Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (qua Bóng đêm, Bên bờ, Người thợ mộc và Tấm ván thiên) (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÝ THỊ VÂN DƯƠNG

TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG
DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI
(QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÝ THỊ VÂN DƯƠNG

TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG
DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI
(QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN)

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Bích



THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn
thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên)” là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Bích. Các nội dung
nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một
công trình nào khác.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan. Các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Lý Thị Vân Dương

i


LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy
cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại
học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Thị Bích, người đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân,
đồng nghiệp cùng bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi
hoàn thành tốt khoá học này.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Lý Thị Vân Dương

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 8
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu ................................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 9
6. Đóng góp mới của luận văn .................................................................................... 10
7. Cấu trúc của luận văn.............................................................................................. 10
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................. 10
1.1. Khái quát về thể loại tiểu thuyết .......................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết........................................................................................ 11
1.1.2. Đặc trưng thể loại tiểu thuyết ........................................................................... 12
1.2. Nhà văn Ma Văn Kháng ...................................................................................... 21
1.2.1. Tiểu sử và cuộc đời ........................................................................................... 21
1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng ............................................. 21
1.2.3. Vị trí của Ma Văn Kháng trong văn xuôi Việt Nam đương đại ....................... 23
Chương 2: NHÂN VẬT VÀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT

CỦA MA VĂN KHÁNG (QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC
VÀ TẤM VÁN THIÊN) ............................................................................................. 26
2.1. Nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ................................................... 26
2.1.1. Thế giới nhân vật .............................................................................................. 26
2.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .......................................................................... 33
2.2. Người kể chuyện trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ...................................... 46
2.2.1. Người kể chuyện với điểm nhìn bên ngoài ....................................................... 47

iii


2.2.2. Người kể chuyện với điểm nhìn bên trong ....................................................... 49
Chương 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG (QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI
THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN).......................................................................... 57
3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ................................. 57
3.1.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thường, giàu sức sống.................................................. 57
3.1.2. Ngôn ngữ trữ tình, đậm chất thơ ....................................................................... 68
3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ............................... 71
3.2.1. Giọng điệu triết lý, triết luận............................................................................. 72
3.2.2. Giọng điệu thương cảm, trữ tình, thiết tha sâu lắng ......................................... 74
3.2.3. Giọng điệu trào lộng, mỉa mai, châm biếm ...................................................... 78
3.2.4. Giọng điệu lạnh lùng, “vô âm sắc” ................................................................... 83
3.2.5. Giọng điệu đời thường, suồng sã, thông tục ..................................................... 86
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 93
PHỤ LỤC

iv



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐNBN

:

Điểm nhìn bên ngoài

ĐNBT

:

Điểm nhìn bên trong

NKC

:

Người kể chuyện

NT1

:

Ngôi thứ nhất

NT2

:


Ngôi thứ hai

NT3

:

Ngôi thứ ba

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong loại hình tự sự, tiểu thuyết là một thể loại chiếm vị trí quan trọng
được coi là “cỗ máy cái” của nền văn học. Tiểu thuyết là thể loại luôn luôn thay đổi,
biến hóa, “không hoàn kết”, bởi vì nó “tiếp xúc tối đa với cái đương đại chưa hoàn
thành” (M. Bakhtin). Tiểu thuyết là một trong những dấu hiệu đánh dấu sự trưởng
thành của một nền văn học. Tuy sinh sau đẻ muộn, tiểu thuyết Việt Nam cũng đã trải
qua một hành trình nhọc nhằn với những cuộc cách tân đầy ý thức của các nhà văn. đặc
biệt là sau 1986 và đã trở thành thể loại trung tâm, có vị trí xứng đáng trong nền văn
học dân tộc. Tiểu thuyết đã và đang nỗ lực chuyển mình, đổi mới nhằm đáp ứng yêu
cầu của thời đại, của đời sống văn học và của đông đảo độc giả. Nhìn chung, văn học
Việt Nam sau đổi mới đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết; từ
cảm hứng lịch sử cộng đồng, dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư. Đây là điều kiện
thuận lợi để tiểu thuyết tồn tại và phát triển. Tiểu thuyết từ 1986 trở về sau là một thế
giới sáng tạo mới mẻ, nó quan tâm nhiều hơn đến số phận cá nhân và khám phá chiều
sâu thế giới nội tâm phức tạp của con người. Đây là thể loại có khả năng miêu tả cuộc
sống bề bộn, phức tạp. Đó cũng là nơi mà nhà văn có thể thể hiện các yếu tố kỹ thuật,
nghệ thuật cùng với không khí dân chủ của môi trường sáng tạo. Tiểu thuyết giúp nhà
văn ý thức sâu sắc hơn về tư cách một nghệ sĩ, vượt lên trên những quy định, khuôn

khổ truyền thống đã thành áp lực với ngòi bút của người viết lâu nay. Sự vận động của
tiểu thuyết đã để lại dấu ấn sâu sắc trong quá trình đổi mới văn học. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu tìm hiểu về thể loại tiểu thuyết mà đặc biệt là tiểu thuyết hiện đại thời kì
đổi mới là một việc làm quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc.
1.2. Tiểu thuyết là một thể loại tự sự mang trong mình những nét đặc trưng riêng
so với các thể loại khác về thi pháp như: kết cấu, cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện
(NKC), điểm nhìn, giọng điệu... Vì vậy, nghiên cứu tiểu thuyết từ góc nhìn thể loại sẽ
giúp chúng ta có một cái nhìn thấu đáo về phương thức xây dựng tác phẩm, về những
đặc sắc trong việc kể chuyện, những nội dung hiện thực được phản ánh và những nét
riêng biệt của nhà văn. Từ đó, có thể khẳng định những đóng góp của nhà văn trong
nền văn học dân tộc.

