Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Hoàn thiện kế toán quản trị doanh thu, chí phí ở công ty TNHH một thành viên thương mại quảng nam đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.76 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

HOÀNG THỊ HÀ

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ DOANH THU,
CHI PHÍ Ở CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN
THƯƠNG MẠI QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

Đà Nẵng- Năm 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

HOÀNG THỊ HÀ

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ DOANH THU,
CHI PHÍ Ở CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN
THƯƠNG MẠI QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: KẾ TOÁN
Mã số: 60.34.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGÔ HÀ TẤN



Đà Nẵng- Năm 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả Luận văn

Hoàng Thị Hà


MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCTC

Báo cáo tài chính

CPNCTT

Chi phí nhân công trực tiếp


KTQT

Kế toán quản trị

KTTC

Kế toán tài chính

MTV

Một thành viên

NSLĐ

Năng suất lao động

NVL

Nguyên vật liệu

NVLTT

Nguyên vật liệu trực tiếp

PSC

Phiếu sửa chữa

QLDN


Quản lý doanh nghiệp

QNĐN

Quảng Nam Đà Nẵng

SXC

Sản xuất chung

SXKD

Sản xuất kinh doanh

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TK

Tài khoản

TSCĐ

Tài sản cố định

UBND

Ủy Ban Nhân Dân



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10
2.11
2.12
2.13
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
3.9
3.10
3.11
3.12
3.13

3.14
3.15
3.16

Tên bảng
Bảng kê bán lẻ phụ tùng
Sổ chi tiết doanh thu
Báo cáo doanh thu nhà hàng
Báo cáo chi tiết doanh thu
Báo cáo doanh thu, giá vốn xe máy toàn Công ty
Báo cáo tổng hợp doanh thu toàn Công ty
Sổ chi tiết chi phí bán hàng
Bảng tổng hợp chi phí
Sổ chi tiết chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Sổ chi tiết chi phí nhân công trực tiếp
Sổ chi tiết chi phí sản xuất chung
Báo cáo chi tiết chi phí Khách sạn
Báo cáo chi tiết chi phí toàn Công ty
Bảng phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Dự toán doanh thu
Định mức chi phí nguyên vật liệu
Dự toán chi phí nhân công trực tiếp
Dự toán chi phí sản xuất chung
Dự toán chi phí bán hàng
Dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp
Tổ chức tài khoản chi tiết
Báo cáo chi phí chế biến hàng ngày
Báo cáo chi phí nguyên vật liệu
Báo cáo chi phí nhân công
Báo cáo chi phí sản xuất chung

Báo cáo tình hình kinh doanh xe máy
Báo cáo về giá bán xe máy
Báo cáo phân tích tình hình thực hiện doanh thu
Báo cáo kết quả kinh doanh bộ phận buồng

DANH MỤC CÁC SƠ ĐÔ

Trang
46
47
48
49
51
52
53
54
55
56
57
58
59
67
69
71
72
73
74
75
76
80

81
83
84
86
87
88
91


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kế toán với chức năng thông tin và kiểm tra các hoạt động kinh tế tài chính
là một công cụ không thể thiếu phục vụ nhu cầu quản lý của doanh nghiệp. Có thể
nói chất lượng và hiệu quả công tác kế toán ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và
hiệu quả quản lý, điều hành để đạt được mục tiêu đề ra của doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tham gia vào quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Vì vậy,
để có thể tồn tại và phát triển, đòi hỏi các nhà quản trị phải đưa ra nhiều quyết định
kinh doanh một cách nhanh chóng và phù hợp. Một trong các yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp đến các quyết định của nhà quản trị đó là nguồn thông tin phải được cung cấp
một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác, trong đó thông tin kế toán quản trị là chủ
yếu. Các nghiên cứu về kế toán quản trị cho thấy, kế toán quản trị hình thành và
phát triển xuất phát từ nhu cầu thông tin quản trị doanh nghiệp. Kế toán quản trị là
công cụ hữu hiệu cho phép các nhà quản trị kiểm soát quá trình sản xuất kinh
doanh, đánh giá hiệu quả hoạt động của từng đơn vị, bộ phận trong doanh nghiệp để
có các quyết định phù hợp và hiệu quả.
Công ty TNHH MTV Thương mại Quảng Nam Đà Nẵng là một doanh
nghiệp có các đơn vị thành viên hoạt động trên hai lĩnh vực thương mại và dịch vụ.

Về mặt quản lý tài chính có sự phân cấp giữa cấp trên với các đơn vị thành viên.
Lĩnh vực thương mại của Công ty khá đơn giản, các đơn vị thành viên kinh doanh
trong lĩnh vực này đều là đại lý ủy nhiệm của Công ty Honda Việt Nam. Về lĩnh vực
dịch vụ, Công ty có Khách sạn Tourane hoạt động trong kinh doanh dịch vụ du lịch.
Đây là lĩnh vực Công ty rất quan tâm và có định hướng phát triển thành lĩnh vực
kinh doanh chủ đạo trong thời gian tới. Như vậy, với đặc thù của Công ty, để nhà
quản trị có thể đưa ra các quyết định kinh doanh phù hợp cho toàn Công ty nói
chung và từng đơn vị thành viên nói riêng trong môi trường cạnh tranh hiện nay,
nhà quản trị Công ty cần phải nắm bắt được tình hình hoạt động kinh doanh của


