Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

chuyên đề văn miêu tả lớp 6,7 hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.38 KB, 9 trang )

1. Cách dùng từ:
Qua thực tế cho biết, học sinh khá giỏi biết nêu những ý cần thiết, cơ bản của một bài văn, một số cảm nhận
tinh tế trong quá trình làm bài. Nhưng đa số các em viết theo kiểu liệt kê, câu văn thiếu hình ảnh, lặp từ, đặc biệt là
thiếu cảm xúc của người viết, không chân thật và thường dùng từ “ hoa mỹ”, sáo mòn.
VD 1.Làm bài văn tả cô giáo các em viết : Khuôn mặt của cô hình trái xoan. Cái mũi dọc dừa. Đôi mắt bồ câu của
cô nhìn chúng em trìu mến. Lông mày lá liễu của cô rất đẹp.vv
VD2. Khuôn mặt bé bầu bĩnh. Đôi mắt bé đen láy. Bé hay cười. Bé có mấy cái răng mới nhô lên trông thật đáng
yêu.
Muốn dùng từ đúng, sát cần có sự chọn lọc từ ngữ nào hay nhất để làm cho câu văn có hồn. Muốn dùng được từ
hay, các em phải luôn có sự liên tưởng sự vật với nhau, so sánh hiện tượng này với hiện tượng khác, sự vật này
với sự vật khác để lựa chọn được từ ngữ có hình ảnh và gợi cảm. Trước khi biết dùng từ hay các em phải đảm bảo
dùng từ chính xác. Và Muốn dùng từ chính xác và hay, học sinh phải có vốn từ phong phú. Để cung cấp vốn từ cho
học sinh, ngoài việc dạy tốt phân môn Luyện từ và câu, Tập đọc, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách quan sát
thực tế và tập làm các bài tập nhỏ như:
- Tìm từ chỉ màu sắc khác nhau của lá bàng qua từng mùa (nâu, xanh lá mạ, xanh đậm, đỏ), màu sắc của lúa qua
từng thời kì (xanh lá mạ, xanh rờn, xanh rì, vàng nhạt, vàng tươi, vàng rộm), màu vàng của nắng theo thời gian
(Mùa xuân- nắng nhạt, mùa hè- nắng vàng rực, mùa thu- nắng vàng ong, mùa đông- vàng tươi)
- Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống: Để giúp các em biết sử dụng từ chính xác trong vốn từ cùng nghĩa không
hoàn toàn, tôi ra các bài tập yêu cầu các
em điền từ cùng nghĩa vào các câu văn và các từ không được lặp lại.
Ví dụ: Tìm từ chỉ màu đỏ khác nhau điền vào chỗ trống:
Mặt trời ....(đỏ rực)...... trên cao
Em ăn chùm mận ........(đỏ au)....... ngọt giòn
Trạng nguyên ......(đỏ thẩm)...... ngoài vườn
Hoa hồng ......(đỏ chói)...... bướm chờn vờn bay
Mặt người say rượi ................ (đỏ gay)
Quả ớt ............(đỏ chót)........ trên cây gọi mời
Em thơ ............(đỏ mọng).......... môi cười
Trường em mái ngói .....(đỏ tươi).......... bốn mùa
Chín rồi ...........(đỏ gạch) ............. mai cua



(Đỏ vàng).............. xôi gấc mẹ mua hàng ngày
Lá cờ .........(đỏ thắm)......... tung bay
Lung linh tia năng ban mai ........(đỏ hồng) .
Phù sa .........(đỏ quạch)............ ngoài sông
Đất đai trù phú ấm lòng người dân.
(Sưu tầm)
2/ Viết câu văn .
Muốn viết câu văn hay thì ngoài việc dùng từ chính xác, câu văn còn phải có hình ảnh, phải biết sử dụng cách viết
so sánh, nhân hóa....Câu văn giàu hình ảnh sẽ đưa đến cho người đọc những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường
nét, ánh sáng, hình khối... buộc người đọc phải huy động nhiều giác quan từ đó có đồng cảm với người viết.
a- Viết câu văn linh hoạt:
Cần viết câu văn linh hoạt, không nên chỉ viết theo công thức đơn điệu (Chủ ngữ- vị ngữ hoặc trạng ngữ- chủ ngữvị ngữ), nên thay đổi cấu tạo của câu.
VD. Đối với câu: "Trong sân trường, hoa cúc vàng rực".
Có thể viết:
- Hoa cúc khoe màu vàng rực trong sân trường.
- Trong sân trường, vàng rực màu hoa cúc.
- Hoa cúc trong sân trường nở vàng rực.
- Hoa cúc nở vàng rực cả sân trường
b- Diễn đạt câu bằng nhiều cách khác nhau.
Cho một câu văn đơn giản, yêu cầu các em diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau.
VD : Với câu “ Bầu trời hôm nay rất đẹp.”,em hãy viết thành các câu khác nhau . Học sinh viết được các câu như
sau :
- Hôm nay, trời quang, mây tạnh.
- Bầu trời hôm nay trong vắt, không một gợn mây.
- Hôm nay, trên bầu trời ,từng đám mây trắng bồng bềnh trôi.


