Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bố cục hình ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.1 KB, 15 trang )

/>
Chương Mở Đầu
1. Bố cục và quá trình thành phẩm
Mỗi khi ta chuẩn bị chụp một tấm ảnh, mối quan tâm đầu tiên và chính nhất (đơi khi là mối
quan tâm duy nhất) là làm sao chụp được một tấm ảnh hồn hảo về kỹ thuật hay ít nhất là
chấp nhận được, không bị những lỗi làm phân tâm tới cái thú ngắm (tơi thích chữ hưởng thụ
hơn) một tấm ảnh đẹp. Ngày nay với những máy Digital và "Point-and-Shoot" hiện đại, người
chụp không phải lo lắng nhiều về kỹ thuật, ví dụ như exposure như thế nào, lấy nét ra sao, có
flash hay khơng, dường như máy làm hết những việc này cho ta. Dường như mối quan tâm
duy nhất là làm sao giữ máy cho vững và bấm để thu lại những hình ảnh trước mặt. Chất
lượng ảnh càng ngày càng nâng cao, độ nét, độ phân giải, màu sắc tiến bộ vượt bậc chỉ trong
vòng vài năm.
Tuy nhiên, những ưu thế về kỹ thuật trên vẫn chưa đủ để thõa mãn một tấm ảnh đạt yêu cầu
"hưởng thụ nhiếp ảnh". Có chăng là sự hiện đại của máy móc làm giảm nhẹ gánh nặng kỹ
thuật và ta có nhiều thời giờ hơn quan sát chủ đề, ánh sáng, chọn góc chụp, thời chụp để đạt
kết quả như ý hơn. Theo tôi, để gọi là "hưởng thụ nhiếp ảnh", ta cần:
1. Một con mắt (2 con) quan sát tốt để nhìn ra cái đẹp (beauty), cái đặc biệt khác thường
(striking, different) của chủ đề hay cảnh tượng mà bình thường chúng ta có thể bỏ qua.
2. Sự cảm nhận về ánh sáng, ánh sáng tại hiện trường trong mối tương quan với chủ đề và
cảnh vật, và nếu có thể được là làm sao cho nó tốt hơn (improve the lighting).
3. Quyết định cái gì là chủ đề và làm sao thu được vào ống kính hiệu quả nhất, bao gồm phần
nào của chủ đề (khi chụp người), bao nhiêu khơng gian của cảnh tượng, góc chụp nào nên
chọn, cái gì chung quanh chủ thể (surrounding) và có nên thu vào khung ảnh (viewfinder)
không, foreground và background ra sao.
Ảnh sau, một cậu bé chuẩn bị "chúi", một sự việc thơng thường, nhưng cái "khơng thơng
thường" là góc chụp mà tác giả cho ta một cái nhìn khác thường của sự việc. Cái khác thường
dễ bỏ qua này gây ấn tượng cho ngươì nhìn và làm cho sự việc linh động hơn (Ảnh: loayhoay)


Ảnh sau, tác giả Lylong cho ta sự cảm nhận về ánh sáng, một ví dụ về sự quan sát ánh sáng
và làm cho sự việc bình thường trở nên thú vị để quan sát (hưởng thụ nhiếp ảnh, sao tơi thích


chữ này ghê). Tơi nghĩ nếu chủ đề nằm trong hoàn cảnh ánh sáng khác, chưa chắc sự việc đủ
gây sức thu hút cho người xem ảnh.


Ảnh sau là ví dụ về sự quyết định cái gì sẽ được thu vào máy ảnh. Tác giả đứng trước cảnh
tượng rộng, bên phải được gom lại vào khung chữ nhật thẳng đứng bên trái là hallway rộng,
điều kiện ánh sáng nghịch, đường chéo duy nhất trong ảnh ở trung tâm như mời gọi người
nhìn và gây trí tưởng tưởng về cảnh vật thật được thu lại (Ảnh: Trauvang)


