhật thường xuyên.
Bởi vậy, công tác quản tr? NVL là điều kiện không thể thiếu được trong toàn bộ
công tác quản tr? quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm cung
cấp kịp thời, đầy đủ và đồng bộ những vật liệu cần thiết cho sản xuất, đồng thời
kiểm tra được các định mức dự trữ, tiết kiệm vật liệu trong sản xuất, ngăn ngừa
và hạn chế mất mát hư hỏng, lãng phí trong tất cả các khâu của quá trình sản
xuất.
Tổ chức tốt công tác quản tr?, nhiệm vụ và kế hoạch cung ứng NVL là
công việc không thể thiếu và là cơ sở để sử dụng và dự trữ NVL hợp lý. Trong
quá trình kinh doanh chiến lược NVL thì việc tồn tại NVL dự trữ là những bước
đệm cần thiết đảm bảo cho quá trình hoạt động liên tục của doanh nghiệp, các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất khó áp dụng tiến hành sản xuất
kinh doanh đến đâu thì mua NVL đến đó mà cần phải có NVL dự trữ. NVL dự
trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng lại có vai trò rất lớn để cho quá trình
sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục. Do vậy nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn
sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn. Nếu dự trữ quá ít sẽ có thể làm cho quá trình sản
xuất kinh doanh bị gián đoạn, gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo.
Nguyên vật liệu là một trong những tài sản lưu động của doanh nghiệp,
thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Quản trị và sử dụng hợp

lý chúng có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc hoàn thành nhiệm vụ chung của
doanh nghiệp. Do đó, bất kì một doanh nghiệp cũng cần đánh giá đúng vai trò
của công tác quản trị NVL và kiểm soát chặt chẽ tình hình sử dụng NVL trong
doanh nghiệp mình.
1.4.

Nội dung công tác quản trị nguyên vật liệu:

Việc quản trị nguyên vật liệu là cần thiết khách quan của mọi nền sản xuất
xã hội. Tuy nhiên, do trình độ sản xuất khác nhau nên phạm vi, mức độ và
6


Khãa luËn tèt nghiÖp
phương pháp quản trị nguyên vật liệu cũng khác nhau. Làm thế nào để cùng một
khối lượng nguyên vật liệu có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm nhất thoả mãn nhu
cầu ngày càng cao của khách hàng. Việc quản trị nguyên vật liệu có hiệu quả hay
không phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, trách nhiệm của cán bộ quản lý. Việc
quản trị nguyên vật liệu bao gồm các nội dung sau:
1.4.1. Xây dựng định mức tiêu dùng nguyên vật liệu:
Định mức tiêu dùng NVL là lượng NVL tiêu dùng lớn nhất cho phép để
sản xuất một đơn vị sản phẩm hoặc để hoàn thiện một công việc nào đó trong
điều kiện tổ chức và điều kiện kỹ thuật nhất định.
Việc xây dựng định mức tiêu dùng vật liệu chính xác và đưa mức đó vào
áp dụng trong sản xuất là biện pháp quan trong nhất để thực hiện tiết kiệm vật
liệu có cơ sở quản lý chặt chẽ việc sử dụng NVL. Mức tiêu dùng NVL còn là căn
cứ để tiến hành kế hoạch hoá cung ứng và sử dụng vật liệu, tạo điều kiện cho
hạch toán kinh tế và thúc đẩy phong trào thi đua và thực hành tiết kiệm trong các
doanh nghiệp.
Phương pháp xây dựng định mức tiêu dùng NVL có ý nghĩa quyết định

đến chất lượng cách mức đã được xác định. Tuỳ theo từng đặc điểm kinh tế kỹ
thuật và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà lựa chọn phương pháp xây
dựng ở mức thích hợp. Trong thực tế có các phương pháp xây dựng định mức
tiêu dùng vật liệu sau đây.
a. Phương pháp định mức theo thống kê kinh nghiệm
Là phương pháp dựa vào 2 căn cứ: các số liệu thống kê về mức tiêu dùng
nguyên vật liệu của kỳ báo cáo những kinh nghiệm của những công nhân tiên
tiến rồi dùng phương pháp bình quân gia quyền để xác định định mức.
Ưu điểm: đơn giản, dễ vận dụng, có thể tiến hành nhanh chóng, phục vụ
kịp thời cho sản xuất.
Nhược điểm: ít tính khoa học và tính chính xác.
7


Khãa luËn tèt nghiÖp
b. Phương pháp thực nghiệm
Là phương pháp dựa trên kết quả của phòng thí nghiệm kết hợp với
những điều kiện sản xuất nhất định để kiểm tra, sửa đổi và kết quả đã tính toán
để tiến hành sản xuất thử nhằm xác định định mức cho kế hoạch.
Ưu điểm: có tính chính xác và khoa học hơn phương pháp thống kê.
Nhược điểm: Chưa phân tích toàn bộ các yếu tố ảnh hưởng đến định mức
và còn phu thuộc vào phòng thí nghiệm, có thể không phù hợp với điều kiện sản
xuất.
c. Phương pháp phân tích
Là phương pháp kết hợp việc tính toán về kinh tế kĩ thuật với việc phân
tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc tiêu hao nguyên vật liệu, chính vì thế nó
được tiến hành theo hai bước.
Bước 1: Thu thập và nghiên cứu các tài liệu đến mức đặc biệt là về thiết kế
sản phẩm, đặc tính của nguyên vật liệu, chất lượng máy móc thiết bị, trình độ tay
nghề công nhân...

