ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TRỊNH THỊ NGỌC MÙI
NGHIÊN CỨU CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ BÁO CÁO
BỘ PHẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN
SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN
Mã số: 60.34.03.01
Đà Nẵng - 2018
Công trình được hoàn thành tại
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN
Ngƣời hƣớng dẫn KH: TS. Nguyễn Hữu Cƣờng
Phản biện 1: PGS.TS. HOÀNG TÙNG
Phản biện 2: PGS.TS. TRẦN THỊ CẨM THANH
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ Kế toán họp tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà
Nẵng vào ngày 27 tháng 01 năm 2018
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay, sự đa dạng hóa và
những chiến lược quốc tế dẫn đến hoạt động của các công ty ngày
càng phức tạp. Với thực tế hiện nay các công ty và tập đoàn bắt đầu
đa dạng hóa hoạt động kinh doanh thành các công ty đa ngành nghề
(thông tin này thường được công ty đề cập ở phần đặc điểm hoạt
động kinh doanh trong thuyết minh (TM) BCTC) và hoạt động kinh
doanh mở rộng trên nhiều khu vực địa lý (KVĐL) khác nhau (trên
nhiều tỉnh, thành phố trong nước hay bên ngoài lãnh thổ Việt Nam).
Mục tiêu chính của sự đa dạng hóa này là để chia sẻ rủi ro cũng như
tận dụng lợi thế từ cơ hội phát triển ở những thị trường khác. Với sự
đa dạng và toàn cầu hóa mạnh mẽ như vậy thì rõ ràng bản thân
BCTC hợp nhất sẽ không thể hiện được cái nhìn tổng thể về thông
tin tài chính một cách đúng và hoàn toàn chính xác cho người sử
dụng BCTC vì sự khác nhau về tốc độ tăng trưởng, khả năng sinh lời
và những rủi ro trong từng bộ phận. Họ sẽ không dễ dàng nhận biết
được nếu không có sự trình bày của những thông tin riêng biệt từ
những bộ phận tạo ra hoạt động đó. Hiện nay tại Việt Nam, các công
ty đang CBTT về BCBP theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 28
(VAS 28). Liên quan đến khía cạnh CBTT về BCBP của các CTNY
thì hiện nay ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu sâu rộng về vấn
đề này. Xuất phát từ thực tiễn trên tôi lựa chọn đề tài : “Nghiên cứu
công bố thông tin về báo cáo bộ phận của các công ty niêm yết trên
Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh” để hoàn thành
Luận văn của mình.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá mức độ CBTT về BCBP trên cả ba loại BCTC gồm
BCTC cuối niên độ, bán niên và quý 2 của các CTNY trên SGDCK
Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).
- Khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT về
BCBP của các CTNY. Qua đó tác giả đề xuất các chính sách cho
công ty và nhà quản lý gia tăng các thông tin cần thiết, góp phần
giảm rủi ro cho nhà đầu tư.
Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng CBTT về BCBP từ đó đề
xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin được công
bố trên BCBP của các CTNY trên HOSE.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc CBTT về
BCBP của các CTNY trên HOSE năm 2015 và một số nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ CBTT về BCBP của các CTNY này.
- Phạm vi nghiên cứu: BCTC cuối niên độ đã kiểm toán,
BCTC bán niên đã soát xét và BCTC quý 2 năm 2015 có thực hiện
việc lập BCBP của các CTNY trên HOSE.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu này áp dụng phương pháp nghiên cứu định
lượng, mức độ CBTT về BCBP được đo lường bởi chỉ số CBTT
BCBP bao gồm các chỉ mục thông tin phải (hoặc nên) trình bày được
quy định trong chuẩn mực kế toán Việt Nam số 28 (VAS 28) và
Thông tư 20/2006/TT-BTC.
- Ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT về BCBP
được kiểm chứng thông qua tham số hồi quy được ước lượng bằng
phương pháp bình phương bé nhất (OLS).
3
5. Bố cục đề tài
Luận văn được cấu trúc thành bốn chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu về công bố
thông tin báo cáo bộ phận
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Hàm ý chính sách và kiến nghị
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Các nghiên cứu liên quan đến BCBP trên thế giới và Việt Nam
hiện nay chưa có nhiều, các hướng nghiên cứu thường tập trung ở ba
khía cạnh là đo lường mức độ CBTT về BCBP, thảo luận về chuẩn
mực mới so với chuẩn mực cũ trước đây và đưa ra các bằng chứng
thực nghiệm về các yếu tố và ảnh hưởng của chúng đến việc trình
bày BCBP. Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu này được thực hiện
trên BCTC năm, rất ít nghiên cứu thực hiện trên BCTC bán niên và
đặc biệt trên BCTC quý 2 lại càng khan hiếm.
Liên quan đến khía cạnh đo lường mức độ CBTT, các nghiên
cứu trước đây thường tiếp cận theo hai cách. Một là sử dụng lại mức
độ CBTT đã được các tổ chức độc lập đo lường như việc đo lường
mức độ CBTT được công bố hàng năm bởi Hiệp hội Quản lý và
Nghiên cứu Đầu tư hoặc được cung cấp bởi Trung tâm nghiên cứu
và phân tích tài chính quốc tế (CIFAR1). Theo Nguyễn Hữu Cường
(2015), cách thứ hai là các nhà nghiên cứu sẽ tự xây dựng thang đo,
trong đó hệ thống các chỉ mục được lựa chọn trên cơ sở các quy định
về CBTT về BCBP có liên quan (Ahmad, 2008; Al-Shammari và
1
Cả hai xếp hạng bên ngoài về CBTT bởi Hiệp Hội Quản Lý và Nghiên
Cứu Đầu Tư và CIFAR đều không còn tiếp tục nữa.
