Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ VÀ TRÁI PHIẾU NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.5 KB, 15 trang )

A. Thực trạng phát hành trái phiếu ở Việt Nam: Trái phiếu Chính phủ, Trái

phiếu Ngân hàng và Trái phiếu Công ty
I. Thực trạng phát hành Trái phiếu Chính phủ (TPCP)
• Giai đoạn 1991 – 1994:
- Tháng 3/1991, Bộ Tài chính quyết định phát hành các loại tín phiếu và
trái phiếu kho bạc để huy động vốn cho Ngân sách nhà nước (NSNN)
và cho đầu tư phát triển. Đây là thời điểm đánh dấu sự ra đời của thị
trường TPCP. Trái phiếu được phát hành trực tiếp qua hệ thống kho bạc
nhà nước dưới các hình thức : tín phiếu kho bạc ngắn hạn 3-6 tháng;
Trái phiếu KB trung hạn 1-3 năm. Nguồn vốn huy động từ các tín
phiếu, trái phiếu chủ yếu được sử dụng để bù đắp bội chi NSNN
• Giai đoạn 1995 – 1999:
- Thị trường trái phiếu CP có một bước phát triển đáng kể nhờ sự ra đời
thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua sở giao dịch NHNN với các
thành viên tham gia là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài
chính tín dụng.Tuy nhiên trong giai đoạn này, lãi suất trúng thầu luôn
thấp hơn lãi suất cho vay của NHTM. Việc tham gia đấu thầu trái phiếu
chỉ là một giải pháp linh động của các NH khi ứ đọng vốn.
• Giai đoạn từ 2000 – 2006:
- Thị trường trái phiếu CP đã bước sang một thời kỳ phát triển mạnh mẽ
sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 01/2000/CP đổi mới cơ chế phát
hành trái phiếu Chính phủ. Theo đó các hình thức phát hành trái phiếu
mới đã bắt đầu vận hành: đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng
khoán (TT GDCK TP.HCM ra đời), bảo lãnh phát hành và thí điểm bán
trái phiếu theo giá chiết khấu. Trong giai đoạn này, thị trường trái phiếu
Việt Nam đã có những khởi sắc. Tuy nhiên, vẫn được đánh giá là thị
trường còn rất non trẻ, hàng hoá chủ yếu là Trái phiếu của chính phủ.
- Tháng 8/2000: TPCP được đưa vào giao dịch trên Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Tp.HCM, nay là HOSE. Đây là sự kiện đầu tiên
đánh dấu việc TPCP được giao dịch trên thị trường chứng khoán và


được coi như một loại hàng hóa trên thị trường chứng khoán.
- Tháng 11/2003: Chính phủ ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP về
việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh và
trái phiếu chính quyền địa phương bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ
trong phạm vi cả nước. Theo đó, trái phiếu Chính phủ do Chính phủ
phát hành bao gồm: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu
công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ và công trái
xây dựng Tổ quốc. Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh có kỳ hạn từ 1


năm trở lên, do các doanh nghiệp phát hành để huy động vốn cho các
dự án đầu tư theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ và được phát hành
cho từng công trình cụ thể. Tổng giá trị trái phiếu được phát hành cho
một công trình không vượt quá tổng giá trị công trình và mức phát hành
cụ thể cho từng công trình phải theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ. Cũng có kỳ hạn trên 1 năm, trái phiếu chính quyền địa phương do
ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức
tài chính, tín dụng trên địa bàn phát hành nhằm huy động vốn cho các
dự án, công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách địa phương đã
có trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm.
- Tháng 8/2005: TPCP được đưa vào giao dịch trên Trung tâm GDCK
Hà Nội. Sau 5 năm giao dịch trên Sở GDCK Tp.HCM, lần đầu tiên
TPCP được đưa vào giao dịch trên Trung tâm GDCK Hà Nội sau khi
Trung tâm này được thành lập. Cũng kể từ thời điểm này, TPCP được
giao dịch song song trên cả hai sàn Hà Nội và Tp.HCM.
- Tháng 6/2006: Ban hành quyết định số 2276/QĐ-BTC về tập trung
đấu thầu TPCP tại Trung tâm GDCK Hà Nội. Quyết định này quy định
sẽ chỉ tập trung hoạt động đấu thầu trái phiếu Chính phủ, bao gồm trái
phiếu kho bạc và trái phiếu đầu tư tại Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội kể từ ngày 01/07/2006. Chỉ sau 3 tháng kể từ ngày Quyết

định này ra đời, Trung tâm GDCK Hà Nội đạt được những thành công
bước đầu khi tổ chức thành công 4 phiên đấu thầu Trái phiếu Chính phủ
theo kế hoạch huy động vốn của Kho bạc Nhà nước, huy động được
1.200 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm, đạt 80% khối lượng gọi thầu; đã
có 38 loại trái phiếu đăng ký giao dịch với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ
đồng. Đây được xem là bước đệm để tạo tiền đề hình thành thị trường
Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt tại TTGDCK Hà Nội.
- Tháng 6/2006: Quyết định 46/2006/QĐ-BTC ban hành Quy chế về
việc phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn. Theo đó, khối lượng
phát hành của một lô lớn trái phiếu tối thiểu là 1.000 tỷ đồng. Kỳ hạn
của trái phiếu lô lớn từ 5 năm trở lên. Trái phiếu lô lớn được phát hành
theo phương thức sau: đấu thầu trái phiếu hoặc bảo lãnh phát hành trái
phiếu. Thời hạn phát hành của một lô lớn trái phiếu tối đa không quá
365 ngày.Việc phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn nhằm mục
đích tăng cường khả năng huy động vốn và cho đầu tư phát triển, đồng
thời nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ trên thị trường
giao dịch và tạo khả năng hình thành lãi suất chuẩn cho các công cụ nợ