Bước 2: Phân tích từng thành phần trong cơ cấu định mức, tính hệ số sử
dụng và đề ra biện pháp phấn đấu giảm mức trong kì kế hoạch.
Ưu điểm: Có tính khoa học và tính chính xác cao, đưa ra một mức tiêu
dùng hợp lý nhất. Hơn nữa khi sử dụng phương pháp này định mức tiêu dùng
luôn nằm trong trạng thái được cải tiến.
Nhược điểm: Nó đòi hỏi một lượng thông tin tương đối lớn toàn diện
vàchính xác, điều này có nghĩa là công tác thông tin trong doanh nghiệp phải tổ
chức tốt. Một điều dễ thấy khác đó là một lượng thông tin như vậy đòi hỏi phải
có đội ngũ xử lý thông tin có trình độ và năng lực cao, nhưng dù thế nào đi nữa
thì đây cũng là phương pháp tiên tiến nhất.
1.4.2. Hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu:
8


Khãa luËn tèt nghiÖp
Trong toàn bộ công tác quản lý nguyên vật liệu thì khâu hoạch định nhu
cầu NVL là khâu đầu tiên và được đánh giá là khâu quan trọng nhất. Một phương
pháp thường hay được sử dụng khi tiến hành xác định nhu cầu NVL là phương
pháp MRP.
a. Khái niệm MRP ( Material Requirements Planning)
MRP là hệ thống hoạch định và xây dựng lịch trình về những nhu cầu
NVL, linh kiện cần thiết trong từng giai đoạn, dựa trên việc phân chia nhu cầu
NVL thành nhu cầu độc lập và nhu cầu phụ thuộc. Nó được thiết kế nhằm trả lời
các câu hỏi:
- Doanh nghiệp cần những loại nguyên liệu, chi tiết, bộ phận gì?
- Cần bao nhiêu?
- Khi nào cần và trong khoảng thời gian nào?
- Khi nào cần phát đơn hàng bổ sung hoặc lệnh sản xuất?
- Khi nào nhận được hàng?
Kết quả thu được là hệ thống kế hoạch chi tiết về các loại NVL, chi tiết,

bộ phận và thời gian biểu cụ thể nhằm cung ứng đúng thời điểm cần thiết. Hệ
thống kế hoạch này thường xuyên được cập nhật những dữ liệu cần thiết cho
thích hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sự biến động
của môi trường bên ngoài.

9


Khóa luận tốt nghiệp
b. Xây dựng hệ thống hoạch định nhu cầu nguyên
vật liệu
Sơ đồ 1.1: Những yếu tố cơ bản của hệ thống MRP
Đầu vào

Đơn
hàng
Dự
báo

Quá
trình
xử lý

Đầu ra

Những
thay đổi

Lịch
trình

sản
xuất

Lịch đặt
hàng theo
kế hoạch
Xoá bỏ
đơn hàng

Thiết
kế sự
thay
đổi

Hồ sơ
hoá
đơn
NVL

Chơng
trình máy
tính MRP

Báo cáo
nhu cầu
NVL hàng
ngày
Báo cáo về
kế hoạch


Báo cáo
đơn hàng
thực hiện

Tiếp
nhận
Rút
ra

Các
nghiệp vụ
dự trữ

Hồ sơ
VL dự
trữ

10


Khãa luËn tèt nghiÖp

Để thực hiện những quá trình đó cần biết một loạt các yếu tố đầu vào chủ
yếu như:
- Số lượng, nhu cầu sản phẩm dự báo.
- Số lượng sản phẩm trong đơn đặt hàng.
- Mức sản xuất và dự trữ.
- Cấu trúc của sản phẩm .
- Danh mục NVL, chi tiết, bộ phận.
- Thời điểm sản xuất.

- Thời hạn cung ứng hoặc thời gian thi công.
- Dự trữ hiện có và kế hoạch.
- Mức phế phẩm cho phép.
Những thông tin này được thu nhập, phân loại và xử lý bằng chương trình
máy tính. Chúng được thu thập từ 3 tài liệu chủ yếu:
- Lịch trình sản xuất
- Bảng danh mục nguyên vật liệu.
- Hồ sơ dự trữ nguyên vật liệu.
Lịch trình sản xuất chỉ rõ nhu cầu sản phẩm cần sản xuất và thời gian phải
có. Đây là những nhu cầu độc lập. Số lượng cần thiết được lấy ra từ những
nguồn khác nhau. Như đơn đặt hàng của khách, số liệu dự báo. Thời gian thường
lấy là đơn vị tuần. Hợp lý nhất là lấy lịch trình sản xuất bằng tổng thời gian để
sản xuất ra sảm phẩm cuối cùng. Đó là tổng số thời gian cần thiết trong quá
trình lắp ráp sản phẩm. Vấn đề đặc biệt quan trọng trong MRP là sự ổn định
trong kế hoạch sản xuất ngắn hạn.
11


