Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh khánh hoà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.09 KB, 89 trang )

MỤC LỤC
Trang phụ bìa..........................................................................................................Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắc
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị


2

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại và diễn ra mạnh mẽ
trên nhiều lĩnh vực, biểu hiện xu hướng tất yếu khách quan của phát triển kinh tế.
Để bắt nhịp với xu thế đó, Viêt Nam đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập
quốc tế: gia nhập ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
ký kết hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và ngày 7/11/2006 Việt Nam chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây là
bước ngoặc trọng đại đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, mở ra một
kỷ nguyên mới cho Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển, đồng thời cũng
khẳng định trí tuệ, tầm vóc và tiềm năng của con người, đất nước Việt Nam. Việc
gia nhập WTO sẽ đem lại nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt
Nam.
Trong bối cảnh chung đó, mở cửa, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
được coi là một trong những biện pháp khai thác ngoại lực nhằm thúc đẩy nội lực để
phát triển kinh tế-xã hội. FDI là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động thu
hút vốn FDI là nhiệm vụ có tính lâu dài, gắn liền với công cuộc công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước.


Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra trong bối
cảnh tình hình trong nước và quốc tế có những yếu tố thuận lợi mới tác động tích cực
đến việc thu hút và triển khai dự án nguồn vốn FDI, đồng thời cũng đã xuất hiện một số
khó khăn, thách thức cần được tháo gỡ nhằm tạo đà tăng trưởng trong các năm tới.
Kể từ khi tái lập Tỉnh Khánh Hòa (30/06/1989), hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của Khánh Hòa đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào
việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội của Tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm qua còn bộc lộ những mặt hạn chế. Đó là: Nhận
thức và quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được quán triệt đầy đủ ở các cấp,


3

các ngành; cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có mặt còn bất hợp lý; hiệu quả tổng thể về
kinh tế - xã hội của hoạt động FDI còn chưa cao; môi trường đầu tư chưa thực sự hấp
dẫn; công tác cán bộ, công tác quản lý nhà nước về FDI còn những bất cập; thủ tục hành
chính chưa thực sự thông thoáng.
Nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà ĐTNN,
tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển, đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội của Tỉnh; xuất phát từ thực tiễn của địa phương, tôi lựa chọn đề
tài “Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
Tỉnh Khánh Hòa” làm nội dung nghiên cứu.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Tỉnh Khánh
Hòa những năm qua, đánh giá tiềm năng, lợi thế so sánh của Tỉnh và môi trường đầu tư
kinh doanh của nước ta tiếp tục được cải thiện; ngoài việc triển khai Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp cùng các Nghị định hướng dẫn được ban hành đã tạo môi trường pháp lý
thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư. Việc thực hiện Chương trình hành động sáng kiến
chung Việt Nam - Nhật Bản, Chương trình kết nối hai nền kinh tế Việt Nam – Singapore,

Hợp tác phát triển “hai hành lang một vành đai kinh tế” Việt Nam – Trung Quốc đã góp
phần làm cho môi trường đầu tư nước ta trở lên thông thoáng và hấp dẫn hơn. Dòng vốn
ĐTNN tiếp tục có xu hướng chuyển mạnh sang các nước đang phát triển, nhất là các nền
kinh tế mới nổi, có tốc độ tăng trưởng cao, có lợi thế về lao động và chính sách đầu tư
thông thoáng, trong đó có Việt Nam. Phân tích thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các giai đoạn, Luận văn đề xuất một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Tỉnh Khánh Hòa.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Tỉnh Khánh Hòa.
+ Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu toàn bộ tình hình, thực trạng thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào Tỉnh Khánh Hòa từ khi tái lập Tỉnh (1989) đến nay.


4

4. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic; tổng hợp nghiên
cứu, sử dụng tài liệu, số liệu báo cáo và sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp,
tính toán các chỉ tiêu phân tích thực tế rồi cuối cùng đưa ra các giải pháp.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước trong khu vực,
một số địa phương ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng thu hút vốn FDI và tác động của FDI đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của Khánh Hòa trong thời kỳ từ năm 1991 đến nay.
- Nghiên cứu định hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút hơn nữa
nguồn vốn FDI vào tỉnh Khánh Hòa trong những năm tới.


6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận văn gồm có 3 chương.
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài
+ Chương 2: Thực trạng công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Tỉnh Khánh Hòa
+ Chương 3: Các giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Tỉnh Khánh Hòa đến năm 2015.


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.1. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
1.1.1.

Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn vốn đầu tư xã hội trong từng thời kỳ là yếu tố vật chất quyết định tốc

độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Đặc biệt, đối với các quốc gia đang phát
triển, nhu cầu vốn đầu tư cho xã hội là rất lớn, nguồn vốn trong nước không thể đảm
bảo cho quá trình phát triển kinh tế; chính vì vậy, mỗi quốc gia đều phải bổ sung
nguồn vốn cho mình bằng cách thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. FDI là một trong
những kênh thu hút nguồn vốn ĐTNN. Hiện nay, có nhiều quan niệm về FDI:
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước

(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng
với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các
công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà
người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó,
nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty
con" hay "chi nhánh công ty." [26, tr.2]
Quan điểm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra năm 1997:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment) là vốn đầu tư thực
hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế
khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là dành được tiếng nói
có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. [27, tr.3]
IMF nhấn mạnh đến 3 yếu tố của FDI đó là: tính lâu dài của hoạt động đầu tư,
chủ thể đầu tư là nước ngoài và mục đích đầu tư là dành quyền kiểm soát trực tiếp
hoạt động quản lý doanh nghiệp.


6

Theo Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam: “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư
do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. [6]
Tóm lại, tuy còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung, các
định nghĩa trên đã nhận dạng FDI trên các khía cạnh:

 Đây là loại hình đầu tư dài hạn bởi hoạt động đầu tư này gắn liền với việc xây dựng
các cơ sở, chi nhánh sản xuất, kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư. Vốn FDI có bản
chất là dòng chu chuyển vốn có thời hạn tương đối dài. Vốn FDI đi liền với công
trình, dự án đầu tư ở một địa điểm cụ thể nên nó có tính ổn định tương đối cao, dễ
theo dõi, dễ kiểm soát, không biến động quá bất thường như các dòng tiền ngắn hạn
hoặc các khoản đầu tư gián tiếp.