Giai đoạn 2007 – 2012:
- Với tình hình thị trường cổ phiếu đang xuống dốc nhanh, Thị trường
trái phiếu được nhìn nhận sẽ có sự tăng trưởng mạnh đặc biệt trong năm
2008. Ngày 05/01/2011 Chính phủ vừa ban hành Nghị định số
01/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương, trong
đó quy định rõ trái phiếu Chính phủ sẽ chính thức gồm 3 loại: Tín phiếu
kho bạc; Trái phiếu kho bạc và Công trái xây dựng Tổ quốc. Như vậy,
Chính phủ đã chính thức bỏ 03 loại: Trái phiếu công trình Trung ương;

Trái phiếu đầu tư; Trái phiếu ngoại tệ ra khỏi danh sách các loại
trái phiếu Chính phủ. Cũng theo Nghị định thì chủ thể phát hành trái
phiếu Chính phủ sẽ là Bộ Tài chính mà không phải là Chính phủ như
quy định trước đây. Trái phiếu Chính phủ được phát hành theo 04
phương thức là: đấu thầu; bảo lãnh phát hành; đại lý phát hành và bán
lẻ trái phiếu.
- Năm 2010: Chính phủ đã phát hành 56.000 tỷ đồng vốn trái phiếu
chính phủ.Và cũng trong năm này chính phủ đã quyết định giảm số
lượng các loại trái phiếu chính phủ từ 6 loại xuống 4 loại là: tín phiếu
kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu ngoại tệ và công trái xây dựng
Tổ quốc; tức không còn loại trái phiếu đầu tư và trái phiếu công trình
Trung ương.
- Năm 2011: Theo Nghị quyết, tổng thu ngân sách nhà nước là 595.000
tỷ đồng, tương đương 26,2% tổng sản phẩm trong nước (GDP), nếu
tính cả 10.000 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2010 sang năm 2011 thì
tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 605.000 tỷ đồng. Tổng số chi
ngân sách nhà nước là 725.600 tỷ đồng, mức bội chi 120.600 tỷ đồng,
tương đương 5,3% GDP. Từ đó, Chính phủ đã quyết định phát hành
45.000 tỷ trái phiếu Chính phủ.
- Năm 2012, Bộ Tài chính đã ban hành đầy đủ, đồng bộ các Thông tư
hướng dẫn công tác phát hành thị trường trái phiếu (TPCP) theo tinh
thần Nghị định số 01/2011/NĐ-CP ngày 05/01/2011 của Chính phủ về
phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và
trái phiếu chính quyền địa phương, trong đó có nhiều nội dung mới
như: quy trình tổ chức thực hiện đấu thầu, bảo lãnh phát hành TPCP
được quy định rõ ràng, lịch biểu tổ chức đấu thầu được ấn định cụ thể,
cho phép tín phiếu ngắn hạn giao dịch trên thị trường thứ cấp tại sở
Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, bước đầu hình thành các tổ chức đại lý



cấp 1 …Từ đó giúp cho thị trường TPCP được chuẩn hóa, công khai,
minh bạch, thanh khoản hơn và tiến dần đến những thông lệ tốt trên thế
giới. TPCP cũng nhờ vậy ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà
đầu tư trên thị trường.
Kết quả năm 2012 KBNN đã huy động được hơn 141.000 tỷ đồng,
bằng 101% kế hoạch được giao và là năm có kết quả huy động vốn đạt
cao nhất kể từ khi triển khai nghiệp vụ phát hành TPCP. Trong bối cảnh
thu ngân sách nhà nước gặp khó khăn nguồn vốn huy động từ trái phiếu
đã góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu chi của ngân sách nhà nước.
Cùng với việc tổ chức công tác huy dộng vốn, KBNN đã đạt được
những thành công ban đầu trong quá trình tái cơ cấu danh mục trái
phiếu chính phủ bằng việc tổ chức hoán đổi thành công 4 đợt trái phiếu
nhằm giảm được 7 mã trái phiếu có quy mô nhỏ lẻ, tăng quy mô niêm
yết của 4 mã trái phiếu và tính thanh khoản cho các mã này. Nghiệp vụ
này đã được các chuyên gia về thị trường trái phiếu và các nhà đầu tư,
đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài đánh giá rất cao về chủ trương, định
hướng phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. Để đạt được kết quả
trên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, để vượt qua những thời điểm
khó khăn của thị trường dưới áp lực của làn sóng lãi suất và khả năng
thanh khoản, trong năm 2012 Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã tích cực
triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm duy trì ổn định thị trường TPCP
giữ vững niềm tin cho các nhà đầu tư và tăng cường khả năng huy động
vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển.