- Hôm nay, trên nền trời xanh, từng đám mây trắng nhởn nhơ bay.
- Sau mấy ngày mưa rả rích, hôm nay, mặt trời tươi cười nhô lên như cùng vui với mọi cảnh vật.

- Bầu tời cao xanh, mấy đám mây xốp như bông vờn quanh đỉnh núi màu tím sẫm
c -Viết câu văn trôi chảy:
Để tránh lặp từ và liệt kê, Giáo viên cần yêu cầu học sinh chuyển câu đơn ngắn thành câu đơn dài hoặc câu ghép,
biết cách sử dụng cách liên kết câu, dùng từ ngữ thay thế .
Trong chương trình Tập làm văn văn lớp 5, mỗi tiết học, học sinh được học một phần của bài làm văn. Như
phần tả người, học sinh được học 1 tiết tả ngoại hình, tiết sau học về tả tính tình. Khi làm bài, các em thường viết
riêng 2 phần. Cách làm như vậy mới đạt mức độ đúng nhưng chưa hay, có em viết dài. Để có bài văn diễn đạt
ngắn gọn (viết khoảng 20-25 dòng), đủ ý, đảm bảo thời gian 40 phút, tôi hướng dẫn các em viết câu văn kết hợp tả
hình dáng và tính tình, hoạt động.
Ví dụ . Tả thầy giáo ( cô giáo) trong một tiết dạy, có em viết : “Thân hình cô nhỏ nhắn, gầy gầy. Đến lớp cô
thường mặc chiếc áo dài xanh. Cô đi lại rất nhẹ nhàng. (tả hình dáng)
........Khi giảng bài, cô đi đi lại lại để giúp các bạn làm bài.(tả hoạt động)
Kết hợp các ý trên, có thể viết như sau: Với thân hình nhỏ nhắn, gầy gầy trong chiếc áo dài màu xanh, cô đi lại
nhẹ nhàng lúc đứng cạnh bạn này, lúc lại cạnh bạn kia.

d - Viết câu gợi tả, gợi cảm.
Để giúp HS có kĩ năng viết câu gợi tả, gợi cảm, tôi thực hiện như sau:
- Đặt các câu văn cùng nội dung nhưng cách viết khác nhau để HS so sánh, nhận xét và rút ra cách viết câu gợi tả,
gợi cảm.
Ví dụ: So sánh các cặp câu ở hai cột sau đây và nhận xét: câu nào hay hơn? Vì sao?

a 1/ Cỏ mọc rất nhiều, màu xanh trải ra rất a.2/Cỏ mọc tua tủa, một màu xanh non,
rộng trên khắp cả sườn đồi.
ngọt ngào, thơm mát trải ra mênh mông
trên khắp cả sườn đồi.
b.1/ Cành gạo có rất nhiều hoa đỏ và rất
b.2/ Cành gạo nặng trĩu hoa đỏ mọng và
nhiều chim đến hót.
đầy tiếng chim lúc thì thánh tha thánh thót,
lúc thì ríu ra ríu rít.

Để có câu văn gợi tả, gợi cảm, chúng ta cần sử dụng các từ láy, từ ghép để gợi tả màu sắc, âm thanh, hình dáng
của sự vật, dùng phép so sánh, nhân hóa, đồng thời bộc lộ cảm xúc của người viết.