2
từng đơn vị hay nói cụ thể hơn là nhà quản trị có thể kiểm soát được doanh thu, phi
phí tại các đơn vị thành viên. Điều này giúp các nhà quản trị Công ty có thể quản lý
chặt chẽ doanh thu để tránh thất thoát và kiểm soát tốt chi phí để tránh lãng phí, góp
phần giúp Công ty đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Nhận thức được vấn đề quan trọng này, tác giả quyết định chọn đề tài “Hoàn
thiện kế toán quản trị doanh thu, chí phí ở Công ty TNHH một thành viên Thương
mại Quảng Nam Đà Nẵng” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Về mặt lý luận: Làm rõ những nội dung của KTQT doanh thu, chi phí trong
mô hình doanh nghiệp có các đơn vị thành viên. Trên cơ sở đó, vận dụng để hoàn
thiện KTQT doanh thu, chi phí tại Công ty TNHH một thành viên Thương mại
QNĐN.
- Về mặt thực tiễn: Phân tích, đánh giá thực tế về KTQT doanh thu, chi phí ở
Công ty TNHH MTV Thương mại QNĐN. Từ đó nêu ra các giải pháp hoàn thiện
nhằm đáp ứng yêu cầu quản trị doanh thu, chi phí ở Công ty TNHH MTV Thương
mại QNĐN được tốt hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các doanh

nghiệp, vấn đề các nhà quản trị quan tâm hàng đầu là doanh thu đạt được và chi phí
bỏ ra trong quá trình kinh doanh. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của hai nội dung
này, đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu công tác kế toán
quản trị doanh thu, chi phí ở Công ty TNHH Một thành viên Thương mại Quảng
Nam Đà Nẵng nhằm hoàn thiện thông tin làm cơ sở cho các quyết định kinh doanh
của Công ty.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác KTQT doanh thu, chi phí ở Công ty TNHH
Một thành viên Thương mại Quảng Nam Đà Nẵng, bao gồm các đơn vị trực thuộc
và Văn phòng Công ty cùng tham gia hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu lợi
nhuận của Công ty.


3
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp thống kê, mô tả, phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, … trong quá trình nghiên cứu, khảo sát thực tế
và trình bày các giải pháp hoàn thiện KTQT doanh thu, chi phí tại Công ty.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán quản trị doanh thu, chi
phí trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng kế toán quản trị doanh thu, chi phí tại Công ty TNHH
MTV Thương mại QNĐN.
Chương 3: Hoàn thiện kế toán quản trị doanh thu, chi phí tại Công ty TNHH
MTV Thương mại QNĐN.


4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
DOANH THU, CHI PHÍ TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về kế toán quản trị
1.1.1. Khái niệm kế toán quản trị
Cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp. Doanh nghiệp phải chủ
động trong kinh doanh, phải tự quyết định các vấn đề kinh tế tài chính có liên quan
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, do đó nhu cầu về thông tin càng trở
nên bức thiết và quan trọng đối với nhà quản trị doanh nghiệp.
Kế toán với chức năng thông tin và kiểm tra các hoạt động kinh tế - tài chính
để phục vụ nhu cầu quản lý của các đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp
là một công cụ không thể thiếu đối với các doanh nghiệp. Xuất phát từ nhu cầu và
tính chất thông tin cung cấp cho các đối tượng, thông tin kế toán được phân biệt
thành thông tin kế toán tài chính và thông tin kế toán quản trị. Mặc dù kế toán quản
trị mới được phát triển mạnh trong giai đoạn gần đây nhưng đã chứng minh được sự
cần thiết và quan trọng của nó đối với công tác quản lý, điều hành của các doanh
nghiệp. Trong bất kỳ một doanh nghiệp nào thì thông tin kế toán quản trị đều được
xem là công cụ hữu hiệu để các cấp lãnh đạo đưa ra quyết định điều hành, kiểm soát
hoạt động kinh tế, tài chính nhằm hướng đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về KTQT:
Theo định nghĩa của Viện kế toán viên quản trị Hoa Kỳ “KTQT là quá trình
nhận diện, đo lường, phân tích, diễn giải và truyền đạt thông tin trong quá trình thực
hiện các mục đích của tổ chức. KTQT là một bộ phận thống nhất trong quá trình
quản lý, và nhân viên KTQT là những đối tác chiến lược quan trọng trong đội ngũ
quản lý của tổ chức”.


5
Theo giáo sư H.Bouquin Đại học Paris – Dauphin, trường phái KTQT Pháp,

“KTQT là một hệ thống thông tin định lượng cung cấp cho các nhà quản trị đưa ra
quyết định điều hành các tổ chức nhằm đạt hiệu quả cao”.
Theo Luật Kế toán Việt Nam “KTQT là việc thu thập, xử lý, phân tích và
cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài
chính trong nội bộ đơn vị kế toán”. (Luật Kế toán, khoản 3, điều 4)
KTQT là một bộ phận của hệ thống thông tin quản trị trong một tổ chức. Các
nhà quản lý dựa vào thông tin KTQT để điều hành và kiểm soát hoạt động của tổ
chức. (Ronald W.Hilton, 1991)
KTQT được định nghĩa theo nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên tất cả đều
thống nhất chung mục đích KTQT là cung cấp thông tin định lượng về tình hình
kinh tế - tài chính của doanh nghiệp cho các nhà quản trị và KTQT là một bộ phận
kế toán linh hoạt do doanh nghiệp xây dựng phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật,
tổ chức quản lý của doanh nghiệp.
Các định nghĩa trên tuy có sự khác nhau về hình thức, song đều có điểm cơ
bản giống nhau:
- KTQT là một bộ phận cấu thành trong hệ thống kế toán của doanh nghiệp;
- KTQT cung cấp thông tin định lượng về tình hình kinh tế - tài chính của
doanh nghiệp cho các nhà quản trị doanh nghiệp;
- KTQT là một bộ phận kế toán linh hoạt do doanh nghiệp xây dựng phù hợp
với đặc điểm kinh tế kỹ thuật, tổ chức quản lý của doanh nghiệp;
- KTQT là công cụ không thể thiếu được trong các doanh nghiệp kinh doanh
theo cơ chế thị trường vì nó là cơ sở khoa học để đưa ra các quyết định kinh doanh.
1.1.2. Mục tiêu của kế toán quản trị
Để thực hiện các công việc trong quá trình quản lý hoạt động của doanh
nghiệp, các nhà quản lý cần phải có thông tin. Trong môi trường kinh doanh hiện
nay, nhu cầu về thông tin trong công tác quản lý ngày càng đa dạng do áp lực từ sự
cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, trong đó thông tin về KTQT đóng vai trò
quan trọng. Nó không chỉ cung cấp những thông tin kinh tế tài chính tổng hợp phản



