Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Hoàn thiện công tác tính giá thành tại nhà máy nước khoáng thạch bích thuộc tổng công ty cổ phần đường quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.19 KB, 101 trang )

-1-

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây ngành kinh doanh nước giải khát đang được nhiều
doanh nghiệp quan tâm đầu tư, đặc biệt sự xuất hiện rất nhiều loại nước giải khát
với sự đa dạng về chủng loại khiến cho sự cạnh tranh giữa các thương hiệu nước
giải khát trên thị trường diễn ra gay gắt. Điều này đòi hỏi nhà quản lý các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh nước giải khát làm sao để kinh doanh hiệu quả, xây
dựng được thương hiệu, thu hút được khách hàng, nâng cao được sức cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường, điều này phụ thuộc rất lớn vào việc ra quyết định của
nhà quản lý.
Trong xu hướng hội nhập kinh tế, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp, bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải chú trọng nâng cao chất lượng
của sản phẩm đồng thời có những biện pháp nhằm hạ giá thành để nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Sản phẩm của các doanh nghiệp muốn có vị trí trong lòng số đông người tiêu
dùng thì sản phẩm đó phải có chất lượng và nhiều yếu tố khác nữa trong đó có giá
cả sản phẩm. Tính giá thành sản phẩm là một nội dung có tính xuất phát điểm trong
nhiều công việc khác của kế toán quản trị như hoạch định, tổ chức, kiểm soát và ra
quyết định. Tính giá thành sản phẩm là cơ sở để các nhà quản trị xây dựng một
chính sách giá bán hợp lý, có tính cạnh tranh và là cơ sở cho các quyết định tác
nghiệp khác.
Với tầm quan trọng đó, việc vận dụng một hệ thống tính giá thành phù hợp là
rất cần thiết trong tổ chức công tác kế toán quản trị ở doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh nước giải khát nói chung và Nhà máy nước khoáng Thạch Bích nói riêng. Vì
vậy, tác giả chọn đề tài “ Hoàn thiện công tác tính giá thành tại Nhà máy nước
khoáng Thạch Bích thuộc tổng công ty cổ phần Đường Quảng Ngãi” làm đề tài
nghiên cứu của mình.



-2-

2. Tổng quan
Tính giá thành sản phẩm có vai trò rất quan trọng trong quản trị doanh
nghiệp, tính giá góp phần xác định giá thành của sản phẩm, ngành hàng, từng bộ
phận và toàn doanh nghiệp, tính giá thành còn giúp cho các nhà quản trị làm tốt
công tác hoạch định và kiểm soát chi phí, là cơ sở để các nhà quản trị xây dựng
chính sách giá bán hợp lý, có tính cạnh tranh và nhiều quyết định tác nghiệp khác.
Chính vì vậy mà từ trước đến nay có rất nhiều nghiên cứu vấn đề này. Các nước
phát triển trên thế giới như Anh, Mỹ, Nhật, Đức,..đã áp dụng kế toán quản trị từ rất
lâu, vào giai đoạn cuối của thế kỷ 19 nhiều công ty của Anh, Mỹ đã chú trọng đến
kế toán quản trị như phân tích giá phí và quyết định giá cả, định giá chuyển nhượng,
phân tích lãi lỗ cơ hội,.. Tại Việt Nam hiện nay một số doanh nghiệp đã bước đầu
vận dụng và xây dựng cho doanh nghiệp mình một bộ máy kế toán quản trị riêng
biệt, chú trọng rất nhiều đến vấn đề tính giá thành sản phẩm phục vụ cho quản trị và
cũng đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Có rất nhiều nghiên cứu về chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, dược
phẩm, may mặc,..Cụ thể là, tác giả Trần Văn Dung (năm 2002) nghiên cứu về “Tổ
chức kế toán quản trị và giá thành trong doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam”, tác giả
Hoài Anh (2006) đã có bài nghiên cứu về “ Đổi mới phương pháp tính giá thành sản
xuất sản phẩm trong doanh nghiệp Dược phẩm”, tác giả đã đưa ra phương pháp
phân bổ chi phí sản xuất chung mới và xác định đối tượng tính giá cho lô sản phẩm
sản xuất dựa trên phương pháp tính giá cũ, nhằm phù hợp hơn với đặc thù sản xuất
sản phẩm của ngành Dược chứ chưa đưa ra một giải pháp tính giá mới. Tác giả Cao
Thị Cẩm Vân (2007) nghiên cứu về “ Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất
và phương pháp tính giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp Dệt may Tp.Hồ Chí
Minh”, tác giả đã đưa ra một loạt các giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy kế toán, sổ
sách và tài khoản sử dụng và đưa ra phương pháp tính giá theo đơn đặt hàng thay
cho phương pháp phân bước có tính giá thành bán thành phẩm,...Còn rất nhiều
nghiên cứu của các tác giả khác về “ Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành”