Giai đoạn 2012 đến nay:

-

Năm 2015: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quy định tỷ lệ đầu tư trái

phiếu Chính phủ (TPCP) trên nguồn vốn ngắn hạn (tại Thông tư
36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014), làm giảm đáng kể lượng vốn
dành cho đầu tư TPCP của các NHTM và tổ chức tín dụng (TCTD);
Nghị quyết 78/2014/QH13 ngày 10/11/2014 chỉ cho phép phát hành
TPCP kỳ hạn từ 5 năm trở lên là thách thức đối với công tác huy động
vốn trong điều kiện hiện nay khi nhà đầu tư TPCP chiếm đến 82% là các
NHTM, chủ yếu sở hữu vốn ngắn hạn, không phù hợp để đầu tư vào các
công cụ nợ dài hạn. Tăng trưởng tín dụng của khối NHTM năm 2015
đến hết tháng 21/12/2015 đã đạt mức 17,17%, vượt mức kế hoạch đầu
năm đề ra là 17%.
Về kỳ hạn trái phiếu:Tỷ trọng trái phiếu kỳ hạn dài phát hành năm 2015
tăng đáng kể so với năm 2014: TPCP có kỳ hạn từ 5 năm trở lên chiếm
75% tổng khối lượng TPCP phát hành (cả năm 2014 chỉ chiếm khoảng


47%), trong đó tỷ trọng trái phiếu có kỳ hạn trên 10 năm tăng đáng kể,
chiếm gần 30% tổng khối lượng trái phiếu phát hành, tăng khoảng 10%
so với năm 2014.
Đặc biệt, năm 2015 là năm đầu tiên KBNN thực hiện phát hành TPCP
kỳ hạn dài 20 năm và 30 năm theo hình thức riêng lẻ cho các công ty
Bảo hiểm nhân thọ với tổng khối lượng phát hành dự kiến cả năm đối
với kỳ hạn 20 năm là 7.000 tỷ đồng và 30 năm là 3.900 tỷ đồng. Tổng
khối lượng phát hành cả năm 2015 là 10.130 tỷ đồng, chiếm 3,95% tổng
khối lượng vốn huy động cả năm. Việc đưa thêm kỳ hạn trái phiếu dài
hạn mới và hướng tới các công ty bảo hiểm đã giúp Bộ Tài chính thu
hút thêm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu chi của ngân sách.
Về kỳ hạn vay bình quân: Kỳ hạn vay năm 2015 đạt mức 7,12 năm, tăng
2,28 năm so với mức cả năm 2014 (4,84 năm), theo đó nâng kỳ hạn còn
lại bình quân của danh mục nợ TPCP cuối năm 2015 thêm 1,38 năm so
với mức cuối năm 2014, lên mức 4,44 năm, giúp kéo dài kỳ hạn vay của

cả danh mục nợ.
Lãi suất phát hành: Lãi suất năm 2015 được điều hành linh hoạt, phù
hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ và diễn biến tình hình thị
trường. Lãi suất TPCP đã từng bước trở thành lãi suất chuẩn để các công
cụ nợ khác trên thị trường tham chiếu.
Kết quả: Mặc dù tập trung phát hành TPCP có kỳ hạn từ 5 năm trở lên
(75%) nhưng lãi suất phát hành bình quân tính năm 2015 là 6,07% năm,
thấp hơn mức lãi suất phát hành bình quân năm 2014 (6,54%/năm) 47
điểm cơ bản, giảm chi phí vay nợ cho ngân sách nhà nước và tăng hiệu
quả công tác huy động vốn.
Về cơ cấu nhà đầu tư: Theo loại hình nhà đầu tư: Theo thống kê, tỷ lệ
sở hữu trái phiếu của các NHTM (tính cả trong và ngoài nước) trong
năm 2015 (85,38%) giảm so với tỷ lệ năm 2014 (87,79%). Tương ứng
với đó, tỷ lệ sở hữu của các công ty chứng khoán và các quỹ đầu tư,
công ty tài chính năm 2015 tăng lên, điều chỉnh cơ cấu sở hữu TPCP
của các nhà đầu tư, giảm dần sự phụ thuộc của thị trường vào các
NHTM. Việc mở rộng cơ sở nhà đầu tư đối với các công ty bảo hiểm là
đối tượng có nguồn vốn phù hợp đầu tư trái phiếu có kỳ hạn dài, góp
phần kéo dài kỳ hạn bình quân các khoản vay của Chính phủ, giảm áp
lực trả nợ của ngân sách nhà nước trong ngắn hạn. Với việc phát hành
TPCP kỳ hạn 20 năm cho các công ty bảo hiểm nhân thọ năm 2015 góp
phần tăng tỷ lệ sở hữu của loại hình nhà đầu tư này. Năm 2015, tỷ lệ sở


hữu TPCP của nhóm các công ty chứng khoán, bảo hiểm và các quỹ đầu
tư là 14,6%, tăng so với mức năm 2014 (12,2%).
Theo tỷ lệ sở hữu trong và ngoài nước: Do quy định giới hạn tỷ lệ đầu
tư TPCP trên nguồn vốn ngắn hạn của các NHTM nước ngoài (15%)
thấp hơn so với các NHTM trong nước (35%) tại Thông tư 36/2014/TTNHNN, cộng với sự biến động bất lợi về tỷ giá trên thị trường năm 2015
đã hạn chế các tổ chức nước ngoài đầu tư vào TPCP, làm giảm tỷ lệ sở

hữu TPCP của khối nước ngoài trên thị trường sơ cấp so với năm trước
(giảm từ 14,56% xuống còn 8,35%).
Đổi mới công tác phát hành TPCP:KBNN đã triển khai kịp thời các quy
định mới của Bộ Tài chính về công tác phát hành-thanh toán TPCP ngay
sau khi Thông tư số 111/2015/TT-BTC ngày 28/07/2015 về hướng dẫn
phát hành TPCP tại thị trường trong nước (thay thế Thông tư
17/2012/TT-BTC) có hiệu lực như: Tổ chức phát hành thêm trái phiếu
(vào buổi chiều) sau phiên đấu thầu chính (buổi sáng). Từ ngày
15/9/2015, ngay sau khi được thông tư 111 có hiệu lực, đến nay KBNN
đã tổ chức phát hành thêm 11 phiên buổi chiều đối với kỳ hạn 3 năm và
5 năm, tổng khối lượng gọi thầu 16.700 tỷ đồng, huy động được 14.549
tỷ đồng (đạt 87%), nhờ đó tăng cường hơn nữa khả năng huy động vốn
vào các thời điểm thị trường thuận lợi, đáp ứng nhu cầu vốn cho ngân
sách; Thực hiện rút ngắn thời gian đưa trái phiếu vào giao dịch trên thị
trường sau khi phát hành từ 3 ngày xuống còn 2 ngày, giúp nâng cao
tính thanh khoản cho TPCP,…
-