3 yếu tố kể trên (quan sát hiện trường, cảm nhận ánh sáng, quyết định chủ đề) sẽ giúp ta
có được một hình ảnh trong đầu, ở dạng phơi thai (concept, mental images). Vấn đề kế
tiếp là sự hiểu biết về kỹ thuật để chuyển tải ý tưởng thành hiện thực một cách chính xác
nhất mà ta đã hình dung. Chính kỹ thuật là phương tiện giúp cho người nhìn thấy được ý
tưởng (mental images) của ta qua hình ảnh trên giấy (physical images), hoăc dùng trên
internet (electronic images).
Ở giai đoạn "chuyển tải ý tưởng trong đầu" này, người chụp cần quyết định những yếu tố
kỹ thuật như mức độ rõ của ảnh (range of sharpness, depth of field), loại ánh sáng (lowlighting, silhlouettes, ambient...), góc chụp("perspective" chữ này nghĩa đầy đủ hơn chữ
"angle-shooting")... Nói chung là sự hiểu biết về dụng cụ thu hình và các features của
máy (khẩu độ, tốc độ, focal length).
Bước cuối cùng là làm sao tổ chức sắp xếp các thành phần cơ bản của nhiếp ảnh kể trên
(photographic elements), để diễn đạt ý định của người chụp, gửi một thông điệp, hoặc đạt
yêu cầu về thương mại. Cái gọi là "tổ chức" và "sắp xếp" chính là Bố Cục.
Tơi xin tóm gọn bằng biểu đồ sau:


Chú thích Anh ngữ:
Image at the stage of concept: Hình ảnh ở giai đoạn ý tưởng.
Observation: Quan sát
Knowledge of Lighting: Hiểu biết về ánh sáng

Subject Determination: Chọn lựa chủ đề
Image at the stage of Capture: Hình ảnh ở giai đoạn thu, nắm bắt.
The capabilities of Equipments: Khả năng thu ảnh của đồ nghề.
Technical Understanding: Sự hiểu biết về sử dụng đồ nghề và chức năng.
Image at the stage of Develop: Hình ảnh ở giai đoạn hình thành.
Post-processed, Printing: Hậu kỳ và in ấn.
Presentation: Trình bày.
Composition: Bố cục
Organizing, Arranging: Tổ chức và sắp xếp.
Như ta thấy bố cục là một quá trình liên tục từ khái niệm cho tới hình thành. Chữ "bố cục" ở
đây nên hiểu theo nghĩa rộng hơn chữ "bố cục" trong tổ chức sắp xếp các thành phần cơ bản
của nhiếp ảnh kinh điển (photographic elements) như điểm (point), đường nét (lines), hình
dạng (shape), form (hình khối), màu sắc (colors). Tôi nghĩ "bố cục" nên hiểu theo nghĩa sáng
tạo như người nhạc sĩ "compose" một bản nhạc. Ở mức độ này thì "bố cục" nó hàm chứa phần
hồn (the message, the idea) hơn là phần ảnh (lines, shape, colors...).
Ảnh sau ở giai đoạn quan sát tôi nhận thấy đây là loại ánh sáng từ cửa sổ (window lighting),
tôi muốn chụp kiểu profile.
Ở giai đoạn thu ảnh (capture), tôi chọn khẩu độ f/2.5 để đạt độ nét ở phần mặt (frontal), focal


length 50mm để chủ đề khơng bị distorted (ở khỗng cách 3 feet), ở cự li này tôi không dùng
flash vì ánh sáng chếch từ cửa sổ (nguồn duy nhất) đủ để gây hình khối, flash có thể làm "hại"
(flat) cái shadow phía sau mang tai của chủ đề.

Ở giai đoạn hậu kỳ tôi cần thấy phải thêm shadow, và đặt chủ đề sao cho cân bằng hơn
(thêm khỗng khơng trước mặt chủ đề, 1/4 so với khỗng khơng phía sau) nhằm mục
đích diễn đạt trạng thái tâm lý bế tắc.
This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 910x569 and weights 38KB.



2. Bố cục và Mục đích
Một tấm ảnh được chụp với nhiều lý do khác nhau. Có người chụp ảnh vì những lý do rất cá
nhân, như nhằm mục đích thu lại những sự kiện có tính cách gia đình, thân hữu hoặc những
diễn biến trong nội bộ sinh hoạt của công ti. Đôi khi chỉ nhằm giữ lại những kỹ niệm của
nhưng nơi họ du lịch. Những tấm ảnh như vậy chỉ đơn giản thỏa mãn ý thích người chụp và
mang đến niềm vui của những người có mặt trong ảnh. Yêu cầu chủ yếu về kỹ thuật của thể
loại này là làm sao ảnh đạt được độ nét cao, đúng exposure để màu sắc nhìn tự nhiên trung
thực, và có thêm chăng là giữ máy sao cho ảnh nhìn ngay ngắn khơng bị nghiêng (slanted).
Những u cầu tối thiểu này giúp người xem ảnh "hưởng thụ" (enjoy) tấm ảnh hơn khơng bị
căng mắt nhìn để đốn xem cái gì xảy ra trong ảnh hoặc ai là người ở trong ảnh (trường hợp
ảnh bị sai nét (out-focus), ám màu (over-cast)).
Ví dụ như ảnh sau chỉ có ý nghĩa và mang niềm vui đến với những người có mặt trong ảnh (có
em ở trỏng nữa, hi hi) mà thơi (ảnh: apham).