6
ánh những sự kiện kinh tế đã xảy ra mà còn cung cấp những thông tin kinh tế tài
chính cụ thể, chi tiết theo từng hoạt động, lĩnh vực, từng vấn đề, … để phục vụ cho
việc lập kế hoạch, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động và ra các quyết định.
Như vậy, KTQT ra đời với các mục tiêu chủ yếu sau:
- Cung cấp thông tin cho nhà quản lý trong việc lập kế hoạch và ra quyết định.
- Hỗ trợ các nhà quản trị trong việc điều hành và kiểm soát các mặt hoạt
động kinh doanh.
- Thúc đẩy các nhà quản trị đạt được mục tiêu của tổ chức.
- Đo lường hiệu quả hoạt động của các nhà quản lý và các bộ phận, đơn vị
trực thuộc trong doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của kế toán quản trị
Vai trò của KTQT ngày càng được khẳng định và nó được xem như là một
trong những công cụ phục vụ hữu hiệu nhất cho quản trị nội bộ doanh nghiệp. Để
thực hiện tốt công việc quản trị, từ khâu lập kế hoạch bao gồm việc xác định các
mục tiêu của doanh nghiệp cũng như xác định các phương pháp để đạt được các
mục tiêu đó, đến việc kiểm tra, phân tích và ra các quyết định, các nhà quản trị phải
cần đến rất nhiều thông tin. Trong đó, thông tin về tiềm lực và tổ chức nội bộ của
doanh nghiệp do KTQT cung cấp là bộ phận quan trọng nhất, quyết định chất lượng
của công tác quản trị. Có thể nói vai trò của KTQT gắn liền với các chức năng quản
trị: hoạch định, tổ chức, kiểm tra, đánh giá và ra quyết định. Mối liên hệ giữa mỗi
chức năng này thể hiện như sau:
Hoạch định

Đánh giá

Ra quyết
định

Kiểm tra


Tổ chức
thực hiện


7
- Chức năng hoạch định là xây dựng các mục tiêu phải đạt được và vạch ra
các bước thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Để hoạch định và xây dựng các kế
hoạch, nhà quản trị phải dự đoán nhằm tiên liệu trước mục tiêu, phương pháp, thủ
tục trên cơ sở khoa học. Trong công việc này, nhà quản trị phải liên kết các mục tiêu
cụ thể lại với nhau và chỉ rõ cách huy động, sử dụng các nguồn lực sẵn có, chức
năng này chỉ có thể được thực hiện tốt và có tính khả thi cao nếu nó được xây dựng
trên cơ sở các thông tin phù hợp, hợp lý do bộ phận kế toán quản trị cung cấp. Như
vậy kế toán quản trị phải cung cấp thông tin cần thiết để các nhà quản trị ra các
quyết định ngắn hạn và dài hạn, đáp ứng mục tiêu của tổ chức.
- Chức năng tổ chức là chức năng cơ bản của nhà quản trị, bao gồm việc thiết
lập cơ cấu tổ chức và truyền đạt thông tin về các kế hoạch đến những cá nhân có
trách nhiệm trong cơ cấu tổ chức để thực hiện kế hoạch đó. Để thực hiện chức năng
này, nhà quản trị phải liên kết giữa các bộ phận, giữa các cá nhân nhằm huy động và
kết hợp các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp lại với nhau để có thể thực hiện
được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả. Vì thế, nhà quản trị phải sử dụng tổng
hợp các thông tin khác nhau do nhiều bộ phận cung cấp, bao gồm cả thông tin bên
trong và bên ngoài, thông tin định tính và định lượng, trong đó kế toán quản trị sẽ
cung cấp chủ yếu các thông tin liên quan đến kinh tế, tài chính. Kế toán quản trị sẽ
dự đoán nhiều tình huống khác nhau của các phương án để nhà quản trị xem xét đề
ra các quyết định trong quá trình tổ chức thực hiện theo các mục tiêu chung.
- Chức năng kiểm tra và đánh giá: Sau khi triển khai thực hiện các kế hoạch,
công việc kiểm tra, kiểm soát nhằm đánh giá và điều chỉnh có vị trí rất quan trọng.
Căn cứ vào các chỉ tiêu về kết quả thực hiện đối chiếu với kế hoạch để kiểm tra và
đánh giá tình hình thực hiện của doanh nghiệp. Thông qua đó để phân tích và thu

nhận các thông tin phục vụ cho quá trình kinh doanh tiếp theo.
Thực hiện quá trình kiểm tra, đánh giá thường là so sánh để thấy được sự
khác nhau giữa thực hiện với kế hoạch, từ đó chỉ ra những vấn đề còn tồn tại cần
giải quyết hoặc các cơ hội cần khai thác để có thể điều chỉnh quá trình thực hiện bảo
đảm cho doanh nghiệp hoạt động đạt được các mục tiêu đề ra.


