Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Luận văn pháp luật về cho thuê tài chính ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.75 KB, 72 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu......................................................4
2. Tóm tắt tình hình nghiên cứu của đề tài................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài...............................................6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài..............................................6
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài.............................................................7
6. Kết cấu luận văn....................................................................................7
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO THUÊ TÀI
CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH.....................................8
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về cho thuê tài chính...........................8
1.1.1. Khái niệm cho thuê tài chính.......................................................8
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của cho thuê tài chính...................................11
1.1.3. Các hình thức cho thuê tài chính cơ bản...................................14
1.1.4. Vai trò của cho thuê tài chính....................................................18
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật cho thuê tài chính.........21
1.2.1. Khái niệm pháp luật về cho thuê tài chính................................21
1.2.2. Đặc điểm pháp luật cho thuê tài chính......................................22
1.2.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động
cho thuê tài chính.........................................................................................24


Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở
VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH.........................................................26
2.1. Thực trạng pháp luật về cho thuê tài chính......................................26
2.1.1. Những điểm mạnh của pháp luật về cho thuê tài chính............26
2.1.2. Bất cập của pháp luật về cho thuê tài chính..............................50
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cho thuê tài chính..........................56
2.2.1. Về tình hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê
tài chính.......................................................................................................56
2.2.2. Về đối tượng của hợp đồng cho thuê tài chính..........................60


Chương 3. HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHO THUÊ TÀI
CHÍNH Ở VIỆT NAM........................................................................................62
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho thuê tài
chính................................................................................................................62
3.2. Những yêu cầu cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật cho thuê tài
chính ở Việt Nam.............................................................................................63
3.3. Một số định hướng cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động
cho thuê tài chính ở Việt Nam.........................................................................65
3.3.1. Cho phép ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng cho thuê
tài chính.......................................................................................................65
3.3.2. Mở rộng đối tượng của hợp đồng cho thuê tài chính................65
3.3.3. Quy định về việc áp dụng biện pháp bảo đảm đối với các giao
dịch cho thuê tài chính.................................................................................67

2


3.3.4. Tăng mức vốn pháp định áp dụng cho công ty cho thuê tài chính
.....................................................................................................................67
3.3.5. Hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện của giao dịch cho
thuê tài chính...............................................................................................68
KẾT LUẬN.................................................................................................71

3


Đề tài: “Pháp luật về cho thuê tài chính ở Việt Nam”
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt

Nam đã khẳng định một trong các nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn 2016-2020
là tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước đã đề ra trong
giai đoạn mới, thì nhu cầu về vốn đầu tư, đổi mới máy móc trang thiết bị, dây
chuyền công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh là khá lớn. Mặc dù Nhà
nước ta đã tích cực tìm mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư trong nước và nước
ngoài, chủ trương đa dạng hóa các loại hình cung ứng vốn và tập trung đầu tư
cho phát triển sản xuất kinh doanh nhưng nguồn vốn vẫn khan hiếm và là bài
toán làm đau đầu các doanh nghiệp. Trên thực tế, khả năng tích lũy vốn của các
doanh nghiệp rất hạn chế, khả năng tái đầu tư, đổi mới thiết bị cũng rất thấp dẫn
đến chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao. Vì thế, doanh nghiệp gặp khó khăn
trong tiêu thụ sản phẩm và cạnh tranh. Mặt khác, doanh nghiệp cũng khó vay
được vốn ngân hàng bởi lẽ vốn cho sản xuất kinh doanh là vốn trung và dài hạn
trong khi ngân hàng chỉ dư thừa vốn ngắn hạn. Đứng trước thực trạng này, sự ra
đời của các công ty cho thuê tài chính đã đóng góp một phần quan trọng trong
việc cung ứng vốn sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Trong điều kiện
kinh tế hiện nay, khả năng tiếp cận nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp còn
gặp nhiều khó khăn; việc tiếp cận nguồn vốn thông qua các hợp đồng cho thuê
tài chính – một hình thức tài trợ vốn trung, dài hạn là một kênh hữu hiệu nhằm
giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế Việt Nam sau
thời kỳ đổi mới.
4


Sau khi được hình thành và gia nhập vào thị trường kinh tế ở Việt Nam,
hoạt động cho thuê tài chính đã thực sự mang lại nhiều hiệu quả thiết thực về
đẩy mạnh đổi mới trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ, tạo cơ hội mở rộng và

phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện
nay hoạt động cho thuê tài chính vẫn chưa có một hành lang pháp lý vững chắc,
các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động này có giá trị pháp lý không
cao, thiếu linh hoạt nên hoạt động cho thuê tài chính chưa phát triển tương xứng
với vai trò, tầm vóc và gặp không ít khó khăn. Xuất phát từ những vướng mắc
và bất cập kể trên, nền kinh tế Việt Nam hiện nay đòi hỏi cần phải có một hệ
thống cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất có tính đồng bộ để đảm bảo khả
năng thực thi và thúc đẩy thị trường cho thuê tài chính phát triển an toàn đạt
hiệu quả cao, theo kịp xu hướng phát triển kinh tế hiện đại hóa, tự động hóa trên
thế giới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, qua tìm hiểu thực tế và tiến hành phân
tích đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động cho
thuê tài chính, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Pháp luật về cho thuê tài
chính ở Việt Nam” để làm đề tài luận văn của mình.
2. Tóm tắt tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam đã có một số công trình khoa học, bài viết nghiên cứu, tìm hiểu
cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động cho thuê tài chính như: Luận
án Tiến sĩ của tác giả Đoàn Thanh Hà (2003) về “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt
động cho thuê tài chính ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ của tác giả Bùi Hồng Đới
(2003) về “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty cho thuê tài
chính ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Doãn Hồng Nhung
(2006) về “Những vấn đề pháp lý về hợp đồng thuê mua ở Việt Nam”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Hoàng Oanh (1998) về “Điều chỉnh pháp luật
đối với hoạt động thuê mua tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học
của tác giả Lê Thị Thảo (2002) về “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê
5


tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đinh Bá Tuấn
(2006) về “Pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam”, Luận văn