- Cho một số câu chỉ có hai từ làm nòng cốt, yêu cầu các em viết thành câu gợi tả,gợi cảm và sắp xếp để thành
đoạn văn hợp lí.
Ví dụ: Cho các câu sau : Sương tan. Gà gáy. Mặt trời mọc. Chim kêu. Gió thổi. Cảnh vật hiện ra.
- Hướng dẫn học sinh nhận biết câu văn gợi cảm, từ đó các em biết viết câu văn thể hiện cảm xúc trực tiếp
trước sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Hãy cho biết các câu văn sau gợi tả cảm xúc gì trước sự vật, hiện tượng.
a) Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! (ngạc nhiên, yêu thích)
b) Được đi giữa cánh đồng ríu ran tiếng chim như chào đón, chuyện trò, trái tim tôi rộn lên vì thích thú.(thích thú)
c) Đưa bé nằm ngủ, mắt khép lại như một vầng trăng đầu tháng trông thương quá!(yêu thương)
d) Bàn tay mẹ rám nắng, những ngón tay gầy gầy, xườn xương mà em yêu biết bao nhiêu.(yêu thương, quý
trọng)
e) Vừa mới hôm qua tôi đi học về còn gặp bà, thế mà hôm nay bà của tôi maĩ mãi đi xa!(buồn bã, đau xót).
3 / Viết đoạn.
Hướng dẫn học sinh biết cách viết một đoạn văn.
Đoạn văn nằm giữa hai chỗ chấm xuống dòng. Một đoạn văn nói về một đề tài nhỏ. Một đoạn văn đầy đủ gồm có 3
phần:
-

Câu mở đoạn: Nêu nội dung cần nói đến.

-

Các câu thân đoạn: Làm rõ nội dung câu mở đoạn.

-


Câu kết đoạn: Tóm lại ý của đoạn hoặc nêu nhận xét về nội dung đang nói đến.

Các câu trong đoạn phải liên kết chặt chẽ với nhau, thể hiện một nội dung đã được nêu ở câu mở đoạn và sắp xếp
theo thứ tự hợp lý.
- Hướng dẫn các em viết đoạn văn theo đề tài nhỏ bằng cách từ nội dung đoạn thơ viết thành đoạn văn
xuôi; viết đoạn văn với từ ngữ đã cho; viết đoạn văn theo đề tài như tả một bộ phận của con vật hoặc cây cối mà
em thích nhất.
4. Viết bài văn
a- Mở bài
Thực tế giảng dạy cho thấy học sinh lúng túng, viết cứng nhắc, thiếu sáng tạo khi mở bài. Các em thường
dựa vào những gì có sẵn ở đề bài.


Ví dụ: Tả con vật, các em thường viết: “Nhà em nuôi rất nhiều con vật, nhưng em thích nhất là con mèo”;
hay tả người bạn, các em viết: “Em có nhiều bạn thân, nhưng em thích nhất là bạn…”.
Sở dĩ như vậy là vì học sinh chưa xác định rõ ngữ cảnh và mục đích của văn bản, các em chưa đặt vào tình huống
giao tiếp, chưa tạo nhu cầu bên trong của việc viết đoạn văn. Hơn nữa, trong bài học của các em, sách giáo khoa
hướng dẫn phần mở bài: Giới thiệu đồ vật (con vật, người…) định tả.
Mục đích của đoạn văn mở bài nhằm giới thiệu vấn đề mình sẽ viết, sẽ thể hiện ở trong bài, vì thế khi viết mở bài là
trả lời cho câu hỏi: viết về cái gì? Đại đa số học sinh mất thời gian ở khâu mở bài mà kết quả vẫn không có được
cách mở bài hay. Các em thường viết theo kiểu mở bài trực tiếp.
Để khắc phục tình trạng trên, tôi hướng dẫn học sinh mở bài gián tiếp bằng nhiều cách khác nhau:
- Cách thứ nhất: Trích một đoạn thơ, câu hát, câu ca dao, tục ngữ.
VD. Tả một loài hoa mà em thích, ta có thể mở bài :
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng,lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Đúng vậy, hoa sen quả là đẹp. Nó mang vẻ đẹp vừa kiêu sa vừa gần gũi với con người nên được nhân dân ta tôn
vinh là "quốc hoa".