trong các doanh nghiệp xây dựng và sản xuất khác. Mặc dù vậy, tất cả các công


-3-

trình nghiên cứu về kế toán quản trị đã công bố đều chưa nghiên cứu về công tác
tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất nước giải khát, một ngành
công nghiệp đang phát triển mạnh mẽ và cạnh tranh khá gay gắt hiện nay.
Vì vậy, luận văn tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác tính giá
thành sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất nước giải khát hiện nay, cụ thể là tại Nhà
máy nước khoáng Thạch Bích thuộc Tổng công ty cổ phần Đường Quảng Ngãi. Từ
đó, đưa ra giải pháp để hoàn thiện công tác tính giá thành sản phẩm để phục vụ cho
quản trị doanh nghiệp.

3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về mặt lý luận của các phương pháp tính giá thành sản phẩm.
Tìm hiểu phương thức tổ chức sản xuất sản phẩm và phương pháp tính giá thành
của các sản phẩm hiện nay của Nhà máy nước khoáng Thạch Bích.
Qua phân tích phương pháp tính giá thành sản phẩm tại Nhà máy nước
khoáng Thạch Bích, nhận ra những hạn chế và ảnh hưởng không tốt của nó tới công
tác quản trị tại đơn vị. Từ đó, đề xuất các giải pháp để hoàn thiện công tác tính giá
thành sản phẩm của đơn vị nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác quản trị tại đơn vị.

4. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu
Đề tài được nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về phương
pháp tính giá thành sản phẩm dựa trên phương pháp luận biện chứng, phương pháp
phỏng vấn, khảo sát thực tế và phân tích, tổng hợp để rút ra các kết luận và đề xuất
các giải pháp để vận dụng và công tác tính giá thành sản phẩm tại đơn vị.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và thực tế công tác tính giá thành sản
phẩm của Nhà máy nước khoáng Thạch Bích. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các
sản phẩm được sản xuất tại Nhà máy và nguồn nước khoáng nguyên liệu Nhà máy
khai thác để sản xuất một số sản phẩm.


-4-

6. Bố cục của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tính giá thành sản phẩm.
Chương 2: Thực tế công tác tính giá thành sản phẩm tại Nhà máy nước
khoáng Thạch Bích thuộc tổng công ty Đường Quảng Ngãi.
Chương 3: Hoàn thiện công tác tính giá thành tại Nhà máy nước khoáng
Thạch Bích.


-5-

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM
1.1 Khái niệm giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá được tính trên một đại lượng kết quả sản phẩm hoàn thành
nhất định.
Giá thành sản phẩm là những chi phí sản xuất gắn liền với một kết quả sản
xuất nhất định, là đại lượng xác định biểu hiện mối liên hệ tương quan giữa 2 yếu
tố: Chi phí sản xuất đã bỏ ra và kết quả sản xuất đạt được.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng
hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, tiền vốn trong

quá trình sản xuất, cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực
hiện nhằm đạt mục đích sản xuất ra khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí
thấp nhất. Giá thành sản phẩm còn là căn cứ để xác định, tính toán hiệu quả kinh tế
trong doanh nghiệp sản xuất.