1


1.3. Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Ma Văn Kháng đã có nhiều đóng
góp lớn, đặc biệt là với sự nghiệp đổi mới văn học nước nhà. Nhà văn đã thổi vào nền
văn học Việt Nam sau 1975 một luồng gió mới với những sáng tác “nhìn thẳng vào sự
thật, nói rõ sự thật”. Trong đời văn của mình, Ma Văn Kháng theo đuổi hai mảng đề
tài lớn là miền núi và thành thị. Ông đã dâng cho đời 18 tiểu thuyết, hơn 200 truyện
ngắn, hai tập bút ký phê bình và rất nhiều những bài báo, trả lời phỏng vấn, phát biểu
hội thảo… Các tác phẩm của ông đã trở thành "tài sản" quý giá của văn chương Việt
Nam.
Với khối lượng sáng tác đồ sộ cùng nhiều đóng góp nỗ lực, Ma Văn Kháng đã được
nhận nhiều giải thưởng cao quý cho cả thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết như: Giải B
Hội Nhà văn Việt Nam 1986 (cho tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn); Tặng thưởng
của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam 1995 (cho tập truyện ngắn Trăng soi
sân nhỏ); Giải thưởng Văn học Đông Nam Á 1998; Giải thưởng Nhà nước về Văn học
- Nghệ thuật năm 2001; Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội 2009 (tiểu thuyết Một
mình một ngựa); Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012 cho

các tác phẩm Truyện ngắn chọn lọc, Mưa mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở
La Pan Tẩn.
1.4. Hơn năm mươi năm cặm cụi với cây bút, hơn 80 năm cuộc đời, nhà văn Ma
Văn Kháng đã để lại tên tuổi và dấu ấn trên văn đàn như một cây bút văn xuôi “lực
lưỡng”, một đời văn cần mẫn, sáng tạo. Chính vì thế, lâu nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về tiểu thuyết, truyện ngắn của ông.
Với mong muốn đóng góp thêm tiếng nói và khẳng định những giá trị trong sáng
tác của Ma Văn Kháng đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết, chúng tôi lựa chọn vấn đề Tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người
thợ mộc và tấm ván thiên) để làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói ở trên, trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là nhà
văn có nhiều đóng góp lớn. Vì thế, lâu nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tiểu
thuyết, truyện ngắn của ông đặc biệt là về tiểu thuyết sau 1975. Nhiều công trình nghiên
cứu, phê bình của các nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu như: Giáo sư Phong Lê,

2


Lã Nguyên, Tô Hoài, Trần Đăng Xuyền, Nguyễn Bích Thu, Mai Thị Nhung, Nguyễn
Ngọc Thiện, Nguyễn Thị Bích... đã được đăng tải trên nhiều sách báo và tạp chí.
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về tác phẩm của Ma Văn Kháng
Tác giả Minh Nhật trong bài viết “Nhà văn Ma Văn Kháng: Chắt chiu những vị
đời”, có trích dẫn nhận xét của GS. Phong Lê về vẻ đẹp văn chương trong các tác phẩm
của Ma Văn Kháng: “Hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết trên một hành
trình dài, dẫu có lúc ngôn ngữ chính luận tràn lấn, nhưng vẫn không làm thay đổi, biến
dạng tiếng nói nghệ thuật đích thực trong tác phẩm của Ma Văn Kháng. Một tiếng nói
nghệ thuật từ chính cuộc đời trần trụi, xù xì, thô nhám, đa sự cất lên; và lắm khi tác
giả cũng không cần phải đóng vai trò khách quan “để sự thật tự nó nói lên” theo kiểu
Balzac, Tolstoi, mà cứ đàng hoàng cất lên tiếng nói riêng để khơi gợi ở bạn đọc sự

đồng tình hay tranh luận” [62].
Tác giả Mai Thị Nhung, trong bài “Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng
trong tiểu thuyết thời kì đổi mới” [63], đã thống kê được hơn 40 bài báo và 5 công trình
nghiên cứu về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới đồng thời chỉ ra cái nhìn
đa chiều đa diện vào chiều sâu nhân bản và khẳng định những đóng góp không nhỏ của
Ma Văn Kháng vào sự vận động phát triển của Văn học Việt Nam. Bài viết “Nghệ thuật
sử dụng thành ngữ tục ngữ của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới” [64],
cho thấy những thành công của nhà văn trong việc sử dụng những thành ngữ tục ngữ
để phản ánh hiện thực cuộc sống và khắc họa tính cách nhân vật. Vốn từ ngữ phong
phú đã góp phần làm nên “thương hiệu” Ma Văn Kháng.
Tác giả Nguyễn Thị Bích, trong bài viết “Giọng điệu trần thuật của Ma Văn
Kháng trong truyện ngắn sau 1975”, đã chỉ ra một số giọng điệu trần thuật như giọng
khẳng định ngợi ca, giọng điệu trào lộng, châm biếm, mỉa mai, giọng điệu xót xa
thương cảm, giọng điệu suy ngẫm triết lí. Từ đó khẳng định “Đọc truyện ngắn của Ma
Văn Kháng sau 1975 ta cảm nhận được những suy tư, trăn trở của một trái tim giàu
yêu thương, giàu lòng trắc ẩn với cuộc đời và con người” [5].
Bên cạnh đó, một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ của các tác giả cũng nghiên
cứu về vấn đề này như: Nguyễn Thị Huệ (2000), Những dấu hiệu đổi mới trong văn
xuôi của Việt Nam từ 1980 đến 1986, Qua bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn

3


Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn; Lê Thanh Ngọc (2004), Nghệ thuật trần
thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975; Đỗ Phương Thảo (2006), Nghệ thuật
tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng; Lê Thanh Hùng (2006), Tiểu thuyết Ma Văn
Kháng thời kỳ đầu Đổi mới (Giai đoạn sáng tác 1980 - 1989); Đỗ Thị Thanh Quỳnh
(2006), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng; Lê Minh
Chung (2007), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới; Dương Thị Hồng Liên
(2008), Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới; Trần Thị Phi Nga