Hay tả cây bàng, ta có thể viết: “Mùa đông áo đỏ, mùa hạ áo xanh. Cây bàng khi mở hội là chim đến vây
quanh”. Mỗi lần cất lên câu hát ấy em lại nghĩ đến cây bàng trước sân trường em.
- Cách thứ hai: Giới thiệu âm thanh liên quan đến đối tượng định tả.
“A! Chị Lan, chị Lan về rồi!”. Đó là tiếng reo của bé Hà, con gái cô Hoa ở cạnh nhà em, mỗi khi thấy tôi đi học về.
(Tả em bé). Hoặc “Meo...! Meo...! Meo...!” Đó là tiếng kêu nũng nịu của con mèo Mi Mi nhà em, mỗi khi thấy em đi
học về. (Tả con mèo).
Đây là cách mở bài bất ngờ, thú vị vì nó bắt đầu sự việc một cách sinh động. Âm thanh có thể là tiếng nói, tiếng
hát, tiếng gọi của con người; tiếng kêu của động vật... Cái khó ở đây là học sinh phải biết bắt đầu bằng âm thanh
nào để vào đối tượng mình sẽ tả cho phù hợp.
- Cách thứ ba: Mở bài bằng cách nêu tình huống:
Ví dụ : Em đi học về, định bước vào nhà, chợt nghe tiếng người nói đằng sau. Em quay lại thì ra cô Liên đang dắt
xe qua, có bé Bình chễm chệ trên ghế đèo. Em bế bé lên và nựng:" Bình chào chị chưa". Bé liền giơ tay lên đầu,
mồm bập bẹ "cha...ào".(Tả em bé đang tuổi tập nói, tập đi)


b- Phần thân bài:
Trong phần thân bài, đa số các em biết nội dung cần tả, nhưng các em tả theo kiểu liệt kê, không có cảnh trọng
tâm. Vì vậy bài văn nhiều em gần giống nhau, không phân biệt được đối tượng miêu tả cụ thể của từng bài.
Sau khi đã xây dựng được từng đoạn văn hay, các em sẽ viết được bài văn hay. Để bài văn có tính độc đáo, có ý
trọng tâm, tôi hướng dẫn các em vận dụng phương pháp đặc tả để viết bài. Các em biết chọn một bộ phận tiêu
biểu nhất, mang tính bản chất riêng biệt của đối tượng đó để tả kĩ và viết thành một đoạn văn riêng.
Ví dụ: Khi tả con mèo, có một đoạn đặc tả (tả bộ lông con mèo) như sau:
Đó là một chú mèo mướp, giống đó ở nông thôn người ta nuôi nhiều. Cái bộ lông mèo mướp thật là kì dị: nó vừa
trắng màu lụa, vừa xám tro lại vừa đen xỉn. Khắp mình ba màu trộn lẫn với nhau, mà trộn rất nhỏ hòa hợp thành
một màu đặc biệt như chăn dạ của các chú lính tập. Chỉ ở dưới bụng mới có một mảng lông trắng mềm mềm. Mèo
mướp ấy trông rất bẩn vì đen ngòm ngòm, nhưng chính ra sạch lắm. Nó nâu như đất mà không phải có đất bám,
nó lại xám như có tro bếp phủ lên- bếp tro là chỗ ngủ tốt nhất của loài mèo- mà thực ra cái bờm lông xấu xí đó
chảng vẩn một chút tro bụi nào. Ngắm thì không đẹp mắt nhưng nếu sờ tay vào, nó mượt như sờ tay trên tấm thảm
nhung tơ.
Trong mỗi bài văn, có một đoạn văn tả kĩ về một bộ phận, đặc diểm tiêu biểu nhất của đối tượng sẽ làm cho bài văn

