Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

bài tập luật hôn nhân gia đình những ngoại lệ của việc huỷ kết hôn trái pháp luật và một số giải pháp hoàn thiện vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.36 KB, 15 trang )

Đề bài: NHỮNG NGOẠI LỆ CỦA HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VẤN ĐỀ NÀY.
BÀI LÀM:
A.MỞ BÀI.
Luật hôn nhân và gia đình việt nam năm 2000 quy định về điều kiện kết hôn của nam
nữ. tuy nhiên hiện nay, cùng với sự vận động và phát triển chung của xã hội vẫn tồn tại
một số tập tục, lề thói cũ trong đời sống hôn nhân và gia đình. hiện tượng kết hôn vi
phạm các quy định về điều kiện kết hôn vẫn xảy ra ở hầu kháp các vùng miền trong cả
nước, làm xấu đi quan hệ trong đời sống gia đình, dẫn đến đời sống hôn nhân không lành
mạnh. đồng thời gây ảnh hưởng xấu tới quá trình xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
văn hoá ở nước ta. thực tiễn đó đòi hỏi nhà nước ta cần có phương hướng xử lí các trường
hợp này.Khi xem xét hủy việc kết hôn của những trường hợp kết hôn vi phạm các điều
kiện kết hôn theo pháp luật nó sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của họ và con cái của họ,
trong việc hủy kết hôn cũng xảy ra các trường ngoại lệ khi kết hôn vi phạm các điều kiện
kết hôn nhưng không bị hủy việc kết hôn đó.Để làm rõ vấn đề này nhóm em đã chọn đề
tài: "những ngoại lệ của việc huỷ kết hôn trái pháp luật và một số giải pháp hoàn thiện
vấn đề này" để sâu tìm hiểu một số trường hợp ngoại lệ của việc huỷ kết hôn trái pháp
luật cũng như một số giải pháp cho vấn đề này.
B.NỘI DUNG.
I.Hủy việc kết hôn trái pháp luật.
1.Khái niệm kết hôn trái pháp luật.
Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi
phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định( Điều 3 khoản 8 LHN &GĐ 2000) . Điều
kiện kết hôn ở đây phải được hiểu bao gồm việc vi phạm các trường hợp cho phép kết


hôn hay không được kết hôn( Điều 9 và điều 10 LHN&GĐ) . Việc vi phạm các điều kiện
kết hôn dẫn đến kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên nếu hai người nam nữ dù có xác lập
quan hệ vợ chồng và vi phạm về những điều kiện về nội dung của việc kết hôn nhưng họ
không đăng ký kết hôn thì không thể gọi là kết hôn trái pháp luật mà chỉ gọi đó là quan
hệ như vợ chồng trái pháp luật (Bình luận khoa học LHNGĐ Việt Nam của Nguyễn Ngọc


Điện- Sách đã dẫn tr.84).
Quan hệ vợ chồng trái pháp luật cũng có thể xuất phát từ việc tiếp tục duy trì quan hệ vợ
chồng sau khi hôn nhân bị hủy theo một bản án hay quyết định của Tòa án (Bình luận
khoa học LHNGĐ Việt Nam của Nguyễn Ngọc Điện- Sách đã dẫn tr.98). Mặt khác cũng
cần lưu ý thử xem trong trường hợp hai bên kết hôn nhưng chỉ vi phạm điều kiện về đăng
ký kết hôn có phải là kết hôn trái pháp luật hay không? Điều này rất quan trọng vì nó sẽ
được xếp hay không xếp vào phần các nguyên nhân dẫn đến kết hôn trái pháp luật. Ta sẽ
trở lại vấn đề này ở chương sau.
Trong khi luật viết Việt Nam dùng cụm từ “kết hôn trái pháp luật” (Mariage illégale) để
chỉ những trường hợp kết hôn vi phạm các điều kiện về nội dung lẫn hình thức thì người
Pháp lại sử dụng cụm từ vô hiệu về kết hôn (Nullité de mariage)( Điều 180 và kế tiếp
BLDS Pháp) nhằm ám chỉ các trường hợp kết hôn vi phạm những điều luật cấm dẫn đến
hôn nhân vô hiệu .
2.Nguyên tắc và biện pháp xử lí việc kết hôn trái pháp luật.
2.1.Căn cứ.
+Chưa đến tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật mà nam nữ đã kết hôn
+ Thiếu sự tự nguyện của một trong hai bên hoặc của cả hai bên nam nữ khi kết hôn.
+Người đnag có vợ /có chồng lại kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác


+ Mất năng lực hang vi dân sự mà vẫn kết hôn
+ Hai người cùng giới tính kết hôn với nhau( khoản 5, Điều 10 LHN & GĐ năm 2000).
2.2/Các biện pháp xử lí.
Thứ nhất: đối với trường hợp kết hôn trước tuổi luật định( tảo hôn) Vi phạm khoản 1
điều 9 luật hôn nhân gia đình.
Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy kết hôn trái luật mà một bên haowjc cả hai bên vẫn
chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định hủy kết hôn trái luật. Còn nếu đến thời điểm đó mà
cả hai đã đến tuổi kết hôn nhưng cuộc sống của họ không đạt được mục đích của hôn
nhân thfi quyết định hủy kết hôn trái luật, nhưng nếu họ có cuộc sống chung bình thường
hạnh phúc đã có con chung có tài sản chung thì khoongq uyết định hủy kết hôn trái luật,

nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn thì tòa án thụ lý
để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
Thứ hai: Đối với những trường hợp bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết hôn( vi phạm
khoản 2 Điều 9 LHN & GĐ năm 2000)Nếu sau khi bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn mà
cuộc sống không hạnh phúc.Không có tình cảm vợ chồng thì tòa án quyết đinh hủy kết
hôn trái luật nhưng nếu sau khi bị cưỡng ép bị lừa dối kết hôn mà bên bị cưỡng ép lừa dối
đã biết nhưng đã thong cảm tiếp tục chung sống hòa thuận thfi không quyết định hủy kết
hôn. Trong trường hợp có yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn sau khi phát sinh mẫu
thuẫn thì tòa án thụ lý giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
Thứ ba: Đối với trường hợp người đang có vợ có chồng lại kết hôn hoặc chung sống như
vợ chồng với người khác vi phạm ( khoản 1 Điều 10 LNH &GĐ). Thì tòa án cần xử hủy
việc kết hôn trái luật.
Tuy nhiên cần lưu ý trường hợp sau: đói với cán bộ, bộ đội ở miền nam đã có vợ/ chồng
ở niêm nam tập kết ra miềm bắc 1954 là những trường hợp ngoài lệ có vi phạm ( khoản 1


điều 10) nhưng không nhất thiết xử hủy kết hôn trái luật. Viêc kết hôn sau của họ mà tùy
từng trường hợp tòa án nhân dân các cấp sẽ giải quyết theo hướng dẫn tại thông tư số 60/
DS ngày 22/2/1978 của tòa án nhân dân tối cao.
Một người đang có vợ có chồng nhưng tình trạng đã trầm trọng đời sống chung không
thể kéo dài mà kết hôn với người khác, nếu có yêu cầu hủy việc kết hôn sau họ đã ly hôn
với người vợ người chồng của lần kết hôn trước thì không quyết định hủy việc kết hôn
trái luật đối với lần kết hôn sau. Nếu sau đó mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu tòa án
giải quyết việc ly hôn thì tòa án thụ lý để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung
Thứ tư: Đối với các trường hợp kết hôn vi phạm các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 10 LHN&GĐ
khi có yêu cầu tòa án cần xử hủy việc kết hôn mà không có ngoại lệ nào
Thứ năm: Đối với trường hợp kết hôn vi phạm Điều 12, 15 LHN & GĐ

II.Các trường hợp ngoại lệ của hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Những trường ngoại lệ của hủy việc kết hôn trái pháp luật là những trường hợp vi phạm

một trong các điều kiện kết hôn,nhưng hành vi vi phạm đó đến thời điểm phát hiện không
còn nữa.
1.Đối với trường hợp bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết hôn.Nếu sau khi bị cưỡng
ép, bị lừa dối đã biết nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hòa thuận thì không
quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
*Khái niệm về cưỡng ép kết hôn và lừa dối kết hôn.
Cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguyện vọng của
họ .theo hướng dẫn của nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng
thẩm phán tòa án nhân dân tối cao , thì hành vi cưỡng ép kết hôn có thể là :một bên đe


dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất … để ép buộc bên kia đồng ý
kết hôn. Cưỡng ép kết hôn là dùng mọi thủ đoạn bắt buộc người khác phải kết hôn trái
với ý muốn của họ. Yêu sách của cải là đòi hỏi của cải một cách quá đáng, không nhân
nhượng và coi đó là một trong những điều kiện để được kết hôn nhằm cản trở hôn nhân
tự nguyễn giữa hai bên nam nữ.có thể là dùng Thủ đoạn khác như là buộc một bên hoặc
hai bên đi xa, nhằm chia rẽ họ, bắt cóc người khác kết hôn với mình trái ý muốn của họ…
Một bên hoặc là cả hai bên nam và nữ bị người khác cưỡng ép nên phải kết hôn trái với
nguyện vọng của họ như : cha mẹ buộc con cái kết hôn để trừ nợ, cha mẹ hai bên có hứa
hẹn với nhau nên cưỡng ép con họ phải kết hôn với nhau…
Lừa dối để kết hôn là một trong hai người kết hôn đã nói sai sự thật về người đó làm
cho người kia lầm tưởng mà kết hôn hoặc một trong hai người kết hôn đã hứa hẹn sẽ làm
việc gì có ích cho người kia nhằm lằm cho người kia đồng ý kết hôn.Theo hướng dẫn
nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân
dân tối cao thì có thể coi là có hành vi lừa dối kết hôn khi một bên hứa là nếu kết hôn sẽ
xin việc làm phù hợp, bảo lãnh ra nước ngoài, một bên không có khả năng sinh lí hoặc bị
nhiễm HIV nhưng cố tình dấu… hành vi lừa dối để kết hôn khác với sự nhầm lẫn đó là
nếu một người chỉ nhầm lẫn về một số yếu tố về người kia như nhầm lẫn về nghề nghiệp,
về địa vị công tác, về hoàn cảnh gia đình… thì sẽ không được coi là thiếu sự tự nguyện
khi kết hôn .

Người có quyền yêu cầu tòa án hủy kết hôn trái pháp luật trong trường hợp cưỡng ép kết
hôn và bị lừa dối kết hôn thì theo khoản1 Điều 15 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có
quy định là “1. Bên bị cưỡng ép ,bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu tòa án hoặc đề nghị viện kiểm sát yêu cầu tòa án
hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 9 luật
này”.Đường lối để xử lí trường hợp về trường hợp bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết
hôn (vi phạm khoản 2 Điều 9 Luật hôn nhân gia đình hiện hành).Đối với bị cưỡng ép


hoặc lừa dối để kết hôn trái với nguyên tắc tự nguyện kết hôn. Vì vậy tòa án sẽ xử hủy
việc kết hôn .
Tuy nhiên trong thực tế có nhiều trường hợp có tính riêng biệt tuy vi phạm về việc thiếu
sự tự nguyện của một trong hai bên hoặc cả hai bên khi nam nữ kết hôn nhưng sẽ không
hủy việc kết hôn này: nếu sau khi bị cưỡng ép ,bị lừa dối kết hôn mà bên bị cưỡng ép, bị
lừa dối đã biết nhưng cảm thông , tiếp tục chung sống hòa thuận thì không quyết định
việc hủy kết hôn. Nhưng nếu sau đó mà phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu tòa án thụ lí
vụ việc để giải quyết việc li hôn thì giải quyết theo thủ tục chung.Đây là trường hợp
ngoại lệ khi có hành vi vi phạm nguyên tắc tụ nguyện trong việc kết hôn nhưng không bị
hủy việc kết hôn này, điều này phù hợp với hai bên hạn chế việc ảnh hưởng đến cuộc
sống của họ ( con cái, tài sản...).
2. Người đang có vợ hoặc có chồng lại kết hôn hoặc chung sống với người khác như
vợ chồng.
Người đang có vợ hoặc đang có chồng bị cấm kết hôn với người khác (37). Theo hướng
dẫn của của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao(mục 1 điểm c tiểu điểm c.1.
Nghị quyết số 02/2002/NQ-HĐTP) thì “người đang có vợ có chồng” được hiểu là:
1. Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình nhưng chưa li hôn.
2. Người đang chung sống với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và
đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn (tái khẳng định tại
khoản 3 điểm a NQ 35/2000/QH10 của Quốc Hội).