Năm 2016: KBNN đã tổ chức phát hành tín phiếu kho bạc (vay và trả
nợ trong năm) với tổng khối lượng là 49.600 tỷ đồng. Tổng khối lượng
TPCP phát hành (không kể tín phiếu), chiếm 88,1% so với tổng mức
phát hành trái phiếu trên thị trường (TPCP, TPCP bảo lãnh và trái phiếu
chính quyền địa phương) và bằng hơn 70% nếu tính cả trái phiếu doanh
nghiệp.
Về phương thức phát hành:Toàn bộ khối lượng trái phiếu phát hành ra
thị trường trong năm 2016 được thực hiện theo phương thức đấu thầu
qua Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (đối với trái phiếu) và Sở giao
dịch Ngân hàng Nhà nước (đối với tín phiếu) vì thế kế hoạch, lịch biểu,
thông tin về đợt phát hành, kết quả phát hành, thanh toán TPCP
đượccông khai minh bạch tới tất cả các nhà đầu tư.

Về kỳ hạn trái phiếu: Tỷ trọng trái phiếu có kỳ hạn từ 5 năm trở lên
chiếm 91% tổng khối lượng huy động, trong đó kỳ hạn dài từ 10 - 30
năm chiếm 24%, đảm bảo tuân thủ giới hạn về kỳ hạn trái phiếu theo


Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán NSNN năm 2016 mà Quốc hội
đề ra.
Kỳ hạn vay bình quân năm 2016 đạt 8,77 năm, tăng 1,79 năm so với
năm 2015. Nhờ đó, kỳ hạn còn lại của danh mục nợ TPCP được nâng từ
mức 4,44 năm (31/12/2015) lên mức 5,98 năm (31/12/2016), giúp bền
vững cơ cấu nợ công, giảm áp lực trả nợ của NSNN trong ngắn hạn.
Lãi suất phát hành: Lãi suất phát hành TPCP năm 2016 được điều hành
theo sát lãi suất thị trường, phù hợp với mặt bằng lãi suất chung và tối
ưu chi phí vay nợ cho NSNN. Dừng ở phiên cuối cùng của năm 2016,
lãi suất TPCP kỳ hạn 5 năm (ngày 7/12/2016) ở mức 5,28%/năm giảm
130 điểm so với phiên đầu năm (ngày 6/1/2016), các trái phiếu kỳ hạn
10 năm - 15 năm giảm từ 45 - 90 điểm, trái phiếu dài từ 20 năm - 30
năm giảm 2 - 4 điểm. Lãi suất bình quân của TPCP phát hành năm 2016
là 6,49%/năm.
Cơ cấu nhà đầu tư: Cơ cấu nhà đầu tư trên thị trường được cải thiện và
đang hướng tới mục tiêu đề ra tại Lộ trình phát triển thị trường TPCP
đến năm 2020, trong đó tỷ trọng nhà đầu tư nước ngoài tăng từ mức
8,35% (năm 2015) lên 12,27% (năm 2016); tỷ trọng nhà đầu tư là các
công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty tài chính tăng từ mức 14,62%
(năm 2015) lên 20,02% (năm 2016), tiến tới xây dựng thị trường theo
hướng bền vững, giảm dần sự phụ thuộc của thị trường TPCP vào khối
các NHTM.
-

Năm 2017: Thị trường trái phiếu hoạt động ổn định, phát triển cả về quy

mô, tính thanh khoản, tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ, các ngân
hàng chính sách, chính quyền địa phương và doanh nghiệp huy động
được vốn với chi phí hợp lý. Có thể nói, năm 2017 tiếp tục là năm thành
công của thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP), kết quả đạt được như
sau:
Về quy mô thị trường trái phiếu:
Tổng dư nợ toàn thị trường trái phiếu năm2017 đạt 37,45%, trong đó dư
nợ TPCP đạt khoảng 27,4% GDP, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt
khoảng 6,19% GDP, dư nợ trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là 3,31%
GDP và dư nợ trái phiếu chính quyền địa phương là 0,55% GDP.
Về khối lượng, kỳ hạn và chi phí huy động vốn:


Về khối lượng phát hành: Bộ Tài chính đã hoàn thành kế hoạch huy
động vốn TPCP của cả năm với khối lượng huy động là 244.221 tỷ
đồng, giảm 21,8% so với năm 2016 (bao gồm 159.921 tỷ đồng phát
hành qua đấu thầu, 84.300 tỷ đồng phát hành cho BHXH).
Về kỳ hạn phát hành: Năm 2017, Bộ Tài chính đã phát hành 100%
TPCP có kỳ hạn từ 5 năm trở lên, vượt chỉ tiêu 70% theo dự toán ngân
sách được Quốc hội phê duyệt, trong đó 55% khối lượng phát hành có
kỳ hạn từ 10 năm trở lên. Theo đó, kỳ hạn phát hành bình quân TPCP
năm 2017 đạt mức kỷ lục là 12,52 năm (cả năm 2016 là 8,71 năm). Việc
huy động TPCP kỳ hạn dài góp phần kéo dài kỳ hạn còn lại bình quân,
đảm bảo tính bền vững của danh mục nợ TPCP theo đúng chủ trương
của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về tái cơ cấu ngân sách và nợ công.
Về lãi suất phát hành:
Lãi suất phát hành TPCP đã được điều hành phù hợp với cung cầu của
thị trường và diễn biến thị trường tiền tệ. Theo đó, lãi suất phát hành
năm 2017 có xu hướng giảm ở tất cả các kỳ hạn, trung bình giảm từ
0,6% đến 1,8% so với thời điểm cuối năm 2016, qua đó tiết kiệm chi phí

huy động vốn cho ngân sách nhà nước.
Trong khi kỳ hạn phát hành bình quân TPCP đạt mức kỷ lục, thì lãi suất
phát hành TPCP năm 2017 đạt mức thấp nhất từ trước đến nay (bình
quân lãi suất phát hành là 6,07%/năm giảm 0,4% so với năm 2016, giảm
0,19% so với năm 2015). Theo đó, tiết kiệm chi phí huy động vốn cho
ngân sách nhà nước và góp phần tái cơ cấu danh mục nợ TPCP một
cách bền vững theo chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về tái cơ
cấu ngân sách và nợ công.
Về quản lý danh mục nợ chính phủ:
Danh mục nợ TPCP năm 2017 được tái cơ cấu cả về khối lượng phát
hành, kỳ hạn phát hành và lãi suất phát hành góp phần tăng tính bền
vững của danh mục nợ chính phủ. Thị trường TPCP trong nước hoạt
động ổn định, huy động được vốn kỳ hạn dài với chi phí huy động giảm,
đã tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ tăng cường huy động vốn từ
thị trường trong nước do chi phí huy động vốn rẻ hơn thị trường nước
ngoài. Theo đó, vay trong nước của Chính phủ đã trở thành kênh huy
động vốn chủ yếu, đạt mức 61% tổng vay nợ của Chính phủ, phù hợp
với Chiến lược vay và trả nợ của Chính phủ đến năm 2020.
Cơ cấu nhà đầu tư:


Cơ cấu nhà đầu tư tiếp tục có sự cải thiện theo hướng tích cực, thể hiện
tăng tỷ lệ nắm giữ TPCP của các công ty bảo hiểm, bảo hiểm xã hội và
các quỹ đầu tư, giảm tỷ lệ nắm giữ của các ngân hàng thương mại
(NHTM). Cơ cấu nhà đầu tư nắm giữ TPCP có sự thay đổi cơ bản, tỷ lệ
nắm giữ TPCP của các NHTM từ 77% đầu năm 2016 xuống 53,7%,
tăng tỷ trọng đầu tư của các nhà đầu tư dài hạn từ 23% đầu năm 2016
lên mức 46,3%.

Về giao dịch TPCP trên thị trường thứ cấp: Trong năm 2017, khối

lượng giao dịch TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh bình quân
đạt 8.863 tỷ đồng/phiên cao hơn 42% so với năm 2016, trong đó bình
quân giao dịch mua bán (outright) là 4.587 tỷ đồng/phiên, tăng 17% so
với bình quân năm 2016, bình quân giao dịch mua bán lại (repos) là
4.276 tỷ đồng, cao hơn 82% so với năm 2016.
Dù đạt được kết quả khả quan nêu trên, nhưng về tổng thể quy mô của
thị trường TPCP vẫn còn nhỏ, cơ sở nhà đầu tư cần phải tiếp tục cải
thiện; tính thanh khoản của thị trường thứ cấp TPCP tại một số thời
điểm còn hạn chế; chưa có một hệ thống nhà tạo lập thị trường với đầy
đủ quyền lợi và nghĩa vụ theo thông lệ quốc tế; một số sản phẩm mới đã
nghiên cứu nhưng chưa được triển khai thực tế.

II.

1.

Thực trạng phát hành trái phiếu Ngân hàng

Khái niệm và đặc điểm của trái phiếu do NHTM phát hành

Trái phiếu do NHTM phát hành là một loại trái phiếu doanh nghiệp. Trái
phiếu doanh nghiệp là loại trái phiếu được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm


huy động vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển. Doanh nghiệp (bao gồm các
NHTM) sẽ phát hành trái phiếu khi có nhu cầu huy động vốn lớn để tài trợ cho
việc đầu tư mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh trong trường hợp
không đủ điều kiện hoặc không muốn phát hành cổ phiếu, hoặc tùy thuộc vào
chiến lược quản lý vốn của mỗi doanh nghiệp.
Về bản chất, trái phiếu doanh nghiệp chính là chứng khán xác nhận nợ của

doanh nghiệp phát hành, trong đó doanh nghiệp phát hành trái phiếu là người đi
vay còn người mua trái phiếu (trái chủ) chính là người cho vay. Trái phiếu doanh
nghiệp chính là sự chứng nhận về mặt pháp lý, ghi nhận sự liên hệ giữa quyền của
chủ nợ đối với doanh nghiệp và những nghĩa vụ tài chính mà doanh nghiệp phải
thực hiện. Thông thường, trái phiếu doanh nghiệp được trả lãi theo thời hạn một
năm hoặc nửa năm một lần. Trong trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản, các trái chủ được quyền ưu tiên thanh toán trước các cổ đông nắm giữ cổ
phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Trong phân khúc trái phiếu doanh nghiệp, trái
phiếu do các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phát hành thường
được phân loại thành một nhánh riêng. Về bản chất, trái phiếu do NHTM phát
hành có thể coi là một dạng huy động tiết kiệm đặc biệt của các ngân hàng.
2. Bản chất và đặc điểm của hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM

Việc phát hành trái phiếu của NHTM thực chất là một hình thức huy động
vốn, có thể chính các công ty chứng khoán mua kinh doanh. Hoạt động phát hành
trái phiếu của các NHTM là tạo ra một kênh huy động vốn rất hiệu quả, nhất là
trong thời buổi cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trái phiếu NHTM được nhận định là
rất thanh khoản, có thể sinh lời cao, lãi suất hấp dẫn, điều kiện linh hoạt nên các
NHTM nhờ phát hành trái phiếu mà thu về hàng ngàn tỷ đồng vốn trung dài hạn.
Bởi lãi suất trái phiếu ngân hàng có mức trên dưới 10,5% một năm, bên mua có
quyền bán lại trái phiếu cho bên bán khi chưa đến kỳ đáo hạn. Lãi suất được thanh
toán cuối kỳ hoặc hàng năm…Một số doanh nghiệp hiện trích một phần vốn ra
đầu tư trái phiếu ngân hàng trong lúc chưa có dự án hoặc do vẫn có nguồn vốn
nhàn rỗi nhưng chưa triển khai được dự án nên đầu tư vào trái phiếu và họ có thể
bán lại cho ngân hàng thu hồi vốn khi có nhu cầu vốn. Thực tế trên thị trường, lãi
suất tiết kiệm VND hiện được các ngân hàng đẩy lên cao, sát trần cho vay , cùng
nhiều khuyến mãi, tiện ích để khuyến khích khách hàng gửi tiền. Trong khi đó,
người dân không mấy mặn mà với gửi kỳ hạn dài. Với các mức lãi suất cao, ngân
hàng lại có thêm những điều kiện ràng buộc như món tiền gửi lớn, không được rút
trước hạn, lĩnh lãi cuối kỳ… Điều này không phù hợp với tính toán của khách

hàng cũng như nhu cầu rút vốn linh hoạt để rót vào các kênh đầu tư khác đang hấp
dẫn. Đại diện một số NHTM thừa nhận, nhu cầu vốn trung dài hạn thường rất lớn
trong khi nguồn vốn trung dài hạn không nhiều. Thời gian qua, tình hình huy động
vốn trên thị trường chứng khoán của doanh nghiệp gần như tê liệt. Doanh nghiệp
phải làm hồ sơ đến ngân hàng đề nghị tài trợ vốn trung dài hạn. Để huy động vốn


trung dài hạn, phát hành trái phiếu trung dài hạn là bài toán được các ngân hàng áp
dụng linh hoạt. Nhờ đó các ngân hàng đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng vốn
trung dài hạn từ phát hành trái phiếu. Thông qua hoạt động phát hành trái phiếu,
theo đánh giá của các chuyên gia, các NHTM cùng lúc đạt được nhiều mục đích
như vừa cải thiện vốn trung – dài hạn, vừa có cơ sở tăng vốn điều lệ từ nguồn vốn
phát hành trái phiếu. Với nguồn vốn mới này, các NHTM có khả năng đa dạng hóa
kênh đầu tư thông qua việc đầu tư vào các loại giấy tờ có đặc biệt là TPCP, trái
phiếu của chính các NHTM hoặc các tổ chức kinh tế [21].
3.

Loại hình và hình thức trái phiếu

Phân loại dựa vào tính chất thì trái phiếu có hai loại là trái phiếu không
chuyển đổi và trái phiếu chuyển đổi; phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán
của chủ thế phát hành thì trái phiếu bao gồm: trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu
không có bảo đảm. Trái phiếu không chuyển đổi có thể được phát hành bởi công
ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, riêng đối với trái phiếu không chuyển
đổi có kèm chứng quyền thì chỉ được phép phát hành bởi CTCP. Trái phiểu chuyển
đổi có thể chuyển thành cổ phiếu phổ thông nếu doanh nghiệp phát hành là CTCP
và theo các điều kiện đã được xác định trước đó trong phương án phát hành.
3.1.

Trái phiếu không chuyển đổi:


Khoản 1 Điều 5, Nghị định 90 quy định Trái phiếu không chuyển đổi như sau:
a)Trái phiếu không chuyển đổi là trái phiếu có bảo đảm hoặc trái phiếu không có
bảo đảm, trái phiếu kèm theo chứng quyền hoặc trái phiếu không kèm theo chứng
quyền;
b)Đối tượng phát hành trái phiếu không chuyển đổi là công ty cổ phần và công ty
trách nhiệm hữu hạn. Đối tượng phát hành trái phiếu không chuyển đổi có kèm
chứng quyền là công ty cổ phần.
Theo đó, trái phiếu không chuyển đổi là loại trái phiếu không có khả năng
chuyển đổi thành cổ phiếu. Việc phát hành loại trái phiếu này phải tuân theo
nguyên tắc: công khai mục đích sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu; tổng
mức phát hành không vượt hạn mức phát hành được duyệt. Trên thực tế thì việc
phát hành trái phiếu không chuyển đổi không hấp dẫn các nhà đầu tư bằng loại
hình trái phiếu chuyển đổi vì nhược điểm của loại hình trái phiếu này là không có
khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu.
3.2.