có tính độc đáo và mỗi học sinh sẽ có nét tả riêng tránh được cách viết theo kiểu công thức.
c-Kết bài
Kết bài, thông thường học sinh tóm tắt ý chính của bài rồi nêu cảm nghĩ của mình. Để có kiểu kết bài mở rộng, tôi
hướng dẫn học sinh cách kết bài bằng cách trích câu hát, câu thơ liên quan đến đối tượng miêu tả. (Nếu mở bài
đã sử dụng cách này thì kết bài không nên sử dụng nữa)
VD. - Tả cây bàng, có thể kết bài như sau:
Mỗi lần nhìn ngắm cây bằng trước sân trường em lại ngân nga câu hát: “Mùa đông áo đỏ, mùa hạ áo xanh.
Cây bàng khi mở hội là chim đến vây quanh.”.
- Tả con đường, có thể kết bài như sau:
Con đường từ nhà đến trường đã trở thành người bạn thân thiết với em. Con đường gắn liền với những kỉ niệm
của tuổi học trò. Mỗi lần nghĩ đến con đường em lại ngân nga câu hát: “Con đường học trò./ Con đường học trò/
Đưa em qua những mông mơ tuổi hồng.”
Việc hướng dẫn HS sử dụng các câu thơ, câu hát để mở bài hay kết bài giúp cho HS có thêm cách giới thiệu bài và
cách kết luận sáng tạo hơn. Các em vận dụng được những câu thơ, câu hát hợp lý và hay thể hiện sự đồng cảm
của các em với câu thơ, câu hát được trích dẫn, đồng thời thể hiện kiến thức được mở rộng của các em.
.1. Lỗi về lôgic trình bày
Lỗi phổ biến nhất về lôgic trình bày là cả phần thân bài của bài văn thường được học sinh viết thành
một đoạn văn với tất cả các ý sắp xếp một cách lộn xộn. Lỗi này do học sinh quan niệm không đúng


về cấu tạo bài văn miêu tả gồm ba phần mở bài, thân bài, kết luận, mỗi phần là một đoạn văn. Cũng
có thể bắt gặp trong lỗi này là bài viết có tách đoạn nhưng chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức còn nội
dung thì vẫn là các ý chồng chéo, lộn xộn. Dưới đây là một số lỗi thường gặp.
- Trình bày theo kiểu liệt kê thông tin. Những bài văn viết theo kiểu này thường là một sự liệt kê,
kể lể về đối tượng miêu tả mà không có sự phân loại thông tin cho rành mạch. Ngôn ngữ mà người
viết sử dụng chủ yếu là thứ ngôn ngữ kể lể, tường thuật không mang rõ đặc trưng ngôn ngữ miêu tả.
Ví dụ: “Trường tôi có những phòng học san sát nhau. Vào tới trường có phòng đầu là phòng phụ trách
phòng thứ hai là phòng phòng hiệu trưởng phòng thứ ba là phòng giao ban. Trong phòng có một
chiếc bàn dài và hàng chục chiếc ghế. Bên dưới có phòng thư viên bên trong có bàn ghế cong cong
như hình chữ u. Bên cạnh có một cái tủ đựng toàn là sách và truyện thiếu nhi để các bạn đọc và