4
cộng sự, 2008; Artiach và Clarkson, 2014; Beattie, McInnes và
Fearnley, 2004; Beyer, Cohen, Lys, và Walther, 2010).
Đối với khía cạnh nghiên cứu mức độ CBTT về BCBP và các
nhân tố ảnh hưởng, Alfaraih và Alanezi (2011) tập trung vào mức độ
tuân thủ các yêu cầu bắt buộc của chuẩn mực kế toán quốc tế –
Segment Reporting (IAS) 14 và sử dụng lý thuyết thông tin bất đối
xứng để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố bao gồm quy mô công
ty, thời gian hoạt động, đòn bầy tài chính, khả năng sinh lời và chất
lượng công ty kiểm toán đến mức độ CBTT về BCBP. Tuy nhiên,
nghiên cứu này chỉ giới hạn ở việc xem xét các chỉ tiêu bắt buộc,
không xem xét đến mức độ tuân thủ các chỉ tiêu tự nguyện của các
công ty này. Hessling và Jakkola (2008) nghiên cứu mức độ CBTT
về BCBP các công ty ở Thụy Điển, Pardal và Morais (2012) nghiên
cứu các CTNY ở Tây Ban Nha, cả hai nghiên cứu này đều chỉ ra
rằng mức độ CBTT về BCBP được lập theo lĩnh vực kinh doanh
(LVKD) cao hơn hẳn so với BCBP được lập theo khu vực địa lý
(KVĐL).
Một số nghiên cứu lại tập trung vào xem xét mức độ CBTT về
BCBP của những CTNY ở một ngành hoặc một nhóm ngành kinh tế
cụ thể và ảnh hưởng tích cực từ việc áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài
chính quốc tế - Operating Segments (IFRS 8) đến việc cải thiện chất
lượng và số lượng trình bày BCBP, chẳng hạn nghiên cứu của
Benjamin và cộng sự (2010), Hyderabad và Pradeepkumar (2011).
Các nghiên cứu trước khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến
mức độ CBTT về BCBP như quy mô công ty, tỷ suất lợi nhuận, đòn
bẩy tài chính, cơ chế quản trị công ty, công ty kiểm toán v.v. Chẳng
hạn, Alfaraih và Alanezi (2011), Pardal và Morais (2012) đều cho
rằng quy mô công ty càng lớn thì mức độ CBTT về BCBP càng cao.
Tuy nhiên, Nguyễn Thị Phương Thúy (2010) kiểm chứng được rằng
5
quy mô công ty không ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP.
Trong khi đó, Kevin và Zain (2001) khi xác định các yếu tố tác động
đến BCBP của các công ty Malaysia chỉ ra rằng quy mô công ty có
ảnh hưởng đáng kể đến mức độ CBTT về BCBP hơn là những nhân
tố khác như đòn bẩy tài chính hay tình trạng niêm yết.
Đối với khía cạnh nghiên cứu việc áp dụng các chuẩn mực kế
toán về BCBP cũng có một số nghiên cứu ở các nước phát triển được
thực hiện, chẳng hạn nghiên cứu của Herrmann và Thomas (2000),
Farías và Rodríguez (2014). Cả hai nghiên cứu trên đã được sử dụng
như là những bằng chứng thực tế để so sánh sự khác nhau của các
phương pháp lập BCBP và sau đó đi đến kết luận áp dụng trình bày
BCBP tại các quốc gia.
Ở Việt Nam gần đây cũng đã có một vài nghiên cứu về thực
trạng lập và trình bày BCBP cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến
nó. Lê Thị Hà (2015) sử dụng phương pháp thống kê mô tả để kiểm
tra mức độ CBTT về BCBP trên BCTC năm của 140 CTNY trên
HOSE đồng thời kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến nó thông qua
các tham số hồi quy được ước lượng bằng phương pháp OLS. Một số
nghiên cứu khác tập trung vào nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố
đến việc lập và trình bày BCBP như nghiên cứu của Nguyễn Thị
Phương Thúy (2011), Trần Thị Thúy An (2013), Nguyễn Thị Kim
Nhung (2013). Các nghiên cứu này hầu như đều sử dụng phương
pháp nghiên cứu thống kê mô tả, kiểm định sự tương quan của biến
phụ thuộc và các biến độc lập thông qua các tham số hồi quy bằng
phương pháp OLS. Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Cường (2015)
được thực hiện trên 100 CTNY có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất
ở Việt Nam chỉ ra rằng đối với chỉ tiêu thông tin doanh thu và kết
quả bộ phận theo LVKD và KVĐL thì tỷ lệ không tuân thủ có sự
chênh lệch đáng kể giữa BCTC giữa niên độ và BCTC quý 2.