(2008), Đặc trưng tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng; Nguyễn Thị Vân Anh (2011),
Diễn biến của thời gian tự sự trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng; Đỗ Thanh Hương
(2011), Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong văn xuôi của Ma Văn Kháng đầu thế kỉ XXI;
Nguyễn Thị Mai (2011), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới dưới góc nhìn tự
sự; Nguyễn Thị Bích (2014), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
(Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng); Đoàn Tiến
Dũng (2016), Ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi của Ma Văn Kháng...
Với số lượng đông đảo những công trình nghiên cứu, những bài báo, bài viết về
Ma Văn Kháng kể trên cho chúng tôi thấy được sức hấp dẫn và sự ảnh hưởng của nhà
văn trong nền văn học nước nhà. Chúng tôi cũng nhận thấy, các công trình trên đã
nghiên cứu về những khía cạnh như: những dấu hiệu đổi mới, nghệ thuật tự sự, nghệ
thuật xây dựng nhân vật và ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng còn
vấn đề nhìn nhận tiểu thuyết của ông từ góc nhìn thể loại vẫn ít nhiều chưa được đề cập
đến. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn hướng nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
dưới góc nhìn thể loại trong đề tài của mình.
2.2. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc
và tấm ván thiên
Ngay từ khi ra mắt bạn đọc, ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc
và tấm ván thiên đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của bạn đọc và của các nhà phê
bình, nghiên cứu văn học.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện với bài "Bóng đêm và nghệ thuật tự sự tổng hợp
mới của Ma Văn Kháng” [78], đã có những nhận xét xác đáng về tiểu thuyết Bóng
đêm. Một là, tiểu thuyết Bóng đêm thuộc loại tiểu thuyết luận đề. Hai là, tiểu
thuyết Bóng đêm là sự huy động tổng hợp của một vốn sống phong phú, những suy

4


nghiệm tâm huyết được tích lũy trong nhiều năm của nhà văn Ma Văn Kháng về đề
tài an ninh xã hội, về cuộc chiến cam go của cái Thiện chống lại cái Ác; của Ánh sáng

xua tan Bóng đêm. Ba là, kết cấu của tiểu thuyết tập trung vào hai tuyến nhân vật
chính một bên là các cán bộ, chiến sĩ công an mưu lược, dũng cảm, khoan dung, nhân
ái, xả thân vì nhiệm vụ được giao như ông Tầm, các trinh sát viên Trừng, Nhâm còn
một bên là bọn tội phạm giết người, cướp của, hiếp dâm, buôn lậu ma túy, lưu manh
côn đồ như tên Thuyên, Kình, Phỉ… Bốn là, nhìn về tổng thể, tiểu thuyết Bóng
đêm cho ta thấy được cái nhìn đa chiều, đa diện nghiêm nhặt mà hiền minh, gợi mở
và đối thoại, tranh luận của Ma Văn Kháng về mảng hiện thực an ninh xã hội. Nhà
văn đã hé mở cho người đọc nhận ra tất cả sự phức tạp, rối rắm, oái oăm cùng những
ngẫu nhiên và bí ẩn khôn cùng của nó. Đồng thời, với Bóng đêm, Ma Văn Kháng đã
thực hiện “một bước tổng hợp mới của nghệ thuật tự sự” và tác phẩm ghi nhận những
nỗ lực dẻo dai, bền bỉ, một thành tựu vượt trội, xứng đáng là tập đại thành của cây
bút văn xuôi lão thực Ma Văn Kháng sau nhiều năm gắn bó tâm huyết với đề tài an
ninh xã hội.
Tác giả Hà Linh trong bài “Nhà văn Ma Văn Kháng: Sống còn để mang thương
tích”, có viết: “Tôi đã đọc một mạch Bóng đêm, và run theo mạch xúc cảm của nhà
văn. Những chất liệu ngồn ngộn của đời sống mà ông kể từ những chuyến đi thực tế
của 20 năm trước, vẫn còn nóng hổi hơi thở của đời sống đương đại. Và chính nhà văn
Ma Văn Kháng cũng bị dẫn dụ vào thế giới của riêng mình, trong thế giới của sự thăng
hoa sáng tạo, ông đã khám phá ra chính mình, khám phá đời sống trong những tàng
ẩn sâu kín của tâm linh, của nội cảm” [49].
Đỗ Thanh Hương với bài “Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết "Bóng đêm" của
Ma Văn Kháng”, đăng trên báo Văn nghệ công an online, ,
năm 2012, nhận xét: “với những đặc trưng riêng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật,
nghệ thuật kể chuyện và ngôn ngữ, qua "Bóng đêm", Ma Văn Kháng đã thành công
trong việc "thực hiện một bước tổng hợp mới của nghệ thuật tự sự". Nó thể hiện sự tìm
tòi, sáng tạo không mệt mỏi của một nhà văn đã suốt đời gắn bó và nỗ lực đổi mới văn
xuôi hiện đại Việt Nam”.
Tác giả Bình Minh trong bài “Hành trình đi tìm cái thiện trong tiểu thuyết Bóng
đêm”, có viết: “Đọc tiểu thuyết Bóng đêm ta thấy một vốn sống phong phú và sự trải