mượn về nhà đọc cho đỡ buồn. Phòng học gồm có từ 8 đến 10 chiếc bàn. Trên bục có một bộ bàn ghế
của thầy cô và có một chiếc bảng bên trên có ảnh Bác Hồ. Sân trường có một cột cờ cao chót vót với
lá cờ màu đỏ ngôi sao màu vàng. Hai bên có bồn hoa và những chiêc ghế đá. Bốn góc có bốn cây
bàng”.
- Trình bày lộn xộn, lặp ý, không phát triển được ý của đoạn, bài. Đây là những bài văn viết
không phận loại, sắp xếp được hệ thống ý theo một trình tự lôgic hợp lí mà chỉ là một tập hợp các ý
lắp ghép lại với nhau một cách cơ học vụng về, làm cho bài văn trở nên lủng củng, rắc rối. Thường
những bài viết thuộc dạng này, toàn bộ phần thân bài chỉ là một đoạn hỗn hợp với rất nhiều ý. Mỗi
đoạn vẫn gồm rất nhiều ý và không xác định nổi nội dung. Ví dụ: “Trước cổng trường là một cây đa
to. Sau đó đến cổng trường có in chữ Trường tiểu học Hữu Nghị có những thanh sắt màu xanh đậm.
Nhìn vào trường em thấy có 2 cây bàng ở bên cạnh và có 3 dãy nhà cao tầng. Mỗi lớp có một cái tủ
để đựng sách vở và các đồ dùng khác và bảng để chúng em học bài. Trên bàn cô còn có lọ hoa và
sách vở của cô. Trên đỉnh đầu có một tờ giấy in chữ Năm điều Bác Hồ dạy trên đó có chữ Dạy tốt, Kỉ
luật, Trật tự. Mỗi cửa sổ có một bình hoa cảnh có điện và sau đó là đến quạt trần. Các bạn và các em
nhỏ đang chơi ở sân trường. Sân trường có những bồn hoa to đẹp”. Trình tự miêu tả được xác định từ
ngoài vào trong: trước cổng trường - cổng trường - vào trường nhưng người viết đã không phân tách
ra thành từng bộ phận của cảnh để miêu tả mà đi vào kể lể một cách tuỳ tiện. Nếu người viết theo
trình tự miêu tả như vậy để bao quát chung toàn bộ cảnh trường rồi đi vào miêu tả một số đặc điểm
cụ thể như sân trường, khu hiệu bộ, khu lớp học… thì bài viết sẽ đảm bảo sự mạch lạc và người đọc
sẽ dễ dàng hình dung được cảnh trí ngôi trường.
- Xa đề. Đây là những bài văn viết lan man dài dòng. Bài văn không có được một cái nhìn bao quát
về toàn bộ vấn đề minh đưa ra nên không có chủ đích rõ ràng, không làm chủ được bài viết, không
xác định được trọng tâm của bàn. Có những chi tiết phụ lại được miêu tả quá kĩ, quá chi tiết đến mức
không cần thiết. Ví dụ: “Trường có 3 dãy nhà A B C hình chữ u. Tường được sơn màu vàng cửa màu
xanh. Sau trường còn có một thửa đất trồng cây ăn quả như nhãn và dành cho các bạn trai chơi đá
bóng. Trước trường có những bồn cây của các lớp chăm sóc công trình măng non. Sân trường được đổ
bê tông sạch sẽ. Những bồn hoa của các lớp với những loại khác nhau cùng đua nhau khoe sắc đẹp
rực rỡ như những cánh bướm. Những hạt sương đêm còn đọng trên cánh hoa và nhuỵ hoa. Hai bên
được lắp vòi để chăm sóc công trình măng non. Nhìn thẳng trên còn có mấy cái ghế đá cho các em
ngồi chơi. Còn có chỗ để xe đạp và phòng bác bảo vệ có một cái trống to để báo hiệu. Sang bên cạnh

là nhà truyền thống để giao ban mỗi ngày, có bàn ghế và cây cảnh ở giữa trên mặt là một Bác Hồ
bằng tượng màu trắng chân dung. Bên cạnh là phòng thầy hiệu trưởng và hiệu phó. Bên cạnh là
phòng hành chính”. Đoạn dẫn trên là toàn bộ phần thân bài của bài văn tả ngôi trường đã nhiều năm
gắn bó. Nội dung của đoạn bao gồm rất nhiều ý vừa giới thiệu bao quát ngôi trường vừa tả sân trường
vừa tả các phòng ban… Người viết cứ tiện đâu nói đấy, thấy gì viết nấy.
- Lạc đề. Đây là những bài văn không đúng yêu cầu của đề thậm chí còn lạc hẳn sang một vấn đề
hoàn toàn khác. Ví dụ với đề bài “Em hãy tả lại quang cảnh ngôi trường đã nhiều năm gắn bó với
em”, thì có một số bài văn lạc sang miêu tả một cây bàng trên sân trường; có một số bài lại tả về một
buổi học của lớp; một số bài tả về quang cảnh của một lớp học, tả một buổi trực nhật…
Có thể nói, các dạng lỗi trên đều có chung nguyên nhân do kĩ năng phân tích đề yếu hoặc học sinh
quan niệm rằng có thể viết bất kì thứ gì miễn là có liên quan đến đối tượng được miêu tả.
2.2. Lỗi về lôgic phản ánh hiện thực khách quan
Loại lỗi này có nguyên nhân do không quan sát kĩ đối tượng hoặc thiếu những tri thức phổ thông cần
thiết, thiếu vốn thực tế về đối tượng miêu tả nhưng thường được giáo viên phê một cách chung chung
là lỗi dùng từ. Giáo viên không chỉ rõ cho học sinh thấy lỗi đó thế nào, nguyên nhân nào dẫn đến việc
học sinh mắc lỗi đó nên hầu như qua rất nhiều bài viết, học sinh vẫn không biết được cách sửa. Bản
thân giáo viên trong giờ trả bài tập làm văn cũng ít chữa những lỗi này vì cho rằng học sinh lớp 5
chữa lỗi này là quá khó. Cụ thể:


- Đưa những thông tin sai hoặc không chính xác về đối tượng miêu tả, không đúng với tri
thức tự nhiên, tri thức phổ thông. Khi viết bài học sinh phải có một vốn hiểu biết nhất định về đối
tượng mà mình miêu tả. Vốn hiểu biết ấy có được từ hoạt động quan sát, từ các bài đọc trong sách
giáo khoa, trong sách báo, nghe qua đài, ti vi hàng ngày… Vốn hiểu biết này càng nhiều thì bài viết
sẽ càng đảm bảo độ phong phú và chính xác về thông tin so với thực tế khách quan. điều này có sức
thuyết phục cao đối với người đọc, khiến họ tin vào các thông tin về đối tượng miêu tả được đưa ra
trong bài văn. Những vốn hiểu biết này được gọi là tri thức tự nhiên hay tri thức phổ thông. Trong bài
làm của học sinh, những loại lỗi này khá phổ biến ở mọi loại đối tượng từ học sinh dân tộc thiểu số
đến học sinh dân tộc Kinh, từ học sinh khá đến học sinh trung bình và yếu đều dễ mắc. Ví dụ: “Khi
em bước lên chiếc sân chơi của trường thì thấy một cột cờ đỏ chói ngay trước mặt em và những hàng

cây xanh rì rào chuyển động. Những bồn hoa mà bác bảo vệ đã phải tốn công chăm sóc để chúng
mọc lên cao và nở ra hoa. Ngôi trường của em được lợp bằng một mái tôn màu đỏ chót. Những bức
tường có màu sặc sỡ. Những cây bàng giống như những chiếc quạt nan nhỏ bé. Những cây hoa sữa
thì toả đi xung quanh khắp ngôi trường với những chú chim đậu vào những cành cây. Những chiếc
bảng có màu đen đậm và bàn ghế dài chẳng chịt và có 4 ngăn”.
So sánh cây bàng với những chiếc quạt nan nhỏ bé thì không hợp lí bởi vì cây bàng vốn là loại cây
trồng để lấy bóng mát, tán cây toả tròn không thể mảnh dẻ như hình chiếc quạt nan được.
- Đưa những thông tin bình luận thái quá hoặc sống sít, gượng ép, không đảm bảo độ chân
thành. Theo quan điểm tiếp cận nội dung cảm xúc, trong bài văn miêu tả người viết phải thể hiện
xúc cảm của mình với đối tượng được miêu tả. Xúc cảm ấy sẽ được thể hiện qua những chi tiết nhận
xét, đánh giá, bình luận của người viết. Muốn thuyết phục người đọc, những xúc cảm đó phải được
thể hiện một cách chân thành, tương xứng với đối tượng được miêu tả. Học sinh lớp 5 còn nhỏ chưa ý
thức nhiều về điều này nên các em thường bày tỏ cảm xúc thái quá làm cho câu văn trở nên gượng
ép, sáo rỗng, không đảm bảo độ chân thành cần thiết. Ví dụ: “Đi vào cổng trường là một cảnh đẹp đồ
sộ làm em vô cùng xúc động. Đó là một toà lâu đài cao tầng xung quanh là một hàng cây xanh đẹp
đẽ. Bên ngoài cổng trường là phòng bác bảo vệ. Gần phòng bác bảo vệ là nơi các thầy cô họp. Cạnh
phòng họp của các thầy cô là những phòng học của các bạn học sinh”.
Câu đầu tiên của đoạn là câu đưa ra một thông tin bình luận thái quá không thực tế. Ngôi trường dù
đẹp nhưng là nơi người viết đã gắn bó nhiều năm, đã học tập hàng ngày ít khả năng gây cảm giác “vô
cùng xúc động” như vậy được.
- Đưa những thông tin không phù hợp với yêu cầu và chuẩn hành vi văn hoá, không đảm
bảo độ chính xác về ngữ cảnh văn hoá. Khi cung cấp thông tin về đối tượng miêu tả, ngoài việc
đảm bảo sự chính xác với thực tế khách quan và chân thành về cảm xúc - người viết còn phải lưu ý về
ngữ cảnh văn hoá và những chuẩn hành vi văn hoá đã được xã hội quy định và công nhận như cách
xưng hô, cách biểu lộ thái độ, cách chọn lọc chi tiết theo hướng tích cực. Ví dụ: “Chị ta chừng độ 23
tuổi. Hình dáng của chị ta nhỏ nhưng chị ta cao. Khuôn mặt chị ta tròn như hình trái xoan. Mắt chị ta
to, đôi má hồng hào. Cách ăn mặc của chị ta gọn gàng nhưng chị ta chỉ thích mặc quần áo nhiều màu
sắc”. Một học sinh lớp 5 mà gọi một cô gái 23 tuổi (lại là người mình quý mến) là “chị ta” thì không
đúng với chuẩn tắc hành vi văn hoá. “Tính tình cô giáo lúc gọi bạn Hơn lên bảng. Bạn ấy không biết
làm tính thì cô giáo chửi bạn Hơn. Còn em lên bảng biết làm thì cô không chửi em”. Tả về một cô giáo