Trái phiếu chuyển đổi:

Khoản 2 điều 5 Nghị định 90 quy định trái phiếu chuyển đổi như sau:


a)Trái phiếu chuyển đổi là trái phiếu có bảo đảm hoặc trái phiếu không có bảo
đảm, trái phiếu kèm theo chứng quyền hoặc trái phiếu không kèm theo chứng quyền;
b)Đối tượng phát hành trái phiếu chuyển đổi là công ty cổ phần.[15]
Như vậy theo Nghị định thì doanh nghiệp là công ty cổ phần bao gồm cả các ngân
hàng thương mại cổ phần được phép phát hành cả trái phiếu không chuyển đổi và trái
phiếu chuyển đổi.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 90 thì : “Trái phiếu chuyển đổi
là loại trái phiếu do công ty cổ phần phát hành, có thể chuyển đổi thành cổ phiếu

phổ thông của doanh nghiệp phát hành theo điều kiện đã được xác định trong
phương án phát hành trái phiếu”. Loại trái phiếu này có đặc điểm là lãi suất cố định
và tương đối thấp so với các loại trái phiếu khác, song trái phiếu chuyển đổi hứa hẹn
đem lại cho nhà đầu tư lợi nhuận lớn hơn khi chuyển đổi thành loại cổ phiếu thường
doanh nghiệp và đây cũng chính là điểm hấp dẫn của trái phiếu chuyển đổi. Về bản
chất kinh tế, trái phiếu chuyển đổi được coi là một sản phẩm lồng ghép giữa trái
phiếu DN và quyền mua cổ phiếu do chính DN phát hành. Quyền mua cổ phiếu cho
phép người nắm giữ có quyền, mà không có nghĩa vụ mua cổ phiếu tại một thời điểm
trong tương lai với một mức giá xác định trước. Sự khác biệt của trái phiếu chuyển
đổi so với trái phiếu không chuyển đổi đó là quyền chuyển đổi sang cổ phiếu theo
một tỷ lệ cố định trong tương lai của trái chủ. Do đó, trái phiếu chuyển đổi thường có
giá trị hơn trái phiếu thông thường [35].
 Những ưu điểm và nhược điểm của việc phát hành 2 loại hình trái phiếu này:
 Ưu điểm:

Việc phát hành loại hình trái phiếu chuyển đổi của các NHTM nói riêng và các doanh
nghiệp nói chung có những ưu điểm mà việc phát hành trái không chuyển đổi không
có như: Chi phí phát hành và lãi suất phải trả thấp hơn so với phát hành trái phiếu
thông thường cũng như so với lãi suất ngân hàng và điều này đồng nghĩa với việc
giảm rủi ro đối với tổ chức phát hành; tăng vốn cổ phần trong tương lai khi chuyển từ
trái phiếu thành vốn cổ phần; giá cổ phiếu thường không bị sụt giảm do tránh được
tình trạng tăng số lượng cổ phiếu một cách nhanh chóng trên thị trường; trước khi trái
phiếu được chuyển đổi sẽ không làm giảm thu nhập của các cổ đông hiện hữu so với
phát hành cổ phiếu; dễ dàng hơn trong việc huy động vốn do tính hấp dẫn của việc có
thể chuyển đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu [41].
 Nhược điểm:

Tuy nhiên, việc phát hành trái không chuyển đổi cũng có những nhược điểm như: do
cổ đông thường tham gia vào việc quản lý công ty nên khi chuyển đổi có thể gây ra



một sự thay đổi trong việc kiểm soát công ty; khi trái phiếu được chuyển đổi, vốn chủ
sở hữu bị "pha loãng" do tăng số cổ phiếu lưu hành nên mỗi cổ phần khi đó đại diện
cho một tỷ lệ thấp hơn của quyền sở hữu trong công ty; kết quả chuyển đổi sẽ làm
giảm chi phí trả lãi, tức là làm tăng thu nhập chịu thuế của công ty,do đó, công ty
phải trả thuế nhiều hơn khi chuyển đổi. Những nhược điểm của việc phát hành trái
phiểu chuyển đổi cũng là những ưu điểm của việc phát hành trái phiếu không chuyển
đổi.
Trên thực tế thì việc các NHTM phát hành trái phiếu chuyển đổi dễ dàng huy động
vốn và thu hút nhiều nhà đầu tư hơn so với việc phát hành trái phiếu không chuyển
đổi do tính hấp dẫn của việc có thể chuyển đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu.
4. Kỳ hạn trái phiếu

Kỳ hạn hay còn gọi là thời hạn trái phiếu là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến
ngày đến hạn thanh toán ( theo khoản 8 Điều 4 về Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong
nước của tổ chức tín dụng Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày
24 tháng 3 năm 2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) [13].
Doanh nghiệp bao gồm các Ngân hàng thương mại tự quyết định về kỳ hạn của trái
phiếu trên cơ sở nhu cầu thời hạn mong muốn sử dụng vốn vay, tuy nhiên trái phiếu phát
hành có kỳ hạn tối thiểu phải là từ một năm trở lên, kỳ hạn trái phiếu phải được công bố
trong phương án phát hành.
5. Đồng tiền phát hành và thanh toán trái phiếu