Thạc sĩ Luật học của tác giả Đỗ Anh Tuấn (2008) về “Hợp đồng thuê khai thác
tàu bay trong lĩnh vực hàng không dân dụng tại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ
Kinh tế của tác giả Hoàng Thị Thanh Hằng (2013) về “Năng lực cạnh tranh của
các công ty cho thuê tài chính thành phố Hồ Chí Minh”; cùng một số bài viết
như: “Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính” của tác giả Hoàng Ngọc Tiến
(2004), “Pháp luật về cho thuê tài chính – một số vấn đề cần hoàn thiện” của
ThS. Trần Vũ Hải, “Nghị định 39/2014/NĐ-CP: Đảm bảo an toàn cho thị trường
tài chính – tiền tệ” của ThS. Nguyễn Thị Thu Cúc. Từ những thống kế trên cho
thấy, các quy định của pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động cho thuê tài
chính còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế. Một số các văn bản pháp luật hiện hành
chỉ đang điều chỉnh một phần về hoạt động cho thuê tài chính mà chưa có quy
định pháp luật điều chỉnh chuyên sâu về các loại hình cho thuê tài chính cụ thể.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là các quan điểm khoa
học, các quy định của pháp luật hiện hành và các tư liệu thực tế thi hành pháp
luật về cho thuê tài chính ở Việt Nam.
Với đề tài “Pháp luật về cho thuê tài chính ở Việt Nam”, tác giả đã tập
trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật về cho thuê tài chính,
đánh giá thực tiễn triển khai áp dụng pháp luật về cho thuê tài chính. Từ đó, luận
văn đã đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về cho thuê tài chính.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài với mục đích làm rõ những nội dung cơ bản của
pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính, thực trạng các quy định của pháp luật
và thực tiễn áp dụng pháp luật về cho thuê tài chính, từ đó đưa ra các giải pháp
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này trong thực tiễn.
6


Để thực hiện mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ làm rõ khái

niệm, vai trò; những nội dung cơ bản của pháp luật về hoạt động cho thuê tài
chính; phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về cho thuê tài chính theo
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; đồng thời tác giả cũng tìm hiểu việc
thực hiện các quy định này trên thực tế để nhận diện những điểm chưa phù hợp
và những điểm bất cập trong việc áp dụng các quy định này, để từ đó đề xuất
một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung, khắc phục, cũng như các biện pháp bảo đảm
thực hiện hiệu quả pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính trong thực tiễn.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để triển khai trình bày luận văn của mình, tác giả đã sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: Phân tích, thống kế, tổng hợp, đối
chiếu, so sánh trên cơ sở phân tích những quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về hoạt động cho thuê tài chính và đánh giá tình hình thực tế của hoạt động
này ở nước ta. Ngoài ra, cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài là phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, thì
luận văn được trình bày với kết cấu gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về cho thuê tài chính và pháp luật
về cho thuê tài chính
Chương 2. Thực trạng pháp luật về cho thuê tài chính ở Việt Nam và thực
tiễn thi hành
Chương 3. Định hướng hoàn thiện pháp luật về cho thuê tài chính ở Việt
Nam

7


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO THUÊ TÀI
CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH

1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về cho thuê tài chính
1.1.1. Khái niệm cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính được hiểu là một nghiệp vụ cấp tín dụng trong trung và
dài hạn, bản chất bên cho thuê tài chính là đơn vị cấp vốn, bên thuê tài chính là
người vay vốn. Cho thuê tài chính được đánh giá là hoạt động an toàn, hữu hiệu,
tạo điều kiện giúp các tổ chức sản xuất kinh doanh thỏa mãn nhu cầu về tài
chính, đặc biệt là nhu cầu tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
hoặc siêu nhỏ hoặc những doanh nghiệp không có đủ khả năng tiếp cận nguồn
vốn ngân hàng.
Trên thế giới, mỗi quốc gia có những quy định khác nhau trong pháp luật
về cho thuê tài chính dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi nước.
Mặc dù trên thực tế có nhiều định nghĩa về nghiệp vụ cho thuê tài chính, song
cách giải thích của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC – International
Accounting Standards Committee) được xem là có tính khái quát hơn cả.
Theo IASC, cho thuê tài chính là loại cho thuê có khả năng chuyển dịch về
căn bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Quyền
sở hữu đó cuối cùng cũng có thể được chuyển giao hoặc không được chuyển
giao. Một giao dịch thuê tài sản đáp ứng một trong các tiêu chuẩn dưới đây đều
được gọi là cho thuê tài chính:
-

Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao cho bên thuê tài chính khi

-

kết thúc hợp đồng.
Hợp đồng thuê có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp

-


đồng với giá trị thấp hơn giá trị thuê tại thời điểm kết thúc hợp đồng.
Thời hạn hợp đồng thuê bằng phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản
thuê.

8


-

Tổng giá trị số tiền thuê do bên thuê tài chính trả tối thiểu lớn hơn hoặc
bằng giá của tài sản thuê trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
Ở Việt Nam, cho thuê tài chính xuất hiện vào năm 1995, muộn hơn nhiều

so với các nước khác trên thế giới. Tại Quyết định số 149/QĐ-NH5 ngày
27/05/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Thể lệ tín
dụng thuê mua đã ghi nhận khái niệm về tín dụng thuê mua, cụ thể, tín dụng
thuê mua được hiểu là:
Hoạt động cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác phục
vụ cho sản xuất kinh doanh được các tổ chức tín dụng mua theo yêu
cầu của bên thuê. Bên thuê thanh toán tiền thuê cho tổ chức tín dụng
trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận và không được
hủy bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền sở hữu tài
sản thuê, hoặc được mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản
thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thuê
mua.
Sau đó, khái niệm về cho thuê tài chính lần đầu tiên mới được đề cập đến
tại Điều 1 Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính tại Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định 64-CP ngày 09/10/1995 của
Chính phủ):
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông

qua việc cho thuê máy móc - thiết bị và các động sản khác. Bên cho
thuê cam kết mua máy móc - thiết bị và động sản theo yêu cầu của
bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê
sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê
đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước
hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu,
mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận
trong hợp đồng thuê.
9