1.2 Vai trò của tính giá thành trong công tác quản trị doanh nghiệp
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình sử dụng các nguồn lực
kinh tế tại doanh nghiệp để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có ích cho người tiêu
dùng. Quá trình đó làm phát sinh các loại chi phí tại nhiều địa điểm khác nhau trong
doanh nghiệp. Do vậy, tập hợp chi phí và tính giá thành là một nội dung cơ bản và
có tính truyền thống trong kế toán quản trị. Vai trò của tính giá thành trong công tác
quản trị được thể hiện qua:
- Tính giá thành góp phần xác định giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành, qua
đó là cơ sở để xác định kết quả kinh doanh của từng sản phẩm, ngành hàng, từng bộ
phận và toàn doanh nghiệp.


-6-

- Tính giá thành sản phẩm, dịch vụ giúp cho các nhà quản trị làm tốt các công
tác hoạch định và kiểm soát chi phí ở từng nơi phát sinh chi phí (từng phòng ban,
từng phân xưởng, từng hoạt động,...).
- Tính giá thành còn giúp cho các nhà quản trị trong các nỗ lực nhằm giảm thấp
chi phí sản phẩm, có giải pháp cải tiến sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường.
- Tính giá thành sản phẩm còn là cơ sở để các nhà quản trị xây dựng một
chính sách giá bán hợp lý, có tính cạnh tranh và là cơ sở cho nhiều quyết định tác
nghiệp khác.
Với tầm quan trọng đó, việc xây dựng và vận dụng hệ thống tính giá thành
phù hợp là rất cần thiết trong tổ chức công tác kế toán quản trị ở doanh nghiệp. Việc

xây dựng hệ thống tính giá thành cần quan tâm đến một số khía cạnh sau:
- Cân nhắc giữa chi phí và lợi ích của vấn đề tính giá thành. Một hệ thống
tính giá thành rất chi tiết và cụ thể có thể cung cấp nhiều thông tin cho nhà quản trị,
nhưng lại mất nhiều thời gian và tiền bạc, nhất là chi phí về đào tạo. Do vậy, hệ
thống tính giá thành phức tạp chỉ vận dụng khi các nhà quản trị tin tưởng rằng hoạt
động chung của toàn doanh nghiệp được cải thiện nhiều trên cơ sở thông tin được
cung cấp của hệ thống tính giá thành.
- Hệ thống tính giá thành cần phải được thiết kế phù hợp với hoạt động sản
xuất kinh doanh hiện tại. Nó phụ thuộc vào bản chất của ngành sản xuất, quy mô
công nghệ, tính đa dạng của sản phẩm, dịch vụ và yêu cầu về thông tin cho công tác
quản trị.

1.3 Đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành
Chi phí là một nguồn lực mất đi để đạt được một mục tiêu nhất định. Chi phí
phát sinh luôn gắn liền với một không gian cụ thể ở tại một thời điểm cụ thể. Tài
nguyên ở bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng khan hiếm nên các nhà quản trị luôn
đặt ra câu hỏi chi phí phát sinh ở đâu với quy mô như thế nào và ảnh hưởng đến các


-7-

hoạt động khác như thế nào. Vì vậy, xác định đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng
tính giá thành là một đặc tính quan trọng trong kế toán quản trị.
1.3.1 Đối tượng tập hợp chi phí
Đối tượng tập hợp chi phí là phạm vi được xác định trước để tập hợp chi phí.
Xác định đối tượng tập hợp chi phí thực chất là xác định giới hạn các bộ phận chịu
chi phí hoặc các đối tượng chịu chi phí làm cơ sở cho việc tính giá thành. Khái niệm
này không chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh doanh khác.
Trên một góc độ chung, có hai biểu hiện về đối tượng tập hợp chi phí, đó là: Các
trung tâm chi phí và sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm cùng loại.

