Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Do mo tai chinh gui 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.55 KB, 95 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Mối quan hệ giữa độ mở tài chính, độ mở
thương mại và sự phát triển tài chính tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi.
Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, các nội dung
trích dẫn đều có ghi nguồn gốc và các kết quả được trình bày trong luận văn chưa được
công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Nếu phát hiện có bất kỳ gian
lận nào, tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm trước Hội Đồng.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày ..... tháng ..... năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Hiếu


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
TÓM TẮT

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT


Cụm viết tắt


Tên đầy đủ tiếng Anh

Tên đầy đủ tiếng Việt

TO

Trade Openness

Độ mở thương mại

FO

Financial Openness

Độ mở tài chính

FD

Financial Development

Sự phát triển tài chính

RGDP

Real Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội thực

GOV


Government Spending

Chi tiêu chính phủ

STATE

Share of Industrial Production of
State-owned
Enterprises

VECM

Vector Error Correction Model

DEPT

The Ratio of Total Loans in The
Financial System (Including
BothBanking and Non-Banking
Financial Institutions) to The
Nominal GDP
The Ratio of Credit Allocated to
Private Enterprises to Total
Domestic Credit
The Ratio of Total Household
Savings to The Nominal GDP

Tỷ lệ sản lượng công nghiệp
của khu vực nhà nước chia
cho tổng sản lượng công

nghiệp
Mô hình Vector hiệu chỉnh sai
số
Tỷ lệ tổng dư nợ trong hệ
thống tài chính (bao gồm cả
ngân hàng và phi ngân hàng
tổ chức tài chính) trên GDP
danh nghĩa
Tỷ lệ tín dụng được phân bổ
cho các doanh nghiệp tư nhân
trên tổng tín dụng trong nước
Tỷ lệ của tổng số tiền tiết
kiệm hộ gia đình trên GDP
danh nghĩa
Tỷ lệ của tổng số tiền cho vay
và tiền gửi trong hệ thống tài
chính trên GDP danh nghĩa
Doanh nghiệp nhà nước

PRV
SAV
FIR
SOEs

The Ratio of Total Loans and
Deposits in The Financial System
to Nominal GDP
State-Owned Enterprises



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ


TÓM TẮT

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm kiếm bằng chứng về mối quan
hệ giữ độ mở tài chính và độ mở thương mại lên sự phát triển thị trường tài chính
tại Việt Nam giai đoạn 1990-2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy bằng chứng
đáng tin cậy về mối quan hệ tuyến tính cùng chiều giữa
Trong bài Luận văn, bằng cách thực hiện các kiểm định tính dừng
(Augmented Dicky-Fuller (1979), kiểm định quan hệ nhân quả (Granger
causibility), kiểm định Johansen và phân tích mô hình VECM, sử dụng dữ liệu
mẫu tại Việt Nam trong thời gian 28 năm từ năm 1990-2017 để ước lượng mối
liên hệ giữa độ mở thương mại, độ mở tài chính tại và sự phát triển thị trường tài
chính tại Việt Nam. Kết quả thực nghiệm là có tồn tại mối quan hệ giữa độ mở
thương mại, độ mở tài chính tại và sự phát triển thị trường tài chính tại Việt
Nam.


7

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1

Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đây là cơ hội nhưng đi


kèm là không ít khó khăn, thách thức đòi hỏi cạnh tranh gay gắt và quyết liệt hơn. Hiện
Việt Nam đang hoàn thiện tiến trình đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới, như Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU; Hiệp định Thương mại
tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu..., tạo nên sức cộng hưởng để thúc đẩy nền
kinh tế cũng như các doanh nghiệp bước sang một giai đoạn mới.Việt Nam vẫn đang
trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nên còn rất nhiều việc phải làm,
nhất là đứng trước những yêu cầu ngày càng cao hơn để hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới.
Kể từ khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) năm 2007, hợp tác đa phương cho đến nay, các bộ phận của thị trường tài
chính Việt Nam cơ bản được hình thành. Hệ thống các định chế tài chính đã phát triển
cả về số lượng và chất lượng. Hoạt động quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính
được thể chế hóa từng bước; các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị
trường tài chính có sự phối hợp trong kiểm tra, giám sát… Thị trường tài chính Việt
Nam đã hình thành được một hệ thống khuôn khổ pháp lý cần thiết cho sự vận hành
của thị trường, từng bước đa dạng hóa các sản phẩm và không ngừng nâng cao chất
lượng dịch vụ. Công tác quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính ngày càng được
hoàn thiện. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, thị trường tài chính cũng bộc lộ
không ít bất cập, cũng như những rủi ro tiềm ẩn có thể dẫn đến bất ổn đối với hoạt
động của thị trường tài chính nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Cho đến nay, có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề độ mở tài chính đã được thực
hiện ở các nước đang phát triển bởi các nhà kinh tế học nổi tiếng như: Levine (1997),
Siddiki (1999), Ghatak (1997). Kết quả nghiên cứu của họ đều khẳng định rằng việc tự
do hóa tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề tăng trưởng kinh tế bền vững. Nói
cách khác tự do hoá tài chính sẽ nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực, gia tăng tiết


8

kiệm và đầu tư, làm cho tỷ trọng tiết kiệm dành cho đầu tư ngày càng tăng, tăng hiệu