Những người chụp ảnh chuyên nghiệp (professional photographers: hiểu theo nghĩa chụp ảnh
như là nghề nghiệp) không những cố gắng tạo ra những hình ảnh thỏa mãn họ mà cịn phải
thỏa mãn người mướn họ chụp. Vấn đề hoàn chỉnh kỹ thuật là đương nhiên mà còn phải mang
đến cho người xem một thơng điệp nhằm mục đích thương mại.
Ảnh sau được chụp không những tôi cố gắng thu lại "ambient light" của hiện trường mà còn
phải làm sao thể hiện khơng khí ngày vui và giây phút hạnh phúc trên sàn nhảy của cô dâu
chú rể là những người mướn tôi chụp (ảnh: hafoto)


Khơng những nhóm "professional photographers", quan tâm đến yếu tố kỹ thuật và thơng điệp
này, nhóm "serious amateurs" (là những người khơng chụp vì tiền nhưng hiểu biết về kỹ thuật
nhiếp ảnh ở trình độ như là "professional photographers") củng cố gắng mang đến cho người
xem ảnh những tác phẩm (fine art) đạt trình độ cao về đẹp (beauty), khác biệt (unique), và
thú vị (exciting). Những tấm ảnh như vậy gây ấn tượng thị giác cực mạnh (strong visual
impac) làm cho người xem phải xem đi xem lại, thậm chí xem xong rồi vẫn còn nhớ (ám ảnh!

hi hi).
Yếu tố Bố Cục là nguyên nhân chính: gửi đến cho người nhìn một thơng điệp (message) bằng
phương tiện đơn giản nhất (simplest), rõ ràng nhất (clearest), và hiểu quả nhất (most
effective).
Những tấm ảnh đầy thi vị (fascinating) được sáng tác một cách đơn giản khơng gì hơn ngồi
những đường nét, hình khối, và màu sắc (ảnh: ravic)


Ảnh sau là một ví dụ đơn giản và hiệu quả về sự kết hợp giữa đường dọc (vertical line), đường
ngang (horizontal line) và đường xiên (diagonal line) để tạo bố cục gợi cho người xem dấu tích
thời gian (ảnh: xichlo)


Con đường ngoằn ngoèo (bác nào đánh vần dùm em chữ này ạ, hi hi) nơi trung tâm phía dưới
ảnh là thành phần duy nhất (main element) dẫn mắt người nhìn đi vào trung tâm ảnh. Sương
mù có tác dụng gợi lên khơng khí ảnh (tơi muốn dùng chữ "mood" mà không biết diễn đạt làm
sao). (ảnh: Nhiếp Ảnh Gia Hoàng Nhiệm).



Ảnh trên là kết quả của 3 kỹ thuật:
1. Chụp với tốc độ chậm để lấy ambient light, và dùng bounce flash để "bắt" hành động của
chủ đề.
2. Kỹ thuật "shoot from the hip", đây là kỹ thuật chụp mà khơng nhìn vào "view finder". Để
bảo đảm độ nét và để chụp "trúng" chủ đề, kỹ thuật này thường được dùng với wide angle
lens. Với wide angle lens thì vùng ảnh rõ rất sâu và góc nhìn rộng nên "bắn" dễ trúng.
Kỹ thuật này rất thơng dụng trong "photojournalism" vì: 1. Chủ đề sẽ tự nhiên hơn (phần lớn
người ta rất nhạy cảm khi ai đó cầm máy hình nhắm thẳng vào một cách rõ ràng). 2. Mình
tiếp cận với chủ đề dễ dàng hơn và họ sẽ không biết khi nào họ sẽ được chụp. 3. Mình có thể
chụp với mọi tư thế và hoàn cảnh khác nhau. 4. Tầm nhìn và quan sát của photographer sẽ