Khãa luËn tèt nghiÖp
Bảng danh mục vật tư linh kiện cung cấp thông tin về các loại chi tiết, linh
kiện và bộ phận hợp thành cần thiết để tạo ra một đơn vị sản phẩm cuối cùng. Do
đó, mỗi loại đơn vị sản phẩm đều có hồ sơ danh mục NVL, chi tiết bộ phận riêng
biệt. Bảng danh mục vật tư còn cho biết thông tin về mối liên hệ giữa các hạng
mục linh kiện nằm ở đâu trong quá trình sản xuất. Thông qua hệ thống hóa và
phân tích cấu trúc hình cây của sản phẩm, các dữ kiện về NVL, linh kiện được
ghi theo thứ tự bậc từ cao xuống thấp. Mỗi đơn vị sản phẩm gồm những chi tiết
bộ phận ở những bậc khác nhau trong cấu trúc từ trên xuống.
Hồ sơ dự trữ cho biết lượng dự trữ NVL, bộ phận hiện có. Nó dùng để ghi
chép, báo cáo tình trạng của từng loại NVL, chi tiết bộ phận trong từng thời gian
cụ thể. Hồ sơ dự trữ cho biết trong nhu cầu, đơn hàng sẽ tiếp nhận và những

thông tin chi tiết khác như người cung ứng, độ dài thời gian cung ứng và độ lớn
lô cung ứng. Hồ sơ dự trự NVL, bộ phận cần phải chính xác, do đó đòi hỏi công
tác theo dõi, ghi chép thận trọng cụ thể chi tiết. Những sai sót trong hồ sơ dự trữ
sẽ dẫn đến những sai sót lớn trong MRP.
Những yếu tố đầu ra chính là kết quả của MRP cần trả lời được các vấn đề
cơ bản sau:
- Cần đặt ra hàng hoá sản xuất những loại linh kiện phụ tùng nào?
- Số lượng bao nhiêu?
- Thời gian khi nào?
Những thông tin này được thể hiện trong các văn bản, tài liệu như lệnh
phát đơn đặt hàng kế hoạch, lệnh sản xuất nếu tự gia công, báo cáo về dự trữ. Có
nhiều loại tài liệu báo cáo hồ sơ NVL, chi tiết bộ phận dự trữ.
c. Trình tự hoạch định nhu cầu NVL
Xây dựng MRP bắt đầu đi từ lịch trình sản xuất sản phẩm cuối cùng, sau
đó chuyển đổi thành nhu cầu về các bộ phận chi tiết và nguyên liệu cần thiết,
trong những giai đoạn khác nhau. Từ sản phẩm cuối cùng xác định nhu cầu dự
12


Khãa luËn tèt nghiÖp
kiến về các chi tiết, bộ phận ở cấp thấp hơn tuỳ theo cấu trúc của sản phẩm. MRP
tính số lượng chi tiết, bộ phận trong từng giai đoạn cho từng loại sản phẩm dự
trữ hiện có. Và xác định chính xác thời điểm cần phát đơn hàng hoặc lệnh sản
xuất đối với từng loại chi tiết, bộ phận đó.
MRP tìm cách xác định mối liên hệ giữa lịch trình sản xuất, đơn đặt hàng,
lượng tiếp nhận và nhu cầu sản phẩm. Mối quan hệ này được phân tích trong
khoảng thời gian từ khi một sản phẩm được đưa vào phân xưởng cho tới khi rời
phân xưởng đó để chuyển sang bộ phận khác. Để xuất xưởng một sản phẩm
trong một vài ngày ấn định nào đó, cần phải sản xuất các chi tiết, bộ phận hoặc
đặt mua NVL, linh kiện bên ngoài trước một thời hạn nhất định. Quá trình xác

định MRP được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Phân tích kết cấu sảm phẩm.
Như trên đã đề cập, phương pháp hoạch định nhu cầu NVL được tiến hành
dựa trên việc phân loại nhu cầu thành nhu cầu độc lập và nhu cầu phụ thuộc.
Nhu cầu độc lập là nhu cầu sản phẩm cuối cùng và các chi tiết bộ phận
khách hàng đặt hoặc dùng để thay thế. Nhu cầu độc lập được xác định thông qua
công tác dự báo hoặc đơn hàng. Chất lượng của công tác dự báo kể cả dài hạn,
trung hạn và ngắn hạn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tính chính xác của MRP.
Nhu cầu phụ thuộc là những nhu cầu thứ sinh, chúng là những bộ phận,
chi tiết cấu thành nhu cầu độc lập. Đó là những bộ phận, chi tiết, NVL dùng
trong quá trình sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm cuối cùng. Nhu cầu này được xác
định thông qua cấu trúc sản phẩm cuối cùng, nhu cầu dự báo đơn đặt hàng, kế
hoạch dự trữ và lịch trình sản xuất.
Để tính tổng nhu cầu phụ thuộc, cần tiến hành phân tích cấu trúc của sảm
phẩm. Cách phân tích dùng trong MRP là sử dụng kết cấu hình cây của sảm
phẩm. Mỗi hạng mục trong kết cấu hình cây tương ứng với từng chi tiết, bộ phận
cấu thành sảm phẩm. Chúng được biểu diễn dưới dạng cấp bậc từ trên xuống

13


Khãa luËn tèt nghiÖp
dưới theo trình tự sản xuất và lắp ráp sảm phẩm. Sử dụng kết cấu hình cây có
những đặc điểm sau:
- Cấp trong sơ đồ kết cấu: Nguyên tắc chung cấp 0 là cấp ứng với sảm
phẩm cuối cùng. Cứ mỗi lần phân tích thành phần cấu tạo của bộ phận ta lại
chuyển sang một cấp.
- Mối liên hệ trong sơ đồ kết cấu: Đó là những đường liên hệ giữa 2 bộ
phận trong sơ đồ kết cấu hình cây. Bộ phận trên gọi là bộ phận hợp thành và bộ
phận dưới là bộ phận thành phần. Mối liên hệ có ghi kèm theo khoảng thời gian