quả đầu tư; và do đó, sẽ kích thích sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy, nhìn từ góc
độ kinh tế, hoạt động dịch vụ tài chính cũng giống như các hoạt động trao đổi mua bán
các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác động tích cực đến thu nhập và sự
tăng trưởng của tất cả các đối tác tham gia.
Mở cửa thương mại và mở cửa tài khoản vốn (Yanikkaya, 2003; Fereidouni et
al, 2011;. Eichengreen và Leblang, 2008), hai yếu tố này có mối quan hệ khăng khít;
một quốc gia mở cửa đối với thương mại có thể gây ra một mức độ mở cửa tài chính
lớn bằng cách thu hút (thông qua đầu tư) các dòng vốn trong lĩnh vực tài chính của
quốc gia. Aizenman và Noy (2003) thấy rằng sự gia tăng của độ lệch chuẩn của độ mở
thương mại có liên quan với mức tăng 9,5 phần trăm trong độ mở tài chính. Lý thuyết
kinh tế chỉ ra rằng các quốc gia có quyền tự do trao đổi quốc tế nhiều hơn để nó có thể
được hưởng lợi từ sự cởi mở về sản xuất sản lượng lớn hơn và đạt được thu nhập cao
hơn. Điều này là phù hợp với lý thuyết của Ricardo: khẳng định rằng thương mại quốc
tế mang lại sự sử dụng về hiệu quả hơn các nguồn lực của một quốc gia, do đó tăng
cường sự tăng trưởng kinh tế chung của một quốc gia (Georgios, 2002; Yanikkaya,
2003; Gwartney năm 2001; Niroomand và Nissan, 1997). Nó cũng khẳng định rằng
trong hầu hết các trường hợp, độ mở kinh tế lớn hơn thúc đẩy hoạt động kinh doanh và
tính sáng tạo dựa trên thực tế rằng sẽ có kỳ vọng sản xuất hiệu quả và khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Gwartney (2001) chỉ ra rằng sự cởi mở có thể khiến các
nước phải có chính sách và tổ chức để họ có thể cạnh tranh trong việc tạo ra môi
trường thuận lợi cho hoạt động thương mại và đầu tư. Rõ ràng trong thế giới toàn cầu
hóa, không có nhà đầu tư nào sẽ hứng thu đối với việc đầu tư vào một quốc gia có đặc
trưng bởi sự thù địch đối với các nhà đầu tư kinh doanh, bất ổn tiền tệ, phạm pháp, thuế
cao, và các dịch vụ công cộng chất lượng thấp (Gwartney, 2001).Với mục đích cách
tiếp cận để đạt được cái nhìn sâu sắc vào các tác động năng động của độ mở thương
mại và độ mở tài chính đối với sự phát triển tài chính ở Việt Nam, tác giả đã lựa chọn
đề tài “Mối quan hệ giữa độ mở tài chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài


9


chính tại Việt Nam”, nghiên cứu xem xét các khía cạnh khác nhau của sự phát triển tài
chính, cụ thể là quy mô, hiệu quả và cạnh tranh, và kiểm tra cả tác động biên trực tiếp
của độ mở đối với các chỉ số khác nhau của phát triển tài chính. Nghiên cứu có thể
được coi như là một mô hình minh họa của liên kết giữa độ mở và phát triển tài chính
trong một quốc gia đang phát triển. Kết quả nghiên cứu này đóng góp quan trọng sự
phát triển nghiên cứu về lĩnh vực tài chính.
1.2

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu mối quan hệ giữa độ mở tài

chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài chính tại Việt Nam.
1.3

Phương pháp nghiên cứu
Tác giả tiến hành nghiên cứu các cơ sở lý thuyết về độ mở tài chính, độ mở

thương mại và sự phát triển của tài chính và tổng quan về các kết quả nghiên cứu trước
đây để hình thành khung lý thuyết và xác định mô hình nghiên cứu của đề tài;
Từ kết quả nghiên cứu trên, tác giả sẽ đưa ra mô hình nghiên cứu định lượng
dựa trên mô hình của Chengsi Zhang , Yueteng Zhu , Zhe Lu (2015) với kích thước mẫu
trong phân tích thống kê cần phải đủ lớn để đạt được độ tin cậy nhất định theo mục tiêu
đã đề ra của luận văn. Riêng trong luận văn này, tác giả sử dụng mô hình hồi quy với
số liệu điều tra là dạng số liệu theo chuỗi thời gian (số liệu thống kê theo năm) nên
theo Greene W. H. (2003) và Tabachnick & Fidell (2007) thì kích thước mẫu sẽ được
xác định theo công thức n–k≥20 với n là số năm tham khảo, k là số biến độc lập.
Nghiên cứu này chọn số quan sát là 28 năm (từ năm 1990 đến năm 2017) để đảm bảo
được ý nghĩa thống kê; Nghiên cứu này thực hiện các kiểm định tính dừng (Augmented
Dicky-Fuller (1979), kiểm định quan hệ nhân quả (Granger causibility), kiểm định

Johansen và phân tích mô hình VECM để nghiên cứu mối quan hệ giữa độ mở tài
chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài chính.
1.4

Kết cấu của đề tài
Luận văn có kết cấu 5 chương bao gồm :
Chương 1: Giới thiệu


10

Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận


11

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1
Các khái niệm cơ bản
2.1.1 Độ mở thương mại
Độ mở thương mại cho thấy mức độ mà các quốc gia hoặc nền kinh tế cho phép
buôn bán trao đổi đổi mậu dịch với quốc gia hoặc nền kinh tế khác. Theo các nghiên
cứu trước đây, Marelli và Signorelli (2011); Yanikkaya (2003) Edwards (1993), xác
định độ mở thương mại là tỷ lệ của tổng giá trị thương mại (nhập khẩu + xuất khẩu)
trên thu nhập quốc dân của một quốc gia (GDP).
Mặc dù có nhiều bài nghiên cứu đã khám phá mối quan hệ độ mở thương mại
với các biến số kinh tế khác nhau, tuy nhiên các phát hiện của các tác giả lại cho kết

quả trái ngược nhau do xuất phát từ những khó khăn trong việc đo lường độ mở thương
mại (Yanikkaya, 2003; Manole và Spatareanu, 2010; Squalli và Wilson, 2011). Vấn đề
này đã đặt ra câu hỏi về tính hợp lệ về các kết quả nghiên cứu thực nghiệm đối với độ
mở thương mại vì các nghiên cứu khác nhau đã được đưa ra các biện pháp đo lường độ
mở thương mại khác nhau (Kandiero và Wadhawan, 2003). Rose (2004) cung cấp một
cách đo lường hữu ích đó là nhóm các biện pháp này thành bảy nhóm: đo lường dựa
trên các tỷ lệ thương mại (thương mại như là một tỷ lệ GDP); dòng chảy thương mại
điều chỉnh; biện pháp dựa trên kết quả giá; các hàng rào phi thuế quan; chỉ số hỗn hợp
(kết hợp các chỉ tiêu thuế quan và phi thuế quan với các chỉ số kinh tế và chính trị
khác) và các biện pháp chính thức và định lượng. Các phân loại có thể được được theo
hai khía cạnh: xem xét độ mở thương mại là các dòng chảy thương mại và các mức giá,
phần còn lại là dựa trên những hạn chế thương mại hay đúng hơn là chính sách.
Yanikkaya (2003) phân loại các biện pháp này thành hai loại, các biện pháp dựa trên
khối lượng, quy mô thương mại và dựa trên hạn chế thương mại, trong đó xác định
mức độ phòng ngừa, ổn định của một nền kinh tế nói riêng. Tỷ lệ phụ thuộc thương
mại và tăng trưởng xuất khẩu là dựa trên kết quả các biện pháp mở cửa thương mại
(Balassa, 1982).