Nhìn về bản chất, tín dụng thuê mua chỉ là một cách gọi khác của cho thuê
tài chính, trong định nghĩa của cả hai hoạt động này đều có những tiêu chí rất
đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính.
Hiện nay, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Điều 113) và Khoản 7 Điều
3 Nghị định số 39/2014/NĐ-CP ngày 07/05/2014 của Chính phủ về hoạt động
của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính đã ghi nhận định nghĩa về
hoạt động cho thuê tài chính rất cụ thể:
Cho thuê tài chính là hoạt động cấp tín dụng trung hạn, dài hạn
trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê tài chính
với bên thuê tài chính. Bên cho thuê tài chính cam kết mua tài sản
cho thuê tài chính theo yêu cầu của bên thuê tài chính và nắm giữ
quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê tài chính trong suốt thời hạn
cho thuê. Bên thuê tài chính sử dụng tài sản thuê tài chính và thanh
toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê quy định trong hợp đồng cho
thuê tài chính.
Hoạt động cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng trung hạn, dài
hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính và phải có một trong các
điều kiện sau đây:
1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được

nhận chuyển quyền sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo
thỏa thuận của hai bên;
2. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được
quyền ưu tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá
trị thực tế của tài sản cho thuê tại thời điểm mua lại;
3. Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian
cần thiết để khấu hao tài sản cho thuê đó;

10


4. Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài
chính ít nhất phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp
đồng.
Có thể thấy, đây là một định nghĩa về cho thuê tài chính đầy đủ và chi tiết.
Định nghĩa này vừa khái quát một cách đầy đủ về cho thuê tài chính, vừa nêu ra
được những tiêu chí rõ ràng để phân biệt cho thuê tài chính với các hoạt động
cho thuê tài sản và các hoạt động tín dụng khác.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của cho thuê tài chính
Trên cơ sở tiêu chuẩn của IASC, mỗi quốc gia hay mỗi tổ chức tài chính
trên thế giới sẽ có những cách hiểu cụ thể khác nhau về nghiệp vụ cho thuê tài
chính, nhưng về cơ bản những cách hiểu này không có gì mâu thuẫn với các tiêu
chuẩn chung của IASC. Như vậy, hoạt động cho thuê tài chính có thể được nhận
diện bởi các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, cho thuê tài chính mang tính chất của hoạt động cho thuê tài sản
thông thường:
Thực chất trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ vốn cho
bên thuê bằng cách bỏ tiền của mình để mua tài sản mà bên thuê yêu cầu. Bên
cho thuê tài chính chuyển giao quyền khai thác giá trị sử dụng tài sản đó cho bên
thuê tài chính nhưng vẫn giữ lại quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Ở đây,

bên thuê chỉ có quyền khai thác giá trị sử dụng tài sản chứ không có quyền sở
hữu tài sản. Chính sự phân biệt giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu tài sản
trong các giao dịch này cho thấy cho thuê tài chính có một số điểm tương đồng
với cho thuê tài sản thông thường. Tuy nhiên, nếu đi vào những khía cạnh cụ thể
thì cho thuê tài chính lại khác với cho thuê tài sản thông thường (hoặc cho thuê
vận hành) ở rất nhiều điểm.
Thứ hai, nghiệp vụ cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng trong
trung và dài hạn:
11


Trong một giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê chuyển giao tài sản
thực cho bên thuê sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận. Trong
quá trình sử dụng tài sản, bên thuê phải thanh toán tiền thuê định kỳ cho đến khi
hết hạn hợp đồng, khoản tiền thuê này bao gồm hai phần: phần vốn gốc và lãi.
Đặc biệt, đối với các hợp đồng cho thuê tài chính thanh toán một phần sau khi
chấm dứt hợp đồng thuê, tiền lãi được thanh toán đầy đủ trong thời gian sử dụng
vốn, những phần vốn gốc chưa hoàn trả đầy đủ. Trường hợp này trong hợp đồng
thường có những phương án giải quyết như sau:
-

Bên thuê đồng ý mua tài sản: phần vốn gốc của bên cho thuê sẽ được thu

hồi dưới dạng tiền thanh toán mua tài sản.
- Bên thuê muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc được hoàn trả dưới dạng
thanh toán tiền thuê trong thời gian hợp đồng cho thuê được gia hạn.
- Bên thuê không muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc lại được hoàn trả
dưới dạng hiện vật, tức là tài sản thuê mua.
Có thể thấy, trong giao dịch cho thuê tài chính, nguyên tắc hoàn trả của tín
dụng luôn luôn được bảo đảm; tiền thuê và giá trị tài sản còn lại thường lớn hơn

giá trị tài sản ban đầu. Về nguyên tắc, việc xác định tiền thuê tương tự như việc
xác định mức tiền trả nợ trong cho vay, tức là phải căn cứ vào tổng số tiền tài
trợ, thời hạn cho vay và lãi suất. Đây chính là sự trao đổi tài sản không ngang
giá – bản chất của một quan hệ tín dụng.
Khi so sánh giữa hoạt động cho thuê tài chính và cấp tín dụng để mua tài
sản, thì điểm khác biệt cơ bản giữa hai hoạt động này là ở quyền sở hữu tài sản
được hình thành từ nguồn vốn tài trợ. Với nghiệp vụ cho thuê tài chính, bên cho
thuê giữ lại quyền sở hữu tài sản thuê và thu tiền trích khấu hao tài sản thuê. Khi
hết thời hạn hợp đồng, bên thuê có quyền lựa chọn giữa việc tiếp tục thuê hoặc
mua lại tài sản theo giá trị còn lại của tài sản. Còn trong hoạt động cấp tín dụng
để mua tài sản, bên đi vay không những có quyền sử dụng mà còn có cả quyền
sở hữu tài sản hình thành từ vốn vay và có quyền giữ lại tiền trích khấu hao tài
sản đó; còn bên cho vay có quyền đòi lại cả gốc và lãi vốn cho vay.
12