(chu kỳ sản xuất, mua sắm …) và hệ số nhân. Số lượng các loại chi tiết và mối
liên hệ trong sơ đồ thể hiện tính phức tạp của cấu trúc sản phẩm. Sản phẩm càng
phức tạp thì sổ chi tiết, bộ phận càng nhiều và mối quan hệ giữa chúng càng lớn.
Để quản lý theo dõi và tính toán chính xác từng loại NVL, cần phải sử dụng máy
tính để hệ thống hoá, mã hoá chúng theo sơ đồ cấu trúc thiết kế sản phẩm.
Kết quả của phân tích sơ đồ kết cấu sản phẩm cần phản ánh được số lượng
các chi tiết và thời gian thực hiện.
Bước 2: Tính tổng nhu cầu
Tổng nhu cầu chính là tổng số lượng dự kiến đối với một loại chi tiết hoặc
NVL trong từng giai đoạn mà không tính đến dự trữ hiện có hoặc lượng sẽ tiếp
nhận được. Tổng nhu cầu hạng mục cấp 0 lấy ở lịch trình sản xuất. Đối với hạng
mục cấp thấp hơn, tổng nhu cầu được tính trực tiếp số lượng phát đơn hàng của
hạng mục cấp cao hơn ngay trước nó.
Đó là nhu cầu phát sinh do nhu cầu thực tế về một bộ phận hợp thành nào
đó đòi hỏi tổng nhu cầu của các bộ phận, chi tiết bằng số lượng đặt hàng theo kế
hoạch của các bộ phận trung gian trước nó nhân với hệ số nhân nếu có.
Bước 3: Tính nhu cầu thực
Nhu cầu thực là tổng số lượng nguyên liệu, chi tiết cần thiết bổ sung trong
từng giai đoạn. Đại lượng này được tính như sau:
14


Khãa luËn tèt nghiÖp
Nhu cầu thực = Tổng nhu cầu - Dự trữ hiện có + Dự trữ an toàn
Trong trường hợp doanh nghiệp chấp nhận một tỷ lệ phế phẩm theo kế
hoạch thì nhu cầu thực cần cộng thêm phần phế phẩm cho phép đó.
Dự trữ sẵn có là tổng dự trữ đang có ở thời điểm bắt đầu của từng thời kỳ.
Dự trữ sẵn có theo kế hoạch là số lượng dự trữ dự kiến có thể sử dụng để thoả
mãn nhu cầu của sản xuất. Đó là tổng của dự trữ còn lại từ giai đoạn trước cộng
với số lượng sẽ tiếp nhận.

Lượng tiếp nhận là tổng số bộ phận, chi tiết đủ đưa vào sản xuất nhưng
chưa hoàn thành hoặc là số lượng đặt hàng mong đợi sẽ nhận được tại điểm bắt
đầu của mỗi giai đoạn.
Đơn hàng phát ra theo kế hoạch là tổng khối lượng dự kiến kế hoạch đặt
hàng trong từng giai đoạn. Lệnh đề nghị phản ánh số lượng cần cung cấp hay sản
xuất để thoả mãn nhu cầu thực. Lệnh đề nghị có thể là đơn đặt hàng đối với các
chi tiết bộ phận ngoài và là lệnh sản xuất nếu chúng được sản xuất tại doanh
nghiệp. Khối lượng hàng hoá và thời gian của lệnh đề nghị được xác định trong
đơn hàng kế hoạch. Tuỳ theo chính sách đặt hàng có thể đặt theo lô hoặc theo
kích cỡ.
Đặt hàng theo lô là số lượng hàng đặt bằng với nhu cầu thực. Đặt hàng
theo kích cỡ là số lượng hàng đặt có thể vượt nhu cầu thực bằng cách nhân với 1
lượng cụ thể hoặc bằng đúng lượng yêu cầu trong thời điểm đó. Bất kỳ lượng
vượt nào đều được bổ sung vào dự trữ hiện có của giai đoạn tiếp theo.
Bước 4: Xác định thời gian phát đơn đặt hàng hoặc lệnh sản xuất.
Để cung cấp hoặc sản xuất NVL, chi tiết cần tốn thời gian cho chờ đợi,
chuẩn bị, bốc dỡ, vận chuyển, sắp xếp hoặc sản xuất. Đó là thời gian phân phối
hay thời gian cung cấp, sản xuất của mỗi bộ phận.
Do đó từ thời điểm cần có sản phẩm để đáp ứng nhu cầu khách hàng sẽ
phải tính ngược lại để xác định khoảng thời gian cần thiết cho từng chi tiết, bộ
15


Khóa luận tốt nghiệp
phn. Thi gian phi t hng hoc t sn xut c tớnh bng cỏch ly thi
im cn cú tr i khong thi gian cung ng hoc sn xut cn thit cung
cp ỳng lng hng yờu cu.
Vớ d: Sn phm hon chnh c ghi cp 0 trờn nh cõy. Sau ú l
nhng b phn cn thit lp rỏp thnh sn phm hon chnh cp 1. Sau ú
mi b phn ny li c cu to t nhng chi tit khỏc v cỏc chi tit ny c

biu din bc cp 2. C nh vy tip din hỡnh thnh cõy cu trỳc sn phm.
Cấp 0

X

Cấp 1

B

Cấp 2

C

E

D

Cấp 3

G

H

F

I

Thời gian cần thiết để cung cấp hoặc sản xuất các chi
tiết bộ phận nh sau:
Chi tiết