12

Trong bài này độ mở thương mại được đo lường bằng tổng giá trị thương mại
(xuất khẩu+ nhập khẩu)/ GDP.
2.1.2 Độ mở tài chính
Độ mở tài chính được thể hiện qua sự tự do hóa khu vực tài chính. Tự do hóa
khu vực tài chính đề cập đến việc loại bỏ hoặc nới lỏng các quy định được áp đặt bởi
chính phủ đối với khu vực tài chính trong nước. Độ mở tài chính nền kinh tế thường
được đo bằng tổng của các dòng vốn tư nhân trên tổng sản phẩm quốc dân (Aizenman
và Noy, 2003). Đo lường độ mở tài chính khó khăn hơn đo lường độ mở thương mại.
Các quốc gia sở hữu một mảng rộng và hệ thống kiểm soát giá cả phức tạp; khối lượng

rất nhiều các giao dịch tài chính phức tạp. Do đó, đo lường độ mở tài chính là một
thách thức lớn và thường không bao giờ hiệu quả (Eichengreen, 2001), đo lường độ mở
tài chính thực sự khó khăn (Edison, Levine, Ricci và Slok, 2002). Các nghiên cứu thực
nghiệm đã phát triển một số biện pháp đo lường độ mở tài chính khác nhau và sử dụng
chúng để phân tích ảnh hưởng của độ mở tài chính đối với tăng trưởng và rút ra những
kết luận chính sách. Các tài liệu nghiên cứu về độ mở tài chính và mối quan hệ tăng
trưởng có thể được xem xét trên 2 kênh tiếp cận: dựa trên thực tế (de facto) và dựa trên
luật (de jure). Lane và Milesi –Frerretti (2007), đã phát triển cách đo lường độ mở tài
chính dựa trên thực tế bằng số lượng tài sản và nợ nước ngoài trên GDP. Các nghiên
cứu tiếp cận theo phương pháp này tìm kiếm mối quan hệ giữa độ mở tài chính và tăng
trưởng kinh tế; mặt khác Chinn và Ito (2006) đo lường phát triển tài chính dựa trên luật
bằng cách xây dựng các biến giả đại diện cho các hạn chế giao dịch tài chính thường
xuyên biên giới. Các nghiên cứu trên kênh này cho rằng tác dụng tăng trưởng tích cực
từ độ mở tài chính là phát triển tốt hơn về hệ thống tài chính, chất lượng thể chế, môi
trường pháp lý và chính sách kinh tế vĩ mô (Bekaert, Harvey, Lundbland, 2005).
Mỗi thước đo về độ mở tài chính đều có ưu và nhược điểm. Thước đo thực tế ít
nhạy cảm với yếu tố nội sinh hơn thước đo dựa trên luật. Trong khi đó thước đo dựa
trên luật có được căn cứ tốt hơn về mặt lý thuyết (Baltagi et al., 2009).


13

Trong bài này tác giả áp dụng đo lường độ mở tài chính theo thực tế vì sự sẵn có
của dữ liệu. Biến độ mở tài chính được đo lường bằng tỉ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên GDP.
2.1.3 Sự phát triển tài chính
Schumpeterian, Gurley và Shaw (1955), Goldsmith (1969) và Hicks (1969) thảo
luận về sự phát triển tài chính kích thích tăng trưởng kinh tế (Levine, 2003). Quan
điểm của họ đề nghị phát triển các chính sách nhằm mở rộng hệ thống tài chính nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. "Cấu trúc tài chính", quan điểm này đề cập đến kiểm soát

lãi suất, dự trữ bắt buộc cao và các chương trình tín dụng chỉ định (Ang, 2008).
McKinnon (1973) và Shaw (1973) thách thức đối với quan điểm của Keynes về
vai trò của thị trường tài chính trong quá trình phát triển, cho thấy rằng sự phát triển tài
chính cao hơn có thể là kết quả của hội nhập tài chính quốc tế và sẽ dẫn đến tăng
trưởng sản lượng được gọi là tự do hóa tài chính. Các mô hình giả định rằng
McKinnon đầu tư trong nền kinh tế đang phát triển là chủ yếu tự tài trợ, đầu tư không
thể thành hiện thực nếu không có đủ tiết kiệm trong các hình thức tiền gửi ngân hàng.
Mặt khác, Shaw (1973) trình bày "nợ trung gian" xem mà mặc nhiên cho rằng các
trung gian tài chính thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng sản lượng thông qua vay và cho
vay. Mô hình McKinnon đã được tiếp tục nghiên cứu bởi nhiều nhà nghiên cứu như
Kapur (1976), Mathieson (1980), Fry (1988) và Pagano (1993). Phát triển tài chính là
hiện tượng phản ảnh việc cung cấp một cấu trúc thượng tầng tài chính nâng cao cả hoạt
động sản xuất và vận hành nền kinh tế một cách trôi chảy. Nó cung cấp nguồn vốn cần
thiết định giá giá trị kinh tế của nguồn lực đang được giao dịch và hỗ trợ tiến trình thực
hiện chính sách công. Việc cung ứng dưới hình thức tín dụng, kiểm soát lãi suất thị
trường là sự phản ánh của phát triển tài chính trong một quốc gia nhằm mục đích đạt
được tăng trưởng kinh tế (Omotola Awojobi, 2013).
Đến đầu năm 1980, Ang (2008), McKinnonShaw đã bị chỉ trích bởi tân cấu trúc
kinh tế như Wijnbergen (1982, 1983), Taylor (1983) và buffie (1984). Trọng tâm chính
trong các mô hình của họ giả định rằng các hộ gia đình sở hữu ba loại tài sản: tiền gửi