Hoạt động cho thuê tài chính có những lợi thế nhất định so với hoạt động
cấp tín dụng để mua tài sản. Thứ nhất, đối với cho thuê tài chính, tài sản thuê
thường cũng chính là tài sản bảo đảm cho giao dịch cho thuê tài chính; trong khi
đối với cấp tín dụng để mua tài sản, người đi vay thường phải có tài sản khác để
bảo đảm cho khoản vốn vay. Thứ hai, trong cho thuê tài chính, kết thúc hợp
đồng thuê, bên thuê nếu muốn có thể chuyển giao lại tài sản thuê cho bên cho
thuê cùng tất cả những rủi ro do sự lỗi thời của tài sản thuê. Ngược lại, ở các
hoạt động cấp tín dụng để mua máy móc, thiết bị, người đi vay là chủ sở hữu tài
sản hình thành từ vốn vay, phải tự mình gánh chịu tất cả rủi ro do sự mất giá của
máy móc, thiết bị đó.
Khác với các nghiệp vụ cấp tín dụng như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu và
bao thanh toán, cho thuê tài chính luôn là một hình thức cấp tín dụng trung và
dài hạn, tức là thời hạn thuê phải từ 1 năm trở lên. Bởi lẽ, nếu cho thuê với thời
hạn ngắn, bên cho thuê thu hồi tài sản về trước khi hết khấu hao thì việc cho

thuê lại là rất khó; còn đối với bên thuê họ cũng sẽ phải đi tìm bên cho thuê mới,
điều này sẽ gây gián đoạn quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.Như
vậy, cấp tín dụng trong trung và dài hạn dưới hình thức cho thuê tài chính là một
yêu cầu khách quan xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của các chủ thể trong nền
kinh tế. Với thời gian thuê trung và dài hạn, bên thuê có khả năng trả tiền thuê
dễ dàng hơn so với trường hợp thuê ngắn hạn. Đặc điểm là hình thức cấp tín
dụng trung và dài hạn này của nghiệp vụ cho thuê tài chính ảnh hưởng đến khả
năng huy động vốn của công ty cho thuê tài chính.
Thứ ba, về chủ thể thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính:
Nghiệp vụ cho thuê tài chính là một trong những hình thức cấp tín dụng
của tổ chức tín dụng, bởi lẽ hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng là việc thỏa
thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử
dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả. Theo đó, trong nghiệp vụ cho
thuê tài chính có sự thỏa thuận để bên thuê tài chính sử dụng một khoản tiền của
13


tổ chức tín dụng dưới dạng tài sản thuê và có sự hoàn trả sau một thời gian đã
thỏa thuận trước bằng việc thanh toán tiền thuê. Trên thị trường cho thuê tài
chính ở các nước có nền kinh tế phát triển, bên thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài
chính có thể là các định chế tài chính, các nhà sản xuất máy móc, thiết bị,
phương tiện vận tải… Có thể phân chia ra các loại hình công ty cho thuê tài
chính cơ bản như:
- Công ty cho thuê tài chính độc lập: Loại hình công ty này thường hoạt
động độc lập với các nhà cung ứng. Các công ty này thường có một mạng
lưới kinh doanh rất rộng rãi và có khả năng sửa chữa, cải tiến, gia tăng
thêm chức năng cho các loại máy móc, thiết bị để phù hợp với trình độ
công nghệ hiện tại. Ở nhiều nước, các công ty cho thuê tài chính độc lập
thường tập trung cho thuê một số loại tài sản nhất định hay tập trung vào
một số ngành công nghiệp.

- Công ty cho thuê tài chính phụ thuộc: Loại hình công ty này do các nhà
cung cấp máy móc, thiết bị lập ra để tài trợ cho chính sản phẩm, hàng hóa
của họ. Đây thường là các công ty con trực thuộc các tập đoàn lớn, các
công ty này chủ yếu cho thuê các tài sản do công ty mẹ sản xuất.
- Công ty cho thuê tài chính trực thuộc ngân hàng: Loại hình công ty này
xuất hiện muộn hơn so với hai loại hình công ty cho thuê tài chính ở trên và
cách thức hoạt động kinh doanh của loại hình công ty này cũng có rất nhiều
khác biệt với các loại hình công ty cho thuê tài chính khác. Các công ty cho
thuê tài chính này với kinh nghiệm tài trợ vốn và khả năng nguồn vốn lớn
nên có thể đáp ứng phần lớn các nhu cầu của khách hàng về các loại tài sản
thuê có giá trị lớn.
1.1.3. Các hình thức cho thuê tài chính cơ bản
Hiện nay, tùy thuộc vào cách thức nhận biết các giao dịch về cho thuê tài
chính mà xuất hiện nhiều tiêu chí phân loại các hình thức cho thuê tài chính. Tuy
nhiên, phân chia theo tính chất giao dịch được xem là một tiêu chí phân chia rất