X

B

C

D

E

F

G

H

I

Tuần

1

3

2

3

2


4

2

1

1

16


Khóa luận tốt nghiệp

Sơ đồ 1.2: Cấu trúc sảm phẩm theo thời gian:
Tuần

Tuần

Tuần

Tuần

Tuần

Tuần

Tuần

Tuần


1

2

3

4

5

6

7

8

Mua H
Sản xuất
Mua I

Lắp ráp B
Mua E

Lắp ráp X
Mua G

Lắp ráp C

Sản xuất F


Kt qu ca quỏ trỡnh hoch nh nhu cu NVL, linh kin c th hin
trong biu k hoch cú cỏc ni dung nh:
- Tng nhu cu.
- Lng tip nhn theo tin .
- D tr cú sn.
- Nhu cu thc.
- Lng tip nhn n t hng theo k hoch.
- Lng n hnh phỏt ra theo k hoch.

17


Khãa luËn tèt nghiÖp
1.4.3. Bảo đảm nguyên vật liệu cho sản xuất:
Như chúng ta đã biết NVL là một trong ba yếu tố cấu thành của quá trình
sản xuất (sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động), nội dung cơ bản
của đối tượng lao động là NVL. Nếu xét về mặt vật chất thì NVL là yếu tố cấu
thành nên thực thể của sản phẩm, chất lượng sản phẩm. Chất lượng của NVL có
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Xét về mặt giá trị thì tỷ trọng các
yếu tố NVL chiếm phần lớn trong cơ cấu giá thành. Còn xét về lĩnh vực vốn thì
tiền bỏ ra mua NVL chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động của các doanh
nghiệp. Do đó, việc đảm bảo NVL trong sản xuất là yêu cầu cấp bách đặt ra đối
với mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Để đảm bảo NVL trong sản xuất phải thực
hiện tốt các yêu cầu sau:
- Đảm bảo cung cấp kịp thời NVL cho sản xuất. Tính kịp thời là yêu cầu về
mặt lượng của sản xuất. Phải luôn đảm bảo để không xảy ra tình trạng
thiếu NVL làm cho sản xuất bị gián đoạn.
- Đảm bảo đủ số lượng, chất lượng, chủng loại và quy cách của NVL. Tính
kịp thời phải gắn liền với đủ về số lượng và đúng về chất lượng. Đây là

một yêu cầu của công tác phục vụ. Nếu cung cấp kịp thời nhưng thừa về
số lượng và chất lượng không đảm bảo thì hiệu quả sản xuất sẽ không cao.
Về mặt quy cách và chủng loại cũng là yếu tố quan trọng, nếu cung cấp
kịp thời, đủ số lượng, đảm bảo chất lượng nhưng sai quy cách và chủng
loại sẽ gây nhiều thiệt hại cho sản xuất, thậm chí sản xuất còn bị gián
đoạn.
- Đảm bảo cung cấp đồng bộ. Tính đồng bộ trong cung cấp cũng có ý nghĩa
tương tự như tính cân đối trong sản xuất. Tính đồng bộ hoàn toàn không
phải là sự bằng nhau về số lượng mà đó chính là quan hệ tỷ lệ do định
mức tiêu hao NVL cho một đơn vị sản phẩm quyết định. Nếu cung cấp
không đồng bộ (tức là không đảm bảo quan hệ tỷ lệ) thì sản xuất sẽ không
mang lại hiệu quả cao. Tính đồng bộ trong cung ứng được thể hiện qua nội
dung của kế hoạch tiến độ mua sắm nguyên vật liệu.
18


Khãa luËn tèt nghiÖp
1.4.4. Tổ chức mua sắm, tiếp nhận nguyên vật liệu:
Mua sắm, tiếp nhận NVL là một khâu quan trọng và là khâu mở đầu của
việc quản lý. Nó là bước chuyển giao trách nhiệm trực tiếp bảo quản và đưa vật
liệu vào sản xuất giữa đơn vị cung ứng và đơn vị tiêu dùng. Đồng thời nó là ranh
giới giữa bên bán và bên mua, là cơ sở hạch toán chính xác chi phí lưu thông và
giá cả NVL của mỗi bên. Việc thực hiện tốt khâu này sẽ tạo điều kiện cho người
quản lý nắm chắc số lượng, chất lượng và chủng loại, theo dõi kịp thời tình trạng
của NVL trong kho từ đó làm giảm những thiệt hại đáng kể cho hỏng hóc, đổ vỡ,
hoặc biến chất của nguyên vật liệu. Do tính cấp thiết như vậy, trong công tác
mua sắm NVL, doanh nghiệp phải tiến hành đánh giá và lựa chọn các nhà cung
ứng tốt nhất, cung cấp NVL có chất lương cao nhất mà vẫn đảm bảo chi phí hợp
lý. Còn trong khâu tổ chức tiếp nhận NVL phải thực hiện tốt hai nhiệm vụ:
Một là, tiếp nhận một cách chính xác về chất lượng, số lượng, chủng loại