 Nhà ĐTNN đồng thời là người trực tiếp quản lý, điều hành việc sử dụng vốn, chịu
trách nhiệm và hưởng lợi ích từ kết quả sản xuất, kinh doanh căn cứ vào mức độ góp
vốn.
Phân loại FDI

1.1.2.

Có nhiều cách phân loại FDI khác nhau tùy vào từng giác độ tiếp cận. Dưới
đây là một số cách phân loại FDI:
1.1.2.1. Theo hình thức thâm nhập


Đầu tư mới.
Đầu tư mới là hoạt động đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất kinh doanh

hoàn toàn mới ở nước ngoài, hoặc mở rộng một cơ sở sản xuất kinh doanh đã
tồn tại.


Mua lại và sáp nhập qua biên giới (M&A).
Mua lại và sáp nhập qua biên giới là một hình thức FDI liên quan đến việc

mua lại hoặc hợp nhất với một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động.
Các hình thức của sáp nhập bao gồm:


7

- Sáp nhập theo chiều ngang: là hình thức sáp nhập diễn ra giữa các công
ty trong cùng một ngành kinh doanh (hay có thể nói là giữa các đối thủ cạnh

tranh)
- Sáp nhập theo chiều dọc: là hình thức sáp nhập của các công ty khác
nhau trong cùng một dây chuyền sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Có 2 dạng sáp
nhập theo chiều dọc là: Liên kết giữa nhà cung cấp và công ty sản xuất, sáp
nhập theo chiều dọc là: Liên kết giữa công ty sản xuất và nhà phân phối. Sáp
nhập theo chiều dọc diễn ra nhiều trong lĩnh vực dầu mỏ.
- Sáp nhập hỗn hợp: là hình thức sáp nhập giữa các công ty kinh doanh
trong các lĩnh vực khác nhau. Mục tiêu của những vụ sáp nhập như vậy là đa
dạng hóa, và chúng thường thu hút sự chú ý của những công ty có lượng tiền
mặt lớn.
Hình thức đầu tư mới phổ biến hơn ở các nước đang phát triển và được các
nước nhận đầu tư ưa chuộng hơn, trong khi M&A xuất hiện nhiều hơn ở các
nước phát triển và được các chủ đầu tư ưu tiên hơn (M&A chiếm 77% FDI ở
nước phát triển và 33% FDI ở các nước đang phát triển, chiếm trên 50% FDI
toàn thế giới năm 2004).
1.1.2.2. Theo hình thức sở hữu

 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức
đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận,
phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.

 Doanh nghiệp liên doanh.
"Doanh nghiệp liên doanh" là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là
doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn ĐTNN hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam


8


hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà ĐTNN trên cơ sở hợp đồng liên
doanh.


Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN là
doanh nghiệp do nhà ĐTNN đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.



Các hình thức BOT, BTO, BT

 Hình thức BOT
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng
BOT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định;
hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt
Nam.

 Hình thức BTO
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng
BTO) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển
giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền
kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận.

 Hình thức BT
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT) là hình
thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng

công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình
đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án
khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả
thuận trong hợp đồng BT.
Như vậy, một cách chung nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn
quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn


9

vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức
sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý,... nhằm
tối đa hoá lợi ích của mình. Nguyên nhân cơ bản của sự di chuyển vốn đầu tư dưới
hình thức này là do có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận xuất phát từ lợi thế so sánh
khác nhau giữa các quốc gia.

1.2. NỘI DUNG THU HÚT VỐN FDI VÀ TIÊU CHÍ PHẢN ÁNH KẾT
QUẢ
 Khái niệm về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Thu hút vốn FDI là hoạt động nhằm khai thác nguồn lực vốn đầu tư trực tiếp
từ bên ngoài vào một quốc gia sở tại. Hoạt động thu hút FDI được thực hiện thông
qua các dự án FDI, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, làm đòn bẩy khai thác có hiệu
quả các nguồn lực trong nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp, phục vụ sự nghiệp CNH
– HĐH đất nước và phát triển nền kinh tế quốc gia theo hướng bền vững.
Như vậy, bản chất của thu hút FDI là hoạt động xúc tiến đầu tư, quảng bá
hình ảnh môi trường đầu tư hấp dẫn của nước sở tại nhằm xây dựng, tạo lập lòng tin
từ các nhà ĐTNN đầu tư vốn và trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh tại quốc gia nước sở tại.
1.2.1.


Nội dung thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nội dung thu hút vốn FDI đó là làm như thế nào để tạo lập được môi trường

đầu tư hấp dẫn nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở nước sở tại.
Môi trường đầu tư là nhân tố tác động trực tiếp đến mọi hoạt động đầu tư của
nhà đầu tư. Mọi hoạt động đầu tư suy cho cùng là để thu lợi nhuận.Vì vậy, môi
trường đầu tư hấp dẫn là môi trường có hiệu quả đầu tư cao, mức độ rủi ro thấp.
Điều này lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: chính sách, cơ chế ưu đãi đầu
tư của nước chủ nhà, điều kiện phát triển về cơ sở hạ tầng kinh tế, mức độ hoàn
thiện về thể chế hành chính và pháp lý, khả năng ổn định về mặt chính trị - xã hội,
độ mở cửa nền kinh tế, sự phát triển của thị trường… Các nhân tố trên có mối quan
hệ tác động qua lại lẫn nhau và có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của các nhà