6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ
CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO
BỘ PHẬN
1.1.1. Quá trình hình thành các quy định về báo cáo bộ
phận
Chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ SFAS 14 – Finacial
Reporting for Segments of a Business Enterprise (Báo cáo tài chính
cho bộ phận kinh doanh) được Ủy ban chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ
(FASB) ban hành lần đầu năm 1976 quy định việc lập BCBP bắt
buộc bao gồm các nội dung cơ bản như: phạm vi áp dụng, cơ sở xác
định bộ phận báo cáo, các thông tin cần báo cáo v.v và được thay thế
bằng SFAS 131 năm 1997. SFAS 131 đã đánh dấu sự thay đổi đáng
kể so với chuẩn mực trước đó, đáng chú ý là nguyên tắc xác định bộ
phận trình bày. Trên góc độ chuẩn mực kế toán quốc tế, IAS 14 Segment Reporting ra đời năm 1981, được sửa đổi năm 1997 và
2003. Năm 2006, Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) đã ban
hành Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS 8 - Operating
Segments thay thế cho IAS 14 và chính thức áp dụng từ ngày 01
tháng 01 năm 2009. Điểm khác biệt cơ bản giữa IFRS 8 và IAS 14 là
đối tượng áp dụng chuẩn mực, định nghĩa bộ phận hoạt động và
những thông tin cần báo cáo, trong đó IFRS 8 có cách tiếp cận về các
bộ phận hoạt động từ góc nhìn của các nhà quản lý công ty trong khi
IAS 14 có cách tiếp cận về các bộ phận hoạt động trên góc độ tuân
thủ các chuẩn mực BCTC (Epstein và Jermakowicz, 2009; Pardal và
Morais, 2012).
7
Ở Việt Nam, BCBP được lập và trình bày tuân thủ theo chuẩn
mực kế toán Việt Nam số 28 - Báo cáo bộ phận (VAS 28). VAS 28
được ban hành và công bố đợt 4 theo quyết định số 12/2005/QĐBTC ngày 15 tháng 02 năm 2005 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 03
năm
2005
trên
cơ
sở
tuân
thủ
100%
theo
IAS
14.
(PriceWaterHouseCoopers, 2008, P.17).
1.1.2. Nội dung báo cáo bộ phận
Nhiều công ty cung cấp các nhóm sản phẩm và dịch vụ hoặc
hoạt động trong các KVĐL khác nhau có tỷ lệ sinh lời, cơ hội tăng
trưởng, triển vọng và rủi ro khác nhau. Thông tin về các loại sản
phẩm, dịch vụ tại các KVĐL khác nhau được gọi là thông tin bộ
phận. Loại thông tin này cần thiết cho những người sử dụng thông
tin trên BCTC vì chúng có lợi ích trong việc đánh giá rủi ro và lợi
ích kinh tế của các công ty có cơ sở ở nước ngoài hoặc công ty có
phạm vi hoạt động trên nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Lê Thị
Hà (2015) tóm lược rằng BCBP còn có thể được định nghĩa là các số
liệu tài chính riêng của các đơn vị, công ty con hoặc những bộ phận
khác nhau của một công ty (Ijiri,1995). Người sử dụng BCTC,
những chuyên gia phân tích và các nhà nghiên cứu được hỗ trợ các
thông tin bổ sung về chia tách các bộ phận thông qua việc tìm hiểu
BCBP.
BCBP được lập theo LVKD, KVĐL hoặc kết hợp theo LVKD
và KVĐL. Bộ phận theo LVKD là một bộ phận có thể phân biệt
được của một công ty tham gia vào quá trình sản xuất hoặc cung cấp
sản phẩm, dịch vụ riêng lẻ, một nhóm các sản phẩm hoặc các dịch vụ
có liên quan mà hai bộ phận kinh doanh này có rủi ro và lợi ích kinh
tế khác với các bộ phận kinh doanh khác. Bộ phận theo KVĐL là
một bộ phận có thể phân biệt được của một công ty tham gia vào quá
8
trình sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ trong một môi
trường kinh tế cụ thể mà bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác
với các bộ phận trong các môi trường kinh tế khác. Khác với VAS
28, IFRS 8 định nghĩa bộ phận cần báo cáo không nhất thiết là bộ
phận theo LVKD hay theo KVĐL mà là các hoạt động kinh tế có thể
tạo ra doanh thu hoặc phát sinh chi phí, có các thông tin tài chính
riêng biệt cho chúng và kết quả hoạt động của chúng thường xuyên
được các nhà quản lí xem xét để ra quyết định điều hành hoạt động.
Mặc dù VAS 28 chưa có những cập nhật theo IFRS 8, với việc
quy định nguyên tắc và phương pháp thiết lập các thông tin tài chính
theo bộ phận khác nhau của công ty, VAS 28 vẫn có ý nghĩa trong
việc giúp các đối tượng sử dụng BCTC đánh giá đúng các rủi ro và
lợi ích kinh tế của công ty và có những nhận định đúng đắn về công
ty (Phạm Thị Thủy, 2013).
1.1.3. Vai trò của báo cáo bộ phận
Thứ nhất, BCBP giúp cho việc ra quyết định của người sử
dụng báo cáo vì các quyết định mà họ đưa ra chịu tác động bởi
những loại thông tin khác nhau. Thứ hai, BCBP giúp so sánh khả
năng dự đoán của các ước tính khác nhau. Nó là việc kiểm tra khả
năng dự đoán thông qua so sánh sự chính xác của các ước tính số học
về doanh thu, thu nhập hay các chỉ tiêu kế toán khác bằng cách sử
dụng các thông tin hợp nhất với các ước tính đơn giản thay vì dựa
vào các thông tin bộ phận. Thứ ba, BCBP giúp kiểm tra phản ứng
của thị trường chứng khoán. Họ kiểm tra liệu các BCBP có làm ảnh
hưởng đến giá cổ phiếu hay các phép tính đo lường về rủi ro thị
trường hay không. Nếu các phản ứng này tồn tại, các thông tin phần
nào được sử dụng và do đó nó hữu ích. Nếu các thông tin bộ phận
không có ảnh hưởng đáng kể đến thị trường thì có thể kết luận nó
9
không được những người tham gia thị trường chứng khoán sử dụng
hoặc là các thông tin này đã được thu thập từ nguồn khác.