NVL theo đúng nội dung, điều khoản đã ký kết trong hợp đồng kinh tế, trong hoá
đơn, phiếu giao hàng, phiếu vận chuyển...
Hai là, phải vận chuyển một cách nhanh chóng nhất để đưa NVL từ địa
điểm tiếp nhận vào kho của doanh nghiệp tránh hư hỏng, mất mát và đảm bảo
sẵn sàng cấp phát kịp thời cho sản xuất.
Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ này công tác tiếp nhận phải tuân thủ những
yêu cầu sau:
- Nguyên vật liệu khi tiếp nhận phải có đầy đủ giấy tờ hợp lệ tuỳ theo nguồn
tiếp nhận khác nhau trong ngành, ngoài ngành hay trong nội bộ doanh
nghiệp.
- Nguyên vật liệu khi nhập phải qua đủ thủ tục kiểm nhận và kiểm nghiệm.
Phải xác định chính xác số lượng, chất lượng, chủng loại hoặc phải làm thủ
tục đánh giá, xác nhận nếu có hư hỏng mất mát.

19


Khãa luËn tèt nghiÖp
- Nguyên vật liệu sau khi tiếp nhận sẽ được thủ kho ghi số thực nhập và người
giao hàng cùng với thủ kho ký vào phiếu nhập kho. Phiếu nhập kho sẽ được
chuyển cho bộ phận kế toán ký nhận vào sổ giao nhận chứng từ.
Bên doanh nghiệp và bên cung ứng phải thống nhất địa điểm tiếp nhận,
cung ứng thẳng hay qua kho của doanh nghiệp.
1.4.5. Tổ chức quản lý kho dự trữ:
Kho là nơi tập trung dự trữ NVL, nhiên liệu, thiết bị máy móc, dụng cụ
chuẩn bị cho quá trình sản xuất , đồng thời cũng là nơi dự trữ thành phẩm của
doanh nghiệp trước khi tiêu thụ. Do tính chất đa dạng và phức tạp của NVL nên
hệ thống kho của doanh nghiệp phải có nhiều loại khác nhau phù hợp với nhiều
loại NVL. Thiết bị kho là những phương tiện quan trọng để đảm bảo giữ gìn toàn
vẹn số lượng và chất lượng cho NVL.

Do vậy, tổ chức quản lý kho phải thực hiện những nhiệm vụ sau :
- Bảo quản toàn vẹn số lượng, chất lượng nguyên vật liệu, hạn chế ngăn ngừa
hư hỏng, mất mát đến mức tối thiểu.
- Luôn nắm chắc tình hình nguyên vật liệu vào bất kỳ thời điểm nào nhằm đáp
ứng một cách nhanh nhất cho sản xuất.
- Bảo đảm thuận tiện cho việc xuất nhập, kiểm tra bất cứ lúc nào.
- Bảo đảm hạ thấp chi phí bảo quản, sử dụng hợp lý và tiết kiệm diện tích kho.
Để thực hiện những nhiệm vụ trên công tác quản lý kho bao gồm những
nội dung chủ yếu sau:
- Công tác sắp xếp nguyên vật liệu : dựa vào tính chất, đặc điểm NVL và tình
hình cụ thể của hệ thống kho để sắp xếp NVL một cách hợp lý, khoa hoc,
đảm bảo an toàn ngăn nắp, thuận tiện cho việc xuất nhập, kiểm kê. Do đó,
phải phân khu, phân loại kho, đánh số, ghi ký hiệu các vị trí NVL một cách
hợp lý.
20


Khãa luËn tèt nghiÖp
- Bảo quản nguyên vật liệu: Phải thưc hiện đúng theo quy trình, quy phạm nhà
nước ban hành để đảm bảo an toàn chất lượng NVL.
- Xây dựng và thực hiện nội quy về chế độ trách nhiệm và chế độ kiểm tra
trong việc bảo quản NVL.
1.4.6. Tổ chức cấp phát nguyên vật liệu:
Cấp phát NVL là hình thức chuyển NVL từ kho xuống các bộ phận sản
xuất. Việc cấp phát một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác và khoa học sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tận dụng có hiệu quả cao năng suất lao động của
công nhân, máy móc thiết bị, làm cho sản xuất được tiến hành liên tục, từ đó làm
tăng chất lượng sản phẩm đồng thời làm giảm giá thành sản phẩm.
Việc cấp phát NVL có thể tiến hành theo các hình thức sau:
+ Cấp phát theo yêu cầu của các bộ phận sản xuất:

Căn cứ vào yêu cầu NVL của từng phân xưởng, từng bộ phận sản xuất đã
báo trước cho bộ phận cấp phát của kho trong thời gian nhất định để tiến hành
cấp phát. Số lượng NVL được yêu cầu được tính toán dựa trên nhiệm vụ sản xuất
và hệ thống định mức tiêu dùng nguyên vật liệu mà doanh nghiệp đã tiêu dùng.
- Ưu điểm: đáp ứng kịp thời tiến độ sản xuất đối với từng bộ phận của doanh
nghiệp , tránh những lãng phí và hư hỏng không cần thiết.
- Hạn chế : bộ phận cấp phát của kho chỉ biết được yêu cầu của bộ phận trong
thời gian ngắn, việc cấp phát kiểm tra tình hình sử dụng gặp nhiều khó khăn,
thiếu tính kế hoạch và chủ động cho bộ phận cấp phát.
+ Cấp phát theo tiến độ kế hoạch (cấp phát theo hạn mức):
Đây là hình thức cấp phát quy định cả số lượng và thời gian nhằm tạo sự
chủ động cho cả bộ phận sử dụng và bộ phận cấp phát. Dựa vào khối lượng sản
xuất cũng như dựa vào định mức tiêu dùng NVL trong kỳ kế hoạch, kho cấp
phát NVL cho các bộ phận sau từng kỳ sản xuất. Doanh nghiệp thực hiện quyết
21