rộng hơn là nhìn vào trong view finder, nên khả năng dự đốn sự việc sẽ dễ dàng hơn.
3. Hậu kỳ là khâu cuối cùng. Hạn chế của kỹ thuật "shoot from the hip" là bố cục lệch lạc do
khơng nhìn vào view finder và phải chụp thật nhanh (mặt khác "shoot from the hip" chủ yếu
mang tính thời sự nên tập trung vào "timing", nghĩa là chụp đúng thời), thường với kỹ thuật
này ta thường phải "bố cục lại" ở hậu kỳ dùng kỹ thuật "crop".
Ảnh trên khơng crop được vì cặp phía sau là bố mẹ của cơ dâu, nên để hạn chế khỗng khơng
gian lớn, trong photoshop tơi "vẽ" tia sáng để gây hướng mắt người nhìn vào trung tâm. Một
điểm may mắn là cô phụ dâu bên phải cũng nhìn vào trung tâm tạo thành cái gọi là "eyelines" củng nhằm mục đích hướng mắt người nhìn. Và cuối cùng để làm cho sự việc thêm phần
linh động (dancing) tơi thêm "blur" (củng bằng photoshop) vào mái tóc của cô dâu.
3. Bố cục và Phong cách


Điều cần thiết của người "photographer" không những là nắm vững kỹ thuật (mastering skills
and techniques) để sáng tạo ra những tấm ảnh đẹp (good images) mà cịn phải tìm cho mình
một phong cách riêng (style) với bố cục mang tính cách của mình (personalized composition).
Như trên tơi đã đề cập, nếu "Bố Cục và Quá Trình Thành Phẩm" tập trung vào kỹ thuật (how
to), "Bố Cục và Mục Đích" tập trung vào lý do, nguyên nhân (why), thì "Bố Cục và Phong
Cách" tập trung vào cái gì được sáng tạo (what).
Để tìm được phong cách riêng người "photographer" cần tìm cho mình một phương hướng chủ
đề (theme). Có người thích chụp phong cảnh, có người chỉ chụp chân dung, có người thích
chụp film, có người chỉ chụp trắng đen, có người thích chụp đời thường....(kể ra thì vơ vàn).
Kế đến người "photographer" phải hiểu lý do tại sao mình thích lựa chọn kỹ thuật mà mình áp
dụng vào tác phẩm của mình và có thể lý giải một cách rõ ràng quan điểm của mình.

Chú thích tiếng Anh:
Choosing Theme: Chọn phương hướng và chủ đề chụp
Understanding Technical Choices: Hiểu biết và khả năng lý giải sự lựa chọn kỹ thuật mà mình
xử dụng.
Personal Style: Phong cách riêng.
Tới đây, tơi xin đi đến một định nghĩa về bố cục làm nền tảng cho những bài viết kế tiếp.

Định nghĩa này dựa trên 3 lập luận (Assumptions):
1. Bố Cục và Quá Trình Thành Phẩm
2. Bố Cục và Mục Đích
3. Bố Cục và Phong Cách
Lập luận 3 có tính cách tùy chọn (optional) nên tôi để vào ngoặc vuông [],
Bố cục là kỹ thuật tổ chức và sắp xếp [một cách chủ quan] các thành phần cơ bản
của nhiếp ảnh để đạt yêu cầu về thiết kế hình họa (photographic), để thỏa mãn mục


đích về nội dung và [để thể hiện ý định và tư tưởng của người chụp].
Thành phần cơ bản của nhiếp ảnh chia làm 2 loại:
1. Loại có tính cách đồ họa (graphic): điểm, đường, hình dạng, hình khối.
2. Loại có tính cách hình họa (photographic): Lighting (highlight, shadow), độ nét (chiều sâu
ảnh trường, nét căng, nét mềm), sắp đặt chủ đề (subject placement).

Chương 1: Bố Cục và Khổ Ảnh (Image Format)
1. Bố cục liên quan mật thiết đến Khổ ảnh
Một bố cục chặt chẽ liên quan mật thiết đến Khổ ảnh, điều đó khơng có nghĩa rằng ta phải học
cách bố cục cho từng Khổ ảnh một. Một khi đã nắm được kỹ thuật sắp đặt chủ đề (subject
placement) thì ta có thể áp dụng cho mọi khổ ảnh, cho dù đó là hình chữ nhật (ngang, dọc),
panoramic, và khổ vng (square). Măc dù mỗi Khổ ảnh có u cầu riêng phù hợp với một
hình thức bố cục chặt chẽ nhưng căn bản về bố cục vẫn là như nhau (chúng ta sẽ đi sâu vào
vấn đề này ở những chương sau). Nếu như bạn là người chuyên chụp máy Khổ chữ nhật bạn
không phải lo lắng nhiều nếu như ai đó đưa bạn máy Khổ vng cho bạn chụp (bạn chỉ cần
biết chỗ bấm máy là được rồi, hi hi).



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×