1.1.4. Quy định về trình bày báo cáo bộ phận
VAS 28 yêu cầu trình bày thông tin trên cơ sở các thông tin tài
chính tuân thủ theo các chuẩn mực kế toán tài chính đã được trình
bày trong BCTC hợp nhất. Liên quan đến cơ sở để một công ty xác
định BCBP chính yếu theo LVKD hay KVĐL phụ thuộc vào tính
chất rủi ro và lợi ích kinh tế của công ty đó. Để nhận biết được
nguồn và tính chất chủ yếu của rủi ro và các tỷ suất sinh lời khác
nhau phải dựa vào cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ của công ty và hệ
thống BCTC nội bộ cho BGĐ (Bộ Tài chính, 2006, đoạn 25). VAS
28 (Bộ Tài chính, 2006, đoạn 24) quy định trình bày đối với bộ phận
chính yếu sẽ khác với bộ phận thứ yếu.
IFRS 8 yêu cầu trình bày thông tin về các bộ phận trên cơ sở
thông tin mà các nhà quản lý sử dụng để điều hành hoạt động của
công ty. Khác với VAS 28, IFRS 8 yêu cầu các mục thông tin bắt
buộc cần công bố ít hơn, IFRS 8 chỉ yêu cầu công bố kết quả lãi hoặc
lỗ và tài sản bộ phận. Trong khi đó VAS 28, vẫn chỉ là áp dụng theo
IAS 14 đã sửa đổi (IAS 14R) nên vẫn bắt buộc CBTT về doanh thu
bộ phận, kết quả bộ phận, tài sản bộ phận, nợ phải trả bộ phận, tổng
chi phí đã phát sinh trong niên độ để mua sắm TSCĐ, chi phí khấu
hao TSCĐ và phân bổ chi phí trả trước dài hạn của bộ phận, tổng giá
trị các khoản giá trị lớn không bằng tiền.
Theo Thông tư 155/2015/TT-BTC (Bộ Tài chính, 2015) các
CTNY phải lập và CBTT về BCTC năm, BCTC bán niên (06 tháng
đầu năm tài chính) và BCTC quý. Trong đó, BCTC năm đã được
kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận thực hiện kiểm
toán, BCTC bán niên phải được soát xét bởi tổ chức kiểm toán chấp
10
thuận, riêng đối với BCTC quý thì hiện tại ở Việt Nam không có
quy định bắt buộc về việc soát xét các BCTC quý. Điều này dẫn đến
khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP
trên BCTC quý 2 sẽ không có nhân tố công ty kiểm toán.
1.1.5. Đo lƣờng về mức độ công bố thông tin về báo cáo bộ
phận
Việc đo lường mức độ CBTT bằng thang đo do chính các nhà
nghiên cứu xây dựng có thể được tiếp cận theo một trong hai cách là
đo lường bằng thang đo không trọng số và ngược lại là đo lường
bằng thang đo có trọng số. Trên cơ sở hệ thống các chỉ mục thông tin
đã được xây dựng, từng mục thông tin tương ứng trong BCBP được
nghiên cứu sẽ được gán giá trị bằng một nếu thông tin đó được công
bố, hoặc được gán giá trị bằng không nếu thông tin đó không công
bố. Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn có thể quyết định không gán giá trị
cho một chỉ mục được đánh giá nếu chắc chắn rằng đối với BCBP
được nghiên cứu đó thì chỉ mục này chắc chắn là không liên quan
(not applicable - N/A).
1.2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
BÁO CÁO BỘ PHẬN
1.2.1. Các nghiên cứu ở các nƣớc
1.2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
CHƢƠNG 2
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.1. LÝ THUYẾT KHUNG VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO
CÁO BỘ PHẬN
2.1.1. Lý thuyết đại diện (Agency theory)
Lý thuyết này được xây dựng đầu tiền bởi Ross (1973) tuy
nhiên phải đến năm 1976, dưới kết quả nghiên cứu của Jensen &
11
Merkling (1976) lý thuyết đại diện mới được quan tâm nhiều. Lý
thuyết này cho rằng cả hai bên (bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm)
đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Rất nhiều nghiên cứu thực
nghiệm liên quan đến CBTT về BCBP trước đây cũng đã vận dụng
lý thuyết đại diện (Kevin và Zain, 2001; Shammari và cộng sự, 2008;
Alfaraih và Alanezi, 2011; Farías và Rodríguez, 2014; Lê Thị Hà,
2015). Những nghiên cứu này đã lý giải sự ảnh hưởng của các nhân
tố như quy mô của DN, đòn bẩy tài chính, và khả năng sinh lời.
2.1.2. Lý thuyết tín hiệu (Signaling theory)
Lý thuyết tín hiệu dựa trên cơ sở đóng góp của 2 nghiên cứu
của Arrow (1972) và Schipper (1981). Lý thuyết tín hiệu mô tả hành
vi của một bên nắm thông tin từ đó phát ra tín hiệu cho thị trường và
một bên sử dụng thông tin đó. Akerlof (1970) cho rằng trong hai bên
tham gia giao dịch, một bên thường có thông tin nhiều hơn bên kia.