8
- Chức năng ra quyết định: Đây là chức năng cơ bản nhất của thông tin kế
toán quản trị. Dựa vào nguồn thông tin thu thập, thông qua phân tích, chọn lọc
thông tin để đưa ra quyết định với từng hoạt động cụ thể của quá trình kinh doanh
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí … Để cung cấp thông tin
cho các nhà quản trị ra quyết định đòi hỏi kế toán quản trị thực hiện các nghiệp vụ
phân tích chuyên môn, chọn lọc những thông tin cần thiết, thích hợp, vận dụng các
kỹ thuật phân tích vào các tình huống khác nhau để có thể giúp các nhà quản trị có
quyết định thích hợp nhất.
Ra quyết định là công việc thường xuyên của nhà quản trị, xuyên suốt từ
khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến khâu kiểm tra, đánh giá và nó có ảnh
hưởng đến kết quả cuối cùng của doanh nghiệp, do đó thông tin kế toán quản trị
thường chủ yếu phục vụ cho quá trình này. Việc ra quyết định thường dựa trên cơ sở
tổng hợp nhiều nguồn thông tin khác nhau, nhưng trong đó thông tin KTQT luôn có
vai trò quan trọng. Các nhà quản trị thường đứng trước nhiều phương án kinh doanh
khác nhau, mỗi phương án thường bao gồm nhiều thông tin rất đa dạng. Do vậy đòi
hỏi kế toán quản trị phải tổng hợp, phân tích và chọn lọc thông tin và thể hiện dưới
dạng tóm tắt, qua đó các nhà quản trị có thể nhìn nhận những khả năng tiềm tàng và
những cơ hội để đưa ra quyết định chọn phương án tối ưu.
1.2. Kế toán quản trị doanh thu trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái quát về doanh thu
Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu
được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường

của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
Doanh thu bán hàng là số tiền về sản phẩm, hàng hóa, lao vụ, dịch vụ đã tiêu
thụ hoặc thực hiện cho khách hàng theo giá thỏa thuận.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tiến hành nhiều loại hoạt
động SXKD khác nhau, trong mỗi loại hoạt động lại có thể bao gồm nhiều loại hàng
hóa, lao vụ, dịch vụ khác nhau. Toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được chia thành:


9
- Hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường: được hiểu là hoạt động sản
xuất tiêu thụ sản phẩm; hoạt động mua bán hàng hóa và thực hiện cung cấp lao vụ
dịch vụ. Trong từng hoạt động trên lại có thể bao gồm nhiều nghiệp vụ khác nhau.
- Hoạt động tài chính: là hoạt động liên quan đến nghiệp vụ đầu tư tài chính
ngắn hạn, dài hạn như đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh, cho vay, kinh doanh
bất động sản …
- Hoạt động khác: là những nghiệp vụ không phát sinh một cách thường
xuyên trong doanh nghiệp như nghiệp vụ bồi thường, tiền phạt vi phạm hợp đồng,
thanh lý, nhượng bán TSCĐ …
Tương ứng với từng loại hoạt động kinh doanh trên, hình thành các loại
doanh thu sau:
- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (thuộc hoạt động SXKD thông
thường)
- Doanh thu hoạt động tài chính
- Thu nhập khác.
1.2.2. Lập dự toán doanh thu trong doanh nghiệp
Dự toán doanh thu được xây dựng trên cơ sở dự báo về tiêu thụ và giá bán kế
hoạch. Dự báo tiêu thụ khác với dự toán tiêu thụ. Dự báo tiêu thụ là dự báo bằng
các kỹ thuật khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp trong tương lai. Thông thường
những số liệu dự báo này sẽ được các nhà quản lý điều chỉnh, tính toán lại để có dự

toán tiêu thụ. Chính vì vậy số liệu của dự toán tiêu thụ thường khác với kết quả dự
báo tiêu thụ. Để đảm bảo các hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp được dự báo
chính xác, doanh nghiệp cần quan tâm đến các nhân tố như tình hình tiêu thụ trong
những kỳ trước, giá cả, tình hình của các đối thủ cạnh tranh, chính sách quảng cáo,
tiếp thị, … Các nhân tố này phải được xem xét cụ thể và vận dụng các công cụ kế
toán để xây dựng được con số dự báo hợp lý nhất.
Dự toán tiêu thụ là khởi đầu của quá trình lập dự toán. Tiêu thụ được đánh
giá là khâu thể hiện chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Hơn nữa, về mặt lý
thuyết tất cả các dự toán khác của doanh nghiệp suy cho cùng đều dựa vào loại dự


10
toán tiêu thụ. Dự toán tiêu thụ chi phối đến các dự toán khác, nếu xây dựng không
chính xác sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của dự toán tổng thể doanh nghiệp. Dự toán
tiêu thụ được lập trên cơ sở dự báo tiêu thụ. Dự toán tiêu thụ bao gồm những thông
tin về chủng loại, số lượng hàng bán, giá bán và cơ cấu sản phẩm tiêu thụ.
Dự toán
doanh thu