14

ngân hàng, vàng, và cho vay trên thị trường phi chính thức, chúng thay thế cho nhau.
Khi lãi suất huy động ngân hàng tăng lên, hộ gia đình tăng tỉ lệ tiền gửi ngân hàng, do
đó sẽ làm giảm việc cung cấp vốn vay dẫn tới không khuyến khích đầu tư và trấn áp
đầu ra. Nói cách khác, sự tồn tại của thị trường phi chính thức hiệu quả, tự do hóa tài
chính có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng cách giảm cung cấp tín dụng.
Các mô hình phức tạp hơn với việc tích hợp các hệ thống tài chính vào các mô hình

tăng trưởng nội sinh phát sinh trong đầu những năm 1990 như Greenwood và
Jovanovic (1990), Bencivenga và Smith (1991, 1993), SaintPaul (1992), King và
Levine (1993b), Pagano (1993), Bencivenga et al. (1995) Greenwood và Smith (1997),
Blackburn và HUMG (1998) trình bày các nghiên cứu sử dụng các kỹ thuật khác nhau
để mô hình trung gian tài chính rõ ràng hơn trong cách tiếp cận McKinnon-Shaw. Sự
phát triển và tăng trưởng mô hình tài chính nội sinh cho thấy sự tương tác song phương
giữa hai biến. Đó là mức độ cao hơn của sự phát triển kinh tế làm tăng nhu cầu đối với
các dịch vụ tài chính hàng đầu với một hệ thống tài chính cạnh tranh và hiệu quả hơn.
Mặt khác, tăng cường phát triển tài chính cho phép đầu tư sẽ được tung ra tăng cường
hiệu quả hơn tích lũy vốn và tăng trưởng. Không phải tất cả các nhà kinh tế chấp nhận
tích cực và/ hoặc mối quan hệ đáng kể giữa tài chính và tăng trưởng. Một số cho rằng
tài chính là hoàn toàn không thích hợp trong quá trình tăng trưởng, có thể điểm ra ảnh
hưởng tiêu cực của các ngân hàng, ảnh hưởng của thị trường chứng khoán, và các cuộc
khủng hoảng tài chính gây bất ổn. Trong nghiên cứu nền tảng về tài chính doanh
nghiệp hiện đại, Modigliani và Miller (1958) đưa một đề xuất không phù hợp. Mô hình
của họ giả định các thị trường là hoàn hảo, không có sự bất đối xứng thông tin và
không có chi phí giao dịch trong bất kỳ hoạt động kinh tế. Trong khung này, Fama
(1980) cho rằng trong khu vực ngân hàng cạnh tranh, việc tiếp cận các thị trường vốn
là bình đẳng, sự thay đổi trong quyết định cho vay của ngân hàng nào đó cá nhân sẽ
không có hiệu lực về giá cả và hoạt động thực tế theo một cân bằng tổng thể (Ang,
2008). Lucas (1988) lập luận rằng các nhà kinh tế quá nhấn mạnh vai trò của các yếu tố
tài chính trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Morck và Nakamura (1999) và Morck et


15

al. (2000) chứng minh, phát triển ngành ngân hàng có thể tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế.
2.2


Tổng quan các công trình nghiên cứu
Có nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về mối quan hệ tiềm tàng giữa

phát triển tài chính và phát triển kinh tế bao gồm: Beck và công sự, 2000; Darrat và
cộng sự, 2006; Ductor và Grechyna năm 2015; Guariglia và Poncet, 2008; Levine,
1997. Một số bài nghiên cứu xem xét đến nguồn gốc của sự phát triển tài chính xuất
phát từ quan điểm là từ sự tự do hóa tài chính (McKinnon, 1973), hệ thống pháp luật
(La Porta et al., 1998), sự sở hữu của chính phủ đối với các ngân hàng(Andrianova et
al., 2008), ổn định chính trị (Girma and Shortland, 2008).
Một nguồn khác của sự phát triển tài chính, được nêu lên ở một số ít bài nghiên
cứu nhưng đang ngày càng tăng lên về số lượng là sự mở cửa. Các tài liệu có liên quan
đã tập trung vào hai biến liên quan đến sự mở cửa bao gồm: giữa độ mở thương mại và
sự phát triển tài chính (Beck, 2002; Braun and Raddatz, 2005; Do and Levchenko,
2004; Mishkin, 2009); giữa độ mở tài chính và sự phát triển tài chính (Chinn and Ito,
2006; Levine, 2001); và giữa độ mở thương mại và độ mở tài chính(Aizenman and
Noy, 2009). Các nghiên cứu này thường tìm thấy mối liên hệ tích cực giữa sự cởi mở
và sự phát triển tài chính, và giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài chính ở các nền
kinh tế đã và đang phát triển.
2.2.1 Tác động của độ mở thương mại đến phát triển tài chính
Do, Q.-T và Levchenko, A.A (2004), sử dung hồi quy OLS cho dữ liệu được thu
thập từ 20 quốc gia OECD và 55 nước đang phát triển trong giai đoạn 1965-1995 để
nghiên cứu về độ mở thương mại có tác động đến phát triển tài chính của một quốc gia
hay không. Trong bài nghiên cứu tác giả đã đưa ra các biến: phát triển tài chính (được
đo lường bằng tín dụng tư nhân/ GDP); độ mở thương mại (được đo lường bằng tổng
xuất nhập khẩu/GDP) và một số biến kiểm soát khác. Kết quả nghiên cứu đầu tiên cho
thấy rằng mức độ tác động của độ mở thương mại đến phát triển tài chính của mỗi quốc
gia phụ thuộc vào mức thu nhập trung bình của quốc gia đó. Đối với những quốc gia có