Khãa luËn tèt nghiÖp
toán vật tư nội bộ nhằm so sánh số sản phẩm đã sản xuất ra với số lượng NVL
đã tiêu dùng . Trường hợp thừa hay thiếu sẽ được giải quyết một cách hợp lý và
có thể căn cứ vào một số tác động khách quan khác. Thực tế cho thấy hình thức
cấp phát này đạt hiệu quả cao, giúp cho việc giám sát hạch toán tiêu dùng NVL
chính xác, bộ phận cấp phát có thể chủ động triển khai việc chuẩn bị NVL một
cách có kế hoạch, giảm bớt giấy tờ và đỡ thao tác tính toán. Do vậy, hình thức
cấp phát này đạt hiệu quả cao và được áp dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp có
mặt hàng sản xuất tương đối ổn định và có hệ thống định mức tiên tiến, có kế
hoạch sản xuất.
Ngoài hai hình thức cơ bản trên, trong thực tế còn có hình thức: “ Bán
nguyên vật liệu mua thành phẩm ”. Đây là bước phát triển cao của công tác quản
lý nguyên vật liệu nhằm phát huy đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong các bộ

phận sử dụng vật tư , hạch toán chính xác, giảm sự thất thoát đến mức tối thiểu.
Với bất kỳ hình thức nào, muốn quản lý tốt NVL cần thực hiện tốt công
tác ghi chép ban đầu, hạch toán chính xác việc cấp phát NVL, thực hiện tốt các
quy định của nhà nước và của doanh nghiệp .
1.5.

Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản trị nguyên vật liệu:

Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản trị nguyên vật liệu bao
gồm cả các yếu tố chủ quan và khách quan. Việc xem xét các yếu tố này là rất
cần thiết để nhằm đánh giá đúng ảnh hưởng của từng nhân tố tới công tác quản
trị NVL.
1.5.1. Đặc điểm sản phẩm:
Sản phẩm thường được cấu thành từ 3 yếu tố, trong đó có NVL, không
những thế chi phí NVL còn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong giá thành sản
phẩm. Do đó để một sản phẩm hoàn chỉnh xong quy trình sản xuất, lưu kho và
chờ ngày lưu thông trên thị trường thì yếu tố quyết định là nguyên vật liệu.
Ngược lại, loại sản phẩm, quy cách sản phẩm cũng tác động không nhỏ đến quy
cách nguyên vật liệu. Có loại sản phẩm đòi hỏi nguyên vật liệu thô chưa qua chế
22


Khãa luËn tèt nghiÖp
biến như những phân xưởng xẻ gỗ thì phải cần nguyên vật liệu là những cây gỗ
chưa hề qua một khâu chế biến nào. Nhưng cũng có loại sản phẩm lại đòi hỏi
nguyên vật liệu là loại đã được chế biến gia công thành một dạng khác so với
hình thái ban đầu.
Hơn nữa cũng một loại sản phẩm nhưng cũng có những loại nguyên vật
liệu khác nhau để sản xuất ra sản phẩm đó. Vì vậy, để có được những sản phẩm
đạt tiêu chuẩn thì ngay từ khâu lựa chọn nguyên vật liệu phải được chú trọng.

Người làm công tác quản trị nguyên vật liệu còn phải dựa vào số lượng
sản phẩm sản xuất theo kế hoạch để tính toán nhu cầu NVL sao cho phù hợp,
giảm thiểu tối đa sự gián đoạn trong quá trình sản xuất do thiếu NVL, hoặc là
lãng phí NVL do xác định nhu cầu lớn hơn mức cần thiết.
1.5.2. Thị trường:
Điểm đầu tiên và cũng là điểm kết thúc của quá trình sản xuất kinh doanh
chính là thị trường. Thị trường là nơi để thu mua nguyên vật liệu phục vụ quá
trình sản xuất, cũng là nơi đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng- kết thúc một
vòng quay của quá trình sản xuất. Hơn nữa, các yếu tố cung cầu trên thị trường
có vai trò quyết định đến giá cả của nguyên vật liệu. Khi cung lớn hơn cầu, giá
cả có xu hướng giảm và ngược lại. Do đó, dựa trên thực tế và khả năng dự báo
sự biến động của thị trường nguyên vật liệu mà các doanh nghiệp có thể lựa chọn
thời điểm thu mua NVL sao cho tiết kiệm chi phí một cách tối đa.
1.5.3. Trình độ khoa học kỹ thuật:
Các thành tựu trong lĩnh vực khoa học công nghệ có tác dụng như lực đẩy
giúp nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua viêc tạo khả năng to lớn đưa chất
lượng sản phẩm không ngừng tăng lên. Tiến bộ khoa học công nghệ đã tạo ra và
đưa vào sản xuất những công nghệ mới có các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cao hơn,
ít tiêu hao nguyên vật liệu, góp phần tiết kiệm chi phí. Đồng thời, khoa học kỹ
thuật cho phép chúng ta tạo ra và tìm ra những nguyên vật liệu mới, nguyên vật
liệu tốt hơn, rẻ hơn, nhờ có tiến bộ khoa học kỹ thuật mà con người có thể tạo ra
23


Khãa luËn tèt nghiÖp
các phương pháp và phương tiện kỹ thuật quản lý tiên tiến góp phần nâng cao
chất lượng, và hạ giá thành sản phẩm.
Mặt khác, khoa học kỹ thuật còn tạo ra các phần mềm tiên tiến, giúp cho
công tác quản lý dự trữ, cấp phát, hạch toán nguyên vật liệu được tiến hành một
các nhanh chóng, chính xác và thuận tiện hơn.