5


nghiệm được tích lũy trong nhiều năm cầm bút của Ma Văn Kháng về đề tài an ninh
xã hội, về cuộc chiến cam go của cái thiện chống lại cái ác; của ánh sáng xua tan bóng
tối. Bóng đêm đã tái hiện bức tranh về cuộc đời sinh động được kết hợp rất linh hoạt
giữa bút pháp hiện thực với suy tưởng lãng mạn, đôi chỗ có đan cài những chi tiết
“sex”, những chi tiết đẹp về tình yêu cũng là cách lựa chọn độc đáo của tác giả để tạo
sức hấp dẫn cho tác phẩm.” [57]
Tác giả Đoàn Trọng Huy với bài “Vẻ đẹp bộ tiểu thuyết cặp đôi Bóng đêm và
Bến bờ của Ma Văn Kháng”, có nhận xét như sau: “Bóng đêm và Bến bờ là loại truyện
hình sự nhưng khái quát lại là tiểu thuyết luận đề mới. Nó hàm chứa những vấn đề về
đạo đức, về triết lý nhân sinh, những thông điệp tinh thần mới” [30] .
Nhà lí luận phê bình Nguyễn Hoà cho rằng: “Không thể viết được như Ma
văn Kháng nếu chỉ lấy tài liệu ở mấy bài báo. Bóng đêm và Bến bờ là tiểu thuyết
luận đề, Ma Văn Kháng là nhà văn có tiếp xúc nhiều với thực tiễn sinh động” (dẫn
theo [89, tr.4]).
Ở một khía cạnh khác, nhà văn Phùng Thiên Tân nhận thấy: “Thông thường các
cuốn tiểu thuyết về đề tài hình sự mở đầu là những vụ án xảy ra, kết thúc là tìm ra hung
thủ hay tên biệt kích. Ma Văn Kháng không viết thế. Cách viết mới này là hướng dẫn
cho các nhà văn trẻ trong ngành” (dẫn theo [89, tr.4]).
Ý kiến của Nhà thơ Hữu Việt: “Bóng đêm, thể hiện tinh thần nhập cuộc của nhà
văn Ma Văn Kháng. Nó thể hiện sức viết dẻo dai bền bỉ của một cây bút tuổi đã cao và
đã có nhiều thành tựu. Ông đã đem chất thơ và các khát vọng vào tác phẩm của mình.
Hành động, chi tiết trong chuyện chỉ là bề nổi, phía sau tất cả là ý nghĩa nhân sinh của
cuộc đời…” (dẫn theo [89, tr.4]).
Trong các công trình nghiên cứu, chúng tôi đã rà soát có hai luận văn thạc sĩ
nghiên cứu về cặp đôi tiểu thuyết này đó là Nguyễn Thị Hằng (2012), Nghệ thuật tự sự
trong hai tiểu thuyết Bóng đêm và Bến bờ của Ma Văn Kháng. Luận văn đã đề cập đến
những thành công về nghệ thuật tự sự trong hai tác phẩm được ghi dấu trên ba phương

diện: nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và nghệ thuật sử
dụng giọng điệu. Đặng Hồng Vân (2013), Yếu tố trinh thám trong tiểu thuyết của Ma

6


Văn Kháng qua tiểu thuyết Bóng đêm và Bến bờ đã đưa ra một cái nhìn khái lược về
văn học trinh thám, nhận diện yếu tố trinh thám trong tiểu thuyết Bóng đêm và Bến bờ
của Ma Văn Kháng nói riêng và tiểu thuyết của ông nói chung. Luận văn cũng cho thấy
yếu tố trinh thám được thể hiện hết sức đa dạng qua đề tài, cốt truyện, ngôn ngữ, đặc
biệt là hình tượng nhân vật trung tâm người chiến sĩ công an.
Người thợ mộc và tấm ván thiên là tiểu thuyết được nhà văn viết trong khoảng
ba năm (từ 2012 tới 2014), tác phẩm được nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2015. Tác
giả Lam Thu trong bài “Ma Văn Kháng ra mắt tiểu thuyết ở tuổi 79”, có viết: “Người
thợ mộc và tấm ván thiên kể câu chuyện với những nhân vật gắn với hoàn cảnh, biến
cố thời cuộc một cách hấp dẫn. Bên cạnh đó, thông qua nhân vật Quang Tình, tiểu
thuyết đưa ra một nhân sinh quan về cuộc đời, con người và sự hướng thiện” [86].
Trong bài “Khát vọng chân - thiện - mỹ trong Người thợ mộc và tấm ván thiên
của Ma Văn Kháng”, tác giả Mộc Miên đã bình luận một đoạn trong tác phẩm như sau:
“Và thật bất ngờ, nhân cách trí thức của thầy đã khiến những cái mầm thiên lương còn
sót lại trong con người Văn Chỉ dần dần mọc lên tươi tốt. Có thể nói, trường đoạn
Quang Tình thuyết phục được Văn Chỉ từ bỏ phép ứng xử lấy ác báo ác, vì oan oan
tương báo thì biết bao giờ cho hết nổi đây; (đó) là một trường đoạn hay và là một bước
chuyển tư tưởng nghệ thuật của cây đại bút này. Nhân vật Quang Tình là một ẩn dụ
thành công của nhân cách trí thức, của tư tưởng thẩm mỹ Ma Văn Kháng...” [56].
GS.TS.NGND Nguyễn Lân Dũng sau khi đọc Người thợ mộc và tấm ván thiên,
đã có những rung động và cảm nhận sâu sắc: “Tôi viết mấy dòng này với mong muốn
mọi bạn trẻ nên tìm đọc cuốn tiểu thuyết mà theo tôi là quá hay này. Các bạn sẽ hiểu
hơn xã hội chúng ta cả cái thành công và những sai lầm đáng tiếc, hiểu hơn về con
người thật với cái tốt cái xấu đan xen. Từ đó chúng ta tự hướng mình đến con đường

nhân ái, tích cực, tự giác và tránh xa những cạm bẫy không khi nào hết được quanh
ta...” [10].
Tác giả Ngọc Lợi trong bài “Đọc Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn
Kháng: điều còn lại”, có nhận xét: “Đặt trong bối cảnh của những năm bao cấp cùng
những chuyển biến xã hội đặc trưng, tiểu thuyết “Người thợ mộc và tấm ván thiên”
của Nhà văn lão làng Ma Văn Kháng cuốn hút người đọc không hẳn về đề tài mà còn