16


mức thu nhập trung bình cao, độ mở thương mại có tương quan dương với phát triển
tài chính, trong khi đối với những quốc gia có mức thu nhập thấp, mối tương quan này
là nghịch chiều.
Kim và cộng sự (2009) nghiên cứu tác động của độ mở thuơng mại đến phát
triển tài chính cho các quốc gia trên thế giới. Trong những bài nghiên cứu trước, các
tác giả đã cho thấy tác động tích cực của tự do thương mại và phát triển tài chính. Tuy
nhiên, tác giả cho rằng mở cửa thương mại có thể làm gia tăng áp lực cạnh tranh, gia
tăng rủi ro từ đó dẫn đến những cuộc khủng hoảng thường xuyên, tức là tác động trong
ngắn hạn của độ mở thương mại đối với nền kinh tế. Chính vì thế, tác giả muốn tập
trung nghiên cứu tác động trong ngắn và dài hạn của độ mở thương mại đến phát triển
tài chính. Trong bài nghiên cứu, để đo lường phát triển tài chính tác giả sử dụng 3 biến:
tín dụng tư nhân, cung tiền M3, tài sản ngân hàng; độ mở thương mại đo lường bằng
logarit của tổng xuất nhập khẩu/GDP. Bên cạnh đó để kết quả nghiên cứu không bị
chệch, tác giả đưa thêm các biến kiểm soát khác vào mô hình nghiên cứu, gồm: GDP
trên đầu người, chi tiêu chính phủ/GDP, tỉ lệ lạm phát. Bằng cách sử dụng phương
pháp PMG (Pooled Mean Group) trên dữ liệu bảng cho 88 quốc gia từ 1960-2005
(được phân thành ba nhóm: nhóm nước thu nhập cao, nhóm nước thu nhập trung bình
và nhóm nước thu nhập thấp). Kết quả nghiên cứu cho thấy: tác động của độ mở
thương mại đến phát triển tài chính phụ thuộc vào mức thu nhập của các quốc gia. Đối
với những nước có thu nhập thấp, độ mở thương mại tác động cùng chiều đến phát
triển tài chính trong dài hạn, tác động nghịch chiều trong ngắn hạn. Đối với những
nước có thu nhập cao, độ mở thương mại tác động cùng chiều đến phát triển tài chính
trong dài hạn, không có tác động trong ngắn hạn.
2.2.2 Tác động của độ mở tài chính đến phát triển tài chính
Chinn và Ito (2006), nghiên cứu điều tra mối quan hệ giữa độ mở tài chính và
phát triển tài chính dựa trên dữ liệu bảng (panels data) của 108 quốc gia trong giai đoạn
1980-2000. Nghiên cứu cũng kiểm tra mối quan hệ giữa giữa tự do hóa hàng hóa và thị



17

trường tài chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ mở tài chính càng tăng thì thị trường
vốn chủ sở hữu càng phát triển.
Asongu (2010) nghiên cứu lý thuyết về mối liên kết giữa phát triển tài chính và
độ mở tại 29 nước đang phát triển ở Châu Phi trong vòng 21 năm từ 1987-2008. Mối
quan hệ này tương quan dương và từ đó làm góp phần tăng trưởng nền kinh tế ở các
nước đang phát triển. Kết quả cho thấy: phát triển tài chính và độ mở tài chính có mối
quan hệ hai chiều và là quan hệ nghịch chiều.
2.2.3 Tác động của độ mở thương mại, độ mở tài chính đến phát triển tài chính
Rajan và Zingales (2003), cho rằng kiểm tra các mối quan hệ giữa các cặp trên
có thể sẽ là không đầy đủ và thậm chí có thể gây hiểu nhầm. Rajan và Zingales đề nghị
rằng thiết lập một mối quan hệ ba biến giữa độ mở thương mại, độ mở tài chính và phát
triển tài chính là cần thiết. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu ở 24 quốc gia công nghiệp
phát triển trong giai đoạn 1913-1999 với phương pháp hồi quy đa biến. Trong bài
nghiên cứu tác giả chỉ ra bốn yếu tố xác định sự phát triển tài chính: phát triển ngân
hàng (đo lường băng tỉ số tiền gửi ngân hàng trên GDP); phát triển thị trường vốn (đo
lường bằng tỷ số chứng khoán phát hành của những công ty nội địa được niêm yết trên
tổng vốn đầu tư cố định nội địa); chỉ số vốn hóa thị trường trên GDP; và số công ty nội
địa niêm yết/100 dân. Nghiên cứu này đã đưa ra lý thuyết nhóm lợi ích để tóm tắt kết
quả nghiên cứu của họ. Họ cho rằng lợi ích nhóm, trong ngành công nghiệp đặc thù và
ngành tài chính, thường xuyên không còn do sự phát triển tài chính. Lý do được đưa ra
là do sự phát triển tài chính sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các công ty mới được thành lập,
từ đó sẽ tăng cường sự cạnh tranh. Kết quả bài nghiên cứu cho thấy, khi quốc gia mở
cửa dòng vốn mạnh, phát triển tài chính tương quan dương mạnh với tự do hóa thương
mại; nhưng nếu mức độ mở cửa dòng vốn giảm thì độ tương quan giữa phát triển tài
chính và tự do hóa thương mại cũng giảm theo.
Dựa trên bài nghiên cứu của Rajan và Zingales (2003), Law (2009) đã nghiên
cứu tác động của động của độ mở thương mại, độ mở tài chính đến phát triển tài chính
bằng cách sử dụng dữ liệu bảng cho 43 nước đang phát triển trong 21 năm từ 1980-



18

2001, áp dụng phương pháp GMM và PMG để đưa ra kết quả ước lượng. Độ mở
thương mại được đo lường bằng tổng xuất nhập khẩu /GDP. Độ mở tài chính được đo
lường bằng dòng vốn tư nhân và chỉ số tự do hóa tài chính được xây dựng bởi hai nhà
nghiên cứu Chinn và Ito (2002). Sự phát triển tài chính được đo lường bằng hai yếu tố :
phát triển khu vực ngân hàng (đo lường bằng cung tiền M3/GDP, tín dụng dành cho tư
nhân/GDP, và tín dụng nội địa của khu vực ngân hàng/GDP), và phát triển thị trường
vốn (đo lường bằng số lượng các công ty nội địa được niêm yết trên sàn chứng khoán).
Kết quả thực nghiệm ở các nước đang phát triển ( Law, 2009), chỉ ra rằng việc mở cửa
đồng thời thương mại và tài khoản vốn có tác động tích cực đến sự phát triển tài chính
(bổ sung cho lý thuyết của Rajan và Zingales ,2003). Trong bài nghiên cứu cũng khẳng
định tác động của độ mở thương mại đối với phát triển tài chính đối với mỗi quốc gia
phụ thuộc vào thu nhập trung bình của quốc gia đó. Law nhấn mạnh rằng phát hiện của
ông nên được hiểu một cách thận trọng vì mẫu của ông là các nước đang phát triển, nơi
mà các lĩnh vực tài chính là chủ yếu được điều khiển bởi hệ thống ngân hàng.
Baltagi et al. (2009), sử dụng phương pháp GMM trên dữ liệu bảng để nghiên
cứu về mở cửa thương mại, mở cửa tài chính và phát triển tài chính cho cả nước đang
phát triển và nước công nghiệp. Độ mở thương mại được đo lường bằng tổng xuất nhập
khẩu/GDP. Độ mở tài chính được đo lường bằng: chỉ số tự do hóa tài chính (thu thập
cho 42 nước đang phát triển từ 1980-2003) được tính bằng tổng tài sản và nợ nước
ngoài của quốc gia/GDP và chỉ số tự do hóa dòng vốn được đo lường từ bốn biến giả
về giới hạn giao dịch vốn được trình bày trong báo cáo của IMF. Nhân tố phát triển tài
chính được đo lường bằng tín dụng tư nhân và chỉ số vốn hóa chứng khoán thị trường.
Họ đã làm nổi bật hiệu ứng tương tác đồng thời giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài
chính lên sự phát triển tài chính. Sự tương tác giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài
chính có thể được dùng để đánh giá tác động biên của của sự gia tăng mở cửa thương
mại và tài chính lên sự phát triển tài chính. Bởi vì lý thuyết này chỉ ra rằng một quốc