10

đầu tư. Chính vì vậy, công việc xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư là công
việc mang tính then chốt trong hoạt động thu hút FDI.
Môi trường đầu tư là các điều kiện, các yếu tố về kinh tế, xã hội, pháp lý, tài
chính, hạ tầng cơ sở kỹ thuật và các yếu tố liên quan khác mà trong đó các quá trình
hoạt động đầu tư được tiến hành. Dựa trên những khía cạnh và nội dụng mà các nhà
ĐTNN quan tâm khi ra quyết định đầu tư vào nước sở tại. Do đó, nội dung của hoạt
động thu hút FDI bao gồm 4 nội dung chính như sau :
 Quy hoạch đầu tư
 Công tác xúc tiến đầu tư
 Công tác hổ trợ đầu tư
 Ưu đãi đầu tư

Trong các nội dung thu hút FDI, nội dung Tăng cường công tác xúc tiến,

khai thác và lựa chọn đối tác đầu tư và cải thiện môi trường đầu tư bao gồm hoàn
thiện cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính là những nội dung quan trọng nhất.
1.2.1.1. Quy hoạch đầu tư

Qui hoạch đầu tư để kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận và là
công cụ vô cùng quan trọng trong chính sách thu hút FDI và là một nhân tố quyết
định sự thành công hay thất bại của các chính sách thu hút FDI trong tương lai.
Hoạt động này là bước cụ thể hóa của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo thời
gian và không gian nhất định. Ở tầm vĩ mô, qui hoạch đầu tư là việc xác định số
lượng các dự án, vị trí và qui mô từng dự án, ngành hàng và lĩnh vực dự kiến thu
hút đầu tư trong từng thời kỳ nhất định. Ở tầm vi mô (tại mỗi địa phương) đó là việc
xác định cơ cấu diện tích giữa đất giành cho sản xuất, đất giành cho các công trình
kết cấu hạ tầng cơ sở, đất giành cho cây xanh và các công trình dịch vụ khác như:
nhà ở cho người lao động, khu thương mại,… và cơ cấu ngành hàng đầu tư.
1.2.1.2. Công tác xúc tiến đầu tư

Xúc tiến đầu tư là một hoạt động quan trọng nhằm giới thiệu, quảng bá, xây
dựng hình ảnh về nước sở tại, các dự án tiếp nhận đầu tư trong từng địa phương, cung


11

cấp các thông tin liên quan đến các dịch vụ đầu tư cho các nhà ĐTNN. Nội dung
chính của hoạt động xúc tiến đầu tư bao gồm các công việc cụ thể sau:



Thành lập các cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư ở các cấp
Việc thành lập các cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư là rất cần thiết,


đảm bảo được năng lực, hiệu quả và sự chuyên nghiệp trong hoạt động xúc tiến đầu
tư. Các cơ quan xúc tiến đầu tư có thể bao gồm các cơ quan của Chính phủ, các bộ
ngành và của từng địa phương. Các cơ quan này có thể đặt văn phòng đại diện của
mình tại nước ngoài để tạo thuận lợi trong hoạt động xúc tiến của mình tại nước
ngoài.



Xây dựng danh mục thu hút FDI
Danh mục này cho biết các ngành nghề, các lĩnh vực được Chính phủ và địa

phương khuyến khích đầu tư, không khuyến khích đầu tư hay cấm đầu tư. Dựa trên
danh mục này, các nhà ĐTNN sẽ lựa chọn các ngành nghề, lĩnh vực đầu tư thích hợp
với mình. Ngoài ra, danh mục này cũng nhằm đảm bảo thực hiện được các mục tiêu
thu hút FDI của Chính phủ nước sở tại.



Xây dựng kế hoạch và tổ chức các chương trình xúc tiến đầu tư
Các cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức

thực hiện các chương trình xúc tiến đầu tư. Các chương trình xúc tiến đầu tư này rất
đa dạng có thể là một số hoạt động sau: tổ chức các diễn đàn xúc tiến đầu tư kết hợp
với các chuyến thăm cấp cao của các nhà lãnh đạo đứng đầu nhà nước, đứng đầu địa
phương, tổ chức hội thảo giới thiệu về cơ hội đầu tư ở trong và ngoài nước, xây dựng
các trang thông tin chuyên về hoạt động xúc tiến đầu tư, phát hành các ấn phẩm về
đầu tư để giới thiệu về: sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, các thành tựu đã đạt
được, các chính sách ưu đãi đầu tư,...
Để hoạt động xúc tiến đầu tư này đạt hiệu quả cao thì cần có một chiến lược
về xúc tiến đầu tư, sự hợp tác giữa các cơ quan của Chính phủ, các bộ ngành, địa

phương và của từng KKT, KCN nước sở tại.


12

1.2.1.3. Công tác hổ trợ cầu tư

Cơ sở hạ tầng tại mỗi địa phương được xây dựng bởi các nhà đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng. Dựa trên qui hoạch tổng thể về phát triển cơ sở hạ tầng đã được duyệt,
các nhà đầu tư sẽ thuê lại đất của Nhà nước, tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
ví dụ: xây dựng cơ sở hạ tầng đối với KCN bao gồm xây dựng hạ tầng về: đường nội
bộ, hệ thống thoát nước, xử lý nước thải, hệ thống cấp điện, cấp nước, hệ thống thông
tin liên lạc,…Sau khi xây dựng xong cơ sở hạ tầng, nhà đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng KCN sẽ cho các nhà đầu tư thứ cấp khác thuê lại mặt bằng, nhà xưởng có sẵn để
họ tiến hành sản xuất kinh doanh. Nhà đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN sẽ thu phí
cho thuê đất, phí duy tu hạ tầng và các loại phí dịch vụ khác mà họ cung cấp cho các
nhà đâu tư thứ cấp.
Lợi thế của KCN chính là cơ sở hạ tầng đã được xây dựng đồng bộ và hiện
đại, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu để tiến hành hoạt động xây dựng nhà xưởng hoặc sản
xuất kinh doanh ngay lập tức của các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư thứ cấp sẽ không
phải mất thời gian vào các công việc như: giải phóng và chuẩn bị mặt bằng xây dựng,
duy tu và sửa chữa cơ sở hạ tầng,… cũng như được sử dụng các dịch vụ tiện ích khác.
Lợi thế này giúp cho KCN tăng khả năng cạnh tranh thu hút đầu tư với các khu vực
ngoài KCN.
Chính từ tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư,
nước sở tại cần phải có nhiều ưu đãi đối với các nhà đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở.
Song song với việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thực hiện quản lý FDI
theo nguyên tắc "một cửa", tránh mọi biểu hiện gây phiền hà, làm cho nhà đầu tư phải
gõ cửa từng ngành. Việc cải cách thủ tục hành chính theo nguyên tắc "một cửa" đối
với vốn đầu tư vừa phải đảm bảo sự thông thoáng, khuyến khích được các nhà đầu tư

đầu tư vào nước sở tại vừa phải đảm bảo được sự quản lý của Nhà nước và phù hợp
với thông lệ quốc tế.