- Các trung tâm chi phí là những bộ phận trong doanh nghiệp mà nhà quản trị
ở bộ phận đó chịu trách nhiệm về những biến động chi phí phát sinh trong kỳ. Trong
doanh nghiệp sản xuất, trung tâm chi phí có thể là từng phân xưởng, từng đội sản
xuất, đơn vị sản xuất....Mỗi phân xưởng có thể là một giai đoạn công nghệ trong
quy trình sản xuất ở doanh nghiệp, hoặc có thể hoàn thành công việc có tính độc lập
nào đó.
- Sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm cùng loại, một công việc ví dụ như đơn đặt
hàng hay một hoạt động, một chương trình nào đó,...Đối tượng tập hợp chi phí trong
trường hợp này thường không quan tâm đến bộ phận phát sinh chi phí mà quan tâm
chi phí phát sinh cho công việc gì, ở hoạt động nào. Khi đó, người quản trị có thể so
sánh, đánh giá chi phí giữa các sản phẩm, các hoạt động với nhau.
1.3.2 Đối tượng tính giá thành
Đối tượng tính giá thành là kết quả của quá trình sản xuất hoặc quá trình
cung cấp dịch vụ cần được tính giá thành để đáp ứng yêu cầu quản lý. Xác định đối
tượng tính giá thành thường gắn với yêu cầu của nhà quản lý về kiểm soát chi phí,
định giá bán cho sản phẩm và xác định kết quả kinh doanh về một đối tượng nào
hay hoạt động nào đó.
Trong doanh nghiệp sản xuất thì đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm,
bán sản phẩm, công việc hoàn thành qua quá trình sản xuất. Đối tượng tập hợp chi


-8-

phí và đối tượng tính giá thành có mối quan hệ với nhau trong hệ thống tính giá
thành ở đơn vị. Nếu đối tượng tập hợp chi phí cần xác định là bước đầu tiên cho quá
trình tập hợp chi phí thì đối tượng tính giá thành gắn liền với việc thực hiện tính giá
thành. Trong một số trường hợp, đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá
trùng nhau.

1.4 Khái niệm chi phí và các tiêu thức phân loại chi phí

1.4.1 Khái niệm
Chi phí được định nghĩa là giá trị tiền tệ của các khoản hao phí bỏ ra nhằm
tạo ra các loại tài sản, hàng hoá hoặc các dịch vụ. Trong kế toán quản trị chi phí
được phân loại và sử dụng theo nhiều tiêu thức khác nhau nhằm cung cấp những
thông tin cần thiết và phù hợp cho quản lý doanh nghiệp.
1.4.2 Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ của chi phí
với các khoản mục trên báo cáo tài chính
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được
chi thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
1.4.2.1 Chi phí sản phẩm
Là chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất sản phẩm, các chi phí này
kết hợp tạo nên giá trị của sản phẩm hình thành qua các giai đoạn sản xuất sản phẩm
(được gọi là giá thành sản xuất hay giá thành công xưởng). Tuỳ thuộc vào phương
pháp tính giá thành được áp dụng mà chi phí sản phẩm có khác nhau. Với phương
pháp tính giá toàn bộ, chi phí sản phẩm bao gồm các khoản mục: Chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Đây là
những chi phí cấu thành nên giá thành sản xuất của sản phẩm.
Nếu sản phẩm, hàng hoá chưa được bán ra thì chi phí sản phẩm sẽ nằm trong
giá thành (trị giá vốn) của hàng tồn kho trên Bảng cân đối kế toán. Nếu sản phẩm,
hàng hoá được bán ra thì chi phí sản phẩm sẽ trở thành chi phí giá vốn hàng bán
trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.


