Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị tại công ty cổ phần kỹ thuật thủy sản (SEATECCO)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.69 KB, 110 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang trong giai đoạn những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ đã có
nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực: khoa học, công nghệ, thông tin, sinh học…đặc
biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông
tin trên thế giới đã làm thúc đẩy sự phát triển của nhiều hoạt động khác, đặc biệt là
hoạt động sản xuất kinh doanh. Diệt vong hay tồn tại, thắng lợi hay thất bại, điều đó
trong giai đoạn hiện nay có thể nói là phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố thông tin. Vì
vậy, các công ty, các doanh nghiệp thuộc mọi ngành, mọi thành phần kinh tế luôn
phải suy nghĩ, tìm giải pháp làm thế nào để có thể thu được thông tin một cách
nhanh nhất, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu như kế toán tài chính có mục đích là cung cấp thông tin phục vụ cho
việc lập các báo cáo tài chính và phải tôn trọng những nguyên tắc kế toán được thừa
nhận và sử dụng phổ biến, thì kế toán quản trị nhấn mạnh việc cung cấp thông tin
cho việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của người quản lý.
Đối với công ty xây lắp, với đặc thù sản phẩm mang tính đơn chiếc, giá trị
lớn và thời gian thi công dài nên đặt ra yêu cầu trước khi thực hiện thi công, xây lắp
cần phải có dự toán. Dự toán biểu thị giá xây dựng công trình trên cơ sở thiết kế kỹ
thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công được xác định trong giai đoạn thực hiện dự án
đầu tư xây dựng công trình. Việc tập hợp chi phí thực tế phát sinh, đối chiếu với dự
toán là một công việc thường xuyên và cần thiết của kế toán để kiểm tra chi phí phát
sinh đó có phù hợp với dự toán hay không cũng như để kiểm tra tính hiệu quả trong
việc quản trị chi phí.
Do đặc điểm thời gian thi công kéo dài nên việc theo dõi chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm ở công ty xây lắp không chỉ dừng lại ở việc tập hợp và theo dõi
chi phí phát sinh trong năm tài chính mà còn phải theo dõi chi phí phát sinh, giá
thành và doanh thu lũy kế qua các năm kể từ khi công trình bắt đầu khởi công cho
đến thời điểm hiện tại.



2
Mặt khác, công ty xây lắp thực hiện thi công nhiều công trình ở nhiều địa
điểm khác nhau thường có những đơn vị hạch toán phụ thuộc như xí nghiệp, đội thi
công… không có con dấu riêng, không có tư cách pháp nhân, được giao thực hiện
một phần hoặc toàn bộ công trình của công ty nhận từ chủ đầu tư. Yêu cầu công tác
kế toán trong trường hợp này là cung cấp các thông tin quản trị về tình hình tiền chủ
đầu tư chuyển về, tiền các đơn vị phụ thuộc được tạm ứng, tiền lãi tính cho các đơn
vị phụ thuộc này. Tùy theo quy định của công ty xây lắp mà số tiền giữ lại, lãi suất
và cách tính lãi cho đơn vị phụ thuộc sẽ khác nhau.
Xuất phát từ những đặc điểm tổ chức sản xuất như trên trong các doanh
nghiệp xây lắp có thể thấy rằng việc cung cấp thông tin chính xác cho các nhà quản
trị là rất cần thiết nhằm giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp để có thể hoạch
định nên các chiến lược, chính sách phù hợp và ra các quyết định đúng đắn cho
doanh nghiệp.
Với ý nghĩa này, tác giả đã đi đến lựa chọn đề tài: “Tổ chức hệ thống thông
tin kế toán quản trị tại Công ty Cổ phần Kỹ thuật thủy sản (SEATECCO)”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về tổ chức hệ thống thông tin kế toán nói
chung, hệ thống thông tin kế toán quản trị của doanh nghiệp nói riêng.
- Nhận thức rõ thực trạng và nhu cầu cung cấp thông tin kế toán quản trị
phục vụ cho việc điều hành và quản trị tại một doanh nghiệp cụ thể là Công ty cổ
phần Kỹ thuật thuỷ sản (SEATECCO)
- Đề xuất phương án tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị tại Công ty
cổ phần Kỹ thuật thuỷ sản (SEATECCO) nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản trị
và hoạt động kinh doanh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống thông tin kế toán quản trị của doanh nghiệp
(chỉ liên quan đến hoạt động xây lắp cơ điện lạnh)
- Phạm vi nghiên cứu: Công ty cổ phần Kỹ thuật thuỷ sản (SEATECCO)

(chỉ nghiên cứu tại công ty mẹ).


3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến tổ chức hệ thống
thông tin kế toán quản trị của doanh nghiệp xây lắp.
- Khảo sát tình hình liên quan đến Công ty cổ phần Kỹ thuật thuỷ sản
(SEATECCO) và công tác tổ chức thông tin kế toán quản trị:
o Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty.
o Nhu cầu thông tin kế toán quản trị của Công ty.
o Tình hình tổ chức bộ máy kế toán quản trị của Công ty.
- Thiết kế hệ thống thông tin kế toán quản trị của Công ty cổ phần Kỹ thuật
thuỷ sản (SEATECCO) và giải pháp triển khai thực hiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát thực tế: Dựa vào những câu hỏi, những vấn đề đặt ra
để tìm hiểu và thu thập các dữ liệu cần thiết để đánh giá thực trạng tổ chức hệ
thống thông tin kế toán quản trị.
- Phương pháp suy luận: Sử dụng phương pháp suy luận để giải thích và kết
luận vấn đề.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu:
-

So sánh giữa thực tiễn áp dụng kế toán quản trị trong SEATECCO và
lý thuyết đã nghiên cứu được.

-

So sánh giữa mục tiêu về kế toán quản trị phục vụ trong công tác quản
lý và thực tế Công ty đạt được để đánh giá việc tổ chức thông tin kế

toán quản trị tại Công ty.

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Một lần nữa khẳng định vai trò của hệ thống thông tin kế toán quản trị đối
với doanh nghiệp, cần được chú trọng và áp dụng vào thực tiễn.
- Chỉ ra sự cần thiết phải tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị tại
Công ty cổ phần Kỹ thuật thuỷ sản (SEATECCO).