=

Dự toán sản
phẩm tiêu thụ

x

Đơn giá bán
theo dự toán

Sau khi xác lập được mục tiêu chung của dự toán tiêu thụ, dự toán còn có

trách nhiệm chi tiết hóa cho từng thời kỳ, từng bộ phận. Việc xem xét khối lượng
tiêu thụ theo thời kỳ còn dựa vào chu kỳ sống của sản phẩm. Nếu sản phẩm của
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi tính thời vụ thì khi xây dựng dự toán phải tính
toán đầy đủ mức ảnh hưởng này và có phương pháp tính toán đến tính thời vụ trong
các phương pháp dự báo. Một trong những phương tiện giúp đỡ cho các dự báo này
là việc phân tích dữ liệu quá khứ theo luồng được thành lập dựa trên nhiều thời kỳ
khác nhau.
Trên cơ sở mục tiêu theo từng thời kỳ của doanh nghiệp, dự toán doanh thu phải
được lập cụ thể theo từng đơn vị, bộ phận, từng sản phẩm. Như vậy nó không
những giúp đỡ nhà quản trị trong việc tổ chức thực hiện mà còn cho phép đánh giá
kết quả và thành tích của các đơn vị, bộ phận đồng thời so sánh kết quả thực hiện và
mục tiêu đạt được.
1.2.3. Tổ chức thông tin về kế toán doanh thu
Để có thể thu thập thông tin về kế toán chi tiết doanh thu cần phải:
- Xây dựng hệ thống chứng từ kế toán: khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho
khách hàng doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các chứng từ, hóa đơn đơn theo quy
định (hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ, các hợp đồng, bảng kê hàng hóa, dịch vụ bán
lẻ…)
- Vận dụng tài khoản kế toán để chi tiết doanh thu: TK 511 “doanh thu bán
hàng và cung cấp dịch vụ” được sử dụng để phản ánh doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ. Đối với các doanh nghiệp có thực hiện tiêu thụ nội bộ, thì doanh thu


11
bán hàng nội bộ được phản ánh trên TK 512 "Doanh thu bán hàng nội bộ". Các tài
khoản này có thể được mở thành các tài khoản cấp 2, 3, … tương ứng tùy theo yêu
cầu quản trị của mỗi doanh nghiệp.
Sổ chi tiết doanh thu được mở riêng cho từng loại hoạt động, từng hàng hóa,
dịch vụ. Tùy theo yêu cầu quản trị doanh thu của từng doanh nghiệp mà sổ chi tiết
có thể mở theo kết cấu không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, các sổ chi tiết

doanh thu phải đảm bảo các nội dung chính sau: Ngày tháng ghi sổ; số hiệu và ngày
lập chứng từ; nội dung; tài khoản đối ứng; số lượng; đơn giá; thành tiền của sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ; các khoản giảm trừ doanh thu.
1.2.4. Kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện dự toán doanh thu
Việc kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện dự toán doanh thu có ý nghĩa
quan trọng giúp cho nhà quản trị doanh nghiệp nắm rõ về về hoạt động kinh doanh,
các nhân tố gây biến động doanh thu thực hiện, đồng thời qua đó có thể kiểm soát
được doanh thu phát sinh trong kỳ.
Để kiểm soát được doanh thu cần xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân
tố đơn giá bán, khối lượng tiêu thụ đến biến động doanh thu của đơn vị. Qua đó xác
định trách nhiệm của mỗi bộ phận cũng như các nguyên nhân cụ thể ảnh hưởng đến
doanh thu thông qua các nhân tố.
Biến động doanh
=
thu
Trong đó:
Ảnh hưởng về
lượng đến biến =
động doanh thu

Ảnh hưởng về lượng đến
biến động doanh thu

Số hàng hóa
tiêu thụ thực tế

+

Số hàng hóa
tiêu thụ dự

toán

Ảnh hưởng về giá đến
biến động doanh thu

x

Đơn giá bán
hàng hóa theo
dự toán

Ảnh hưởng về lượng âm là biểu hiện không tốt, có thể do nhiều nguyên nhân
như: doanh nghiệp không bán được hàng hóa, dịch vụ do chất lượng hàng hóa, dịch
vụ không tốt, công việc giao nhận, thanh toán còn nhiều bất cập, thị phần của doanh


12
nghiệp đã bắt đầu giảm, sức cạnh tranh kém, … Ngược lại, nếu ảnh hưởng về lượng
dương chứng tỏ doanh nghiệp có số lượng hàng hóa, dịch vụ bán vượt trên dự
toán. Ảnh hưởng này có thể có nhiều nguyên nhân nhưng khi kiểm tra, đánh giá
chú ý đến việc động viên, cổ động cho bộ phận bán hàng, không nên cứ thấy thấy
sản lượng bán tăng lại tăng dự toán bán hàng thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của
doanh nghiệp.
Ảnh hưởng về giá
đến biến động =
doanh thu