-9-

1.4.2.2 Chi phí thời kỳ
Chi phí thời kỳ gồm các khoản mục chi phí còn lại sau khi đã xác định các
khoản mục chi phí thuộc chi phí sản xuất sản phẩm. Nó thường bao gồm chi phí bán
hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí tài chính. Chi phí thời kỳ là các chi
phí để hoạt động kinh doanh trong kỳ, những chi phí này gắn liền với doanh thu bán

hàng trong kỳ kế toán. Nó không tạo nên giá trị của hàng tồn kho mà nó ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi nhuận của kỳ mà nó phát sinh. Đây cũng là chi phí cấu thành nên
giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ.
Như vậy, chi phí của thời kỳ của kỳ nào thì kết chuyển hết cho kỳ đó và ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của kỳ mà chúng phát sinh (xem sơ đồ 1.1)
Sơ đồ 1.1: Mô hình vận động của chi phí trong doanh nghiệp sản xuất

Chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp
Chi
phí
sản
phẩm

Chi phí nhân công
trực tiếp

Chi phí sản xuất
chung

Chi phí thời kỳ

Chi phí
sản xuất
dở dang

Doanh thu thuần của
hàng bán

Nhập kho

Thành
phẩm

Giá vốn
hàng bán

Lãi gộp

Chi phí bán hàng và
quản lý doanh nghiệp

Lãi thuần


- 10 -

1.4.3 Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
1.4.3.1 Chi phí khả biến (Biến phí)
Chi phí khả biến là các chi phí thay đổi về tổng số tỷ lệ thuận với sự thay đổi
của mức độ hoạt động, tức là tổng số chi phí khả biến sẽ tăng hoặc giảm tương ứng
với sự tăng hoặc giảm của mức độ hoạt động, nhưng chi phí khả biến tính theo đơn
vị của mức độ hoạt động thì không thay đổi. Chi phí khả biến chỉ phát sinh khi có
các hoạt động xảy ra.
Trong đơn vị sản xuất thì chi phí khả biến thường là các chi phí nằm trong
khoản mục chi phí nguyên liệu, chi phí nhân công trực tiếp. Ngoài ra còn một số chi
phí khác thuộc khoản mục chi phí sản xuất chung như chi phí vật liệu.
Về phương diện lý thuyết, sự biến động của chi phí trong mối quan hệ với
khối lượng hoạt động có thể xảy ra ba trường hợp, tương ứng sẽ có ba loại biến phí
sau:
+ Tổng biến phí tỷ lệ thuận trực tiếp với khối lượng hoạt động thực hiện, còn

biến phí trung bình của một đơn vị khối lượng hoạt động thì không thay đổi. Biến
phí trong trường hợp này gọi là biến phí tỷ lệ. Thuộc loại này có chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí khấu hao tài sản cố định theo sản
lượng.
+ Tổng biến phí tăng nhanh hơn khối lượng hoạt động thực hiện, vì vậy biến
phí trung bình một đơn vị khối lượng hoạt động cũng tăng lên. Trường hợp này có
thể được lý giải là khi cường độ lao động vượt quá giới hạn bình thường, hiệu lực
của các yếu tố sản xuất sẽ giảm sút; hoặc có sự gia tăng khối lượng sản xuất, đòi hỏi
phải tăng nhiều hơn các CPSX.
+ Tổng biến phí tăng chậm hơn khối lượng hoạt động và biến phí trung bình
cho 1 đơn vị khối lượng hoạt động giảm xuống. Hiện tượng này xảy ra khi khối
lượng hoạt động gia tăng tạo nên các điều kiện để sử dụng có hiệu quả hơn các yếu
tố của quá trình sản xuất.