13

Nhà ĐTNN luôn mong muốn đầu tư trong một môi trường luật pháp rõ ràng,
đơn giản, có tính ổn định, lâu dài, qui định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư.
Một hệ thống pháp luật có tính pháp lý cao, các thủ tục hành chính đơn giản, nhanh
gọn sẽ là nhân tố hấp dẫn các nhà đầu tư.
1.2.1.4. Ưu đãi đầu tư

Để tạo ra lợi thế thu hút đầu tư vào một quốc gia thì hệ thống biện pháp ưu đãi
về kinh tế cũng là một yếu tố quan trọng. Hệ thống biện pháp này phải thể hiện được
tính cạnh tranh so với những nước khác trong khu vực và phải được thể chế hóa về
mặt pháp lý.
Mục tiêu cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Có nhiều yếu tố tác động
đến lợi nhuận của doanh nghiệp, song yếu tố tác động trực tiếp nhất là các loại thuế
(thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế xuất nhập
khẩu). Vì vậy, chính sách ưu đãi của nhà nước cần tập trung chủ yếu vào các loại thuế
này.
Hệ thống biện pháp ưu đãi về kinh tế bao gồm: ưu đãi về thuế (thuế VAT, thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế Xuất nhập khẩu,…), các hỗ trợ về tài chính như: vay vốn
ưu đãi, giá thuê đất, thời gian khấu hao tài sản cố định,… Các biện pháp ưu đãi về
kinh tế này được ban hành bỡi Chính phủ áp dụng cho phạm vi cả nước và được ban
hành bỡi địa phương áp dụng trong phạm vi của từng địa phương.
Nguồn nhân lực cũng hết sức cần thiết để phát triển doanh nghiệp có vốn FDI.
Không phải doanh nghiệp có triển vọng cao nào cũng có đầy đủ đội ngũ các nhà quản
lý giỏi, nhưng những Giám đốc đang điều hành doanh nghiệp, những cán bộ tham gia
trong các liên doanh phải là những người có khả năng làm việc trên tinh thần hợp tác

và có hiểu biết sâu sắc về ngành, thị trường, khách hàng, có kiến thức đối ngoại, am
hiểu Luật đầu tư nước ngoài, các luật khác liên quan, biết ngoại ngữ... Sự hiểu biết
này sẽ tạo ra sự an tâm cho các nhà đầu tư vốn ít liên quan trực tiếp đến quá trình
hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực,


14

trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao trong hoạt động FDI cũng là một nội dung
hết sức cần thiết.

1.2.2.

Các tiêu chí phản ánh kết quả thu hút vốn FDI

Vốn là một yếu tố căn bản trong các nguồn lực cho thực hiện mục tiêu phát
triển kinh tế. Vốn FDI tuy được đầu tư với mục đích lợi nhuận của nhà ĐTNN
nhưng nếu huy động và sử dụng một cách hợp lý thì nó là một yếu tố quan trọng
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Kết quả thu hút vốn FDI phản ánh qua các tiêu
chí sau:


Số lượng vốn thu hút, thực hiện, đo bằng tổng số vốn đăng ký và tổng
vốn thực hiện.
Để đáp ứng vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế, việc huy động vốn FDI

mang một ý nghĩa hết sức lớn lao đối với một nước mà kinh tế còn phát triển ở mức
trung bình như Việt Nam có lượng tiết kiệm trong nước để đầu tư phát triển chỉ ở
mức thấp. Việc kêu gọi vốn FDI là một giải pháp bổ sung nguồn vốn trong nước bị
thiếu hụt được đo bằng tổng số vốn đăng ký và tổng số vốn thực hiện.

Sử dụng FDI hiệu quả có thể giải quyết được khó khăn về khả năng tích lũy
vốn thấp và bù đắp thiếu hụt ngoại tệ, tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả
năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư. Đây là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
đầu tư phát triển xã hội của một quốc gia đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế
trong nước thông qua sự kết hợp tối ưu các yếu tố sản xuất và sử dụng triệt để các
nguồn lực nhàn rỗi.


Cơ cấu FDI đăng ký, thực hiện theo hình thức đầu tư.
Thông qua các hình thức tiếp nhận FDI, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện

thuận lợi để gắn kết nền kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối, trao
đổi quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước này. Chủ thể
chủ yếu của hoạt động FDI trên thế giới hiện nay là các công ty, tập đoàn xuyên
quốc gia với mạng lưới chân rết toàn cầu; thông qua tiếp nhận đầu tư của các công


15

ty, tập đoàn này, nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm nhập thị
trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, làm quen với tập quán thương mại
quốc tế, thích nghi nhanh hơn với những thay đổi trên thị trường thế giới. Đó là vai
trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế rất quan trọng của
FDI, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa thế giới.
Cơ cấu FDI đăng ký, thực hiện chia theo ngành kinh tế.



Chính sách thu hút FDI vào lĩnh vực ngành nghề hợp lý sẽ góp phần tích cực
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH và đưa nền kinh tế tham gia

phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ. Ở những nước bắt đầu CNH-HĐH,
vốn FDI chủ yếu tập trung vào công nghiệp chế tạo, sự hoạt động của vốn FDI cho
phép cung cấp các sản phẩm dịch vụ có tính chất quốc tế đưa nền kinh tế trong nước
hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Cơ cấu FDI đăng ký, thực hiện chia theo vùng kinh tế.