4
- Vận dụng lý luận về hệ thống thông tin kế toán quản trị để triển khai áp
dụng cho một doanh nghiệp cụ thể kinh doanh đa ngành nghề mà vấn đề thông tin
phục vụ cho điều hành và quản trị đang là nhu cầu cấp thiết.
- Từ kết quả nghiên cứu này có thể tiếp tục mở rộng nghiên cứu áp dụng cho
các doanh nghiệp xây lắp khác và là nguồn tham khảo cho các doanh nghiệp có nhu
cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán quản trị, góp phần nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục…, luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống thông tin kế toán quản
trị trong doanh nghiệp xây lắp
Chương 2. Thực trạng tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị tại Công ty
cổ phần Kỹ thuật thuỷ sản (SEATECCO)
Chương 3. Một số giải pháp xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại
Công ty cổ phần Kỹ thuật thuỷ sản (SEATECCO)


5

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1.1. Khái niệm và bản chất của kế toán quản trị
Đối với một doanh nghiệp, đối tượng quan tâm đến thông tin của doanh
nghiệp rất đa dạng; tuy nhiên có thể chia làm 02 nhóm đối tượng chính:
- Những người ngoài doanh nghiệp
- Nội bộ doanh nghiệp
Đây là hai nhóm đối tượng khác nhau nên yêu cầu về thông tin được cung cấp
cũng khác nhau.
Kế toán tài chính (KTTC) sẽ cung cấp cho nhóm đối tượng bên ngoài thông
tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới dạng các báo cáo tài chính
(BCTC). Mục tiêu của các BCTC là cung cấp một bức tranh tổng thể về tình hình
tài chính của doanh nghiệp như tổng hợp về tình trạng và sự biến đổi của tài sản, cơ
cấu nguồn vốn, tình hình nợ, các khoản phải nộp, kết quả hoạt động kinh doanh và
phân phối kết quả hoạt động kinh doanh… Qua đó, các cơ quan quản lý Nhà nước
thực hiện được chức năng quản lý, kiểm soát và đánh giá hoạt động kinh doanh của
các ngành, các lĩnh vực; đồng thời các nhà đầu tư, ngân hàng… cũng có thể ra các
quyết định liên quan đến việc đầu tư và trợ cấp tài chính. Như vậy, thông tin từ
KTTC là công khai.
Khác với KTTC, kế toán quản trị (KTQT) là bộ phận cung cấp thông tin cho
những nhà quản lý tại doanh nghiệp thông qua các báo cáo kế toán nội bộ nhằm
giúp các nhà quản trị ra các quyết định điều hành sản xuất kinh doanh (SXKD) ở
doanh nghiệp [9, tr.16]. Tại mỗi doanh nghiệp, hoạt động SXKD gồm nhiều quá
trình và nhiều hoạt động khác nhau. Để điều hành một cách hiệu quả, các nhà quản
trị phải có thông tin về tình hình và kết quả của từng quá trình, từng hoạt động và


6
toàn bộ quá trình SXKD. Thông tin do KTQT cung cấp sẽ là cơ sở cho việc kiểm

tra, phân tích đánh giá các hoạt động, đánh giá hiệu quả kinh tế các dự án đầu tư và
lập kế hoạch kinh doanh của các nhà quản trị.
Khái niệm về KTQT được Hiệp hội kế toán Mỹ định nghĩa: “là quá trình định
dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, lập báo biểu, giải trình và thông đạt các số
liệu tài chính và phi tài chính cho ban quản trị để lập kế hoạch, theo dõi việc thực
hiện kế hoạch trong phạm vi nội bộ một doanh nghiệp, đảm bảo việc sử dụng có
hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này.” [9, tr.17]
Còn theo Luật kế toán Việt Nam thì “Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý,
phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết
định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán.” [10]
Thông tin do KTQT cung cấp đặt trọng tâm cho tương lai, đó là những
thông tin cần thiết một cách trực tiếp và thường xuyên đối với các nhà quản trị.
Yêu cầu của KTQT là phải xây dựng dự toán, thu nhận và xử lý các thông tin về
chi phí, giá thành, thu nhập và kết quả… của từng nhóm sản phẩm, sản phẩm,
đánh giá trách nhiệm quản lý các bộ phận; tiến hành phân tích kịp thời các thông
tin làm cơ sở cho việc đề ra những giải pháp, những quyết định đúng đắn để đối
phó kịp thời với những diễn biến của thị trường, sử dụng hiệu quả các nguồn lực
của doanh nghiệp.
KTQT có quan hệ chặt chẽ với KTTC trong việc sử dụng các số liệu kế toán
chi tiết, song KTQT không phải là kế toán chi tiết. Nhu cầu thông tin chính của các
nhà quản trị không chỉ là thông tin chi tiết mà phải là các bảng biểu, các bảng tóm
tắt, phân tích các thông tin chi tiết từ sổ sách kế toán. Khi sử dụng các báo cáo này,
nhà quản trị sẽ có được các thông tin mà họ quan tâm. KTQT sử dụng các phương
pháp riêng của mình để thiết kế, tổng hợp, phân tích và truyền đạt thông tin kế toán,
đặt chúng trong bối cảnh các mục tiêu đã được xác định với các tình huống khác
nhau nhằm cung cấp thông tin phù hợp, hữu ích theo yêu cầu của nhà quản trị. Nội


7
dung thông tin mà KTQT cung cấp cho nhà quản lý sẽ bổ sung cho phần thiếu sót

thông tin mà KTTC không cung cấp được.
1.1.2. Đặc điểm của kế toán quản trị
- Kế toán quản trị chủ yếu cung cấp dữ liệu, thông tin sử dụng để quản lý nội
bộ trong doanh nghiệp.
- Dữ liệu, thông tin kế toán quản trị chú trọng đến tính chi tiết, tỉ mỉ theo từng
đối tượng, bộ phận cụ thể.
- Thông tin kế toán quản trị cung cấp ngoài chỉ tiêu giá trị còn có thể chú trọng
đến chỉ tiêu hiện vật hay các chỉ tiêu khác tùy theo từng đối tượng (kế toán tài chính
chỉ cung cấp các chỉ tiêu giá trị).
- Kế toán quản trị cung cấp thông tin để phân tích, đánh giá tình hình để quản
trị kinh doanh hằng ngày và có các quyết định cho tương lai.
- Tổ chức kế toán quản trị sẽ tùy thuộc vào đặc điểm, yêu cầu và trình độ quản
lý của doanh nghiệp cũng như đặc điểm đối tượng kế toán cụ thể ở từng doanh
nghiệp. [2, tr.58]
1.1.3. Nội dung của kế toán quản trị
Theo Thông tư 53/2006/TT_BTC, nội dung chủ yếu và phổ biến của KTQT
trong doanh nghiệp gồm [1], [4], [7]:
- Lập dự toán ngân sách sản xuất, kinh doanh;
- KTQT chi phí và giá thành sản phẩm;
- Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận;
- Lựa chọn thông tin thích hợp cho việc ra quyết định.
1.1.3.1. Lập dự toán ngân sách sản xuất, kinh doanh
KTQT giúp cho việc lập dự toán ngân sách sản xuất kinh doanh. Hệ thống các
chỉ tiêu dự toán bao gồm:
- Chỉ tiêu dự toán tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ


8
- Chỉ tiêu dự toán sản lượng sản xuất sản phẩm, dịch vụ
- Chỉ tiêu dự toán chi phí sản xuất, dịch vụ

- Chỉ tiêu dự toán hàng tồn kho
- Chỉ tiêu dự toán chi phí bán hàng
- Chỉ tiêu dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp
- Chỉ tiêu dự toán vốn bằng tiền
- Chỉ tiêu dự toán Báo cáo kết quả sản xuất, kinh doanh
- Chỉ tiêu dự toán Bảng cân đối kế toán.
1.1.3.2. KTQT chi phí và giá thành sản phẩm
Với nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp thông tin toàn diện và đầy đủ về chi phí,
KTQT chi phí là công cụ hữu hiệu đáp ứng nhu cầu thông tin chi phí cho các nhà
quản trị để đưa ra các quyết định kinh doanh. Bởi lẽ, hầu hết các quyết định của nhà
quản trị đều liên quan đến chi phí.
Do vậy, việc nghiên cứu đặc điểm và nội dung của KTQT chi phí là việc làm
rất cần thiết đối với từng doanh nghiệp.
Doanh nghiệp căn cứ vào đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý để tổ chức
tập hợp chi phí theo từng trung tâm phát sinh chi phí theo các nội dung sau:
+ Phân loại chi phí trong KTQT (Xem hình 1.1)
Việc phân loại chi phí của doanh nghiệp là nhằm mục đích phục vụ cho quản
trị hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, do đó tùy thuộc vào mục đích,
yêu cầu quản trị của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, từng hoàn cảnh để lựa chọn
tiêu thức phân loại phù hợp
+ Phương pháp tập hợp chi phí
Doanh nghiệp cần lựa chọn các phương pháp tập hợp chi phí phù hợp theo
từng loại chi phí:
Phương pháp trực tiếp


9
Áp dụng cho trường hợp chi phí phát sinh chỉ liên quan đến một đối tượng
chịu chi phí. Theo phương pháp này thì chi phí của đối tượng nào được tập hợp trực
tiếp cho đối tượng đó.

Phương pháp phân bổ
Áp dụng cho trường hợp chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng chịu
chi phí. Khi thực hiện phương pháp phân bổ chi phí doanh nghiệp có thể lựa chọn
một trong các căn cứ phân bổ sau: Giờ công, ngày công, giờ máy hoạt động, diện
tích sử dụng… và phương pháp phân bổ là trực tiếp hoặc phân bổ theo cấp bậc.
+ Xác định trung tâm chi phí
Việc xác định trung tâm chi phí phụ thuộc vào quy trình sản xuất và quy mô
của từng loại doanh nghiệp. Các trung tâm chi phí thường được phân loại là:
- Trung tâm chính, như: Trung tâm mua hàng, trung tâm sản xuất (Các phân
xưởng, bộ phận sản xuất…)
- Trung tâm phụ, như: Trung tâm hành chính, quản trị; trung tâm kế toán, tài chính…
+ Trình tự kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
- Tập hợp chi phí (trực tiếp, gián tiếp và phân bổ)
- Tổng hợp chi phí, xử lý chênh lệch thừa, thiếu
- Kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang, xác định chi phí dở dang
- Xác định phương pháp tính giá thành áp dụng
- Lập báo cáo (thẻ tính) giá thành sản phẩm.
Sơ đồ hình 1.1 bên dưới cho thấy việc phân loại chi phí theo các quan điểm
của KTTC và KTQT. Từ đó cho thấy mối quan hệ cung cấp thông tin chi phí của
KTTC cho yêu cầu sử dụng thông tin của KTQT


10
CP sản xuất

CP ngoài sản xuất

CP thời kỳ

Theo nội dung

kinh tế

CP sản phẩm

Theo mối quan hệ giữa chi phí
với các khoản mục trên BCTC

Theo quan điểm KTTC

CHI PHÍ
Theo quan điểm KTQT
Theo mối quan hệ
với việc lập kế
hoạch và kiểm tra

Chi
phí
khả
biến

Chi
phí
bất
biến

Chi
phí
hỗn
hợp


Theo tính
chất chi
phí

Chi
phí
trực
tiếp

Chi
phí
gián
tiếp

Chi
phí
kiểm
soát
được

Theo yêu cầu sử dụng
chi phí trong việc lựa
chọn dự án đầu tư

Chi phí
không
kiểm
soát
được


Chi
phí
thích
hợp

Chi
phí
chênh
lệch

Chi
phí

hội

Chi
phí
chìm

Hình 1.1 Phân loại chi phí trong hoạt động kinh doanh
1.1.3.3. Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận
Mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận (C.V.P) là mối quan hệ giữa
các nhân tố giá bán, khối lượng (số lượng, mức độ hoạt động), kết cấu hàng bán chi
phí (cố định, biến đổi) và sự tác động của các nhân tố này đến lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp cần phân tích mối quan hệ này thông qua hệ thống chỉ tiêu phân
tích, gồm:
- Lãi tính trên biến phí đơn vị (còn gọi là số dư đảm phí)
- Tổng lãi tính trên biến phí
- Tỷ suất lãi tính trên biến phí



11
- Kết cấu chi phí
- Đòn bẩy kinh tế
- Điểm hoà vốn (sản lượng, doanh thu, công suất, thời gian hoà vốn…)
Việc phân tích mối quan hệ này giúp doanh nghiệp đưa ra được các quyết định
trong sản xuất, kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận như: Lựa chọn sản phẩm và
sản lượng sản xuất, xác định giá bán, định mức chi phí...
Việc phân tích thông qua mô hình C.V.P không chỉ giúp cho việc lựa chọn dây
chuyền sản xuất, định giá bán sản phẩm, xây dựng chiến lược tiêu thụ, chiến lược
marketing nhằm khai thác có hiệu quả SXKD của doanh nghiệp, mà còn giúp ích
nhiều cho việc xem xét rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3.4. Lựa chọn thông tin thích hợp cho việc ra quyết định
Ra quyết định là chức năng cơ bản của nhà quản trị doanh nghiệp. Quyết định
phổ biến ở doanh nghiệp gồm: Quyết định ngắn hạn và quyết định dài hạn.
Quyết định đầu tư ngắn hạn thường là: Quyết định loại bỏ hay kinh doanh 1 bộ
phận (sản phẩm), quyết định sản xuất hay mua ngoài, quyết định nên bán hay tiếp
tục sản xuất, quyết định trong điều kiện năng lực SXKD bị giới hạn...
Quyết định đầu tư dài hạn thường là: Quyết định đầu tư tài sản mới hay tiếp
tục sử dụng tài sản cũ; mở rộng quy mô sản xuất; thuê hay mua TSCĐ…
1.1.4. Kế toán quản trị với chức năng quản lý
Trách nhiệm của các nhà quản trị là điều hành và quản lý các mặt hoạt động
của doanh nghiệp. Các chức năng cơ bản của quản lý được khái quát bằng hình 1.2
sau:
Lập kế hoạch