Đơn giá
bán thực tế -


Đơn giá bán
dự toán

x

Số hàng hóa
tiêu thụ thực tế

Tương tự như ảnh hưởng về lượng, khi kiểm tra, đánh giá biến động về giá
cũng cần phải nghiên cứu cụ thể nhằm xác định chính xác các nguyên nhân để có
những giải pháp khắc phục.
1.3. Kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp
1.3.1. Khái niệm và phân loại chi phí
1.3.1.1. Khái niệm chi phí
Xét từ phương diện kế toán, thông tin chủ yếu nhất mà KTQT xử lý và cung
cấp cho các nhà quản trị là thông tin về chi phí. Trong quá trình kinh doanh của các
doanh nghiệp, chi phí thường xuyên phát sinh, gắn liền với mọi hoạt động và có ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được. Hơn nữa, trên giác độ quản lý, chi phí phần
lớn phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp, chịu sự chi phối chủ quan của nhà quản trị,
do vậy, để có thể hiểu rõ bản chất của chi phí nhằm kiểm soát và quản lý tốt chi phí
là mối quan tâm hàng đầu của họ.
Chi phí được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, tùy theo mục đích và quan
điểm của người nghiên cứu.
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế chính trị thì chi phí kinh doanh đó là sự
tiêu hao về lao động sống và lao động vật hóa của doanh nghiệp trong một thời kỳ
nhất định. Lao động sống là chi phí về nhân công trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Lao động vật hóa là chi phí về khấu hao các tài sản cố định, nguyên vật liệu,


13

… Tất cả các khoản chi phí đó tạo ra giá trị sản phẩm, dịch vụ trong kỳ hoạt động
để đổi lấy kết quả thu về nhằm thỏa mãn các mục tiêu khác nhau.
- Theo quan điểm của các nhà quản trị thì chi phí kinh doanh đó là sự mất đi
của nguyên vật liệu, tiền công, dịch vụ mua ngoài và các khoản chi phí khác để tạo
ra các kết quả của một tổ chức hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường các nhà quản trị thường quan tâm tới nhu cầu của
khách hàng để sản xuất các sản phẩm, dịch vụ với chất lượng cao và chi phí thấp,
nhằm tối đa hóa các mục tiêu lợi nhuận.
- Dưới góc độ của kế toán tài chính, chi phí được coi là những khoản phí tổn
phát sinh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ hạch toán. Theo
kế toán tài chính có những khoản chi phí phát sinh của kỳ này nhưng không được
tính vào chi phí trong kỳ để xác định kết quả hoặc ngược lại có những khoản chi phí
chưa phát sinh của kỳ này nhưng đã được tính vào chi phí trong kỳ để xác định.
- Dưới góc độ của kế toán quản trị chi phí được coi là những khoản phí tổn
thực tế gắn liền với các phương án, sản phẩm, dịch vụ. Chi phí kinh doanh theo
quan điểm của kế toán quản trị bao giờ cũng mang tính cụ thể nhằm xem xét hiệu
quả của các bộ phận như thế nào, đó chính là cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư,
chọn phương án tối ưu.
Qua trên ta thấy có nhiều quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau về chi phí,
song đều có điểm chung nhất đó là sự tiêu hao của các yếu tố sản xuất, các nguồn
lực sau một kỳ hoạt động để tạo ra các kết quả thu về.
Vậy, chi phí kinh doanh đó chính là sự tiêu hao các yếu tố sản xuất, các
nguồn lực trong một tổ chức hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định.
Bản chất của chi phí đó là sự mất đi của các nguồn lực để đổi lấy các kết quả thu về
nhằm thỏa mãn các mục tiêu hoạt động.
1.3.1.2. Phân loại chi phí
Trong kế toán quản trị, chi phí được phân loại và sử dụng theo nhiều cách
khác nhau nhằm cung cấp những thông tin phù hợp với nhu cầu đa dạng trong các
thời điểm khác nhau của quản lý nội bộ doanh nghiệp. Thêm vào đó, chi phí phát



14
sinh trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau (sản xuất, thương mại, dịch vụ)
cũng có nội dung và đặc điểm khác nhau.
a) Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế của chi phí
Theo cách phân loại này những khoản chi phí có chung tính chất kinh tế
được xếp chung vào một yếu tố, không kể chi phí đó phát sinh ở địa điểm nào và
dùng vào mục đích gì trong sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này chi phí
sản xuất được chia thành 6 yếu tố :
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu
- Chi phí nhân công
- Chi phí công cụ, dụng cụ
- Chi phí khấu hao TSCĐ
- Chi phí dịch vụ mua ngoài
- Chi phí khác bằng tiền
b) Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Theo cách phân loại này, chi phí được được chia thành chi phí sản xuất và
chi phí ngoài sản xuất.
-

Chi phí sản xuất: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc sản xuất ra sản

phẩm hoặc dịch vụ cung cấp của doanh nghiệp trong một kỳ nhất định. Chi phí sản
xuất có thể hiểu đó là sự tiêu hao của các yếu tố sản xuất như lao động, máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu và các chi phí khác để tạo ra giá thành của sản phẩm hay
dịch vụ trong kỳ. Chi phí sản xuất thường được chia thành ba khoản mục cơ bản:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là chi phí của các loại nguyên vật liệu
cấu thành nên thực thể của sản phẩm và có thể nhận diện mức sử dụng một cách
tách biệt cho từng sản phẩm và được thẳng cho từng đơn vị sản phẩm, dịch vụ.
+ Chi phí nhân công trực tiếp là tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích

theo lương của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Chi phí nhân công trực
tiếp, giống như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể nhận diện cho từng sản phẩm
dựa trên định mức hao phí lao động cho từng sản phẩm nên cũng được tính cho
từng sản phẩm, dịch vụ.