Bên cạnh đó FDI cũng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu vùng một cách
mạnh mẽ, những vùng có vốn FDI đầu tư thì thường có điều kiện phát triển hơn,
đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống dân cư.
Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN



FDI tạo điều kiện cho nước chủ nhà tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ
hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước đầu tư. FDI không đơn thuần
chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến,
cho phép tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị trường mới cho nước tiếp nhận đầu
tư. Đa số các nước tiếp nhận đầu tư là những nước có nền kỹ thuật và công nghệ lạc
hậu, trình độ quản lý thấp kém, không phát huy được thế mạnh của mình. Trong khi
đó các doanh nghiệp đầu tư có kỹ thuật và công nghệ hiện đại, các chuyên gia quản
lý giỏi, có kinh nghiệm, hoạt động nhiều năm trên thị trường thế giới đây là cơ hội
lớn mở ra cho nước nhận đầu tư nhằm nâng cao trình độ tay nghề cũng như trình độ
quản lý.


16

1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN FDI

Để thu hút nguồn vốn FDI một cách có hiệu quả, nước nhận đầu tư phải chủ
động xây dựng cho mình một môi trường đầu tư mang tính ổn định và hấp dẫn. Suy
cho cùng, mục tiêu cuối cùng của nhà đầu tư là thu được lợi nhuận cao, do vậy các
công ty, công ty xuyên quốc gia (TNCs) thường chọn điểm đến là các quốc gia có
môi trường đầu tư đảm bảo cho đồng vốn của họ sinh lời cao nhất. Các nhân tố ảnh
hưởng đến hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI của một quốc gia bao gồm:
1.3.1.1. Các nhân tố vĩ mô

 Các nhân tố về kinh tế, chính trị và xã hội:
Đây là nhân tố tiên quyết khi một nhà đầu tư lựa chọn điểm đến đầu tư; một
đất nước có nền kinh tế, chính trị và xã hội ổn định sẽ giảm thiểu những rủi ro về khả
năng kiểm soát nguồn vốn FDI của của các nhà ĐTNN; đồng thời sẽ tạo ra một môi
trường đầu tư an toàn, do vậy các nhà ĐTNN sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi bỏ vốn
đầu tư. Ngược lại, những bất ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội không chỉ làm cho
dòng vốn FDI bị chững lại, thu hẹp, mà còn làm cho dòng vốn từ trong nước chảy
ngược ra ngoài, tìm đến những nơi đầu tư mới an toàn và hấp dẫn hơn.

 Hệ thống pháp luật đầu tư và các cơ chế chính sách thu hút FDI.
Hệ thống pháp luật đầu tư là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư,
bao gồm các văn bản luật, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư (như hướng dẫn đầu
tư, đánh giá, thẩm định dự án và quản lý các hoạt động đầu tư) nhằm tạo nên hành
lang pháp lý đồng bộ và thuận lợi nhất cho hoạt động FDI. Các quy định trong hệ
thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống
cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư đó của họ không làm phương hại đến an
ninh quốc gia (như bảo đảm pháp lý đối với tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh
lành mạnh, đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư được dễ
dàng). Nội dung của hệ thống pháp luật của nước nhận đầu tư càng đồng bộ, chặt chẽ,
không chồng chéo, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế bao nhiêu thì khả năng
thu hút nguồn vốn FDI của nước đó càng cao bấy nhiêu.



17

Ngoài hệ thống pháp luật nói chung, các nhà ĐTNN còn quan tâm đến những
cơ chế, chính sách của nước nhận đầu tư đối với hoạt động FDI; đó là sự bình đẳng
giữa nhà đầu tư trong nước và nhà ĐTNN hoặc những chính sách đặc biệt để thu hút
vốn FDI; đặc biệt là nguồn vốn FDI của các nhà đầu tư lớn trên thế giới. Các chính
sách có thể kể đến là: chính sách thương mại, chính sách tiền tệ, chính sách về thuế,
tín dụng,…
1.3.1.2. Các nhân tố vi mô

- Thị trường tại nước sở tại: đó là các yếu tố như quy mô, dung lượng, sức
mua của người dân. Việt Nam là một trong những tiềm năng có quy mô dân số trên
85 triệu người, sức mua lớn hấp dẫn nhà đầu tư.
- Trình độ của đội ngũ lao động, khoa học công nghệ và hệ thống doanh
nghiệp trong nước. Trước đây, nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ là một trong những lợi
thế so sánh của các quốc gia tiếp nhận vốn FDI. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
các nhà ĐTNN không còn chú trọng đến vấn đề đó nữa mà thay vào đó là trình độ tay
nghề của đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động có kỹ thuật cao là điều kiện hàng đầu để
một nước nghèo vượt qua được những hạn chế về trình độ tay nghề và trở nên hấp
dẫn các nhà ĐTNN. Việc thiếu các nhân lực kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo,
quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình độ khoa học công
nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai
các dự án của họ, làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn FDI chảy vào trong nước.
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức hấp thụ công nghệ
chuyển giao và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà ĐTNN là điều kiện cần
thiết để nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn dòng
vốn FDI. Hệ thống các doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản
xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh
doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần tại thị trường trong nước và ngày càng có

sức cạnh tranh quốc tế.