Đó là hiện tượng thông tin bất đối xứng. Lý thuyết tín hiệu giải quyết
vấn đề thông tin bất đối xứng giữa công ty và các nhà đầu tư. Lý
thuyết tín hiệu giả định rằng các công ty có kết quả hoạt động kinh
doanh tốt thường sử dụng thông tin tài chính như là một công cụ
truyền tín hiệu đến thị trường (Ross, 1997).
2.1.3. Lý thuyết chi phí chính trị (Political theory)
Các chi phí chính trị là một trong những chi phí và khoản
thanh toán quan trọng nhất của công ty và được xem là các khoản phí
tổn phi hợp đồng. Do vậy, các công ty luôn muốn tìm cách để giảm
bớt những chi phí này. Nội dung căn bản của lý thuyết chi phí chính
trị là một công ty chịu chi phí chính trị cao dự kiến sẽ công bố thêm
nhiều thông tin đến thị trường nhằm hạn chế chi phí chính trị này. Lý
thuyết về ảnh hưởng của chính trị cho rằng các nhà quản lý sẽ đưa ra
các quy định, quyết định có lợi ích liên quan đến công ty (như chính
12
sách về thuế, hạn chế độc quyền, cạnh tranh v.v) dựa trên thông tin
được công bố bởi các công ty (Paul và Largay III, 2005).
2.1.4. Lý thuyết chi phí sở hữu (Proprietary cost theory)
Lý thuyết chi phí sở hữu liên quan đến việc CBTT được phát
triển bởi Dye (1985) và Verrecchia (1983). Chi phí sở hữu được xem
như là một hạn chế quan trọng nhất trong CBTT. Những bất lợi trong
cạnh tranh sẽ ảnh hưởng đến quyết định cung cấp các thông tin riêng
tư. Lý thuyết chi phí sở hữu hàm ý đến các lợi ích và chi phí CBTT.
Các nhà quản lý thường cân nhắc kỹ loại thông tin nào phù hợp nhất
để họ công bố ra bên ngoài về những rủi ro, chẳng hạn, trong khi hầu
hết các công ty đều mong muốn thiết lập một hệ thống quản trị rủi ro
thật chi tiết để có thể nắm bắt và đương đầu với chúng, thì họ lại rất
miễn cưỡng để công bố những thông tin nhạy cảm về thương mại
hoặc chính trị.
2.1.5. Lý thuyết kinh tế thông tin (Information economics
theory)
Lý thuyết kinh tế thông tin đã được áp dụng từ những năm
1970 để đánh giá mức độ mà thị trường tài chính cũng như các tổ
chức khác xử lý và truyền đạt thông tin. Lý thuyết này cho rằng nhà
quản lý công ty cân nhắc giữa lợi ích và chi phí liên quan đến thông
tin được công bố khi họ ra quyết định. Lý thuyết này tập trung vào
thông tin bất đối xứng trên thị trường và giá trị kinh tế của thông tin.
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Cường (2015) cho rằng mức độ
CBTT được nhà quản lý xác định bởi sự cân bằng giữa chi phí và lợi
ích liên quan đến việc CBTT nhằm giảm thiểu sự bất đối xứng thông
tin. Theo Nguyễn Hữu Cường (2017), đối với các cơ quan quản lý,
sự đánh đổi giữa lợi ích và các chi phí liên quan đến việc ban hành
và thực thi pháp luật các chính sách quy định CBTT.
13
2.1.6 Lý thuyết chi phí độc quyền (Exclusive cost theory)
Lý thuyết này nhấn mạnh tính bất lợi trong cạnh tranh của việc
gia tăng CBTT (Verrecchia, 1983). Chi phí độc quyền tùy thuộc vào
các ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, các DN trong cùng một ngành
chịu áp lực cạnh tranh và quan tâm đến vị trí cạnh tranh của mình sẽ
phải đưa ra các báo cáo với mức độ tương đương với đối thủ của
mình để tránh bị thị trường đánh giá thấp. Dưới góc độ chi phí độc
quyền, việc giảm thiểu chi phí độc quyền tiềm tàng gắn với CBTT và
tăng tính thuận lợi của nội dung công bố được xem là động cơ để các
DN gia tăng mức độ công bố các báo cáo của mình (Verrecchia,
1983). Những DN hoạt động trong môi trường ít cạnh tranh thường
hạn chế CBTT nội bộ hơn các DN hoạt động trong môi trường cạnh
tranh khắc nghiệt (Birt và cộng sự, 2006).
2.2. XÂY DỰNG CÁC GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
H1: Mức độ CBTT về BCBP sẽ cao hơn đối với các CTNY
được kiểm toán bởi những công ty kiểm toán thuộc Big 4
H2: Mức độ CBTT về BCBP sẽ cao hơn đối với các CTNY có
thời gian niêm yết càng dài.
H3: Mức độ CBTT về BCBP sẽ cao hơn đối với các CTNY có
tỷ suất sinh lời lớn hơn.
H4: Mức độ CBTT về BCBP sẽ cao hơn đối với các CTNY có
đòn bẩy tài chính lớn hơn.
H5: Mức độ CBTT về BCBP sẽ thấp hơn đối với các CTNY có
tốc độ tăng trưởng càng cao
H6: Mức độ CBTT về BCBP sẽ cao hơn đối với các CTNY có
vốn sở hữu của Nhà nước.
H7: Mức độ CBTT về BCBP sẽ cao hơn đối với các công ty
hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp.