15
+ Chi phí sản xuất chung: gồm chi phí vật liệu gián tiếp và chi phí nhân công
gián tiếp. Chi phí vật liệu gián tiếp gồm chi phí của các loại vật liệu, nhiên liệu cần
thiết để hoạt động trôi chảy, và chi phí của các loại vật liệu cấu thành sản phẩm
nhưng giá trị nhỏ, và không thể xác định tách biệt cho từng sản phẩm. Chi phí nhân
công gián tiếp là tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích theo lương của bộ
phận nhân viên làm việc ở bộ phận sản xuất sản phẩm, cần thiết cho hoạt động sản
xuất nhưng không trực tiếp sản xuất sản phẩm như quản đốc phân xưởng, nhân viên
bảo trì …
Ngoài chi phí vật liệu gián tiếp và nhận công gián tiếp, chi phí sản xuất
chung còn bao gồm nhiều khoản chi phí khác cần thiết cho hoạt động sản xuất như
chi phí khấu hao máy móc thiết bị, nhà xưởng, chi phí điện, nước, …
- Chi phí ngoài sản xuất: là chi phí không làm tăng giá trị sản phẩm sản xuất
nhưng cần thiết để hoàn thành quá trình sản xuất, kinh doanh, liên quan đến quá
trình quản lý và tiêu thụ gồm: chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: bao gồm tất cả các chi phí phục vụ cho công
tác tổ chức và quản lý quá trình sản xuất kinh doanh nói chung trên giác độ toàn
doanh nghiệp. Khoản mục này bao gồm các chi phí như: chi phí văn phòng, tiền
lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý doanh nghiệp, khấu hao
tài sản cố đinh của doanh nghiệp, các chi phí dịch vụ mua ngoài khác, …
+ Chi phí bán hàng: bao gồm các chi phí phát sinh phục vụ cho khâu tiêu thụ
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ như : chi phí vận chuyển, chi phí bao bì, khấu hao các
phương tiện vận chuyển, tiền lương của nhân viên bán hàng, hoa hồng bán hàng, chi
phí tiếp thị quảng cáo, …

c) Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Mục đích của việc phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí trong
KTQT là để kiểm soát và dự toán chi phí nhằm tìm ra các biện pháp quản lý chi phí
có hiệu quả cao nhất. Theo cách phân loại này, các chi phí được phân thành biến
phí, định phí và chi phí hỗn hợp.


16
- Biến phí (chi phí biến đổi): là những khoản mục chi phí mà tổng của nó
quan hệ tỷ lệ thuận với sự thay đổi của mức độ hoạt động. Tuy nhiên có loại chi phí
biến đổi tỷ lệ thuận trực tiếp với biến động của mức độ hoạt động như chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp … nhưng có chi phí biến đổi
chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều và rõ ràng như chi phí lao động
gián tiếp, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị …
+ Biến phí tỷ lệ: là các khoản biến phí hoàn toàn tỷ lệ thuận với kết quả sản
xuất hoặc quy mô hoạt động.
+ Biến phí bậc thang: là loại biến phí mà tổng của nó chỉ biến động khi mức
hoạt động biến động nhiều và rõ ràng. Biến phí bậc thang không đổi khi mức hoạt
động căn cứ thay đổi ít
- Định phí (chi phí cố định): là những khoản chi phí mà tổng số không thay
đổi khi có sự thay đổi mức độ hoạt động, nhưng chi phí trung bình của một đơn vị
hoạt động thì thay đổi tỷ lệ nghịch với mức biến động của mức hoạt động. Chi phí
cố định không thay đổi về tổng số trong phạm vi phù hợp của mức độ hoạt động (ví
dụ chi phí khấu hao thiết bị sản xuất sẽ không thay đổi trong phạm vi khối lượng
sản xuất từ 0 đến 2000 tấn). Nhưng nếu mức độ hoạt động tăng vượt quá phạm vi
phù hợp đó thì chi phí khấu hao máy móc thiết bị sản xuất sẽ tăng vì phải đầu tư
thêm máy móc thiết bị sản xuất.
- Chi phí hỗn hợp là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố của chi
phí cố định và chi phí biến đổi như chi phí điện thoại, fax, chi phí thuê phương tiện
vận chuyển …

Việc phân loại chi phí thành chi phí cố định, chi phí biến đổi và chi phí hỗn
hợp tùy thuộc vào quan điểm nhìn nhận của từng nhà quản trị trong mục tiêu sử
dụng cụ thể. KTTC không phân chia theo tiêu thức này nhưng nó lại rất cần thiết
cho KTQT, giúp nhà quản trị có cách nhìn nhận chi phí, sản lượng và lợi nhuận để
có quyết định quản lý phù hợp về số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, về giá
bán sản phẩm trong từng giai đoạn cụ thể, về việc nhận đơn đặt hàng mới với giá
thấp hơn giá đang bán …


17
1.3.2. Dự toán chi phí trong doanh nghiệp
1.3.2.1. Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong giá thành dịch vụ thực hiện mang tính
chất biến phí. Do vậy, tổng mức chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tỷ lệ với số lượng
dịch vụ thực hiện, đây là nhân tố quan trọng giúp cho quá trình xây dựng dự toán
nhanh và chính xác.
Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp cần thiết để đáp ứng yêu cầu thực hiện dịch vụ đã được thể hiện trên
dự toán số lượng dịch vụ du lịch thực hiện.
Để xây dựng dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường dựa vào những
cơ sở sau:
- Định mức tiêu hao vật liệu để thực hiện 1 dịch vụ du lịch.
- Đơn giá dự toán nguyên vật liệu sử dụng. Thông thường đơn giá nguyên vật
liệu khi lập dự toán ổn định trong cả một kỳ, tuy nhiên, đơn giá vật liệu cũng phụ
thuộc vào các phương pháp tính giá vốn NVL xuất kho.
- Dự toán về số lượng dịch vụ thực hiện trong kỳ.
Từ những thông tin trên, ta xác định dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
cho các dịch vụ.
Dự toán chi phí
NVL trực tiếp