Đánh giá

Ra quyết định


Thực hiện

Kiểm tra

Hình 1.2 Các chức năng cơ bản của quản lý


12
Qua sơ đồ này, ta có thể thấy sự liên tục của hoạt động quản lý từ khâu lập kế
hoạch đến thực hiện, kiểm tra, đánh giá rồi sau đó quay lại khâu lập kế hoạch cho
kỳ sau, tất cả đều xoay quanh trục ra quyết định.
Mối quan hệ giữa chức năng quản lý với quá trình kế toán quản trị được thể
hiện qua hình 1.3
Chức năng quản lý
Xác định mục tiêu

Quá trình kế toán quản trị
Chính thức hóa thành các chỉ tiêu kinh tế

Lập kế hoạch

Lập dự toán chung, chi tiết

Tổ chức thực hiện

Thu nhận kết quả thực hiện

Kiểm tra đánh giá


Soạn thảo báo cáo kế toán quản trị

Hình 1.3 Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa chức năng quản lý với quá trình KTQT
Như vậy, để làm tốt chức năng quản lý, nhà quản trị phải có thông tin cần
thiết có thể ra quyết định đúng đắn. KTQT sẽ là nguồn chủ yếu, dù không phải là
duy nhất, cung cấp nhu cầu thông tin đó. Vai trò của KTQT thể hiện trong các khâu
của quá trình quản lý được thể hiện cụ thể như sau:
 Trong giai đoạn lập kế hoạch và dự toán
Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu và vạch ra các bước thực hiện để đạt
được những mục tiêu đó. Dự toán cũng là một kế hoạch nhằm liên kết các mục tiêu
và chỉ rõ cách huy động, sử dụng các nguồn lực để có thể đạt các mục tiêu đề ra. Để
chức năng lập kế hoạch và dự toán được thực hiện tốt, đảm bảo tính khoa học và
khả thi thì phải dựa trên những thông tin đầy đủ, thích hợp và có cơ sở. KTQT sẽ
cung cấp cho các nhà quản trị các thông tin đó để lựa chọn phương án tối ưu nhất,
như chọn được sản phẩm sinh lợi cao nhất, huy động các nguồn lực hợp lý, định
được giá bán hợp lý và có tính cạnh tranh.
 Trong giai đoạn tổ chức thực hiện
Cung cấp thông tin để ra quyết định kinh doanh đúng đắn trong quá trình
thực hiện các quyết định hằng ngày, các quyết định ngắn hạn. Ngoài ra trong quá


13
trình thực hiện các kế hoạch đầu tư dài hạn cũng cần phải có các thông tin cần thiết
và đầy đủ.
 Trong giai đoạn kiểm tra và đánh giá
Cần kiểm tra và đánh giá thực hiện kế hoạch và dự toán, xác định những sai
biệt; nhà quản trị cần được các kế toán viên cung cấp các báo cáo thực hiện để nhận
diện những vấn đề còn tồn tại và những vấn đề cần có tác động của quản lý.
 Trong khâu ra quyết định
Các nhà quản trị cần phải có các thông tin đầy đủ, đáng tin cậy và thích hợp.

KTQT thực hiện các nghiệp vụ phân tích chuyên môn, chọn lọc những thông tin cần
thiết, thích hợp, rồi tổng hợp trình bày chúng theo một trình tự dễ hiểu nhất và giải
thích quá trình phân tích đó cho các nhà quản trị.
Bên cạnh đó, KTQT không chỉ cung cấp thông tin thích hợp, mà còn bằng
cách vận dụng các kỹ thuật phân tích vào những tình huống khác nhau, để từ đó
giúp nhà quản trị lựa chọn quyết định thích hợp nhất. [9, tr.28 – 31]
1.2. HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP
1.2.1. Các khái niệm về hệ thống thông tin
 Hệ thống
Hệ thống là một tập hợp gồm nhiều phần tử tích hợp với nhau nhằm đạt được
một mục tiêu xác định. [8, tr.4]
 Hệ thống thông tin
Hệ thống thông tin là một loạt các thủ tục mà khi thực hiện sẽ cung cấp thông
tin cho việc ra quyết định và kiểm soát trong doanh nghiệp. [6, tr.12]
 Hệ thống thông tin kế toán
Hệ thống thông tin kế toán là một hệ thống thu thập, ghi nhận, lưu trữ và xử
lý dữ liệu nhằm tạo ra thông tin cho người ra quyết định. Hệ thống thông tin kế
toán trong một doanh nghiệp được thiết kế nhằm thu nhận các nghiệp vụ kinh tế
- như là dữ liệu đầu vào và xử lý chúng để tạo ra các báo cáo kế toán – như là
thông tin đầu ra. [8, tr.4]


14
 Hệ thống thông tin kế toán quản trị
Hệ thống thông tin kế toán quản trị được xem là một hệ thống con của hệ
thống thông tin kế toán, nó cung cấp các thông tin nhằm mục đích quản trị trong
nội bộ doanh nghiệp để dự báo các sự kiện sẽ xảy ra và dự đoán các ảnh hưởng về
tài chính kinh tế của chúng đối với doanh nghiệp. [6, tr.21]
1.2.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp

và ảnh hưởng của nó đến tổ chức thông tin kế toán quản trị
Xây lắp là một ngành sản xuất có tính chất công nghiệp, nó tạo ra cơ sở vật
chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, các tổ
chức xây lắp nhận thầu giữ một vai trò hết sức quan trọng. Hiện nay ở nước ta đang
tồn tại các tổ chức xây lắp như Tổng công ty, công ty, doanh nghiệp, đội xây
dựng… thuộc các thành phần kinh tế. Tuy các đơn vị này khác nhau về quy mô sản
xuất, hình thức quản lý nhưng các đơn vị này đều là những tổ chức nhận thầu xây
lắp và đều tạo ra sản phẩm xây lắp. Sản phẩm xây lắp được tiến hành một cách liên
tục từ khâu thăm dò, điều tra, khảo sát đến thiết kế thi công và quyết toán công trình
khi hoàn thành. Quá trình sản xuất của DNXL và sản phẩm xây lắp có đặc điểm
riêng biệt, khác với các ngành sản xuất khác và điều đó có ảnh hưởng đến tổ chức
thông tin kế toán quản trị, cụ thể:
Giá của công trình, hạng mục công trình là giá dự toán hoặc giá thỏa
thuận do đơn vị xây lắp kí kết với các đơn vị chủ đầu tư. Tính chất hàng hóa của
SPXL không được thể hiện rõ, quá trình tiêu thụ SPXL được thực hiện thông qua
việc nghiệm thu và bàn giao công trình, khối lượng xây lắp hoàn thành cho bên giao
thầu.
Hoạt động của DNXL mang tính chất lưu động, được tiến hành ngoài
trời, các điều kiện sản xuất như xe, máy, thiết bị thi công, người lao động,… phải di
chuyển theo địa điểm sản xuất. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý, sử dụng,
hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời
tiết, dễ mất mát, dễ hư hỏng.


15
Thời gian sử dụng của SPXL lâu, chất lượng sản phẩm được xác định cụ
thể trong hồ sơ thiết kế kỹ thuật được duyệt, đòi hỏi việc tổ chức quản lý sản xuất
và hạch toán phải đảm bảo theo đúng dự toán thiết kế.
Sản phẩm xây lắp có kích thước và giá trị lớn thường vượt quá số vốn lưu
động của doanh nghiệp xây lắp. Hơn nữa thời gian thi công tương đối dài, trong

thời gian sản xuất thi công xây dựng doanh nghiệp chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội
nhưng lại sử dụng nhiều vật tư, nhân lực, chi phí…điều này làm cho vốn đầu tư xây
dựng công trình và vốn sản xuất của doanh nghiệp xây lắp thường bị ứ đọng lâu tại
công trình đang xây dựng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp xây lắp phải lựa chọn
phương án có thời gian xây dựng hợp lý, kiểm tra chất lượng chặt chẽ, phải có chế
độ thanh toán giữa kỳ và dự trữ vốn phù hợp, đồng thời khi lập kế hoạch xây dựng
doanh nghiệp phải cân nhắc thận trọng, thấy rõ được các yêu cầu về tiền vốn, vật tư,
nhân công của công trình, quản lý, theo dõi các khoản mục phí trong quá trình sản
xuất thi công chặt chẽ nhằm đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm.
Mặt khác do thời gian thi công tương đối dài nên kỳ tính giá thành được xác
định tùy thuộc vào đặc điểm kỹ thuật của từng loại công trình được thể hiện qua
phương pháp lập dự toán và phương thức thanh toán giữa hai bên giao thầu và nhận
thầu. Cũng do chu kỳ sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài nên đối tượng tính giá
thành có thể là sản phẩm xây lắp hoàn thành đến giai đoạn quy ước là điểm dừng kỹ
thuật hợp lý. Sản phẩm xây lắp có kích thước và trọng lượng lớn nên đòi hỏi số
lượng lao động, số lượng nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ phục vụ sản xuất lớn,
khác nhau, vì vậy giá thành sản phẩm xây lắp rất phức tạp và thường xuyên thay đổi
theo từng giai đoạn. Việc xác định đúng đắn đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá
thành sẽ đáp ứng yêu cầu quản lý kịp thời và chặt chẽ chi phí sản xuất, đánh giá
đúng đắn tình hình quản lý thi công trong từng thời kỳ nhất định.
Sản phẩm xây lắp có giá trị sử dụng dài qua nhiều năm thậm chí hàng
trăm năm. Mỗi sản phẩm hoàn thành đều phải đảm bảo các tiêu chuẩn về kỹ thuật,
tính bền vững cùng với các tiêu chuẩn khắt khe khác bởi vì mọi sai lầm trong quá
trình thi công thường khó sửa chữa, phải phá đi làm lại. Các sai lầm trong xây lắp


16
thường gây lãng phí, vừa để lại hậu quả có khi rất nghiêm trọng, lâu dài và khó khắc
phục. Do đặc điểm này mà trong quá trình thi công cần phải thường xuyên kiểm tra
giám sát chất lượng công trình.

Để nhận được công trình, các doanh nghiệp xây lắp thường phải trải qua
khâu đấu thầu. Do đó công tác xác định giá dự toán của công trình cần phải được
coi trọng để từ đó xác định mức giá bỏ thầu hợp lý, đảm bảo hiệu quả hoạt động
kinh doanh xây lắp của doanh nghiệp và khả năng thắng thầu. [10]
1.2.3. Mục tiêu tổ chức hệ thống thông tin KTQT trong doanh nghiệp xây lắp
Xuất phát từ nhu cầu thông tin của những nhà quản trị doanh nghiệp để phục vụ
cho quá trình ra quyết định của họ nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh nên việc
tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị trong doanh nghiệp thật sự rất quan trọng.
Thoạt nhìn, kế toán quản trị có mục đích bổ sung cho kế toán tài chính, đây
chỉ là hai hệ thống con của một hệ thống kế toán, cả hai nhằm mục đích mô hình
hóa thông tin kinh tế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chính nhu cầu bí mật các thông
tin nội bộ đối với người cạnh tranh và công khai các thông tin bên ngoài cho nhà tài
trợ là động cơ chủ yếu hình thành hai hệ thống con này. Nói một cách khác, chính
cạnh tranh làm xuất hiện nhu cầu tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị trong
doanh nghiệp, đặc biệt trong các doanh nghiệp xâp lắp cơ điện lạnh vì nó gắn liền
với đặc điểm về sự cạnh tranh khác biệt hóa sản phẩm để phát triển sản phẩm xây lắp
cơ điện lạnh của mình so với các đối thủ khác trên thị trường.
1.2.4. Tổ chức thông tin KTQT trong doanh nghiệp xây lắp
1.2.4.1. Tổ chức thông tin KTQT đối với công tác dự toán chi phí sản xuất
Bất kỳ một doanh nghiệp xây lắp nào muốn hoạt động hiệu quả đều phải có
một dự toán chi phí sản xuất cụ thể. Dự toán càng chính xác bao nhiêu thì việc tiến
hành thực hiện công việc hiệu quả bấy nhiêu.
Lập dự toán là quá trình tính toán chi tiết nhằm chỉ ra cách huy động, sử
dụng vốn và các nguồn lực khác theo từng kỳ và được biểu diễn một cách có hệ
thống dưới dạng số lượng và giá trị. Việc lập dự toán chi phí sản xuất là dự toán về


17
chi phí cần thiết để hoàn thành khối lượng xây lắp của hạng mục công trình, công
trình [4, tr.41].