14
H8: Mức độ CBTT về BCBP sẽ cao hơn đối với những CTNY
có khả năng thanh toán nhanh hơn.
H9: Mức độ CBTT về BCBP sẽ cao hơn ở những CTNY có
mức độ độc lập của HĐQT và BGĐ cao hơn.
H10: Mức độ CBTT về BCBP sẽ thấp hơn ở những CTNY có sự
kiêm nhiệm giữa chủ tịch HĐQT và TGĐ.
2.3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.3.1. Thiết lập mô hình
Iibb= β0 + β1AUDITi + β2AGEi + β3ROAi + β4LEVi +
β5GROWi+ β6OWNi+ β7INDi+ β8LIQi+ β9BINi+ β10DCi +
Trong đó:
Ibb:
Mức độ CBTT bắt buộc về BCBP.
AUDITi: là công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán trên BCTC
cuối niên độ hoặc soát xét trên BCTC bán niên của công ty i;
AGEi:
là thời gian niêm yết của công ty i;
ROAi:
là tỉ suất sinh lời trên tài sản (ROA) của công ty i;
LEVi:
là đòn bẩy tài chính của công ty i;
GROWi: là tốc độ tăng trưởng của công ty i;
OWNi: là cơ cấu sở hữu của công ty i;
INDi: là lĩnh vực hoạt động công nghiệp của công ty i;
LIQi: là khả năng thanh toán hiện hành của công ty i
BINi: là mức độ độc lập của HĐQT và BGĐ của công ty i;
DCi: là sự kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và TGĐ của công
ty i;
β0; β1; β2; β3; β4; β5; β6; β7; β8; β9; β10 là các hệ số hồi quy
và là sai số ngẫu nhiên.
Mô hình này sẽ lần lượt được kiểm định đối với các biến
tương ứng với BCTC cuối niên độ (được gọi là Mô hình 1), BCTC
15
bán niên (được gọi là Mô hình 2) và BCTC quý 2 (được gọi là Mô
hình 3) của các CTNY trên HOSE năm 2015. Riêng đối với Mô hình
3 tương ứng với BCTC quý 2, sẽ không có biến AUDIT do hiện tại ở
Việt Nam không có quy định bắt buộc về việc soát xét các BCTC
quý.
2.3.2. Đo lƣờng biến phụ thuộc
Biến phụ thuộc trong nghiên cứu này là mức độ CBTT về
BCBP (I). Chỉ số này được đánh giá theo n mục thông tin tổng hợp
theo công thức sau với nguyên tắc loại trừ các mục tin không liên
quan (mNA).
nj
Ij
X
i 1
ij
nj m NA
Trong đó:
- Ij là chỉ số CBTT về BCBP (BCTC cuối niên độ, BCTC bán
niên và BCTC quý 2) tương ứng của CTNY j (0
j
1),
- nj là số lượng thông tin được công bố bởi CTNY j (n
21,
sau khi đã loại bỏ các chỉ mục thông tin không tồn tại trên BCBP của
CTNY j)
- Xij là mức độ CBTT về BCBP của mục thông tin thứ i, nhận
giá trị là 1 nếu thông tin i được công bố và nhận giá trị là 0 nếu thông
tin không được công bố.
16
2.3.3. Đo lƣờng các biến độc lập
Dự kiến
chiều hƣớng
Ký
STT
hiệu
Biến
Đo lƣờng
ảnh hƣởng
đối với biến
phụ thuộc
Biến giả, nếu công
ty kiểm toán thuộc
01
AUDIT
Công ty
nhóm Big 4 thì
kiểm toán
nhận giá trị là 1,
+
ngược lại nhận giá
trị là 0
Được tính từ lúc
02
AGE
Thời gian
niêm yết
bắt đầu niêm yết
trên TTCK đến
+
thời điểm nghiên
cứu (2015).
03
04
05
ROA
LEV
Tỷ suất
sinh lời
Lợi nhuận sau
Đo bằng tỷ số nợ/
tài chính
tổng tài sản
tăng
trưởng
+
thuế/ Tổng tài sản
Đòn bẩy
Tốc độ
GROW
Tỷ suất sinh lời =
+
Đo bằng tỷ lệ tăng
doanh thu năm
2015 so với năm
trước đó
-
17
Dự kiến
chiều hƣớng
Ký
STT
hiệu
Biến
Đo lƣờng
ảnh hƣởng
đối với biến
phụ thuộc
Biến giả, nếu công
ty có vốn sở hữu
06
OWN
Cơ cấu sở
của Nhà nước thì
hữu
nhận giá trị là 1,
+
ngược lại nhận giá
trị là 0
Biến giả, nếu công
07
IND
Lĩnh vực
ty hoạt động trong
hoạt động
lĩnh vực công
công
nghiệp thì nhận giá
nghiệp
trị là 1, ngược lại
+
nhận giá trị là 0
Khả năng
08
LIQ
thanh toán
hiện hành
Đo bằng tỷ lệ giữa
tổng tài sản ngắn
hạn / tổng nợ ngắn
+
hạn.
Đo bằng tỷ lệ (%)
09
BIN
Mức độ
thành viên trong
độc lập của
HĐQT không là
HĐQT và
thành viên trong
BGĐ
BGĐ.
+
18
Dự kiến
chiều hƣớng
Ký
STT
hiệu
Biến
Đo lƣờng
ảnh hƣởng
đối với biến
phụ thuộc
110
DC
Sự kiêm
Biến giả, nếu chủ
nhiệm của
tịch HĐQT kiêm
chủ tịch
TGĐ thì nhận giá
HĐQT và
trị là 1, ngược lại
TGĐ
nhận giá trị 0.