Điều 7, Nghị định 90 quy định về đồng tiền phát hành trái phiếu như sau:
1.Đối với trái phiếu phát hành tại thị trường trong nước, đồng tiền phát hành là đồng
Việt Nam.
2. Đối với trái phiếu phát hành ra thị trường quốc tế, đồng tiền phát hành là ngoại tệ
tự do chuyển đổi.
3. Đồng tiền sử dụng để thanh toán gốc, lãi trái phiếu cùng loại với đồng tiền phát
hành. [15]

Như vậy,đồng tiền phát hành và thanh toán trái phiếu phải tuân thủ các quy định của
pháp luật việt nam.
6. Vai trò của hoạt động trái phiếu của NHTM

Nhu cầu về vốn là một trong những nhu cầu được xemm là bức xúc nhất hiện nay của
DN nói chung và các NHTM nói riêng,nhằm mục đích huy động vốn để tài trợ cho đầu tư


phát triển ,mở rộng quy mô hoạt động,đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, tăng cường khả
năng cạnh tranh của các NHTM trên cả thị trường quốc tế cũng như thị trường nội địa.
Đặc biệt sau khi VIệt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO.Tùy vào nhu cầu
và điều kiện cụ thể của mình ,các NHTM có thể lựa chọn phương án huy động vốn phù
hợp.Xét về mặt tổng thể, việc huy động vốn bằng phương thức phát hành trái phiếu
thường có 1 số ưu điểm nổi bật so với các hình thức tài trợ vốn khác.
* Đối với nền kinh tế
Thứ nhất,hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM cũng như các DN là một trong
những kênh huy động vốn của thị trường tài chính,thu hút nguồn vốn từ những nhà đầu tư
có vốn tiết kiệm nhàn rỗi sang những người có nhu cầu thực sự về vốn,góp phần phát
triển nền kinh tế,tạo nên những hoạt động đầu tư,kinh doanh thực sự có hiệu quả.
Thứ hai,hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM góp phần đa dạng hóa các công
cụ tài chính.Bên cạnh thị trường cổ phiếu với mức độ rủi ro cao thì trái phiếu được xem
là kênh đầu tư an toàn hơn và hiệu quả cao hơn trong đầu tư dài hạn.
* Đối với NHTM
THứ nhất, việc các NHTM phát hành trái phiếu là tạo ra một kênh huy động vốn hiệu
quả,nhất là trong thời buổi cạnh tranh gay gắt.Phát hành trái phiếu sẽ giúp cho các
NHTM huy động được một lượng vốn lớn với chi phí sử dụng vốn thấp hơn so với vốn
cổ phần, đồng thời giới hạn trách nhiệm của NHTM đối với các khoản nợ khi phát hành
trái phiếu cũng ít bị ràng buộc hơn so với khi phát hành cổ phiếu.
Mặt khác, việc huy động nguồn vốn thông qua phát hành trái phiếu có thể giúp
NHTM giảm được chi phí sử dụng vốn do lãi suất trả cho các trái chủ được tính vào chi

phí của NHTM nên số thuế thu nhập mà NHTM phải nộp sẽ được giảm đi, trong khi phần
cổ tức thanh toán cho các cổ đông là phần thu nhập còn lại sau khi DN đã nộp thuế. Hay
nói cách khác, chi phí sử dụng vốn từ trái phiếu là chi phí không phải chịu thuế còn chi
phí vốn cổ phần là chi phí phải chịu thuế. Bên cạnh đó, trái phiếu là công cụ huy động
vốn có thời hạn nên trách nhiệm của NHTM đối với các trái chủ sẽ được chấm dứt khi
trái phiếu đáo hạn, còn cổ phiếu thể hiện đặc tính sở hữu một cách lâu dài nên các ngân
hàng phải có trách nhiệm đối với các cổ đông trong suốt thời gian ngân hàng tồn tại.
Thứ hai, phát hành trái phiếu làm tăng tổng tài sản của các ngân hàng. Có thể nói,
tổng tài sản lớn đang là một thế mạnh mà các ngân hàng rất quan tâm khai thác. Ngân
hàng nào cũng muốn mình có tổng tài sản lớn nhất vì cổ đông và khách hàng của họ cứ
thấy ngân hàng nào có tổng tài sản lớn nhất là yên tâm. Điều này hàm chứa nhiều rủi ro
vì trên thực tế có tình trạng là ngân hàng này phát hành trái phiếu, ngân hàng khác mua
vào và cứ như thế tổng tài sản của các ngân hàng đều tăng lên.


Thứ ba, việc các ngân hàng phát hành trái phiếu để tăng khả năng cho vay trung và
dài hạn. Trái phiếu NHTM được nhận định là rất thanh khoản, có thể sinh lời cao, lãi suất
hấp dẫn, điều kiện linh hoạt nên các NHTM nhờ phát hành trái phiếu mà thu về hàng
ngàn tỷ đồng vốn trung dài hạn. Điều này cho thấy hệ thống ngân hàng vẫn là kênh trung
chuyển vốn chính. Thị trường chứng khoán vẫn còn ở giai đoạn đầu của quá trình phát
triển, chỉ một số ít doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn trực tiếp từ thị trường này.
* Đối với nhà đầu tư
Tùy vào tình hình tài chính và khả năng mạo hiểm, nhà đầu tư có thể lựa chọn cho
mình kênh đầu tư thích hợp. Nếu như đầu tư vào cổ phiếu mang lại lợi nhuận cao hơn
nhưng bên cạnh đó mức độ rủi ro tương đối cao thì trái phiếu là giải pháp an toàn dài hạn.
Hơn thế nữa, nếu một doanh nghiệp giải thể hay phá sản thì trái chủ luôn được ưu tiên
thanh toán trước các cổ đông.




×