Việc lập dự toán sẽ có tác dụng:
- Cung cấp thông tin một cách có hệ thống tất cả dự toán của các công trình
trong doanh nghiệp;
- Xác định rõ các mục tiêu cụ thể để làm căn cứ đánh giá sau này;
- Định hướng cho việc đầu tư.
Để lập được dự toán chi phí trong xây lắp cho các công trình, hạng mục công
trình cần dựa vào:
- Bản vẽ thiết kế ( cơ sở, thi công, ...)
- Định mức xây dựng cơ bản phần xây dựng, lắp đặt khảo sát của Bộ xây dựng
- Đơn giá xây dựng cơ bản của tỉnh, thành phố
- Thông tư hướng dẫn lập dự toán ( TT 05/2007/ TT – BXD)
- Thông tư điều chỉnh dự toán
- Thông tư hướng dẫn áp dụng luật thuế giá trị gia tăng
- Thông tư về chế độ tiền lương, phụ cấp
- Công bố giá nguyên vật liệu xây dựng của sở xây dựng
Trước khi đi vào lập dự toán, cần xây dựng định mức cho từng khoản mục chi
phí.

 Xây dựng định mức:
Định mức chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền những hao phí
về lao động sống và lao động vật hóa theo tiêu chuẩn để đảm bảo cho việc sản xuất
kinh doanh một đơn vị sản phẩm dịch vụ ở điều kiện nhất định.
Chi phí định mức là chi phí dự tính cho việc sản xuất một sản phẩm hay cung
cấp dịch vụ. Khi chi phí định mức tính cho toàn bộ số lượng sản phẩm sản xuất hay
dich vụ cung cấp thì chi phí định mức được gọi là chi phí dự toán.
Chi phí định mức được sử dụng như là thước đo trong hệ thống dự toán của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm, kế toán quản trị sẽ sử
dụng chi phí định mức để xác định tổng chi phí dự toán để sản xuất sản phẩm. Sau



18
khi quá trình sản xuất được tiến hành, kế toán quản trị sẽ so sánh giữa chi phí thực tế
và dự toán để xác định sự biến động về chi phí. Đây chính là cơ sở để kiểm soát chi
phí.
Xây dựng định mức là phương pháp cần thiết giúp cho quá trình thực hiện kế
toán trách nhiệm, vì chi phí định mức là một trong các thước đo để đánh giá thành
quả của các trung tâm trách nhiệm, nhất là trung tâm chi phí.
a. Định mức chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Vật liệu xây dựng ngoài xi măng, sắt, thép còn có các vật liệu trong môi
trường tự nhiên như cát, đá, sỏi, sạn. XDCB là một ngành sản xuất không chấp
nhận sản phẩm kém chất lượng. Vì vậy các nhà thầu luôn luôn phải có phòng thí
nghiệm hiện trường để thường xuyên kiểm tra vật liệu tại công trường để tránh trình
trạng hỏng phá đi làm lại, vì ngoài chi phí phải thi công lại, còn tốn chi phí di dời
sản phẩm hỏng ra khỏi công trường nhà thầu sẽ chịu rất nhiều tốn kém.
Định mức về lượng: Là lượng vật liệu cần thiết để thi công 1m 3 bê tông,
1m2 đường giao thông... có cho phép những hao hụt bình thường.
Định mức về giá nguyên vật liệu: Phản ánh đơn giá bình quân của một đơn
vị nguyên vật liệu, bao gồm:
+ Giá mua vật liệu theo hóa đơn
+ Chi phí thu mua: chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lưu kho...
+ Trừ các khoản giảm giá, chiết khấu.
Định mức chi phí NVLTT được xác định theo công thức sau:

Định mức chi

=

Định mức về

X


Định mức về

phí NVLTT
lượng NVL
giá NVL
b. Định mức chi phí nhân công trực tiếp: Cần xác định được lượng thời gian
và giá thời gian.
- Định mức lượng thời gian hao phí: Là lượng thời gian bình quân cần thiết
để hoàn tất công việc đối với công nhân ở mức độ lành nghề trung bình, bao gồm:
+ Thời gian cho nhu cầu sản xuất cơ bản
+ Thời gian cho vận hành máy móc thiết bị
+ Thời gian ngừng nghỉ hợp lý của máy móc thiết bị, người lao động


19
+ Thời gian sửa chữa sản phẩm.
- Định mức đơn giá cho một đơn vị thời gian: Phản ánh chi phí nhân công trả
cho một đơn vị thời gian hao phí, gồm:
+ Tiền lương cơ bản cho một đơn vị thời gian ở các bậc thợ khác nhau
+ Các khoản phụ cấp theo lương
+ Các khoản trích theo lương: BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN
Định mức chi phí nhân công trực tiếp được xác định như sau:
Định mức chi
phí NCTT

=

Định mức về lượng
thời gian hao phí


x

Định mức về giá nhân công
cho một đơn vị thời gian

c. Định mức chi phí sử dụng máy thi công
Định mức về giá chi phí máy theo giờ hay theo khối lượng thực hiện một
công việc được xác định căn cứ vào:
- Đơn giá ca máy theo định mức nhà nước.
- Khấu hao máy trong kỳ của doanh nghiệp.
- Định mức sử dụng nhiên liệu theo thiết kế máy của nhà sản xuất kết hợp
với kiểm tra bấm giờ tiêu hao nhiên liệu thực tế của đơn vị.
Về lượng thời gian để thi công một hạng mục công việc được xác định như
sau:
- Căn cứ vào định mức thi công công việc của nhà nước.
- Căn cứ vào điểm dần kỹ thuật lập tiến độ thi công cho từng hạng mục công
việc trong bảng tiến độ chung của dự án.
Định mức chi phí
máy thi công

=

Định mức
ca máy

*

Định mức giá
ca máy


d. Định mức chi phí chung:
Trong XDCB chi phí chung được xác định dựa vào tỷ lệ % ( 5 – 6% của chi
phí trực tiếp) tùy thuộc vào từng dự án.
Để lập được chi phí chung của doanh nghiệp phải căn cứ vào các khoản chi
thực tế trong kỳ trước của doanh nghiệp như: chi lương, chi phí cho bộ phận điều


20
hành dự án, điều hành Công ty, các khoản chi khác chiếm khoảng bao nhiêu phần
trăm trong XDCB trên sản lượng thực hiện để có định mức chi phí chung cho phù
hợp.