7


bởi lối viết đầy nội lực với nguồn tư liệu dồi dào...” [50].
Nguyễn Nữ Khánh Hương với luận văn thạc sĩ viết vào năm 2016, trường ĐHSP
Hà Nội 2: Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong hai tiểu thuyết của Ma Văn Kháng Một vùng
đất hoang và những cuộc gặp gỡ; Người thợ mộc và tấm ván thiên, đã đánh giá những
đóng góp của nhà văn thông qua hai cuốn tiểu thuyết Một vùng đất hoang và những
cuộc gặp gỡ, Người thợ mộc và tấm ván thiên. Với Người thợ mộc và tấm ván thiên,
tác giả luận văn nhận định đây là tiểu thuyết luận đề với tư tưởng bao dung hướng thiện
và đi vào phân tích một số đặc điểm về nhân vật, cốt truyện, nghệ thuật trần thuật
(người kể chuyện và điểm nhìn, giọng điệu triết lí).
Từ việc tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu sáng tác của Ma Văn Kháng
nói chung và ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên nói
riêng, chúng tôi nhận thấy vấn đề: Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn
thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên) còn nhiều bỏ ngỏ
để chúng tôi tiến hành khảo sát, nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu để hoàn thành luận văn: Tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm
ván thiên) với những mục đích sau:
- Đọc - hiểu và cảm thụ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới một cách

sâu sắc, chỉ ra những nét đặc trưng nghệ thuật, những đóng góp của nhà văn trong tiến
trình văn học Việt Nam.
- Nhận rõ tài năng độc đáo của nhà văn từ việc chọn đề tài và những phương
thức phản ánh riêng khi ghi lại những vấn đề xã hội và khẳng định tên tuổi của nhà
văn trong nền văn học nói chung và trong sự phát triển của thể loại tiểu thuyết nói
riêng.
- Dựa trên những đặc điểm của thể loại tiểu thuyết, chúng tôi khai thác ba tiểu
thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng trên
phương diện góc nhìn thể loại. Chúng tôi đi sâu vào khám phá những sáng tạo của nhà
văn và phát hiện những tác động của ba tiểu thuyết đến đời sống văn học.

8


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, chúng tôi cũng xác định nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn là:
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về thể loại tiểu thuyết và đôi nét về cuộc
đời, hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng.
- Tìm hiểu nhân vật và người kể chuyện trong ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ,
Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng.
- Tìm hiểu ngôn ngữ và giọng điệu trong ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ,
Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng.
Từ đó, chúng tôi nhận định đánh giá về những thành công của tiểu thuyết Ma
Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết trong ba
tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng
qua các yếu tố như: nhân vật và người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu.

4.2. Phạm vi tư liệu
Đề tài khảo sát chủ yếu ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và
tấm ván thiên, ngoài ra còn khảo sát các tiểu thuyết khác của nhà văn để đối chiếu và
so sánh như: Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989),
Ngược dòng nước lũ (1999).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc
nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên), chúng tôi
vận dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được áp dụng trong quá trình khảo sát văn liệu để từ đó
đưa ra những kết luận khoa học về các phương diện của ba tác phẩm mà chúng tôi
quan tâm.

9


5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Đối chiếu, so sánh ba tiểu thuyết với những tác phẩm khác để chỉ ra những sáng
tạo mới và để có cái nhìn sâu hơn về đối tượng nghiên cứu.
5.3. Phương pháp nghiên cứu theo đặc trưng thể loại
Phương pháp này giúp chúng tôi tìm ra những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết
thể hiện qua các tác phẩm mà đề tài nghiên cứu.
5.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp.
Vận dụng phương pháp này để chúng tôi đưa ra những khái quát trên cơ sở phân
tích ngữ liệu cụ thể.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về thể loại tiểu thuyết
- Tìm hiểu nhân vật và người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng qua ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và

tấm ván thiên từ đó cho thấy được sự vận động và đổi mới tư duy nghệ thuật của nhà
văn.
- Góp phần khẳng định tài năng, bút pháp và năng lực sáng tạo của Ma Văn
Kháng trong nền văn học Việt Nam đương đại.
- Ở một mức độ nào đó, luận văn sẽ làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy văn học ở trường PTTH và Đại học cũng như những người yêu thích văn
học Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Nhân vật và người kể chuyện trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
(Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên)
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
(Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên)
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát về thể loại tiểu thuyết

10


1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại lớn và chiếm vị trí quan trọng trong loại hình tự sự, đặc biệt
phát triển mạnh mẽ trong thời kì cận và hiện đại. Đây là thể loại không bị giới hạn về dung
lượng phản ánh hiện thực cả về không gian cũng như thời gian. Những nguyên lý của tiểu
thuyết chi phối hầu hết các tác phẩm tự sự khác. Tiểu thuyết được coi là “cỗ máy cái” của
nền văn học, là thể loại luôn luôn thay đổi, biến hóa, “không hoàn kết”, bởi vì nó “tiếp
xúc tối đa với cái đương đại chưa hoàn thành” (M. Bakhtin).
Để đưa ra những định nghĩa có tính chất quy phạm cho thể loại tiểu thuyết là

điều không hề đơn giản.
Belinsky cho rằng: "Tiểu thuyết là sử thi của đời tư". Ông chỉ ra khái quát
nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận của một
cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được
khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu
của nhân cách.
Trong bài viết Bàn về tiểu thuyết, nhà văn Phạm Quỳnh cho rằng: “Tiểu thuyết
là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là
những sự lạ tích kì, đủ làm cho người đọc có hứng thú. Như vậy thời phạm vi của tiểu
thuyết rộng lắm: phàm sách gì không phải là sách dạy học, sách lý luận, sách khảo
cứu, sách thi ca thời là tiểu thuyết cả, mà tiểu thuyết có khi lại gồm được cả các lối
kia, vì trong một bộ tiểu thuyết, cũng có chỗ nghị luận, chỗ khảo cứu, chỗ ngâm vịnh
chỗ khuyên răn” [16, tr.204].
Theo giáo sư Phan Cự Đệ, tiểu thuyết “tự bản chất nó vốn không có tính quy
phạm. Đó chính là hiện thân của sự uyển chuyển. Đó là một thể loại luôn luôn đi tìm,
luôn luôn nghiên cứu bản thân và luôn luôn soát lại tất cả những hình thức đã hình
thành của mình. Một thể loại như thế chỉ có thể là một thể loại được xây dựng trong
khu vực tiếp xúc trực tiếp với hiện thực đang tiến triển” [14, tr.500]
Xác định nội hàm khái niệm tiểu thuyết sẽ giúp ta nhận được những đặc điểm
thi pháp cơ bản của thể loại đồng thời hiểu được quy luật vận động và phát triển của
thể loại văn học đặc biệt này. Mỗi tác giả đưa ra quan niệm riêng về thể loại tiểu thuyết