18

- Khả năng thu hồi vốn: nếu khả năng thu hồi vốn lớn và nhanh sẽ tạo lợi
nhuận lớn cho nhà đầu tư đó là mục tiêu cuối cùng của các nhà đầu tư. Nếu quốc gia
sở tại có chính sách mở và ưu đãi tạo điều kiện giúp thu hồi vốn nhanh thì sẽ góp
phần thúc đẩy thu hút lượng vốn đầu tư trực tiếp.
- Quyền sở hữu trí tuệ: nếu như có bất cập về vấn đề này gây nên hiện tượng
hàng giả hàng nhái làm ảnh hưởng tới doanh thu cũng như hình ảnh của công ty thì
nó cũng đồng nghĩa với việc làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư vào các nước sở
tại, chính vì vậy một quy định hợp lý và toàn diện về quyền sở hữu trí tuệ cũng sẽ là
yếu tố tạo nên sự tin tưởng với môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống cơ sở hạ tầng của quốc gia tiếp nhận đầu tư
cũng là một trong các yếu tố khiến các nhà đầu tư băn khoăn trước khi quyết định đầu
tư. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải với
các sân bay, cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đảm bảo và đủ
tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống thông tin liên lạc viễn thông hiện đại, có thể
thông tin liên lạc toàn cầu; hệ thống điện, nước đầy đủ và phân bổ tiện lợi cho các
hoạt động SXKD cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại
dịch vụ khác phát triển rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao (y tế, giáo dục, giải
trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại, quảng cáo, kỹ thuật...). Tóm lại, hệ
thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp các nhà ĐTNN giảm được chi phí vận chuyển và
cảm thấy thuận tiện trong hoạt động đầu tư của mình.
Ngoài các nhân tố vi mô và vĩ mô ảnh hưởng đến thu hút vốn FDI, còn có các
nhân tố ảnh hưởng khác như: Xu hướng M&A; Hiệp định quốc tế về thương mại;
Các chính sách sử dụng vốn FDI; Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, địa
phương; Kế hoạch vốn đầu tư; Kế hoạch phát triển ngành; Kế hoạch chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế; Kế hoạch lao động, việc làm; Kế hoạch về các nguồn lực khác...

các nhân tố này nếu rõ ràng, đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thì nó
sẽ góp phần thu hút các nhà đầu tư một cách mạnh mẽ.


19

1.4. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC VỀ THU
HÚT FDI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.4.1.

Kinh nghiệm của Trung Quốc
Từ năm 1978 đến nay, FDI được coi là “chiếc chìa khóa vàng” trong tăng

trưởng kinh tế của Trung Quốc. Trung Quốc đã tận dụng được FDI để cải cách cơ cấu
kinh tế, phát triển công nghệ, hiện đại hóa đất nước, rút ngắn khoảng cách hệ thống
kinh tế và hội nhập vào kinh tế thế giới, nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.
Từ thập kỷ 80, Trung Quốc đã nằm trong danh sách 10 nước đang phát triển đứng
đầu thế giới về thu hút FDI. Sau hơn 20 năm cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã tạo
được những thành tựu to lớn về thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI, là quốc gia thành
công trong việc thu hút FDI cho quá trình CNH - HĐH. Đặc biệt, trong những năm
gần đây với lượng FDI tiếp nhận trung bình mỗi năm khoảng gần 50 tỷ USD, Trung
Quốc đã trở thành nước thu hút FDI nhiều nhất Châu Á và là một trong 5 nước thu
hút được nhiều FDI nhất thế giới.
Quá trình thu hút FDI của Trung Quốc có thể chia thành 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1 (từ năm 1979 - 1991): Đây là giai đoạn thử nghiệm với các
khoản đầu tư quy mô nhỏ. Nguồn vốn chủ yếu đến từ cộng đồng Hoa kiều ở nước
ngoài; lĩnh vực đầu tư là các ngành cần nhiều lao động. Tháng 7/1979 Luật liên
doanh đầu tư giữa Trung Quốc và nước ngoài được Quốc hội thông qua, tạo cơ sở
pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Năm 1980, bốn Đặc khu kinh tế SEZs ra
đời ở ven biển phía Bắc là Thâm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn và Sán Đầu. Năm 1984,

SEZs đã được mở rộng đến 14 Tỉnh ven biển và Đảo Hải Nam. Đến năm 1988, đảo
Hải Nam trở thành SEZs thứ 15 và lớn nhất ở Trung Quốc. Cũng trong năm này, Luật
liên doanh hợp tác ban hành đã cải thiện đáng kể môi trường đầu tư ở Trung Quốc.
Đến 1990, SEZs đã được mở rộng đến vùng đất mới Phố Đông ở Thượng Hải.
* Giai đoạn 2 (từ năm 1992 - 2000): một loạt các chính sách khuyến khích
đầu tư được đưa ra như: nới lỏng hoạt động tín dụng, cắt giảm thuế, mở cửa một số
lĩnh vực nhạy cảm. Bắt đầu từ 01/01/1998 Trung Quốc thực hiện miễn thuế nhập
khẩu và thuế giá trị gia tăng cho các thiết bị sản xuất nhập khẩu, đồng thời đưa ra một


20

danh mục các ngành dành cho đầu tư nước ngoài. Ngoài ra Trung Quốc cũng thông
qua danh mục hạn chế đầu tư; Giảm thuế thu nhập cho các công ty nước ngoài đầu tư
ở những khu vực nội địa kém phát triển từ 33% xuống còn 15%. Tháng 3/1999 Trung
Quốc cho phép mở cửa thêm một số lĩnh vực mà trước đây người nước ngoài không
được đầu tư vào như: viễn thông, bảo hiểm. Ngoài ra, Trung Quốc còn mở rộng
quyền hạn cho từng địa phương, các nhà chức trách Tỉnh, thành phố có quyền phê
chuẩn những dự án đầu tư dưới 30 triệu USD. Lượng vốn FDI vào Trung Quốc nhảy
vọt từ 4,4 tỷ USD năm 1991 lên hơn 10 tỷ USD năm 1992. Năm 2000 con số này là
hơn 59 tỷ.
* Giai đoạn 3 (từ năm 2001 đến nay): Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO
(10/11/2001), các công ty nước ngoài ''bước hẳn'' vào Trung Quốc. Một số lĩnh vực
trước đây mở cửa một cách hạn chế, nay được mở cửa toàn bộ. Tổng vốn FDI năm
2001 đạt khoảng 47 tỷ USD. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng cuối năm 2008 khiến
FDI vào Trung Quốc bắt đầu giảm so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, điều đó
không làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của cả năm. Trong năm 2008, Trung
Quốc nhận được lượng vốn FDI lên tới 111,17 tỷ USD, tăng 27,65% so với năm
2007. Đây là một con số rất ấn tượng trong bối cảnh FDI toàn cầu trong năm 2008
giảm tới 21% so với năm 2007, xuống chỉ còn 1.450 tỷ USD (Theo số liệu của Liên

Hợp Quốc).
Kết quả trên thể hiện đường lối đúng đắn của Chính phủ Trung Quốc trong
hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI, đó là một kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.
1.4.2.