3. Người chung sống với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày
01/01/2001 và đang chung sống như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không


đăng kí kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày nghị quyết này có hiệu lực cho đến
01/01/2003).
Vì vậy những người được nêu trên chỉ được kết hôn nếu ở tình trạng không tồn tại hôn
nhân này.
Như vậy nếu có một hôn nhân thứ hai đối với các người nói trên thì việc kết hôn lần sau
xem như là kết hôn trái pháp luật. Nếu vi phạm nguyên tắc này không những việc kết hôn
bị tuyên bố là kết hôn trái pháp luật mà người liên quan còn vị xử phạt về hành chính hay
bị truy cứu về mặt hình sự (38). Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý việc chung sống như vợ
chồng của người đã kết hôn với một người khác chỉ bị xử phạt hành chính hay bị truy cứu
về mặt hình sự với tội danh “vi phạm chế độ một vợ, một chồng” vì pháp luật không công
nhận cuộc sống này là hôn nhân thực tế mà chỉ gọi đó là quan hệ như vợ chồng trái pháp
luật; vì vậy người vợ/chồng của hôn nhân chính thức không thể khởi kiện nhằm xin “tiêu
hủy hôn nhân trái pháp luật này…” đối với quan hệ thứ hai.
Ngoại lệ của nguyên tắc một vợ một chồng được pháp luật công nhận đối với những cán
bộ miền Nam tập kết ra Bắc năm 1945 mà lấy vợ, lấy chồng khác thì hôn nhân sau vẫn có
hiệu lực dù rằng việc công nhận này chủ yếu về phương diện thừa kế.
Thông tư số 60/TATC ngày 22/2/1978 của TANDTC; Nghị quyết 02-HĐTP ngày
19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đây là trường hợp vi
phạm khoản 1 điều 10 Luật hôn nhân và gia đình nhưng không nhất thiết phải xử hủy
việc kết hôn sau của họ, tùy trường hợp tòa án nhân dân các cấp giải quyết khi có yêu cầu
của các đương sự.Tòa có thể giải quyết cho ly hôn nếu các đương sự thực sự mong muốn
được chấm dứt hôn nhân.Trong trường hợp người vợ hoặc người chồng ở miền nam yêu
cầu hủy việc kết hôn của chồng hoặc vợ mình với người ở miền bắc thì tòa án cần giải
thích cho họ thấy hoàn cảnh của đất nước dẫn đến tình trạng này và khuyên họ rút đơn,
còn nếu không rút đơn thì “ tòa án đưa ra xét xử và trong trường hợp đó không thỏa mãn



được yêu cầu của đương sự” ( thông tư 60/DS ngày 22/2/1978 của tòa án nhân dân tối
cao).( cá biệt có trương hợp nếu sau khi điều tra có bằng chứng rõ ràng rằng người tập kết
đã có vợ hoặc chồng ở miền nam lại nói dối là chưa, nay người vợ người chồng lấy sau
cho rằng bị lừa dối nên xin hủy việc kết hôn của họ thì tòa án xử việc hủy kết hôn đó).
3. Kết hôn trước tuổi luật định:
Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên tuy đã đến
tuổi kết hôn nhưng cuộc sống của họ bình thường, hạnh phúc đã có con chung có tài sản
chung thì không quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Khoản 1 Điều 9 Luật HN và GĐ quy định độ tuổi kết hôn như sau: “Nam từ hai mươi
tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên”.Theo như quy định này, những trường hợp nam
nữ kết hôn mà chưa đủ điều kiện về độ tuổi luật định đều bị coi là kết hôn trái pháp luật
và sẽ bị toà án nhân dân xử huỷ. Tuy nhiên, huỷ việc kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng
trực tiếp đến cuộc sống của hai người kết hôn trái pháp luật và con cái của họ. Vì vậy, khi
xử lý các trường hợp yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, toà án phải điều tra làm rõ
hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, mức độ vi phạm và hoàn cảnh vi phạm, đặc biệt là
xem xét, đánh giá thực chất quan hệ tình cảm giữa hai người kết hôn trái pháp luật kể từ
khi kết hôn cho đến khi toà án xem xét cuộc hôn nhân của họ từ đó toà án có quyết định
đúng đắn, bảo đảm “thấu tình, đạt lý”.
Điều này đã được thể hiện rõ tại điểm d1 mục 2 NQ số 02/2000/NQ – HĐTP, theo đó
khi có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật đối với trường hợp vi phạm về độ tuổi kết
hôn thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà quyết định như sau:
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà một bên hoặc cả hai
bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.


- Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên tuy đã đến tuổi
kết hôn, nhưng cuộc sống của họ trong thời gian đã qua không có hạnh phúc, không có
tình cảm vợ chồng, thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên đã đến tuổi kết

hôn, trong thời gian đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì
không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu
cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục
chung.
Có thể thấy trường hợp thứ ba được nêu trên đây là một trường hợp ngoại lệ của việc
huỷ kết hôn trái pháp luật - vi phạm quy định về độ tuổi. Như vậy, không phải mọi trường
hợp kết hôn khi chưa đủ tuổi kết hôn đều bị xử huỷ khi có yêu cầu mà tuỳ vào từng
trường hợp, căn cứ vào việc vi phạm đó có còn tồn tại hay không (có còn ở độ tuổi chưa
được kết hôn hay không), căn cứ vào cuộc sống vợ chồng sau kết hôn trái pháp luật mà
toà án có các phán quyết khác nhau. Nếu những vi phạm điều kiện kết hôn không còn tồn
tại vào thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật và cuộc sống vợ chồng sau
khi kết hôn bình thường và không phát sinh mâu thuẫn thì không huỷ việc kết hôn trái
pháp luật. Với quy định đó cho thấy, nhà làm luật và những người thi hành pháp luật đã
có khuynh hướng mềm dẻo trong việc áp dụng các quy định về huỷ kết hôn trái pháp luật.
4. Trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng không đăng kí kết hôn
Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, các trường hợp chung sống với nhau như
vợ chồng, không có đăng ký kết hôn thì không được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng
(khoản 1 Điều 11). Trong trường hợp các bên chung sống có yêu cầu ly hôn thì Tòa án
thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản
thì giải quyết theo quy định liên quan đến việc hủy kết hôn trái pháp luật. Đồng thời, luật
cũng không quy định cụ thể cách thức giải quyết hậu quả về nhân thân, tài sản và con cái


giữa các bên có quan hệ chung sống. Hiện chỉ có Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9-62000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ; Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3-1-2000 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số
35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ; Nghị quyết số 02/2000/NQHĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về vấn đề này, nhưng chủ yếu
điều chỉnh các quan hệ chung sống phát sinh trước ngày 1-1-2001 (ngày Luật HN&GĐ
có hiệu lực).
Thời gian qua, hiện tượng chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn vẫn
còn tồn tại; thậm chí, tình trạng "sống thử" ngày càng nhiều. Đi đôi với hiện tượng này là

các vấn đề về con chung, nhân thân và tài sản giữa hai bên phát sinh khá phức tạp khi có
tranh chấp hoặc chấm dứt việc sống chung. Tình trạng này cho thấy, hôn nhân thực tế là
một vấn đề lớn liên quan đến các quyền cơ bản của cá nhân, sự ổn định trong các quan hệ
xã hội và quan hệ tài sản. Thông thường, những trường hợp có làm đám cưới theo phong
tục tập quán thì đã mặc nhiên được họ hàng, người thân xem là một cặp vợ chồng. Theo
đó, nhiều người nghĩ rằng tài sản giữa những cặp đôi này sẽ là tài sản chung của vợ
chồng, con đẻ giữa họ sẽ là con chung, nhưng họ quên rằng để có được quyền lợi rất
"bình thường" đó thì các cặp vợ chồng phải đăng ký kết hôn. Vì vậy, nhiều ý kiến cho
rằng, Luật HN&GĐ sửa đổi cần đưa ra các quy định về hôn nhân thực tế như giải quyết
hậu quả pháp lý của các vấn đề này hoặc cân nhắc, xem xét, thừa nhận hay không thừa
nhận hôn nhân thực tế của các trường hợp chung sống như vợ chồng trong các trường
hợp đặc thù về mặt lịch sử hoặc đặc thù về phong tục tập quán.
Luật HN&GĐ hiện hành không thừa nhận quan hệ vợ chồng nếu không đăng ký kết
hôn. Quy định này là phù hợp. Tuy nhiên, Nghị quyết số 35/2000/QH10 quy định: "Trong
trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3-1-1987, ngày Luật HN&GĐ
năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn;
trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly


hôn của Luật HN&GĐ năm 2000". Như vậy, hôn nhân xác lập trước ngày 3-1-1987 mặc
dù không đăng ký kết hôn vẫn được công nhận là vợ chồng. Thực tế phát sinh trường hợp
nam, nữ sống chung với nhau trước ngày 3-1-1987, có hoặc không có con chung, sau đó
hai người không còn sống chung với nhau, cả hai đều xác lập quan hệ vợ chồng với
người khác và muốn đăng ký kết hôn, nhiều địa phương lại yêu cầu họ phải ly hôn với
người đã chung sống trước đây thì mới giải quyết việc đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, nhiều
trường hợp các bên sống chung như vợ chồng trước ngày 3-1-1987, đã không còn liên lạc
với nhau trong thời gian dài nên việc tìm nhau để giải quyết ly hôn là rất khó khăn. Bên
cạnh đó, có trường hợp một người xác lập quan hệ vợ chồng với nhiều người đều trước
ngày 3-1-1987. Như vậy, khó xác định quan hệ nào sẽ được pháp luật thừa nhận. Theo
tôi, nên chăng quy định rõ về hôn nhân thực tế xác lập trước ngày 3-1-1987 theo hướng:

Nếu một người trước ngày 3-1-1987 có chung sống như vợ chồng với người khác mà
không đăng ký kết hôn thì quan hệ hôn nhân của họ chỉ được thừa nhận nếu quan hệ đó
vẫn được tiếp tục duy trì. Trường hợp một người có quan hệ như vợ chồng với nhiều
người đều trước ngày 3-1-1987, nếu các quan hệ đó vẫn còn tồn tại thì chỉ thừa nhận
quan hệ hôn nhân được xác lập đầu tiên; trường hợp đến ngày 3-1-1987 người đó chỉ
thực tế chung sống với một người, còn các quan hệ khác đều chấm dứt thì chỉ thừa nhận
quan hệ hôn nhân thực tế với người đang chung sống...
III.Một số giải pháp hoàn thiện vấn đề này.
1.1.Thực trạng.
Kết hôn trái pháp luật không phải là một hiện tượng xa lạ trong đời sống xã hội.Ngay từ
khi quan niệm về kết hôn xuất hiện thì cũng bắt đầu xuất hiện những quan niệm về kết
hôn trái pháp luật. Trong các giai đoạn trước, do ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã
hội cũng như các yếu tố chính trị, văn hóa mà kết hôn trái pháp luật chủ yếu ở một số
dạng vi phạm như: vi phạm về độ tuổi, vi phạm về sự tự nguyện...Ngày nay, các yếu tố
như hội nhập quốc tế, sự phát triển về kinh tế - xã hội, sự phát triển về khoa học kỹ thuật
đã ảnh hưởng trực tiếp tới các dạng vi phạm về kết hôn, những nguyên nhân như vi phạm
sự tự nguyện của các bên, vi phạm về độ tuổi không còn là những vi phạm phổ biến, thay
vào đó là các trường hợp kết hôn trái pháp luật do chung sống như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn, kết hôn đồng giới, kết hôn với người đã có vợ, có chồng. Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 được Quốc hội thông qua ngày 09 tháng 06 năm 2000 đã phần nào
đáp ứng được yêu cầu thay đổi của xã hội.Nhấn mạnh hơn các nguyên tắc kết hôn. Mặc
dù vậy, trải qua mười hai năm đưa vào áp dụng trong thực tế, với rất nhiều những thay
đổi của xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình cũng đã bắt đầu bộc lộ những thiếu sót, gây ra
những bất cập trong thực tiễn áp dụng