11


và đều thể hiện được những nét riêng của tiểu thuyết so với các thể loại khác. Chúng
tôi đồng tình và dựa vào định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Tiểu thuyết là một “tác phẩm tự sự
cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn của không gian và thời
gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong

tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách
đa dạng” [25, tr.277] để nghiên cứu đề tài này.
1.1.2. Đặc trưng thể loại tiểu thuyết
Trong phạm vi cho phép của luận văn, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu những
đặc trưng về nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu của ba tiểu thuyết
Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên.
1.1.2.1. Nhân vật
Trong tác phẩm văn học, nhân vật là một yếu tố chiếm vị trí rất quan trọng. Điều
này đã được nhà văn Tô Hoài khẳng định: “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết
thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác” [34, tr.127]. Nhân vật không chỉ là nơi
bộc lộ tư tưởng, chủ đề mà còn thể hiện giá trị của tác phẩm. Sự thành bại của nhà văn,
của tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố này. Nghiên cứu nhân vật, chính là nghiên
cứu cách nhà văn nhìn nhận, cắt nghĩa về con người như thế nào và bằng cách nào
trong văn chương của mình. Nhân vật là người dẫn dắt người đọc đi vào một thế giới
riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định. Vì vậy, trong mỗi sáng tác văn
học không thể thiếu nhân vật. Về khái niệm nhân vật văn học, các nhà nghiên cứu phê
bình đã đưa ra những quan điểm khác nhau.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân đã xem xét nhân vật
trong mối tương quan với cá tính sáng tạo, phong cách nhà văn và trường phái văn học:
“Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của
một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học
là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn
vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có
khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những
đặc điểm giống con người” [3, tr.235].

12


Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Nhân vật văn

học là con người cụ thể được miêu tả trong các tác phẩm văn học. Nhân vật văn học
có thể có tên riêng (Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể không có tên riêng như
“thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều” [25, tr.162].
Theo cuốn Giáo trình Lý luận văn học, nhân vật văn học được quan niệm rộng
hơn: “Đó không chỉ là con người có tên hoặc không có tên, mà có thể là những sự vật,
loài vật khác nhau, ít nhiều mang bóng dáng tính cách của con người, được dùng như
những phương thức khác nhau để biểu hiện con người. Đó là nhân vật dế mèn, võ sĩ
bọ ngựa, con mèo lười trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài; là vầng trăng, bông hoa
hồng trong thơ Bác v.v… Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể
mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc có liên quan đến con người, được thể hiện
nổi bật trong tác phẩm” [12, tr.126].
Mỗi một quan niệm trên lại thể hiện một cách nhìn nhận riêng về nhân vật văn
học. Nhưng nhìn chung, có thể khẳng định nhân vật văn học là sản phẩm tinh thần của
nhà văn, là nơi để nhà văn thể hiện những quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ
về con người. Nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động và có tính cách. Để xây
dựng nhân vật thành công, nhà văn cần phải huy động toàn bộ tư cách nghệ sĩ và năng
lực tinh thần cá nhân của mình.
Nhân vật văn học thường được xây dựng từ những nguyên mẫu ngoài đời, có
khi là từ những điển hình xã hội, nhưng nó được xây dựng qua trí tưởng tượng, sự sáng
tạo và tài năng của người nghệ sĩ để phục vụ cho dụng ý nghệ thuật và mang phong
cách riêng của từng nhà văn. Vì vậy, khi tìm hiểu nhân vật văn học, cần lưu ý: Nhân
vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con
người có thật trong đời sống.
Nhân vật văn học tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nhiều cách phân
loại nhân vật văn học. Dựa vào phương pháp sáng tác ta thấy nhân vật của chủ nghĩa
cổ điển khác nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực. Dựa vào chức
năng nghệ thuật, nhân vật văn học chia ra thành nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật
trung tâm, nhân vật chính diện, phản diện. Dựa vào thể loại văn học ta có nhân vật tự
sự, trữ tình, kịch... Dựa vào cấu trúc hình tượng chia ra thành nhân vật chức năng, nhân


13


vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Dựa vào thành phần và địa vị xã
hội có thể chia thành nhân vật tri thức, bộ đội, công an, giáo viên, phụ nữ, trẻ em, tội
phạm...
Như vậy, nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật do nhà văn sáng tạo
nên. Nhân vật văn học rất phong phú, nó có thể là loài vật, đồ vật… nhưng chủ yếu là
con người. Sự thể hiện nhân vật cũng ở những hình thức rất đa dạng. Dù nhân vật là
thế giới loài người hay loài vật nó đều có vai trò rất quan trọng trong sáng tác của nhà
văn, nó làm nên linh hồn của tác phẩm. Nhân vật văn học thể hiện cách hiểu của nhà
văn về con người theo một quan điểm nhất định, là nơi để nhà văn gửi gắm, kí thác
những tâm tư, ước vọng, cùng những vấn đề triết lí nhân sinh. Qua hệ thống nhân vật,
người đọc thấy được tư tưởng nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Nhân
vật văn học không chỉ là hình thức đơn thuần mà là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo
gắn liền với ý đồ, tư tưởng của nhà văn về con người, về thế giới. Nghiên cứu tác phẩm
văn chương cần phải tiếp nhận nhân vật để chỉ ra cái mới trong ngòi bút nhà văn và
thấy được những đóng góp riêng của nhà văn đó.
Nhân vật là yếu tố nghệ thuật quan trọng bậc nhất của thể loại tự sự trong đó có
tiểu thuyết. Có thể khẳng định rằng không có nhân vật thì sẽ không có tiểu thuyết. Một
tiểu thuyết hay là phải có nhân vật hay và độc đáo. Những cách tân đổi mới về nghệ
thuật tiểu thuyết hầu như đều gắn với vấn đề thể hiện nhân vật. Nhân vật chính là quan
niệm nghệ thuật về con người của nhà văn thể hiện trong tác phẩm, là nơi tập trung thể
hiện tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.
Nhân vật tiểu thuyết thuộc loại hình nhân vật tự sự. Đó là những nhân vật được
miêu tả tỉ mỉ, rõ nét, sinh động, đa chiều và đa dạng. Nhân vật tiểu thuyết là kết quả
của quá trình sáng tạo mang tính cá nhân của nhà văn. Nhân vật tiểu thuyết có thể bắt
nguồn từ một nguyên mẫu ngoài đời và cũng có thể được hư cấu hoàn toàn, nhưng nó
đều là những “nhân vật sống”. Nó không chỉ có các yếu tố ngoại hình, ngôn ngữ, hành
động… mà còn có đời sống nội tâm phong phú và bản thân nhân vật luôn có sự vận