Kinh nghiệm thu hút FDI từ các TNCs của Ấn Độ
Trước đây, Ấn Độ được coi là nước thuộc thế giới thứ ba và dựa vào chính

sách độc quyền để dập mẫu những hàng hoá phương tây. Điều này đã khiến nhà đầu
tư nói chung và các TNCs thường không tập trung vào Ấn Độ. Tuy nhiên, ngày nay,
quốc gia này đã thay đổi trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển ở những ngành có
khả năng thu hút FDI như: phần mềm, sản xuất ô tô, dịch vụ văn phòng, dược phẩm
… Chính vì vậy mà ngày càng nhiều TNCs đầu tư vào Ấn Độ.


21

Để tạo lập sự khác biệt trong lợi thế cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là
Trung Quốc, Ấn Độ đã không chọn lao động giản đơn hay tài nguyên làm lợi thế so
sánh của mình mà sử dụng tri thức là chất “xúc tác”, chọn dịch vụ làm thế mạnh để
phát triển kinh tế. Ấn Độ tập trung vào ngành công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính
ngân hàng, phần mềm, dược phẩm – những lĩnh vực mũi nhọn của mình. Bên cạnh
đó, quốc gia này còn tập trung vào việc đào tạo một lực lượng lao động kỹ thuật lớn
với tay nghề cao đáp ứng tốt yêu cầu về trình độ cũng như ngoại ngữ của các TNCs.
Hàng năm, nước này tạo ra khoảng hơn 3 triệu cử nhân trong đó cử nhân về kỹ thuật,
y học và kinh doanh chiếm tỷ lệ rất lớn.
Chính nhờ chiến lược trên mà tổng số vốn FDI vào Ấn Độ liên tục tăng lên
trong các năm. Chẳng hạn từ năm 2003 đến năm 2005 con số lần lượt là 4,3 tỷ USD;
5,3 tỷ USD và 6,0 tỷ USD. Đặc biệt, chủ thể của dòng vốn FDI này chủ yếu là từ các
TNCs lớn trên thế giới. Theo kết qủa cuộc điều tra hàng năm của UNCTAD về đánh

giá của các TNCs đối với các nước nhận đầu tư thì trong hai năm trở lại đây Ấn Độ là
địa điểm đầu tư lý tưởng nhất trên thế giới. Cũng theo thống kê của Liên đoàn các
Phòng Công nghiệp và thương mại Ấn Độ (FICCI), 70% các công ty đầu tư vào Ấn
Độ làm ăn có lãi. Đây chính là những nguyên nhân khiến TNCs tin tưởng và tăng
cường đầu tư vào Ấn Độ.
1.4.3.

Kinh nghiệm của Singapore
Tuy là một nước có quy mô diện tích, dân số nhỏ, ít tài nguyên thiên nhiên,

nhưng Singapore lại là một trong những quốc gia rất thành công trong việc hội nhập
ở mức độ cao với các thị trường quốc tế (về cả mậu dịch hàng hóa cũng như thị
trường vốn). FDI là nguồn vốn quan trọng nhất trong thời kỳ đầu tiên tiến hành công
nghiệp hóa của Singapore. Đến nay, nguồn vốn nước ngoài đã chiếm trên 60% tổng
vốn đầu tư phát triển xã hội và tập trung phần lớn vào khu công nghiệp, dịch vụ.
Để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, Singapore đã có những
biện pháp chủ yếu sau:


22

Thứ nhất: Xác định rõ ba lĩnh vực cần ưu tiên là ngành sản xuất mới, ngành
xây dựng và ngành xuất khẩu. Vì vậy, việc sử dụng nguồn vốn FDI cũng chủ yếu
tập trung vào ba ngành này.
Thứ hai: Tùy từng điều kiện cụ thể mỗi thời kỳ, Singapore chủ trương sử
dụng FDI vào các ngành thích hợp. Ban đầu, do cơ sở kinh tế ở điểm xuất phát thấp,
Singapore chủ trương sử dụng FDI vào các ngành tạo ra sản phẩm xuất khẩu như
ngành dệt may, lắp ráp các thiết bị điện và phương tiện giao thông. Bước sang
những năm 80 của thế kỷ XX, cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp
điện tử và một số công nghệ tiên tiến khác, hướng sử dụng nguồn vốn đầu tư tập

trung vào những ngành như sản xuất máy vi tính, hàng điện tử, hàng bán dân dụng,
công nghiệp lọc dầu và kỹ thuật khai thác mỏ. Nhìn chung, Nhà nước có chính sách
ưu tiên cho những ngành nghề lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế.
Các biện pháp để thu hút FDI có hiệu quả ở Singapore:
- Chính phủ tạo môi trường đầu tư hấp dẫn nhờ vào hệ thống pháp luật và
chính sách khuyến khích FDI. Singapore tạo ra sự ổn định cho các nhà ĐTNN yên
tâm bỏ vốn đầu tư, kinh doanh lâu dài, Chính phủ Singapore đã công khai khẳng
định không quốc hữu hóa các doanh nghiệp nước ngoài. Singapore cũng rất chú
trọng xây dựng cơ sở hạ tầng, cầu đường, trường trạm, điện nước, hệ thống thông tin
liên lạc, giao thông vận tải, các khu công nghiệp đầy đủ điều kiện phục vụ cho hoạt
động sản xuất, thủ tục cấp giấy phép đơn giản thuận tiện.
- Ban hành những chính sách kích thích các nhà tư bản nước ngoài bỏ vốn
vào đầu tư trực tiếp. Khi kinh doanh có lợi nhuận nhà ĐTNN được tự do chuyển lợi
nhuận về nước, Singapore áp dụng chính sách ưu đãi rất đặc biệt đối với các nhà
ĐTNN so với các quốc gia khác. Đó là quyền cư trú nhập cảnh hay còn gọi là đặc
quyền về nhập cảnh và nhập quốc tịch. Singapore đã học tập Mỹ, giảm mức thuế
công ty và thuế thu nhập xuống còn 20%, và ngược lại tăng thuế đánh vào hàng hóa,
dịch vụ. Sắp tới, mức thuế này của Singapore có thể giảm xuống còn 19%.
Thứ ba: đó là chính sách thu hút nhân tài. Không chỉ phát triển nguồn nhân
lực trong nước, Singapore còn thực hiện nhiều chính sách thu hút nhân tài từ bên