- Độ tuổi kết hôn:
Độ tuổi là một trong số những điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9 Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 với nội dung như sau: "Nam từ hai mươi tuổi trở
lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên". Theo đó, vi phạm về độ tuổi kết hôn là trường hợp một

trong hai bên hoặc cả hai bên nam nữ chưa đạt đến độ tuổi quy định, trường hợp kết hôn
vi phạm về độ tuổi còn được gọi là tảo hôn. Ngày nay, xã hội đã có những bước phát
triển lớn, cách nhìn nhận của con người về hôn nhân, gia đình đã đúng đắn hơn rất nhiều,
hiện tượng vi phạm điều kiện kết hôn về độ tuổi chỉ còn tồn tại ở một số dân tộc miền
núi, thiểu số.
- Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về sự tự nguyện: Mặt trái của sự tự nguyện đó chính
là những hành vi ép buộc, lừa dối hoặc “cưỡng ép, cản trở” các bên nam nữ xác lập quan
hệ hôn nhân là những hành vi vi phạm pháp luật về Hôn nhân và gia đình. Kết hôn vi
phạm sự tự nguyện là 1 hiện tượng diễn ra khá phổ biến trong xã hội hiện nay, hiện tượng
này chủ yếu tồn tại ở 1 số dân tộc miền núi như hủ tục “cướp vợ” của người H’mông.
1.2.Giải pháp.
Một số giải pháp được nhóm đưa ra là:
a. Các giải pháp về luật:
- Về độ tuổi kết hôn, cần xem xét có hạ tuổi kết hôn của nam và nữ xuống hay không.
Do sự thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội nên tâm sinh lý của giới trẻ bây giờ đã có sự
khác xa với những năm ra đời của Luật Hôn nhân và gia đình.
- Cần bổ sung thêm những quy định về kết hôn giữa con riêng của chồng và con riêng của
vợ, giữa những người con nuôi hoặc giữa con đẻ với con nuôi trong một gia đình
- Cần sửa đổi bổ sung quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 theo
hướng quy định việc pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng của những cặp vợ
chồng kết hôn bất hợp pháp kể từ khi họ có quan hệ bất hợp pháp đó, chứ không phải kể
từ khi có quyết định của Tòa án.
- Trong những quy định về xử phạt hành chính khi có những vi phạm về kết hôn trái pháp
luật. Theo nghị định số 87/CP về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình
cần phải tăng lên cho phù hợp với những thay đổi chung của toàn xã hội.


b.Giải pháp trong việc áp dụng pháp luật:
- Thay đổi phương thức quản lý từ hộ gia đình sang quản lý cá nhân theo chứng minh
thư nhân dân nhằm quản lý tốt hơn về tình trạng hôn nhân của mỗi chủ thể trong xã hội.

- Pháp luật cần đặt ra chế tài cụ thể, nghiêm khắc hơn nữa nhằm nâng cao ý thức trách
nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiế n hành đăng ký kết hôn tại cơ sở,
tránh thủ tục đăng ký rườm rà.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền pháp luật tới các tỉnh miền núi.
C.KẾT LUẬN.
Qua những phân tích trên, ta thấy luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy
định cụ thể về điều kiện kết hôn, các trường hợp cấm kết hôn, trình tự thủ tục đang ký kết
hôn. đó là cơ sở cho các bên tuân thủ khi kết hôn, đồng thời cũng là cơ sở để các cơ quan
có thẩm quyền xác định một quan hệ hôn nhân là hợp pháp hay là hôn nhân trái pháp
luật. khi xác định được đó là hôn nhân tría pháp luật cơ quan có thẩm quyền huỷ việc kết
hôn trái pháp luật. tuy nhiên trong thực tế huỷ việc kết hôn trái pháp luật chưa mang lại
hiệu quả cao, còn nhiều vụ việc chưa giải quyết đúng với quy định của pháp luật. nguyên
nhân có thể là do một số yếu kếm từ cơ quan có thẩm quyền, toà án thiếu cơ sở pháp luật
để huỷ việc kết hôn trái pháp kuật. từ đó cho thấy cần thiết phải đưa ra nhưng phương
hướng cụ thể hơn nữa để có thể nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết các yêu cầu huỷ
việc kết hôn trái pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb.


CAND, Hà Nội, 2007;
2.Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000;
3. Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9-6-2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật
HN&GĐ;
4.Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3-1-2000 hướng
dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ;
5.Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng Thẩm phán TAND
Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 .


MỤC LỤC:




×