gia sẽ mở cửa thương mại khi tài khoản vốn của nó bị đóng lại, lúc đó sẽ có các chính
sách tài chính bổ sung để ngăn chặn các tác động tiêu cực đến nền công nghiệp hiện tại


19

(ví dụ: lãi suất). Tuy nhiên các chính sách này sẽ ngăn chặn sự phát triển tài chính. Do
đó tác động biên của mở cửa thương mại sẽ là tiêu cực hay bằng không đối với sự phát
triển tài chính khi tài khoản vốn bị đóng cửa. Kết quả này chỉ ra rằng cả mở cửa thương
mại và mở cửa tài chính đều có ý nghĩa thống kê quan trọng trong việc xác định sự
phát triển tài chính. Mở cửa thương mại trong khi không mở cửa tài chính và ngược lại
vẫn có thể tạo ra sự phát triển tài chính.
Sự khác biệt về kết quả nghiên cứu, sử dụng dữ liệu từ các quốc gia khác nhau,
ngụ ý rằng các mô hình tương tác giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài chính và phát
triển tài chính có thể khác nhau đáng kể giữa các quốc gia. Vì bối cảnh về lịch sử, kinh
nghiệm, văn hóa, thị trường tài chính là khác nhau giữa các quốc gia. Các nghiên cứu
thực nghiệm sử dụng dữ liệu từ các nước phát triển và đang phát triển dường như chỉ
cung cấp được một phần hỗ trợ cho các lý thuyết cơ bản.
Thomas và cộng sự (2008), nghiên cứu về mối liên kết giữa phát triển tài chính,
độ mở thương mại, độ mở tài chính và tăng trưởng bằng cách sử dụng dữ liệu chuỗi
thời gian của 16 nước ở khu vực Tiểu Sahara châu Phi. Để thực hiện nghiên cứu tác giả
đã sử dụng các biến: tăng trưởng (được đo lường bằng GDP thực trên đầu người), độ
mở thương mại (được đo lường bằng tổng xuất nhập khẩu/GDP), phát triển tài chính
(có thể được đo lường bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau như: M2/GDP, tín dụng nội địa
cho khu vực tư nhân/GDP…). Kết quả ước lượng cuối cùng được đưa ra sau khi tác giả
thực hiện lần lượt các kiểm định. Thứ nhất, tác giả thực hiện phân tích khám phá nhân
tố để tìm ra những nhân tố đo lường sự phát triển tài chính. Thứ hai, tác giả thực hiện
kiểm định nghiệm đơn vị và kiểm định đồng liên kết để xem xét tính dừng và mối đồng
liên kết trong chuỗi dữ liệu. Dựa theo đó, tác giả sẽ thực hiện các kiểm định mối quan
hệ nhân quả giữa các biến trong mô hình. Cuối cùng, tác giả thực hiện kiểm định nhân

quả Granger, Var và VECM. Bài nghiên cứu đã đưa ra các kết quả: thứ nhất, không có
mối quan hệ trong dài hạn giữa các nhân tố phát triển tài chính, độ mở và tăng trưởng
kinh tế. Thứ hai, ít có bằng chứng cho thấy có mối quan hệ nhân quả giữa chiều sâu tài


20

chính và tăng trưởng kinh tế. Thứ ba, tồn tại một mối liên hệ giữa độ mở thương mại
và độ mở tài chính.
Hanh (2009) điều tra các mối liên kết hai chiều giữa phát triển tài chính với độ
mở tài chính và độ mở thương mại của hai mươi chín nước đang phát triển tại châu Á
trong 14 năm từ 1994–2008. Trong bài nghiên cứu có các biến chính: phát triển tài
chính (được đo lường bằng cung tiền M3/GDP và tín dụng cho khu vực tư nhân/GDP ;
độ mở tài chính (được đo lường bằng FDI/GDP (FDI) và dòng vốn tư nhân/ GDP ); độ
mở thương mại (được đo lường bằng tổng xuất nhập khẩu của quốc gia/GDP). Ngoài
ra, còn có các biến kiểm soát khác: biến đo lường độ rủi ro quốc gia; tốc độ tăng trưởng
GDP; tỷ giá hối đoái thực; biến giả để đo lường khủng hoảng tài chính. Mối quan hệ
giữa phát triển tài chính và độ mở được tác giả kiểm định qua ba bước. Đầu tiên, tác
giả kiểm định tính dừng và số đồng liên kết của dữ liệu. Tiếp theo, tác giả sử dụng
phương pháp phân tích đồng liên kết của Pedroni (1999) để kiểm định mối quan hệ dài
hạn giữa các biến. Cuối cùng, tác giả sử dụng phương pháp Difference GMM được xây
dựng bởi Arellano và Bond (1991) để đưa ra kết quả ước lượng. Bài nghiên đã đạt
được những kết quả quan trọng sau: Thứ nhất, bài nghiên cứu cho thấy một mối quan
hệ nhân quả giữa phát triển tài chính với độ mở tài chính và độ mở thương mại. Sự mở
cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ ở các nước đang phát triển là điều kiện tiên quyết
cho sự phát triển. Và ngược lại, phát triển tài chính và độ mở tài chính tạo điều kiện
cho các nước đang phát triển đạt được lợi ích lớn hơn trong việc mở cửa thương mại.
Thứ hai, bài nghiên cứu cho rằng mối quan hệ giữa các chỉ số đo lường phát triển tài
chính và độ mở tài chính là không đồng nhất. Tồn tại một mối tương quan dương giữa
độ mở tài chính và tín dụng dành cho khu vực tư nhân. Trong khi đó, không có bằng

chứng cho thấy mối quan hệ giữa độ mở tài chính với cung tiền M3.
Chengsi Zhang , Yueteng Zhu , Zhe Lu (2015) nghiên cứu thực nghiệm các tác
động năng động của độ mở thương mại và độ mở tài chính đối với sự phát triển tài
chính ở Trung Quốc. Ngoài việc sử dụng dữ liệu bảng của 30 tỉnh của Trung Quốc
trong giai đoạn 2000-2009, sử dụng phương pháp hồi quy GMM để nghiên cứu xem