14


hợp lý và khoa học. Căn cứ trên tiêu chí này, hình thức cho thuê tài chính được
phân chia thành các hình thức cơ bản sau:
+ Hình thức cho thuê trực tiếp (hay gọi là cho thuê tài chính giản đơn)
Đây là hình thức cho thuê tài chính mà bên cho thuê tài chính sử dụng
chính tài sản đang sẵn có trực tiếp và thuộc quyền sở hữu của mình để cho thuê.
Bên cho thuê có thể là các công ty sản xuất máy móc, thiết bị, họ không bán tài
sản mà chỉ cho thuê dưới dạng các hợp đồng cho thuê tài chính. Ngoài ra, một số
các định chế tài chính, ngân hàng thương mại hoặc các công ty cho thuê tài
chính có tiềm lực nguồn vốn dồi dào đã mua sẵn các tài sản thuê nhằm mục đích
cho thuê, họ cũng sử dụng hình thức cho thuê tài chính này. Với hình thức cho
thuê tài chính trực tiếp, chủ thể của hợp đồng cho thuê tài chính chỉ có sự tham

gia trực tiếp của hai bên là bên thuê và bên cho thuê; nguồn vốn tạo lập tài sản
hoàn toàn do bên cho thuê đầu tư.
Bên cạnh đó, hình thức cho thuê tài chính trực tiếp thường được các nhà
sản xuất sử dụng để đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm do chính họ sản xuất ra.
Việc để các sản phẩm thành tài sản thuê trong các hợp đồng cho thuê tài chính
cũng là một kênh phân phối sản phẩm hữu hiệu, có thị trường phát triển bền
vững. Ngoài ra, các nhà sản xuất có thể sẵn sàng mua lại những máy móc, thiết
bị lạc hậu về công nghệ để tiếp tục cung cấp những máy móc mới, cập nhật công
nghệ mới do chính họ sản xuất ra.
+ Hình thức cho thuê tài chính thông thường
Theo hình thức này, có ba bên tham gia: bên cho thuê, bên thuê và nhà
cung cấp. Bên thuê được quyền lựa chọn, thỏa thuận với nhà cung cấp về tài sản
thuê. Bên cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu đã được bên thuê
và nhà cung cấp thỏa thuận bằng hợp đồng hoặc bản ghi nhớ.
Đây là hình thức cho thuê tài chính được sử dụng phổ biến nhất, nó thể
hiện đầy đủ các nét đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính. Các công ty cho
15


thuê tài chính áp dụng phương thức này là chủ yếu để tài trợ cho doanh nghiệp,
đặc biệt là đối với cho thuê máy móc, thiết bị. Với hình thức cho thuê tài chính
này, bên thuê được quyền lựa chọn nhà cung cấp, trực tiếp đàm phán với nhà
cung cấp về những đặc tính của sản phẩm nhằm lựa chọn ra sản phẩm phù hợp
nhất, thỏa mãn tốt nhất yêu cầu của bên thuê. Ngoài ra, việc bên cho thuê không
phải mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải trước sẽ giảm bớt được chi phí
lưu kho bãi, hao mòn trong quá trình dự trữ.
+ Hình thức cho thuê liên kết (hay gọi là cho thuê hợp vốn)
Đây là hình thức cho thuê mà nhiều bên cho thuê cùng thực hiện một hoạt
động tài trợ vốn cho một bên thuê. Hình thức này được áp dụng khi nhu cầu thuê
tài chính của bên thuê vượt quá khả năng cho thuê của một công ty cho thuê tài

chính hoặc nhằm phân tán rủi ro. Sự liên kết giữa các bên cho thuê có thể xảy ra
theo chiều ngang (giữa các ngân hàng thương mại, công ty cho thuê tài chính,
công ty tài chính) hoặc theo chiều dọc (giữa các công ty mẹ với các công ty con,
chi nhánh hoặc đơn vị trực thuộc).
+ Hình thức cho thuê bắc cầu
Đây cũng là một hình thức cho thuê tài chính được sử dụng trong trường
hợp bên cho thuê không đủ điều kiện tự tài trợ vốn cho bên thuê. Trong hình
thức này, vốn tài trợ gồm vốn của bản thân bên cho thuê và một phần là vốn vay
từ một hoặc nhiều định chế tài chính với việc thế chấp tài sản cho thuê là tài sản
bảo đảm cho hợp đồng vay vốn. Ở đây, vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng số tiền tài trợ; pháp luật của một số quốc gia đưa ra tỷ lệ giới hạn của các
khoản tiền vay này trên tổng giá trị của tài sản cho thuê. Tiền cho thuê nhận
được theo quy định của các kỳ hạn trả nợ là nguồn tiền để trả nợ cho các tổ chức
tài chính đã thu xếp vốn đầu tư có tính chất bắc cầu. Với hình thức cho thuê tài
chính này, bên cho thuê có thể tăng năng lực tài chính để ký kết các hợp đồng
cho thuê vượt xa khả năng nguồn vốn tự có của mình.

16


Hình thức cho thuê tài chính này thường được sử dụng trong những giao
dịch cho thuê tài chính đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn như cho thuê tài chính
với tài sản là máy bay thương mại, tàu chở hàng…
+ Hình thức mua và cho thuê lại
Đây là hình thức cho thuê tài chính thường được áp dụng đối với các nhà
sản xuất hoặc người sở hữu tài sản lớn nhưng thiếu vốn lưu động để khai thác
hết tài sản cố định hiện có, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại
không đủ uy tín để vay vốn lưu động ở các ngân hàng hoặc không muốn bán đứt
tài sản hiện có. Trong trường hợp đó, bên cho thuê mua tài sản thuộc sở hữu của
bên thuê, rồi cho bên thuê thuê lại chính tài sản đó bằng hợp đồng cho thuê tài

chính để bên thuê tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi các bên thực hiện giao dịch mua và cho thuê lại, luôn giao kết và thực
hiện hai loại hợp đồng là hợp đồng mua tài sản và hợp đồng cho thuê tài chính
để cho thuê lại chính tài sản đó. Tài sản dùng để giao dịch trong hình thức cho
thuê tài chính này có thể là thiết bị mới hay thiết bị đã qua sử dụng nhưng vẫn
còn giá trị sử dụng hữu ích. Tài sản để mua và cho thuê lại cũng giống như tài
sản cho thuê tài chính, gồm: Phương tiện vận chuyển; Máy móc thiết bị dùng
cho thi công xây lắp hoặc tạo dựng hạ tầng kỹ thuật; Dây chuyền sản xuất; Thiết
bị gắn liền với bất động sản và các động sản khác. Khi ký kết hợp đồng mua tài
sản, giá mua tài sản cho thuê được xác định phù hợp với quy định của mỗi quốc
gia trong từng thời kỳ về mua bán tài sản. Hợp đồng cho thuê lại tài sản đó áp
dụng các quy tắc giao kết và thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính thông
thường.
Các giao dịch mua và cho thuê lại còn được sử dụng để tài trợ vốn trung và
dài hạn đối với những tài sản trước đó đã được mua bằng nguồn tiền vay hoặc
được dùng để làm giảm chi phí huy động vốn, do hình thức này có mức lãi suất
thấp hơn các hình thức sử dụng vốn khác.