động phát triển. Nhân vật tiểu thuyết là “con người nếm trải”, cảm nhận, tư duy, chịu
khổ đau và dằn vặt của cuộc đời. Trong một chỉnh thể thế giới nghệ thuật tác phẩm,
tiểu thuyết có khả năng kể về nhiều số phận, nhiều con người, đặt ra nhiều vấn đề nhân

14


sinh. Thế giới nhân vật là hệ thống các nhân vật được tổ chức tạo thành một chỉnh thể
nghệ thuật, trong đó mỗi nhân vật là một yếu tố của chỉnh thể. Thế giới nhân vật tiểu
thuyết có thể rất đồ sộ. Các nhân vật tiểu thuyết tạo nên một xã hội vô cùng phong phú,
phức tạp với nhiều quan hệ, hành động, ý nghĩ, tư tưởng, giọng điệu… Nó phong phú
như chính cuộc sống vậy.
Những đặc điểm của nhân vật tiểu thuyết ở trên đây sẽ giúp chúng tôi tìm hiểu
rõ hơn về những sáng tác tiểu thuyết đương đại cũng như các nhân vật trong sáng tác
của nhà văn Ma Văn Kháng.
1.1.2.2. Người kể chuyện
Trong tác phẩm tự sự, NKC có một vai trò quan trọng. Người kể chuyện là một
công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Người kể chuyện là một nhân vật nhưng
là một dạng nhân vật đặc biệt có chức năng tổ chức các nhân vật khác, tổ chức kết cấu
tác phẩm. Giữa NKC và tác giả có mối liên hệ mật thiết với nhau. Qua nhân vật NKC
có thể thấy được tư tưởng, quan niệm của tác giả nhưng không được đồng nhất NKC
với bản thân tác giả.
Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm NKC là “hình
tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu
chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm [25, tr.191]. Người kể chuyện
có nhiệm vụ tổ chức kết cấu tác phẩm và môi giới, dẫn dắt người đọc tiếp cận thế giới
nghệ thuật, thay mặt nhà văn bày tỏ quan điểm về con người, cuộc đời.
Theo Pospelov, NKC có thể hiểu là “người môi giới giữa các hiện tượng được
miêu tả và người nghe (người đọc), là người cắt và cắt nghĩa các sự việc xảy ra” [69,
tr.196]). Theo W. Keyser thì NKC: “Đó là một hình hài được sáng tạo ra, thuộc về

toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học,… là vai mà tác giả bịa ra và chấp nhận” [69,
tr.196]. Còn Tz. Todorov lại quan niệm: “Người kể chuyện là một nhân tố chủ động
trong việc kiến tạo thế giới hư cấu. Chính NKC là hiện thân của những khuynh hướng
mang tính xét đoán và đánh giá” [69, tr.196].
Trong nghệ thuật trần thuật, NKC có thể kể ở ngôi thứ ba (NT3), ngôi thứ nhất
(NT1), ngôi thứ hai (NT2).
- Người kể chuyện ở NT3: NKC không xuất hiện trực tiếp, không tham gia vào

15


diễn biến của các sự kiện. Người kể chuyện không thuộc vào thế giới của truyện kể mà
luôn đứng ở vị trí khách quan, tưởng như không liên quan tới câu chuyện nhưng lại
đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm, không chỉ là người dẫn chuyện, tổ chức cốt
truyện mà còn giữ vai trò phân tích, bình giá làm rõ các mối quan hệ trong tác phẩm.
- Người kể chuyện ở NT1 (người kể tường minh, người kể lộ diện): NKC hiện
diện như một nhân vật trong truyện, thường xuất hiện trực tiếp dưới hình thức “tôi”.
Người kể chuyện có thể thuộc vào thế giới nhân vật được miêu tả, trực tiếp tham gia
vào diễn biến truyện nhưng nhiều khi cũng chỉ đóng vai trò là người chứng kiến, dẫn
dắt câu chuyện.
- Người kể chuyện ở NT2: Đây là dạng NKC đặc biệt, không phổ biến và rất ít
được sử dụng. Ở dạng này, NKC rời bỏ vị trí trần thuật (ở NT1 hoặc NT3) để tham gia
đối thoại, tranh luận với độc giả, không còn khoảng cách trần thuật. Độc giả bị kéo
cùng các nhân vật trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện. Người kể chuyện thuộc
thế giới của nhân vật được miêu tả.
Một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu để nhận diện NKC là điểm nhìn
kể chuyện. Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ thể trần thuật hay
giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng.
Điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng đầu của sáng tạo nghệ thuật. Thuật
ngữ “điểm nhìn” đã trở nên quen thuộc trong nghiên cứu văn học. Điểm nhìn là một

khái niệm đã được đề cập khá sớm, đặc biệt ở Anh và Mĩ. Theo M.H. Abrahams (Từ
điển thuật ngữ văn học, A Glossary of Literature terms), điểm nhìn chỉ ra “những cách
thức mà một câu chuyện được kể đến, một hay nhiều phương thức được thiết lập bởi
tác giả bằng ý nghĩa mà độc giả được giới thiệu với những cá tính, đối thoại, những
hành động, sự sắp đặt và những sự kiện mà trần thuật cấu thành trong một tác phẩm
hư cấu” [91, tr. 274]. Còn Trần Đình Sử trong cuốn giáo trình Dẫn luận thi pháp học
(NXB Giáo dục, 2004) cho rằng: “Điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức,
đánh giá, quan sát, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là các vị trí dùng để quan
sát, cảm nhận đánh giá bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương
diện vật lí, tâm lí, văn hoá” [68, tr.149]. Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học cũng
quan niệm về giá trị của điểm nhìn trong sáng tạo nghệ thuật: “Không thể có nghệ thuật