- 11 -

.4.3.2 Chi phí bất biến (Định phí)
Chi phí bất biến là những chi phí, xét về lý thuyết, không có sự thay đổi theo
các mức độ hoạt động đạt được. Vì tổng chi phí bất biến là không thay đổi cho nên
khi mức độ hoạt động tăng thì chi phí bất biến tính theo đơn vị các mức độ hoạt
động sẽ giảm và ngược lại.
Trong doanh nghiệp sản xuất, các loại chi phí bất biến thường gặp là chi phí
khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền lương nhân viên quản lý, chi phí quảng
cáo,..Có 4 loại định phí sau:
+ Định phí tuyệt đối: Là các chi phí mà tổng số không thay đổi khi có sự thay
đổi khối lượng hoạt động, còn định phí trung bình thì giảm đi.
+ Định phí tương đối: Trong trường hợp khả năng của các yếu tố sản xuất
tiềm năng đã khai thác tối đa, muốn tăng được khối lượng hoạt động cần bổ sung
đầu tư các khả năng sản xuất tiềm tàng mới. Trong trường hợp này, khối lượng sản

xuất sản phẩm không phải nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến độ lớn của định phí mà
quy mô sản xuất cần thiết phải thay đổi khả năng, trữ lượng và năng lực sản xuất.
+ Định phí bắt buộc: Là định phí không thể thay đổi được một cách nhanh
chóng vì chúng thường xuyên liên quan đến tài sản cố định và cấu trúc tổ chức của
một doanh nghiệp. Định phí bắt buộc có bản chất sử dụng lâu dài, nên khi quyết
định đầu tư vào tài sản cố định, các nhà quản trị cần cân nhắc kỹ lưỡng vì khi đã
quyết định thì doanh nghiệp buộc phải gắn chặt với quyết định đó trong một thời
gian dài. Mặt khác định phí bắt buộc không thể tuỳ tiện cắt giảm, dù chỉ một thời
gian ngắn vì nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi và mục đích lâu dài của doanh
nghiệp.
+ Định phí tuỳ ý (định phí không bắt buộc): Là các định phí có thể được thay
đổi nhanh chóng bằng các quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp, ví dụ như chi
phí quảng cáo,..Các nhà quản trị quyết định mức độ và số lượng định phí này trong
các quyết định của mình.


- 12 -

1.4.3.3 Chi phí hỗn hợp
Chi phí hỗn hợp là những chi phí mà cấu thành nên nó bao gồm cả yếu tố chi
phí khả biến và chi phí bất biến. Ở một mức độ hoạt động cụ thể nào đó, chi phí hỗn
hợp mang đặc điểm của chi phí bất biến và khi hoạt động tăng lên chi phí hỗn hợp
sẽ biến đổi như đặc điểm của chi phí khả biến, phần bất biến trong chi phí hỗn hợp
thường là bộ phận chi phí cơ bản để duy trì các hoạt động ở mức độ tối thiểu, còn
phần khả biến là bộ phận chi phí sẽ phát sinh tỷ lệ với mức độ hoạt động tăng thêm.
Trong các doanh nghiệp sản xuất, chi phí hỗn hợp cũng chiếm tỷ lệ khá cao
trong các loại chi phí, chẳng hạn như chi phí điện thoại, chi phí bảo trì máy móc
thiết bị,... Nhằm phục vụ cho việc lập kế hoạch kiểm soát và chủ động điều tiết chi
phí, các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải phân tích chi phí hỗn hợp thành định phí
và biến phí. Các phương pháp dùng để phân tích chi phí hỗn hợp là phương pháp

cực đại, cực tiểu và phương pháp bình phương bé nhất.
Đây là cách phân loại đặc biệt quan trọng trong việc phục vụ cho các nhà
quản trị doanh nghiệp hoạch định, kiểm tra và ra quyết định. Cách phân loại này
quan tâm tới cách ứng xử của chi phí mà dựa vào đó để nghiên cứu mối quan hệ
giữa chi phí – khối lượng và lợi nhuận. Điều này có ý nghĩa trong việc khai thác khả
năng tiềm tàng của doanh nghiệp, là cơ sở để ra quyết định ngắn hạn nhằm tối đa
hoá lợi nhuận. Việc phân biệt định phí và biến phí giúp cho nhà quản trị xác định
đúng phương hướng để nâng cao hiệu quả:
+ Đối với biến phí: Phương hướng chính là tiết kiệm tổng biến phí và biến
phí đơn vị.
+ Đối với định phí: Cần phấn đấu để nâng cao hiệu lực của định phí trong sản
xuất kinh doanh.
1.4.4 Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế
Đặc điểm của cách phân loại này là căn cứ vào tính chất, nội dung kinh tế và
hình thái nguyên thuỷ ban đầu của chi phí để tập hợp sắp xếp những chi phí có cùng