21

xét các khía cạnh khác nhau của sự phát triển tài chính, cụ thể là quy mô, hiệu quả và
cạnh tranh, và kiểm tra cả tác động biên trực tiếp của độ mở về các chỉ số khác nhau
của phát triển tài chính. Nghiên cứu có thể được coi như là một mô hình minh họa của
liên kết giữa độ mở và phát triển tài chính trong một quốc gia. Kết quả nghiên cứu này
đóng góp quan trọng sự phát triển nghiên cứu về lĩnh vực tài chính. Kết quả nghiên cứu
điều tra thực nghiệm có một số phát hiện thú vị đáng chú ý. Đầu tiên, độ mở tài chính
có tác động tiêu cực đối với quy mô, nhưng lại tác động tích cực đối với hiệu quả và
cạnh tranh của phát triển tài chính ở Trung Quốc. Thứ hai, các tác động biên của độ mở
về hiệu quả tài chính và cạnh tranh là tích cực trong tỉnh có độ mở nhất, trong khi các
tác động biên của độ mở đối với quy mô của phát triển tài chính nói chung là tiêu cực
(Rajan và Zingales ,2003) giả thuyết có thể được sửa đổi bằng cách xem xét các tính
năng quốc gia cụ thể của phân phối trong các loại của các công ty kinh doanh và phân
phối các nguồn lực tài chính. Thứ ba, tác động biên của độ mở đối với phát triển tài
chính khác nhau giữa các tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, và các vấn đề nhóm lợi ích đặc
biệt nghiêm trọng ở các tỉnh có mức độ thấp của độ mở thương mại và độ mở tài chính.


22

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương 2 đã trình bày các lý thuyết về độ mở thương mại, độ mở tài chính và

phát triển tài chính; các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế liên quan đến đề
tài. Chương 3 sẽ tập trung vào phương pháp và mô hình nghiên cứu để giải quyết các
câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu đã được đặt ra ở phần giới thiệu. Phương pháp sử dụng
để nghiên cứu là phương pháp nghiên cứu định lượng sử dụng mô hình VECM để
nghiên cứu, sử dụng các kiểm định đơn vị, quan hệ nhân quả Granger Causibility, kiểm
định đồng liên kết. Sau khi phân tích mô hình VECM tác giả tiến hành thảo luận kết
quả nghiên cứu .
3.1 Thiết kế nghiên cứu
3.2.1 Dữ liệu nghiên cứu
Thời kỳ lấy mẫu kéo dài qua các năm từ năm 1990 đến năm 2017 (28 năm ) như
vậy tương ứng với 28 mẫu nghiên cứu. Nguồn dữ liệu GDP (Y), dân số, kim ngạch
xuất nhập khẩu, các chỉ tiêu tài chính của nền kinh tề như cho vay, tiền gửi, sản lượng
ngành công nghiệp khu vực nhà nước và tư nhân được lấy từ trang web của Tổng cục
Thống kê Việt Nam () qua các năm.
3.2.2 Mô hình nghiên cứu và các giả thiết
Nghiên cứu mối quan hệ giữa độ mở thương mại, độ mở tài chính và sự phát
triển tài chính tại Việt Nam, tác giả vận dụng cơ sở lý thuyết về các lý thuyết độ mở
thương mại, độ mở tài chính, sự phát triển tài chính và tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Nghiên cứu dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm phát triên từ mô hình của các tác giả
Chengsi Zhang , Yueteng Zhu , Zhe Lu (2015) bên cạnh đó tham khảo các công trình
nghiên cứu nên tảng như Levine (2001); Beck (2002); Rajan và Zingales (2003), Braun
và Raddatz (2005); Chinn và Ito (2006) ; Aizenman và Noy (2009), Mishkin (2009),
Baltagi et al. (2009), Law (2009). Nghiên cứu này thực hiện các kiểm định tính dừng
(Augmented Dicky-Fuller (1979)), kiểm định quan hệ nhân quả (Granger causibility),


23

kiểm định Johansen và phân tích mô hình VECM. Mô hình nghiên cứu đề xuất và các
giả thiết nghiên cứu cụ thể như sau :

LnFDt = β0 +γlnFDt-1+β1lnTOt+ β2lnFOt + β3lngdpit + β4lngovit
+β5lnstatet +β6lnenrollt +µt

(1)

Trong đó, FD là chỉ tiêu phát triển tài chính, TO là chỉ tiêu độ mở thương mại,
FO là chỉ tiêu độ mở tài chính. Các biến kiểm soát bao gồm GDP (gdp), tỷ lệ chi tiêu
của chính phủ đối với GDP (gov), tỷ lệ sản lượng công nghiệp của khu vực nhà nước
chia cho tổng sản lượng công nghiệp (state), và enroll là tỷ lệ người được đi học trong
độ tuổi đi học.