-
2.4. MẪU NGHIÊN CỨU
2.4.1. Quy mô mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu bao gồm 174 quan sát trên BCTC cuối niên
độ, 160 quan sát trong BCTC bán niên và 80 quan sát trong BCTC
quý 2.
2.4.2. Thu thập dữ liệu
Việc đánh giá mức độ tuân thủ về CBTT được thực hiện trên
cả loại BCTC, gồm BCTC cuối niên độ, bán niên và quý 2 năm 2015
của các CTNY trên HOSE. Số liệu cần thu thập liên quan đến các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP (các biến độc lập)
được thu thập từ BCTC cuối niên độ, báo cáo thường niên. BCTC
của các công ty này được tải từ trang điện tử của HOSE.
19
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ BÁO
CÁO BỘ PHẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SỞ
GIAO DỊCH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1.1. Thống kê mô tả chỉ số công bố thông tin về báo cáo
bộ phận
Về mức độ CBTT BCBP trên BCTC cuối niên độ: Mức độ
CBTT về BCBP trên BCTC cuối niên độ của các CTNY trên HOSE
trung bình đạt 53,82%.
Về mức độ CBTT về BCBP trên BCTC bán niên: Mức độ
CBTT về BCBP trên BCTC bán niên của các CTNY trên HOSE
trung bình đạt 61,29%.
Về mức độ CBTT về BCBP trên BCTC quý 2: Mức độ CBTT
về BCBP trên BCTC quý 2 của các CTNY trên HOSE trung bình đạt
48,21 %.
3.1.2. So sánh mức độ tuân thủ CBTT về BCBP của các
loại BCTC
Kết quả thử nghiệm ANOVA một chiều cho thấy sự khác biệt
về giá trị trung bình của mức độ CBTT về BCBP trên ba loại BCTC
là có ý nghĩa về mặt thống kê (F=8,293, p<0,001). Hơn nữa, sự khác
biệt về mức độ tuân thủ đối với CBTT về BCBP giữa BCTC cuối
niên độ và BCTC bán niên, và giữa BCTC bán niên và BCTC quý 2
cũng có ý nghĩa về mặt thống kê. Mức độ tuân thủ đối với CBTT về
BCBP trên BCTC năm trung bình là thấp hơn đối với BCTC bán
niên 7,47% ở mức ý nghĩa 5%; và còn mức độ tuân thủ đối với
CBTT về BCBP trên BCTC bán niên thì cao hơn đối với BCTC quý
2 13,08% ở mức ý nghĩa 5%.
20
3.2. PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN MỨC
ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ BÁO CÁO BỘ PHẬN
3.2.1. Đối với báo cáo tài chính cuối niên độ
Kết quả hồi quy ước lượng mức độ CBTT về BCBP trên
BCTC cuối niên độ chỉ ra rằng có năm biến độc lập có ảnh hưởng
đến mức độ CBTT về BCBP trên BCTC cuối niên độ, đó là công ty
kiểm toán (AUDIT), tốc độ tăng trưởng (GROW), cơ cấu sở hữu
(OWN), mức độ độc lập của HĐQT và BGĐ (BIN), sự kiêm nhiệm
của chủ tịch HĐQT và TGĐ (DC), những biến còn lại không có ý
nghĩa thống kê.
3.2.2. Đối với báo cáo tài chính bán niên
Kết quả hồi quy ước lượng mức độ CBTT về BCBP trên
BCTC bán niên chứng tỏ rằng có năm biến độc lập có ảnh hưởng đến
mức độ CBTT về BCBP trên BCTC bán niên, đó là công ty kiểm
toán (AUDIT), đòn bẩy tài chính (LEV), tốc độ tăng trưởng
(GROW), khả năng thanh toán hiện hành (LIQ) và sự kiêm nhiệm
của chủ tịch HĐQT và TGĐ (DC). Những biến độc lập còn lại không
có ý nghĩa thống kê.
3.2.3. Đối với báo cáo tài chính quý 2
Kết quả hồi quy ước lượng mức độ CBTT về BCBP trên
BCTC quý 2 chỉ ra có ba biến độc lập có ảnh hưởng đến mức độ
CBTT về BCBP trên BCTC quý 2, đó là tỷ suất sinh lời (ROA), đòn
bẩy tài chính (LEV) và tốc độ tăng trưởng (GROW). Những biến độc
lập còn lại không có ý nghĩa thống kê.
21
CHƢƠNG 4
HÀM Ý CHÍNH SÁCH VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN BÁO CÁO BỘ PHẬN
VAS 28 được xây dựng dựa vào IAS 14 nhưng IAS 14 đã
được thay thế bằng IFRS 8 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2009. VAS 28 giới hạn các bộ phận báo cáo chỉ là theo LVKD
hoặc theo KVĐL đã dẫn tới thực tế có nhiều công ty coi toàn bộ
công ty là một bộ phận duy nhất, từ đó không trình bày báo cáo bộ
phận trong TM BCTC của mình. Do đó, VAS 28 nên được sửa đổi
cho phù hợp với IFRS 8 nhằm tăng số lượng các công ty có BCBP
và tăng số lượng bộ phận báo cáo của mỗi công ty. IFRS hướng đến
việc đảm bảo lợi ích cho các đối tượng sử dụng BCTC, khắc phục
những hạn chế của IAS, vì vậy việc thay đổi là hết sức cần thiết.