17


1.1.4. Vai trò của cho thuê tài chính
1.1.4.1. Đối với bên cho thuê tài chính
Nghiệp vụ cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng có độ rủi ro
thấp, bởi lẽ quyền sở hữu tài sản cho thuê về mặt pháp lý vẫn thuộc về bên cho
thuê trong suốt thời hạn hợp đồng cho thuê tài chính. Vì vậy, họ có quyền kiểm
tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản cho thuê và nếu phát hiện bên thuê
không tuân thủ hợp đồng họ sẽ dễ dàng thu hồi tài sản cho thuê. Nhờ thế, bên
cho thuê có thể tránh được những thiệt hại và mất mát vốn tài trợ cho bên thuê.
Cho thuê tài chính cấp vốn dưới hình thức hiện vật (máy móc, thiết bị,

phương tiện vận tải…) cho bên thuê nên sẽ đảm bảo được việc vốn mà họ cho
vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Hơn nữa, tài sản cho thuê lại
do chính bên thuê đã lựa chọn và yêu cầu bên cho thuê mua nên không có cơ hội
sử dụng vốn được tài trợ vào mục đích khác. Ngoài ra, do nghiệp vụ cho thuê tài
chính tài trợ vốn bằng hiện vật (tài sản thuê) nên phần nào hạn chế được ảnh
hưởng của lạm pháp làm giảm giá trị của khoản vốn tài trợ.
Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tham gia với tư cách là
nhà tài trợ, cung cấp vốn để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê nên họ không
nhất thiết phải chịu trách nhiệm về các yếu tố mang tính chất kỹ thuật của tài sản
thuê.
Việc thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính giúp bên cho thuê có khả năng
thu được khoản vốn chênh lệch khi hết thời hạn hợp đồng cho thuê tài chính
trong trường hợp bên thuê trả lại máy móc, thiết bị. Bởi lẽ, thông thường tài sản
cho thuê thu về có giá trị tái đầu tư cao hơn giá trị còn lại đã dự tính từ đầu. Bên
cạnh đó, nghiệp vụ cho thuê tài chính còn giúp các tổ chức tín dụng (đặc biệt là
ngân hàng thương mại) có thể đa dạng hóa việc sử dụng vốn từ đó phân tán rủi
ro cho mình.
1.1.4.2. Đối với bên thuê tài chính

18


Bên thuê tài chính dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tài trợ từ cho thuê tài chính,
bởi khi tiến hành nghiệp vụ cho thuê tài chính, các công ty cho thuê tài chính,
công ty tài chính không quá khắt khe trong việc xem xét khả năng tài chính, uy
tín của bên thuê để đưa ra quyết định cấp tín dụng do quyền sở hữu pháp lý tài
sản thuê vẫn thuộc về bên cho thuê, họ có thể trực tiếp kiểm soát theo dõi việc
sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh của bên thuê. Điều này sẽ tạo thuận lợi rất
lớn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc các
doanh nghiệp mới thành lập có thể từ tay không mà vẫn mua được máy móc,

thiết bị phục vụ yêu cầu của sản xuất. Hơn nữa, việc không đòi hỏi tài sản đảm
bảo còn giúp thủ tục cho thuê tài chính được thực hiện nhanh chóng, đơn giản.
Từ đó, giúp các doanh nghiệp đi thuê nhanh chóng nắm bắt và đáp ứng được các
cơ hội kinh doanh.
Cho thuê tài chính giúp bên thuê sử dụng linh hoạt nguồn vốn thay vì bỏ
vốn tự có của mình ra để mua tài sản cố định, do vậy các doanh nghiệp đi thuê
sẽ không bị đọng vốn trong tài sản cố định, hình thức cấp tín dụng bằng nghiệp
vụ cho thuê tài chính có thể giúp các doanh nghiệp giảm bớt chi phí cần để khởi
động hoặc mở rộng việc sản xuất, kinh doanh. Thông qua nghiệp vụ mua và cho
thuê lại của bên cho thuê, các doanh nghiệp đi thuê có thể chuyển nguồn tài sản
cố định thành tài sản lưu động hay chuyển dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh
doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư
hiện hành. Mặt khác, thời hạn trả tiền thuê cũng thường được bên cho thuê tài
chính điều chỉnh linh hoạt phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Với nghiệp vụ cho thuê tài chính, bên thuê có khả năng tiếp cận được với
nhiều loại máy móc, thiết bị và các dây chuyền sản xuất hiện đại. Điều đó sẽ
giúp bên thuê tài chính hạn chế được sự lạc hậu, luôn đổi mới dây chuyền, công
nghệ sản xuất nhằm theo kịp với trình độ phát triển của khoa học công nghệ, từ
đó nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt,