23

ngoài. Singapore được coi là nơi có chính sách thu hút nhân tài bài bản nhất thế giới.
Các chính sách đột phá như cho phép người nước ngoài tham gia vào bộ máy nhà
nước, nhập cư dễ dàng, đãi ngộ xứng đáng theo trình độ khiến nước này có được
một đội ngũ lao động cao cấp hàng đầu thế giới, trở thành địa điểm hấp dẫn cho các
nhà ĐTNN, đặc biệt là các ngành nghề đòi hỏi nhiều trí tuệ, chất xám.
Từ kinh nghiệm của các quốc gia nêu trên và xét điều kiện cụ thể của Việt

Nam chúng ta có thể học tập được một số bài học như sau:
Thứ nhất, là về chính sách thu hút vốn: đưa ra những chính sách thu hút kịp
thời, hợp lý tận dụng mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế; Mở cửa, hội nhập nền
kinh tế, ban hành các chính sách ưu đãi về thuế; xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều
kiện cho hoạt động của các doanh nghiệp FDI; Tích cực thu hút, tận dụng vốn từ
Việt Kiều vì đây là nguồn vốn an toàn nhất.
Thứ hai, là chính sách sử dụng hợp lý nguồn vốn FDI: xác định lĩnh vực cần
ưu tiên sử dụng bằng các kế hoạch, quy hoạch cụ thể. Nguồn vốn FDI là có giới hạn
vì vậy phải hướng hoạt động của nó vào những khu trọng điểm, tận dụng nguồn vốn
này để thực hiện các mục tiêu phát triển của mình.
Thứ ba, quán triệt sâu sắc và nhận thức đúng đắn về vai trò của FDI đối với
sự phát triển của quốc gia; luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế làm trọng tâm, không
phân biệt nguồn lực nào miễn có ích cho phát triển kinh tế và đầu tư.
Tóm lại, Việt Nam là nước đi sau trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài nên chúng ta có cơ hội tiếp cận bài học kinh nghiệm của những nước đi
trước, đặc biệt là những nước Đông Nam Á, vì có những điểm tương tự với nước ta.
Từ đó, có thể học cái hay từ những chính sách của họ và tránh đi những sai lầm mà
các nước này đã mắc phải để có thể thu hút và quản lý có hiệu quả hoạt động đầu tư
nước ngoài.

1.5. KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN FDI CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG Ở
VIỆT NAM
1.5.1.

Kết quả đạt được


24

Đầu tư nước ngoài đã góp phần bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát

triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
trong nước. Mặt khác đầu tư nước ngoài cũng đóng góp phần quan trọng vào việc bù
đắp thâm hụt cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế.
Tỷ lệ đóng góp của FDI trong GDP liên tục tăng qua các năm.
Nguồn thu ngân sách cũng liên tục tăng qua các năm.
Kinh ngạch xuất khẩu tăng liên tục qua các năm. Đối với Thành phố Hồ Chí
Minh, tính đến 31/12/2009 đã có 350 công ty đi vào hoạt động, sản xuất và nhiều
hàng hoá có chất lượng tốt xuất khẩu đi trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới. Tổng kim gạch xuất khẩu từ khi thành lập đến nay đạt trên 3 tỷ USD. Riêng năm
2001 kim gạch xuất khẩu của các KCN thành phố đạt 880 triệu USD. Trong đó 2 khu
Tân Thuận và Linh trung đạt doanh số xuất khẩu 812,4 triệu USD, chiếm 95,5 %
doanh số xuất khẩu của các KCN Thành phố Hồ Chí Minh. Mức tăng trưởng xuất
khẩu năm 2001 đạt 9,6% so với năm 2008. Riêng trong 3 tháng đầu năm 2010 kim
gạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 200 triệu USD.
Góp phần hình thành một số ngành công nghiệp mới, có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế như chế biến dầu khí, sản xuất, lắp ráp ô tô, sản
phẩm điện tử.
Góp phần tạo việc làm cho người lao động và tham gia phát triển nguồn nhân
lực.
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH để phát triển
lực lượng sản xuất.
Góp phần quan trọng vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ
thống cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, năng lượng.
1.5.2.

Những mặt hạn chế
Thứ nhất, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số

điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành. Vì vậy
trên thực tế vẫn tạo ra các cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho việc xem



25

xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn
đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án.
Thứ hai, công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu
và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về
các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Một số địa phương cấp quá
nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả
năng thị trường, gây dư thừa, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp.
Thứ ba, sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan
trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư tính toán,
thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án theo tiến độ xây dựng công trình hạ tầng
ngoài hàng rào, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển
phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa để tránh tình trạng công trình
dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài
hàng rào không đáp ứng yêu cầu.
Thứ tư, tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công
nhân kỹ thuật lành nghề và kỹ sư ngày càng rõ rệt.
Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng những năm gần đây
càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện nhiều dự án đầu tư nước ngoài, đặc biệt là
các dự án lớn đi vào triển khai thực hiện.
Trong khi đó, chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo trong nước
quá lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp.
Thứ năm, công tác giải phòng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục
của môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác quy hoạch sử dụng đất đã được
các địa phương quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy hoạch ngành,
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói chung và
thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nói riêng. Nhiều địa phương đang lâm

vào trình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án quy mô lớn như đã
cam kết trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.


×