Trong đó:
Dự toán lượng
nguyên vật liệu sử
dụng

=

Dự toán lượng vật
liệu sử dụng

=

Dự toán số lượng
dịch vụ thực hiện

x

Đơn giá xuất
nguyên vật

x

Định mức tiêu
hao nguyên vật
liệu

Trong trường hợp doanh nghiệp sử dụng nhiều loại vật liệu có đơn giá khác
nhau để sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau thì công thức xác định chi phí vật
liệu như sau:
CPVL =


n

m

i

j

∑∑ QiMijGj

Với: Mij là mức hao phí vật liệu j để thực hiện dịch vụ i


18
Gj là đơn giá vật liệu loại j
Qi là số lượng dịch vụ i dự toán thực hiện
1.3.2.2. Dự toán chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp trong giá thành dịch vụ thường mang tính chất
biến phí. Dự toán này cung cấp những thông tin quan trọng liên quan đến quy mô
của lực lượng lao động cần thiết cho kỳ dự toán. Mục tiêu cơ bản của dự toán này là
duy trì lực lượng lao động vừa đủ để đáp ứng yêu cầu thực hiện dịch vụ, tránh tình
trạng lãng phí sử dụng lao động. Dự toán lao động còn là cơ sở để doanh nghiệp lập
dự toán về đào tạo, tuyển dụng trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Để xây dựng dự toán chi phí nhân công trực tiếp doanh nghiệp phải dựa vào
số lượng nhân công, quỹ lương, cách phân phối lương và nhiệm vụ của doanh
nghiệp.
Đối với biến phí nhân công trực tiếp, để lập dự toán doanh nghiệp cần xây dựng:
- Định mức lao động để thực hiện dịch vụ.
- Tiền công cho từng giờ lao động hoặc cho từng dịch vụ nếu doanh nghiệp

trả lương theo sản phẩm.
Và chi phí nhân công trực tiếp cũng được xác định tương tự:
m

CPNCTT =

n

∑∑ QiMijGj
i

m

hoặc CPNCTT =

j

∑ QiLi
i

Với: Mij là mức hao phí lao động trực tiếp loại j để thực hiện một dịch vụ i
Gj là đơn giá lương của lao động loại j
Lj là đơn giá lương tính cho mỗi dịch vụ
Qi là số lượng dịch vụ i dự toán thực hiện.
1.3.2.3. Dự toán chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung là các khoản chi phí quản lý và phục vụ cho quá trình
thực hiện dịch vụ. Chi phí này thường bao gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu tố thể hiện
nội dung kinh tế của chi phí như lương nhân viên quản lý bộ phận trực tiếp, chi phí
vật liệu, chi phí công cụ, chi phí khấu hao tài sản cố định, phí dịch vụ mua ngoài…
của các bộ phận trực tiếp kinh doanh. Ta có thể xây dựng dự toán theo từng yếu tố.



19
Song mỗi yếu tố phụ thuộc ít nhiều vào quy mô hoạt động, do vậy, dự toán theo
cách thức này thường phức tạp, thường chỉ phù hợp với các doanh nghiệp có quy
mô vừa và nhỏ.
Mặt khác ta có thể xây dựng dự toán chi phí sản xuất chung dựa vào nghiên
cứu bản chất của từng yếu tố trong khoản mục này. Mỗi yếu tố thuộc chi phí sản
xuất chung vừa mang tính chất biến phí và định phí. Do vậy, việc xây dựng dự toán
chi phí sản xuất chung cần phải tách biệt các yếu tố mang tính chất biến phí và các
yếu tố mang tính chất định phí.
Dự toán chi phí sản xuất chung được xác định như sau:
Dự toán chi phí sản xuất
Dự toán định phí sản
Dự toán biến phí sản
=
+
chung
xuất chung
xuất chung
Biến phí sản xuất chung có thể được xây dựng theo từng yếu tố chi phí cho
một đơn vị hoạt động (chi phí vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp, …).
Tuy nhiên thường cách làm này khá phức tạp, tốn nhiều thời gian. Do vậy khi dự
toán chi phí này, người ta thường xác lập biến phí sản xuất chung cho từng đơn vị
hoạt động.
Dự toán biến phí sản

=

Dự toán biến phí đơn vị


x

Số lượng dịch vụ thực

xuất chung
SXC
hiện theo dự toán
Dự toán biến phí cũng có thể được lập theo tỷ lệ trên biến phí trực tiếp, khi
đó biến phí SXC dự toán sẽ xác định:
Dự toán biến phí

=

Dự toán biến trực tiếp

x

Tỷ lệ biến phí

sản xuất chung
theo dự kiến
Dự toán định phí sản xuất chung cần thiết phải phân biệt định phí bắt buộc
và định phí tùy ý. Đối với định phí bắt buộc, trên cơ sở định phí chung cả năm chi
đều cho 4 quý nếu là dự toán quý, hoặc chia đều cho 12 tháng nếu là dự toán tháng.
Còn đối với định phí tùy ý thì phải căn cứ vào kế hoạch của nhà quản trị trong kỳ
dự toán. Dự toán định phí hàng năm có thể được lập dựa vào mức độ tăng giảm liên
quan đến việc trang bị, đầu tư mới ở doanh nghiệp.
Dự toán định phí sản
xuất chung


=

Định phí SXC thực tế
của kỳ trước

x

Tỷ lệ % tăng, giảm
định phí SXC dự kiến


×