19


điều này rất quan trọng với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phải dựa
nhiều vào công nghệ hiện đại, tân tiến.
Tiếp cận nguồn vốn tài trợ bằng hiện vật thông qua nghiệp vụ cho thuê tài
chính giúp doanh nghiệp hưởng lợi ích từ lá chắn thuế. Đối với tài sản cố định
thuê tài chính, trong quá trình sử dụng bên thuê phải trích khấu hao trong thời
gian thuê theo hợp đồng được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Mặt khác,

bên thuê tài chính phải trả chi phí thuê, số tiền thuê được tính vào chi phí sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp đi thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế
nên cũng làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Sau khi hợp đồng
cho thuê tài chính kết thúc, nếu bên thuê được quyền chọn mua tài sản thì giá
mua thường thấp hơn so với giá trị còn lại của tài sản trong khi nghĩa vụ trả nợ
đã hết.
1.1.4.3. Đối với nhà cung cấp thiết bị (hoặc nhà sản xuất)
Thông qua việc tham gia vào hoạt động cho thuê tài chính, các nhà cung
cấp thiết bị có thêm một kênh phân phối, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. Hơn
nữa, đối với hình thức cấp tín dụng bằng nghiệp vụ cho thuê tài chính, nhà cung
cấp được bên cho thuê thanh toán toàn bộ số tiền tương ứng với giá trị tài sản,
dù trong trường hợp chủ thể có nhu cầu sử dụng tài sản chưa đủ khả năng về tài
chính để thanh toán hoặc trong trường hợp có doanh nghiệp đủ khả năng về tài
chính nhưng họ không muốn đầu tư số tiền này vào việc mua tài sản cố định mà
muốn giữ làm vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, nhà cung cấp thiết bị sẽ tìm hiểu
được nhu cầu thiết yếu của chính bản thân người sử dụng thiết bị, từ đó có kế
hoạch đầu tư đúng đắn.
1.1.4.4. Đối với nền kinh tế
Cho thuê tài chính không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể có
liên quan mà hình thức này còn mang lại nhiều lợi ích đối với sự phát triển của
nền kinh tế. Cụ thể:

20


Hoạt động cho thuê tài chính được xem là một hình thức thu hút vốn đầu tư
trung, dài hạn cho nền kinh tế. Cho thuê tài chính là một kênh dẫn vốn cho nền
kinh tế, bởi hoạt động này thu hút được các nguồn vốn nhàn rỗi trong nội bộ nền
kinh tế và bằng nghiệp vụ cho thuê tài chính để chuyển vốn đến tay những đối

tượng đang cần vốn dưới dạng tài sản. Đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập, giao lưu
kinh tế quốc tế hiện nay, nguồn vốn được chu chuyển không chỉ trong nội bộ
một nền kinh tế mà mở rộng giữa các quốc gia với nhau. Điều đó được thể hiện
thông qua việc các công ty cho thuê tài chính cung cấp các loại máy móc, thiết
bị cho thuê được mua từ nước ngoài hoặc thông qua các hoạt động hợp tác, mở
chi nhánh, thành lập công ty cho thuê tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài của
các tổ chức tài chính quốc tế. Mặt khác, cho thuê tài chính góp phần giúp cho
quốc gia thu hút được các nguồn vốn quốc tế cho nền kinh tế thông qua các loại
máy móc, thiết bị, tài sản cho thuê mà quốc gia đó nhận được.
Hoạt động cho thuê tài chính mang lại những tác động tích cực cho sự phát
triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi lẽ hầu hết các doanh nghiệp này đều
không đáp ứng được một số điều kiện nhất định khi có nhu cầu vay tín dụng tại
ngân hàng. Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại máy móc, thiết bị
với trình độ công nghệ tiên tiến được đưa vào các doanh nghiệp góp phần nâng
cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong điều kiện còn nhiều khó khăn về
vốn đầu tư.
Cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng giúp bổ sung, hoàn thiện
hệ thống tài chính của nền kinh tế: nhu cầu tài trợ vốn trung và dài hạn là rất
cao, nhưng khả năng đáp ứng của các ngân hàng đối với nguồn vốn này là có
hạn. Bởi lẽ, nguồn vốn huy động được của các ngân hàng chủ yếu là từ nguồn
ngắn hạn. Hình thức cấp tín dụng bằng nghiệp vụ cho thuê tài chính góp phần đa
dạng hóa các loại hình dịch vụ trong hệ thống tài chính.
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật cho thuê tài chính
1.2.1. Khái niệm pháp luật về cho thuê tài chính
21


Pháp luật là yếu tố quan trọng hàng đầu làm cơ sở để cho thuê tài chính
phát triển một cách ổn định và an toàn.
Pháp luật về cho thuê tài chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình hoạt động cho thuê tài chính.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật cho thuê tài chính
Sau khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế,
thực hiện chính sách mở cửa kinh tế với bên ngoài, chuyển dịch cơ cấu nền kinh
tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà
nước, nhu cầu về vốn đầu tư, đổi mới máy móc trang thiết bị, dây chuyền công
nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh là khá lớn. Lúc này hoạt động cho
thuê tài chính bắt đầu xuất hiện ở nước ta. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban
hành Quyết định số 149/QĐ-NH5 ngày 27/05/1995 quy định về thể lệ tín dụng
thuê mua cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ tín dụng thuê mua
bao gồm: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần,
ngân hàng liên doanh, công ty tài chính. Ngày 09/10/1995, Chính phủ ban hành
Nghị định 64/NĐ-CP về quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty
CTTC tại Việt Nam. Tiếp theo đó, ngày 09/02/1996 Ngân hàng Nhà nước ban
hành Thông tư số 03/TT-NH5 về việc hướng dẫn Nghị định 64/NĐ-CP ngày
09/10/1995. Đây là những căn cứ pháp lý ban đầu, mang tính chính thống để
trực tiếp điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính đi vào thực tiễn nền kinh tế
nước ta.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hoạt động cho thuê tài
chính nói riêng, pháp luật về cho thuê tài chính cũng ngày một cụ thể, chi tiết và
đầy đủ hơn.
Ngày 12/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước số 01/1997/QH10 và Luật các
tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/10/1998; Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 đã định nghĩa
lại hoạt động cho thuê tài chính đúng với tên gọi “cho thuê tài chính”. Từ đó,
22