1.5.4. Trình độ lao động:
Trong thời đại công nghệ hiện đại như ngày nay, các loại máy móc thiết bị
ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ đã có thể thay thế con người trong
hầu hết các công việc. Tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò vô cùng quan trọng
của con người là không thể thiếu được trong bất cứ hoạt động, lĩnh vực nào.
Trong công tác quản trị nguyên vật liệu cũng vậy, con người là nhân tố trực tiếp
sử dụng các phương pháp khoa học để tính toán định mức tiêu hao nguyên vật
liệu, xác định nhu cầu nguyên vật liệu cần dùng trong kỳ kế hoạch, tham gia vào
việc quản lý dự trữ, cấp phát và theo dõi việc sử dụng nguyên vật liệu. Nếu các
cán bộ phụ trách vật tư không có trình độ chuyên môn cần thiết thì có thể dẫn
đến nhiều sai sót trong quản trị nguyên vật liệu dùng cho sản xuất. Từ đó, có thể
làm lãng phí nguồn vốn hoặc gây tình trạng chậm trễ trong sản xuất. Mặt khác,
nhờ có con người và thông qua các phương tiện sản xuất mà các yếu tố đầu vào
là nguyên vật liệu có thể kết hợp với nhau tạo nên thực thể sản phẩm. Nói các
khác, nhân tố con người hay trình độ lao động có ảnh hưởng rất lớn đến công tác
quản trị nguyên vật liệu và qua đó là ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm của
doanh nghiệp.
1.6.

Kinh nghiệm quản trị nguyên vật liệu của công ty nước ngoài:

1.6.1. Kinh nghiệm quản trị nguyên vật liệu của TOYOTA:
Toyota là nhà tiên phong trong sản xuất ôtô ở Việt Nam. Giống như tất cả
các chi nhánh của Toyota, Toyota Việt Nam đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng
cao nhất cho tất cả các sản phẩm do mình sản xuất và bán ra. Với lịch sử trên 30
năm, "Hệ thống Sản xuất Toyota " là một hệ thống quản lý rất hiệu quả do
24


Khãa luËn tèt nghiÖp

Toyota tạo ra đã được nhiều công ty áp dụng ở các nước khác nhau trên toàn thế
giới nhằm tối ưu hóa năng suất và chất lượng.
Gốc rễ làm nên sự lớn mạnh của Toyota hôm nay mà ngay các đối thủ của
nó cũng không hiểu đó chính là họ biết cách biến công việc thành một chuỗi các
thực nghiệm đan xen nhau.
JUST IN TIME là phương pháp quản lý công đoạn sản xuất thực thi bằng
các bảng truyền đạt thông tin, các phiếu liên lạc giữa các công đoạn. Trong dây
chuyền sản xuất không có chi tiết thiếu hay thừa, toàn xưởng sản xuất không có
sản phẩm tồn kho, cũng như không có nguyên vật liệu tồn kho. Phương pháp này
tạo ra một quy trình sản xuất khép kín cao độ, nhanh, khoa học. Các công ty vệ
tinh phải làm việc đúng với quy trình và giờ giấc mà hệ thống OA (office
automation) của hãng mẹ điều khiển thông qua các phiếu đặt hàng có chỉ thị giờ
giấc , số lượng chính xác. Người mua chỉ cần mua đủ số hàng mình cần và người
bán phải có đủ hàng ngay lúc đó thoả mãn nhu cầu của người mua. "Người mua"
ở trong quản lý xí nghiệp chính là vị trí công đoạn trong dây chuyền sản xuất lắp
ráp và "người bán" chính là các hệ thống công ty vệ tinh sản xuất hàng trực
thuộc Toyota. Rộng hơn trong toàn bộ quy trình quản lý từ sản xuất đến phân
phối xe của Toyota là sẽ không có hiện tượng xe tồn kho, nguyên vật liệu tồn
kho, xe sản xuất đúng và đủ với đơn đặt hàng, đúng chính xác giờ giấc giao hàng
cho khách hàng.
Ngoài ra, Toyota còn sử dụng “hệ thống kéo” để tránh việc sản xuất thừa:
Hệ thống kéo xoay quanh ý tưởng cung cấp thêm hàng hóa dựa trên nhu cầu
hàng ngày của khách hàng hơn là cố định theo một lịch trình hoặc hệ thống. Nó
được gọi là hệ thống linh hoạt theo nhu cầu của khách hàng.
Bên cạnh đó, Toyota còn thực hiện tốt quá trình bổ sung vật tư cho sản
xuất. Những bộ phận cần được phục hồi sẽ tự động lấp đầy vào quy trình sản
xuất một cách hiệu quả. Một tấm thẻ gọi là “thẻ thông báo” hay “thẻ báo hiệu
sản xuất” sẽ được sử dụng như là một bảng chỉ dẫn sản xuất. Và ngay lập tức các

25



×