Sự phát triển tài chính (FD)

Một số biện pháp đo lường sự phát triển tài chính bao gồm tỷ lệ nợ phải trả của
hệ thống tài chính trên GDP danh nghĩa (Levine Et al, 2000), tỷ lệ tiền gửi trên GDP
(Rajan và Zingales, 2003), tỷ lệ tín dụng cho Khu vực tư nhân trên GDP (Levine và
cộng sự, 2000), và tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP (Baltagi và cộng sự,
2009, Rajan và Zingales, 2003). Theo định nghĩa, có thể phân loại thành các biện pháp
đo lường quy mô và các biện pháp đo lường tính hiệu quả để đo lường sự phát triển tài
chính.
Biện pháp đầu tiên đo lường phát triển tài chính là quy mô được đo bởi ba biến
sau đây: biến đầu tiên là tỷ lệ tổng dư nợ trong hệ thống tài chính (bao gồm cả ngân
hàng và phi ngân hàng tổ chức tài chính) trên GDP danh nghĩa; nó được ký hiệu DEPT
(Lu và Yao, 2009). Thứ hai là tỷ lệ của tổng số tiền cho vay và tiền gửi trong hệ thống
tài chính trên GDP danh nghĩa, và được ký hiệu là FIR. Chỉ số này là một xấp xỉ cho
các tỷ lệ tương quan tài chính (Goldsmith, 1969). Chỉ số thứ ba là tỷ lệ của tổng số tiền
tiết kiệm hộ gia đình trên GDP danh nghĩa; nó được ký hiệu là SAV (Guariglia và
Poncet, 2008) .
Biện pháp thứ hai là các chỉ số hiệu quả được đo bằng tỷ lệ tín dụng được phân

bổ cho các doanh nghiệp tư nhân trên tổng tín dụng trong nước (ký hiệu là PRV).
(Beck et al, 2000;. Chinn và Ito, 2006; Levine et al. , 2000). Khi tín dụng tư nhân


24

chủng tín dụng cấp cho khu vực tư nhân, như trái ngược với tín dụng cấp cho các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN), được biết đến với hiệu quả thấp, hàm lượng cao của
PRV chỉ ra các dịch vụ tài chính hiệu quả hơn và phát triển trung gian tài chính lớn hơn
(Levine et al., 2000). Trong một hệ thống tài chính ngân hàng chiếm ưu thế tín dụng tư
nhân có lẽ là chỉ số hiệu quả tài chính quan trọng nhất (Brandt và Zhu, 2000; Song và
Yao, 2006). Thật vậy, nó đo lường mức độ mà công ty tư nhân có cơ hội để có được tài
chính ngân hàng (Baltagi et al., 2009) và sự dễ dàng mà các doanh nghiệp có được các
dự án (Rajan và Zingales, 2003). Như vậy, sự gia tăng PRV cũng phản ánh một sự nâng
cao hiệu quả của các ngân hàng đưa ra quyết định cho vay.


Độ mở thương mại (TO)

Có nhiều chỉ tiêu đo lường sự phát triển thương mại quốc tế của một quốc gia.
Tuy nhiên, chỉ tiêu quan trọng và thường được sử dụng nhất là độ mở thương mại. của
nền kinh tế (Trade Openness). Chỉ tiêu độ mở thương mại được tính bằng cách lấy giá
trị tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (Export and Import) của một thời kỳ chia cho giá trị
của tổng sản phẩm trong nước cũng trong thời kỳ đó: TO= (Export + Import)/ GDP


Độ mở tài chính (FO)

Có hai biện pháp đo lường thay thế độ mở tài chính được sử dụng trong các tài
liệu nghiên cứu trước đây. Các biện pháp đo lường trên thực tế (chỉ số quy mô) đã

được phát triển bởi Lane và Milesi-Ferretti (2007), và được định nghĩa là tỷ lệ khối
lượng các tài sản và các khoản nợ nước ngoài của một quốc gia trên GDP. Các biện
pháp pháp lý (chỉ số hiệu quả) đã được đề xuất bởi Chinn và Ito (2006) và có thể được
xây dựng từ các biến giả đại diện cho các hạn chế về giao dịch tài chính xuyên biên
giới.Vì sự sẵn có của dữ liệu, biến FO được xây dựng theo tỷ lệ khối lượng các tài sản
và các khoản nợ nước ngoài của một quốc gia trên GDP danh nghĩa.
Bảng 3.1. Bảng tổng hợp các biến dùng trong mô hình
STT

Tên biến

Cách tính
+ (DEPT): Tổng dư nợ trong hệ thống tài chính/GDP.


25

1
2
3
4
5
3.2

+ (FIR): Tổng số tiền cho vay và tiền gửi trong hệ thống
FD (chỉ số về sự tài chính/GDP.
phát triển tài
+ (SAV): Tổng số tiền tiết kiệm hộ gia đình/GDP.
chính)
+ (PRV): Tín dụng tư nhân/tổng tín dụng.

TO (độ mở Tổng xuất và nhập/GDP
thương mại)
FO (độ mở tài FDI/GDP
chính)
GOV
Chi tiêu chính phủ/GDP
Enroll
Số trẻ em đi học/ Số trẻ em trong độ tuổi đi học
Phương pháp xử lý số liệu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích định lượng với sự trợ giúp của phần mềm

EVIEWS 8, Excel để đo lường sự tác động của các biến trên.
 Phân tích thống kê mô tả :Trên cơ sở thu thập dữ liệu, Tác giả tiến hành tính toán và
mã hoá các biến trên phần mềm Excel, sau đó nhập dữ liệu vào phần mềm EVIEWS 8
thực hiện thống kê mô tả. Nội dung phân tích thông kê mô tả là tóm tắt các đặc trưng
của dữ liệu phản ánh một cách tổng quát: giá trị trung bình, giá trị trung vị, giá trị lớn
nhất, giá trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn…
 Kiểm định tính dừng: Trước khi chạy hồi quy ta phải kiểm tra tính dừng của dữ liệu
để đảm bảo giả thiết của mô hình hồi quy cổ điển là các biến độc lập phải phi ngẫu
nhiên. Theo Gujarati (1995), khi hồi quy giữa các chuỗi thời gian không dừng (nonstationary) sẽ có thể có hiện tượng hồi quy giả mạo (spurious regression) do yếu tố xu
thế tạo ra và kết quả ước lượng sẽ không thể tin cậy được. Do đó, trước khi chạy hồi
quy ta phải kiểm định tính dừng của dữ liệu; Trong bài, tác giả thực hiện kiểm định
Augmented Dicky-Fuller (1979) đối với các biến để xác định tính dừng;
 Kiểm định đồng liên kết của Johansen:là một phương pháp để kiểm định khả
năng đồng liên kết của một số chuỗi thời gian có thuộc tính I(1). Engle và Granger
(1987) cho rằng kết hợp tuyến tính của các chuỗi thời gian không dừng có thể là một
chuỗi dừng và các chuỗi thời gian không dừng đó được cho là đồng liên kết. Kết hợp
tuyến tính dừng được gọi là phương trình đồng liên kết và có thể được giải thích như



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×