cho thuê tài chính ngày càng được điều chỉnh một cách chi tiết và hệ thống. Đến

ngày 02/05/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2001/NĐ-CP về tổ
chức và hoạt động của các công ty cho thuê tài chính và nêu rõ quy định về hợp
đồng cho thuê tài chính.
Đến năm 2005, trước thực trạng có nhiều vấn đề hạn chế, bất cập của các
văn bản quy phạm pháp luật về dân sự mà trọng tâm là kinh tế cần được sửa đổi
một cách toàn diện, Quốc hội đã chính thức thông qua Bộ luật dân sự số
33/2005/QH11 – bộ luật khung cho các giao dịch về dân sự - kinh tế. Các văn
bản pháp luật đang điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính cũng tồn tại nhiều
vấn đề không còn tương thích với thực tế phát triển, cần được sửa đổi kịp thời,
cho nên đến ngày 19/05/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2005/NĐCP quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐCP và sau đó tiếp tục được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 95/2008/NĐ-CP
quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP. Các
văn bản pháp lý nêu trên phần nào đã giải quyết được nhu cầu thực tiễn cần có
sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam. Mặc
dù các giao dịch phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính vẫn phải áp dụng các
quy định chung về hợp đồng trong Bộ luật dân sự năm 2005, nhưng điều đó vẫn
đảm bảo có một hành lang pháp lý thuận lợi cho các giao dịch cho thuê tài chính
phát triển ở Việt Nam. Theo các văn bản trên, tiêu chí để nhận biết một giao dịch
CTTC đã được ghi nhận, một số nội dung hoạt động của công ty cho thuê tài
chính được quy định cụ thể, chi tiết. Cụ thể, các Nghị định trên đã có quy định
về việc bên cho thuê có quyền thu hồi ngay lập tức tài sản thuê mà không cần
phán quyết của cơ quan tài phán nào trong trường hợp bên thuê vi phạm hợp
đồng cho thuê tài chính. Đây là một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ để các
công ty cho thuê tài chính triển khai hoạt động với một mạng lưới rộng lớn cùng
nghiệp vụ chuyên sâu.
Đến năm 2014, quy định trực tiếp về cho thuê tài chính được ban hành và
áp dụng theo Nghị định số 39/2014/NĐ-CP ngày 07/05/2014 của Chính phủ về
23


hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, bãi bỏ tất cả các

quy định riêng lẻ kể trên. Sau đó đến năm 2015, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước đã ban hành Thông tư số 30/2015/TT-NHNN quy định việc cấp Giấy phép,
tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng phi ngân hàng nhằm hướng dẫn thi
hành các văn bản nói trên và hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật điều chỉnh
trực tiếp hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta.
Với các quy phạm pháp luật về cho thuê tài chính, Nhà nước đã tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động của các công ty cho thuê tài chính, công ty tài
chính cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh với các thành phần kinh tế khác trong xã
hội, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi đặt ra cho các doanh nghiệp đầu tư, đổi mới máy
móc, trang thiết bị, công nghệ sản xuất tạo cơ sở để Nhà nước hoàn thiện chức
năng quản lý của mình.
1.2.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động cho
thuê tài chính
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của nền kinh tế toàn cầu, cho
thuê tài chính ngày càng khẳng định vị thế cũng như vai trò to lớn của mình. Đó
là một kênh huy động vốn có tính chuyên nghiệp cao, sử dụng vốn hiệu quả.
Thông qua cho thuê tài chính, luồng vốn của thị trường được lưu thông, thúc đẩy
sự chu chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế quốc dân. Bên
cạnh đó, cho thuê tài chính còn là một kênh dẫn vốn quan trọng từ các dòng đầu
tư nước ngoài. Với khả năng chuyên nghiệp về kinh doanh vốn, cho thuê tài
chính có thể thu xếp vốn cho các dự án lớn từ cả những nhà đầu tư trong nước
và quốc tế. Sự tồn tại của cho thuê tài chính trong hệ thống tài chính cũng tạo ra
sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các chủ thể của thị trường tài chính, mang lại xung
lực mới cho sự phát triển thị trường tài chính nói riêng và thị trường nói chung.
Ở nước ta, cho thuê tài chính là một hình thức trung gian tài chính tuy đã
xuất hiện từ lâu những vẫn còn khá mới mẻ. Tuy nhiên trong những năm gần
đây, cho thuê tài chính dần dần khẳng định được vai trò quan trọng trong việc
tạo lập thêm một kênh tài trợ tín dụng mới và hữu hiệu, góp phần làm phong phú
24



thêm các dịch vụ tài chính – ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển đa dạng của
thị trường tài chính tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Sự xuất hiện và phát
triển của cho thuê tài chính là tất yếu khi nền kinh tế ngày càng phát triển. Thực
tế đó đòi hỏi các nhà lập pháp cần kịp thời điều chỉnh quan hệ xã hội mới phát
sinh bằng pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động cho thuê tài chính
được thực thi một cách thống nhất và hiệu quả. Hơn nữa hoạt động cho thuê tài
chính chủ yếu do các công ty cho thuê tài chính thực hiện. Nằm trong hệ thống
các tổ chức tín dụng, công ty cho thuê tài chính góp phần trong quá trình tích tụ,
điều hòa các loại nguồn vốn. Mặt khác, các quan hệ nghiệp vụ tín dụng phần lớn
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, tác động có tính dây chuyền đến lợi ích của nhiều
loại chủ thể trong nền kinh tế. Sự ổn định và phát triển của hệ thống các tổ chức
tín dụng trong đó có công ty cho thuê tài chính là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, các quy định pháp luật về cho
thuê tài chính góp phần tạo ra môi trường pháp lý tốt nhất để các chủ thể thực
hiện hoạt động cho thuê tài chính hoạt động hợp pháp, an toàn. Đồng thời nó
còn là công cụ quản lý giúp Nhà nước khuyến khích, tăng cường những tác động
tích cực, ngăn ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực trong hoạt động cho
thuê tài chính, góp phần tạo ra thị trường tài chính lành mạnh.

25


×