đã dạy mà mình yêu quý nhất mà người viết dùng từ “chửi” là không phù hợp với chuẩn văn hoá.
3. Giáo viên cần nhận thức đúng về tác dụng của việc chữa lỗi cho học sinh trong dạy học tiếng Việt
nói chung dạy tập làm văn nói riêng. Hoạt động chấm chữa bài nói, viết cho học sinh phải được thực
hiện một cách nghiêm túc, có hệ thống đảm bảo tính khoa học mới có thể nâng cao chất lượng bài
viết cho các em. Để thực hiện có hiệu quả nội dung chữa lỗi, chúng tôi chia thành các bước như sau:
Bước 1: Chấm bài.
- Xác định thái độ đúng mực khi chấm bài của học sinh. Việc chấm bài phải được thực hiện một cách
nghiêm túc tránh sự qua loa, đại khái để chỉ ra một cách đầy đủ và chính xác các lỗi trong bài làm
của học sinh. Mặt khác, khi chấm bài cần tôn trọng sản phẩm của các em, cố gắng hiểu ý định cũng
như cảm xúc của các em thể hiện trong bài. Thực tế khảo sát cho thấy có rất nhiều lỗi về lôgic phản
ánh hiện thực khách quan và lôgic trình bày nhưng không hề có bút tích xác định lỗi của giáo viên.
- Phân loại và gọi thành tên các lỗi của học sinh trong bài làm . Việc phân loại lỗi cần chia ra những lỗi
phổ biến ở nhiều học sinh và những lỗi có tính cá nhân, cá biệt.
- Tìm hiểu nguyên nhân của các loại lỗi. Việc phân loại và gọi tên các lỗi giúp cho việc tìm hiểu
nguyên nhân mắc lỗi của học sinh được thuận lợi và có cơ sở. Giáo viên cần đọc kỹ các lỗi để chỉ rõ
nguyên nhân cơ bản trong việc măc lỗi của học sinh.
Bước 2: Trả bài
- Nhận xét bài làm của học sinh.
- Đọc mẫu một vài bài làm tốt cho học sinh tham khảo.


- Chỉ ra các loại lỗi phổ biến và cá biệt.
- Thực hành chữa mẫu một số lỗi cơ bản. Sau khi đã chỉ rõ và phân tích nguyên nhân mắc lỗi giáo
viên cần đưa ra và chữa mẫu một số lỗi cơ bản có tính phổ biến cho học sinh tham khảo học theo.
- Hướng dẫn học sinh cách sửa lỗi. Đưa ra một số câu hỏi để hướng dẫn học sinh cách sửa lỗi cụ thể
trong bài của mình.
- Kiểm tra, nhận xét việc sửa lỗi của học sinh.
4. Phần nội dung chữa lỗi cho học sinh nếu được các giáo viên thực hiện nghiêm túc, có hệ thống,
đảm bảo tính khoa học như quy trình đề xuất trên thì sẽ rèn cho học sinh kĩ năng phát hiện lỗi, tìm
hiểu nguyên nhân của sự sai sót và biết cách sửa lỗi trong bài viết của mình, có tác dụng nâng cao ý

thức của học sinh về việc dùng từ đặt câu, diễn đạt câu, trình bày đoạn, liên kết đoạn thành bài. Mặt
khác hoạt động chữa lỗi còn rèn cho các em thói quen phải cân nhắc suy xét cẩn thận khi viết, thói
quen đọc lại, kiểm tra lại những điều mình vừa viết ra để điều chỉnh sửa chữa nếu thấy cần thiết, nhờ
đó hiệu quả học tập của học sinh được nâng cao.



×