16


nếu không có điểm nhìn, bởi nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể
trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không
nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự thay
đổi nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay điểm nhìn” [25, tr.113].
Tóm lại, có thể hiểu điểm nhìn là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù
hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của người trần thuật. Nó là vị trí dùng để quan
sát, cảm nhận, đánh giá. Lí thuyết tự sự học tạm chia ba kiểu nhìn (gắn với ba kiểu
điểm nhìn) phổ biến ở NKC:
- Thứ nhất, nhìn “từ đằng sau” gắn với điểm nhìn toàn tri, khi NKC có vai trò
toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả.
- Thứ hai, nhìn “từ bên trong” gắn với điểm nhìn bên trong (ĐNBT), khi NKC
là nhân vật. Người kể chuyện hạn chế điểm nhìn tự sự của mình vào điểm nhìn của
nhân vật. NKC theo ĐNBT thường có hai dạng cơ bản:
+ Dạng thứ nhất, NKC xưng tôi, tự thú nhận, bộc bạch về mình, kể về những
tâm trạng, cảm giác mà mình đã nếm trải.

+ Dạng thứ hai, NKC đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài nhưng lại tựa vào điểm
nhìn nhân vật để kể. Do vậy mà khoảng cách giữa NKC và nhân vật bị thu hẹp.
- Thứ ba, nhìn “từ bên ngoài” gắn với điểm nhìn bên ngoài (ĐNBN): NKC theo
ĐNBN hoàn toàn xa lạ với thế giới mà anh ta kể, anh ta chỉ có thể kể về những hành
động, lời nói thể hiện ra bên ngoài nhân vật chứ không có khả năng am hiểu nội tâm
của họ.
Sự phân biệt ở trên hoàn toàn mang tính tương đối vì hầu như không có tác phẩm
nào chỉ sử dụng một điểm nhìn mà các điểm nhìn thường xuyên được dịch chuyển, sử
dụng linh hoạt, phối hợp với nhau phục vụ cho ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ. Qua
việc tìm hiểu lý thuyết về NKC và điểm nhìn ở trên, chúng tôi tiếp thu và phân chia
NKC trong ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên thành
NKC với ĐNBT và NKC với ĐNBN.
1.1.2.3. Ngôn ngữ và giọng điệu.
*Ngôn ngữ nghệ thuật
Nhà văn M.Gorki đã khẳng định rằng "ngôn ngữ nghệ thuật là yếu tố thứ nhất

17


của văn học". Nó là công cụ giúp nhà văn xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống con
người trong tác phẩm. Ngoài ra, ngôn ngữ nghệ thuật còn là công cụ tư duy, là phương
tiện truyền đạt tư tưởng, tình cảm… của nhà văn qua mỗi hình tượng nghệ thuật trong
tác phẩm của mình. Thông qua ngôn ngữ văn học, các nhà văn thể hiện tài năng của
mình.
Nhận thấy vai trò vô cùng quan trọng của ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, nhà
văn Nga V.Kôrôlenkô chia sẻ: "Tôi muốn rằng mỗi một từ, mỗi một câu phải đúng với
giọng điệu, phải đúng chỗ và trong mỗi câu, thậm chí nếu có thể được, trong câu tách
riêng ra, có thể lắng nghe thấy được tâm trạng trung tâm, nếu có thể nói như vậy được"
[42, tr.192].
Tác giả Phương Lựu đã cho rằng, ngôn từ văn học "là ngôn từ của một tác phẩm

văn học, của thế giới nghệ thuật, kết quả sáng tạo của nhà văn. Đó là ngôn từ giầu tính
hình tượng và giầu sức biểu hiện nhất, được tổ chức một cách đặc biệt để phản ánh
đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm và tác động thẩm mỹ tới người đọc" [25, tr.185].
Cùng với Phương Lựu, Huỳnh Như Phương có quan niệm: "ngôn từ trong tác phẩm
văn học là kiểu lời nói nghệ thuật do nhà văn sáng tạo trên cơ sở sản phẩm ngôn ngữ
của một xã hội mà ông ta đã tiếp thu được" [25, tr. 170].
Như vậy, ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật do
nghệ sĩ sáng tạo theo quy luật chung của nghệ thuật. Văn bản nghệ thuật phải truyền
đạt một ý nghĩa mà "không một phát ngôn nào có thể thay thế được" (G.V.Xtapanôp).
Ngôn ngữ nghệ thuật có nhiệm vụ thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Chức
năng quan trọng nhất của ngôn ngữ nghệ thuật là chức năng thẩm mĩ. Chức năng này
được xác định trong hệ thống các hình tượng tác phẩm và phong cách tác giả, bởi ngôn
ngữ nghệ thuật thể hiện tài năng của nhà văn.
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn
học. Ngôn ngữ tạo ra những hình tượng văn học có khả năng tác động trực tiếp đến tư
duy của con người, trực tiếp khơi dậy ở con người những suy nghĩ về cuộc sống. Không
chỉ đơn thuần là phương tiện truyền đạt những tư tuởng của nhà văn ngôn ngữ mà còn
là chất liệu xây dựng nên tác phẩm.
Qua ngôn ngữ, người đọc khám phá thế giới hình tượng, tư tưởng, quan niệm…
mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Bên cạnh đó, ngôn ngữ nghệ thuật lại chứa đựng

18


×