4.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO MỨC ĐỘ
CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ BÁO CÁO BỘ PHẬN TRÊN BÁO
CÁO TÀI CHÍNH
4.2.1. Hàm ý từ sự ảnh hƣởng của công ty kiểm toán
Biến công ty kiểm toán (AUDIT) có ảnh hưởng đến mức độ
CBTT về BCBP trên cả BCTC cuối niên độ và bán niên. Vì vậy, các
công ty kiểm toán thuộc Big 4 cần xem xét lại về chất lượng kiểm
toán khi kiểm toán BCTC của các công ty khách hàng, đặc biệt là các
CTNY trên TTCK nhằm đảm bảo lợi ích cho người sở hữu công ty,
đồng thời nâng cao thương hiệu của chính các công ty kiểm toán.
4.2.2. Hàm ý tự sự ảnh hƣởng của tốc độ tăng trƣởng
Tốc độ tăng trưởng ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP
trên cả ba loại BCTC. Kết quả này cần được lưu ý đối với các đối
tượng sử dụng thông tin trên BCTC của các CTNY trên HOSE như
nhà đầu tư hay các nhà phân tích. Họ nên thận trọng hơn khi sử dụng
22
những thông tin trên BCTC trước khi đưa ra các quyết định kinh tế
hay những ý kiến tư vấn.
4.2.3. Chú trọng đến sự kiêm nhiệm của chủ tịch hội đồng
quản trị và tổng giám đốc
Theo kết quả kiểm định ở chương 3 thì đối với những CTNY
trên HOSE, mức độ CBTT về BCBP trên BCTC cuối niên độ và bán
niên sẽ càng thấp đối với những công ty có sự kiêm nhiệm của HĐQT
và TGĐ. Dưới góc độ kiểm soát, nếu TGĐ kiêm chủ tịch HĐQT, ban
điều hành (hoặc BGĐ) dễ bị lôi kéo và dễ có khả năng che giấu thông
tin. Hơn nữa, BGĐ là người quyết định các thông tin được trình bày
trong BCBP. BCBP vốn dĩ mang tính chất trình bày chi tiết các thông
tin nội bộ của công ty được công bố công khai ra bên ngoài, việc tách
biệt hai chức danh này giúp cho mức độ giám sát của HĐQT tốt hơn,
góp phần nâng cao mức độ CBTT về BCBP nói riêng và sự minh bạch
các chỉ tiêu tài chính trên BCTC nói chung.
4.2.4. Một số kiến nghị khác
Đối với BGĐ công ty: Để nâng cao chất lượng BCBP, điểm
quan trọng nhất là BGĐ của công ty cần nhận thức được yêu cầu và
ý nghĩa của việc lập BCBP vì lợi ích, sự phát triển bền vững và an
toàn tài chính của chính công ty.
Đối với cổ đông: Các cổ đông tại Việt Nam hiện nay vẫn
chưa thể hiện hết vai trò và nghĩa vụ của mình trong việc giám sát
các hoạt động của công ty. Các cổ đông nên tìm cách lên tiếng và tạo
áp lực đối với quản lý và ban giám đốc để yêu cầu cải thiện đáng kể
cả BCTC và phi tài chính, điều này góp phần thu hút đầu tư nhiều
hơn từ thị trường vốn trong nước và nước ngoài.
Đối với Sở giao dịch chứng khoán: Để đảm bảo thống nhất
và minh bạch thông tin tài chính giữa các doanh nghiệp niêm yết
23
cũng như yêu cầu phải tuân thủ VAS 28 thì các cơ quan quản lý cần
có những văn bản quy định chặt chẽ hơn cũng như những chế tài
nghiêm khắc như cảnh báo hoặc thậm chí là phạt hành chính, quy
định bắt buộc các CTNY phải tuân thủ.
4.3. KẾT LUẬN
4.3.1. Kết quả đạt đƣợc
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ CBTT về BCBP ở
mức trung bình, 53,82% đối với BCTC cuối niên độ, 61,29 đối với
BCTC bán niên và 48,21 đối với BCTC quý 2, có thể thấy mức độ
CBTT về BCBP trên BCTC quý 2 là thấp nhất. Ngoài ra, kết quả
cũng chỉ ra mức độ CBTT về BCBP bị ảnh hưởng bởi các nhân tố
như: công ty kiểm toán, tỷ suất sinh lời, đòn bẩy tài chính, tốc độ
tăng trưởng, cơ cấu sở hữu, khả năng thanh toán hiện hành, mức độ
độc lập của HĐQT và BGĐ, sự kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và
TGĐ, tuy nhiên chiều hướng tác động của chúng là không giống
nhau trên ba loại BCTC.
4.2.1. Hạn chế của nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu không lớn, chỉ nghiên cứu các CTNY
HOSE năm 2015. Các nghiên cứu trong tương lai có thể thực hiện
việc đánh giá mức độ CBTT về BCBP và khảo sát ảnh hưởng của
các nhân tố trong nhiều năm hơn để có được kết quả định lượng có
mức độ tin cậy cao hơn và có tính đại diện hơn.
Luận văn mới chỉ tiến hành phân tích, thống kê trên 10 biến
độc lập có khả năng ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP dựa
trên các nghiên cứu trước, đặc biệt chưa có nhiều biến liên quan đến
quản trị công ty. Với kết quả mô hình nghiên cứu, hệ số xác định
điều chỉnh R2 đối với cả ba mô hình là chưa cao (đều dưới 30).