 Lập dự toán chi phí sản xuất
a. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: nhằm dự kiến số lượng nguyên vật liệu cần
cho quá trình sản xuất thi công.

Chi phí NVLTT
dự toán

NVL cần cho

=

quá trình thi

hoạch

Định mức chi phí


x

theo kế hoạch
Khối lượng

Lượng NVL
cần mua kế

Khối lượng công việc

=

NVLTT

Lượng nguyên
+

vật liệu tồn

-

Lượng NVL tồn

cuối kỳ

đầu kỳ

công
b. Chi phí nhân công trực tiếp: Là dự kiến số giờ công trực tiếp cần thiết để


thi công hạng mục công trình.
Phương pháp lập:

Chi phí NCTT

Khối lượng công việc

=

Định mức chi phí

x

dự toán
Theo kế hoạch
NCTT
c. Chi phí sử dụng máy thi công: Là dự kiến số ca máy cần thiết cho quá
trình thi công từng nội dung công việc, từng hạng mục công trình, công trình.
Chi phí sử dụng máy
thi công dự toán

=

Khối lượng công
việc theo kế hoạch

Định mức chi phí
x

sử dụng máy thi


công
d. Chi phí sản xuất chung: Nhằm tính toán biến phí sản xuất chung và định

phí sản xuất chung.
Phương pháp lập:
- Kế hoạch biến phí sản xuất chung
- Kế hoạch định phí sản xuất chung: Là khoản chi phí ít biến động ở các kỳ. Vì vậy
kế hoạch định phí sản xuất chung sẽ ước tính bằng cách dựa vào kế hoạch kỳ trước.

Chi phí sản xuất
chung dự toán

=

Biến phí sản xuất
chung dự toán

+

Định phí sản xuất chung
dự toán


21
1.2.4.2. Tổ chức thông tin KTQT đối với công tác tính giá thành
Trong ngành xây dựng cơ bản, giá thành là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp,
nó phản ánh mọi mặt tổ chức, quản lý quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
đơn vị. Không ngừng phấn đấu giảm chi phí hạ giá thành là nhiệm vụ hàng đầu của
các Công ty xây lắp. Hạ giá thành là cơ sở để các doanh nghiệp có điều kiện không

ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư công nghệ mới, cạnh tranh được với các
doanh nghiệp nước ngoài trong thời kỳ hội nhập.
Không giống với sản phẩm của một số ngành kinh doanh khác, mỗi sản
phẩm xây lắp đều có giá dự toán riêng, sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá
trúng thầu được cấp có thẩm quyền phê duyệt khi công bố thầu; vì vậy điểm hòa
vốn của sản phẩm xây lắp chính là tổng chi phí xây lắp bằng với giá trúng thầu của
Công ty. (Điểm hòa vốn là điểm sản lượng tiêu thụ mà tại đó tổng doanh thu bằng
tổng chi phí, nghĩa là doanh nghiệp không lỗ, không lãi.)
Trên cơ sở biện pháp tổ chức thi công phù hợp nhất với phương án lựa chọn
mà Công ty quyết định mức hạ giá thành kế hoạch xây lắp. Mức hạ giá thành này
cũng chính là phần chênh lệch giữa giá thành trúng thầu với giá thành kế hoạch, đây
cũng chính là lãi của Công ty, mức hạ giá thành kế hoạch cũng chính là căn cứ để
Công ty kiểm soát các chi phí xây lắp đầu vào trong quá trình thi công. Nếu chi phí
đầu vào vượt quá giá thành kế hoạch xây lắp nằm trong mức hạ giá thành thì hòa
vốn, còn nếu chi phí lớn hơn giá thành kế hoạch và mức hạ giá thành thì Công ty bị
lỗ. Điểm hòa vốn của công trình là tại đó giá thành kế hoạch và mức lãi kế hoạch
cân bằng với tổng chi phí mà Công ty đã đầu tư cho công trình.
Với những lý luận trên thì trong công tác tính giá thành, KTQT cần phải tổ
chức tốt thông tin về dự toán chi phí sản xuất cũng như việc áp dụng phương pháp
tính giá phù hợp để giúp cho việc xác định giá thành sản phẩm sao cho có lợi nhất
cho doanh nghiệp.
1.2.4.3. Tổ chức thông tin KTQT đối với công tác kiểm soát chi phí sản xuất


22
Đối với các doanh nghiệp xây lắp thì yếu tố chi phí sản xuất là yếu tố quan trọng
và việc kiểm soát chi phí sản xuất gồm những nội dung sau:

 Kiểm soát chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Biến động của chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể được kiểm soát gắn

liền với các nhân tố về giá và lượng có liên quan.
- Phân tích biến động giá : là chênh lệch giữa giá nguyên vật liệu trực tiếp thực tế
với giá nguyên vật liệu theo dự toán để xây lắp một khối lương công việc nhất định.

Ảnh hưởng

Đơn giá

về giá đến

nguyên vật

biến động
NVLTT

=

liệu trực tiếp
thực tế

Đơn giá nguyên
-

vật liệu trực
tiếp dự toán

Lượng nguyên
x

vật liệu trực tiếp

thực tế sử dụng

Ảnh hưởng biến động giá có thể âm hay dương. Nếu biến động âm chứng tỏ
giá thực tế thấp hơn giá dự toán. Tình hình này được đánh giá tốt nếu chất lượng vật
liệu đảm bảo. Ngược lại, ảnh hưởng biến động giá dương thể hiện giá vật liệu thực
tế tăng so với dự toán ( trong quá trình xây lắp do thời gian thi công công trình kéo
dài nên ảnh hưởng giá biến động tăng thường xuyên xảy ra) và sẽ làm tăng tổng chi
phí của Công ty. Xét về phương diện các trung tâm trách nhiệm thì biến động giá
gắn với trách nhiệm của bộ phận cung ứng vật tư hay đơn vị thi công nếu bộ phận
này tự cung ứng vật liệu.
Khi kiểm soát biến động về giá, cần quan tâm đến các nguyên nhân do biến
động giá của vật liệu trên thị trường, chi phí thu mua, chất lượng nguyên vật liệu,
thuế và các phương pháp tính giá nguyên vật liệu.
- Phân tích biến động về lượng: Là chênh lệch giữa lượng nguyên vật liệu trực tiếp
thực tế với lượng nguyên vật liệu trực tiếp theo dự toán để xây lắp khối lượng của từng nội
dung công việc nhất định. Biến động về lượng phản ánh tiêu hao vật liệu thay đổi như thế
nào và ảnh hưởng đến tổng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp ra sao. Biến động về lượng
được xác đinh:


23

Ảnh hưởng

Nguyên vật

về lượng đến

liệu trực tiếp


biến động

=

NVLTT

thực tế sử

Nguyên vật liệu
-

trực tiếp dự

Đơn giá nguyên
x

toán sử dụng

dụng

vật liệu trực tiếp
dự toán

Nếu biến động về lượng là kết quả dương thể hiện lượng vật liệu sử dụng
thực tế nhiều hơn so với dự toán, còn nếu kết quả âm thể hiện lượng vật liệu sử
dụng tiết kiệm so với dự toán. Nhân tố lượng sử dụng thường do nhiều nguyên
nhân, gắn liền với trách nhiệm của đội thi công. Đó có thể là do khâu tổ chức sản
xuất, mức độ hiện đại của công nghệ, trình độ công nhân trong sản xuất... ngay cả
chất lượng nguyên vật liệu mua vào không tốt cũng dẫn đến công trình bị hư hỏng
phá đi làm lại nên trong XDCB việc thí nghiệm chất lượng vật liệu đầu vào rất quan

trọng [11,tr.139].

 Kiểm soát chi phí nhân công trực tiếp
Biến động chi phí nhân công trực tiếp gắn liền với nhân tố giá và lượng
- Phân tích ảnh hưởng nhân tố giá: Là chênh lệch giữa giá giờ công lao động trực
tiếp thực tế so với dự toán để xây lắp một khối lượng cho từng nội dung công việc nhất
định. Nhân tố này phản ánh sự thay đổi về giá của giờ công lao động để sản xuất xây lắp
ảnh hưởng đến chi phí nhân công trực tiếp.

Ảnh hưởng
về giá đến
biến động
CPNCTT

Đơn giá
=

nhân công
trực tiếp
thực tế

Đơn giá nhân
-

công trực tiếp
dự toán

x

Thời gian lao

động thực tế

Biến động giá thường do các nguyên nhân gắn liền với việc trả lương, tình
hình thị trường cung cấp lao động... Nếu ảnh hưởng tăng (giảm) thể hiện sự lãng phí
hay tiết kiệm chi phí nhân công trực tiếp, việc kiểm soát chi phí nhân công trực tiếp
còn cho phép ta làm rõ bộ phận chịu trách nhiệm, làm ảnh hưởng đến công tác quản
lý chi phí và giá thành. Nhân tố giá tăng hay giảm được đánh giá tốt hay không tốt


24
phải căn cứ vào chất lượng công nhân tức là trình độ và năng lực làm việc của công
nhân. Nếu giá giảm so với dự toán nhưng chất lượng vẫn đảm bảo thì sự biến động
đó là tốt và ngược lại.
- Phân tích ảnh hưởng nhân tố lượng: Là chênh lệch giữa số giờ lao động trực tiếp
thực tế với dự toán để thi công xây lắp khối lượng cho từng nội dung công việc nhất định.
Nhân tố này phản ánh sự thay đổi về số giờ công để sản xuất xây lắp ảnh hưởng đến chi
phí nhân công trực tiếp hay gọi là nhân tố năng suất. Ảnh hưởng của nhân tố lượng thể
hiện như sau:

Ảnh hưởng của
thời gian lao
động đến biến
động CPNCTT

Thời gian lao

Thời gian
=

lao động


-

động theo dự

thực tế

toán

Đơn giá nhân
X

công trực
tiếp dự toán

Ảnh hưởng của nhân tố thời gian lao động do nhiều nguyên nhân: có thể là
trình độ, năng lực của người lao động thay đổi, do điều kiện trang bị máy móc thiết
bị, chính sách lương của doanh nghiệp. Biến động do nhiều nguyên nhân khác nhau
tác động đến chi phí sản xuất có thể do chính sách quá trình sản xuất của doanh
nghiệp hay vì biến động của các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. Việc phân tích biến
động chi phí sản xuất theo các khoản mục và theo nhân tố giá, nhân tố lượng giúp
người quản lý phát hiện , xem xét các yếu tố đã gây ra biên động nhằm đưa ra biện
pháp đúng đắn và kịp thời để chấn chỉnh hoặc phát huy các nhân tố đó theo hướng
có lợi nhất cho doanh nghiệp [9,tr.140-141].

 Kiểm soát chi phí sử dụng máy thi công
- Phân tích biến động giá: Là chênh lệch giữa đơn giá ca máy thực tế thi công với
đơn giá ca máy theo dự toán. Nếu tính trên một khối lượng công tác thì nó phản ánh giá cả
một đơn giá ca máy để hoàn thành một hạng mục công tác xây lắp đã thay đổi như thế nào
so với dự toán.



25

Ảnh hưởng
về giá đến
biến động

Đơn giá ca máy

Đơn giá ca
=

máy trực tiếp

-

trực tiếp dự
toán

thực tế

CPSDMTC

x

Số ca máy thực tế
sử dụng

- Phân tích biến động về lượng: Là chênh lệch giữa số ca máy thực tế thi công xây

lắp với số ca máy theo dự toán để thi công các hạng mục công trình: nếu biến động về
lượng là kết quả âm thể hiện lượng ca máy tiết kiệm so với dự toán, nếu kết quả dương thể
hiện số ca máy sử dụng thực tế lớn hơn dự toán. Khi tìm hiểu nguyên nhân biến động về
lượng ca máy thi công cần xem xét khối lượng công việc thi công xây lắp thực tế có phát
sinh tăng, giảm so với dự toán.

Ảnh hưởng
về lượng đến
biến động

Số ca máy
=

CPSDMTC

thực tế sử
dụng

-

Đơn giá

Số ca máy
dự toán sử dụng

x

ca máy
dự toán


 Kiểm soát chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung biến động do sự biến động biến phí sản xuất chung và định
phí sản xuất chung.

Biến động

=

Biến động định phí

chi phí SXC
sản xuất chung
a. Kiểm soát biến phí sản xuất chung

+

Biến động biến
phí SXC

Biến động của biến phí sản xuất chung do nhiều nguyên nhân, nhưng về
phương pháp phân tích trong kiểm tra, nó cũng được phân tích thành ảnh hưởng của
nhân tố giá và nhân tố lượng như đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí
nhân công trực tiếp.
Ảnh hưởng của nhân tố giá đến biến phí sản xuất chung thường do sự thay
đổi của các mức chi phí được xem là biến phí sản xuất chung. Các mức này thay đổi
thường do nhiều nguyên nhân như: Đơn giá mua vật tư gián tiếp cũng như các chi
phí thu mua thay đổi, sự biến động giá cả chung của thị trường, nhà nước thay đổi



×