- 13 -

tính chất, nội dung vào một yếu tố chi phí mà không phân biệt chi phí đó phát sinh
ở nơi đâu và nơi nào chịu chi phí.
Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí của doanh nghiệp được chia thành
năm yếu tố:
- Chi phí vật liệu: Đó là toàn bộ chi phí về vật liệu chính (kể cả nửa thành
phẩm) mua ngoài; chi phí vật liệu mua ngoài; phụ tùng thay thế mua ngoài; công cụ
dụng cụ mua ngoài xuất dùng cho sản xuất chế tạo sản phẩm trong doanh nghiệp.
- Chi phí nhân công: Bao gồm chi phí về tiền lương phải trả cho công nhân
sản xuất, nhân viên phân xưởng, các khoản trích theo lương.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: Đó là chi phí khấu hao tài sản cố định
trong lĩnh vực sản xuất như máy móc thiết bị sản xuất, các tài sản cố định khác

dùng chung ở phân xưởng, bộ phận khác của toàn doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Đó là những chi phí trả cho các đơn vị bên
ngoài về lao vụ, dịch vụ mà đơn vị này cung cấp cho doanh nghiệp phục vụ cho sản
xuất.
- Chi phí khác bằng tiền: Là các chi phí ngoài các khoản chi phí đã ghi ở các
yếu tố trên.
+ Tác dụng: Phân loại chi phí sản xuất theo tính chất kinh tế có tác dụng cho
biết những chi phí nào đã dùng vào quá trình sản xuất sản phẩm và tỷ trọng của
từng loại đó chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong tổng số chi phí sản xuất. Điều này có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng định mức vốn lưu động, nhu cầu vốn
lưu động của doanh nghiệp trong việc lập các dự toán chi phí sản xuất và kiểm tra
các dự toán đó trong quá trình sản xuất. Phân loại chi phí theo tính chất kinh tế còn
là tài liệu quan trọng dùng làm căn cứ để xác định định mức tiêu hao vật chất và
tính thu nhập quốc dân theo từng ngành. Ngoài ra còn làm căn cứ để lập báo cáo chi
phí sản xuất theo yếu tố.


- 14 -

1.4.5 Phân loại chi phí sản xuất theo công dụng kinh tế
Đặc điểm của cách phân loại này là căn cứ vào công dụng kinh tế của chi
phí, mục đích sử dụng của chi phí, nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí để sắp
xếp những chi phí có cùng công dụng vào một khoản mục. Theo chế độ kế toán tài
chính hiện hành thì toàn bộ chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm được chia thành ba
khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Đó là toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu
chính (kể cả nửa thành phẩm), vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế xuất dùng
trực tiếp để sản xuất sản phẩm.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Đó là các chi phí về tiền lương, tiền công phải
trả, các khoản bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế trích theo lương,

tiền công của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm.
- Chi phí sản xuất chung: Đó là các chi phí liên quan đến việc tổ chức sản
xuất và quản lý sản xuất trong phạm vi một phân xưởng (đội, bộ phận). Chi phí sản
xuất chung hiện nay bao gồm các nội dung:
+ Chi phí nhân viên: Phản ánh các chi phí trả cho các nhân viên phân xưởng
về tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, trích BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN
như quản đốc, thủ kho, nhân viên kế toán phân xưởng, công nhân vận chuyển, sửa
chữa tại phân xưởng.
+ Chi phí vật liệu: Phản ánh chi phí vật liệu sử dụng chung như vật liệu để
sửa chữa, bảo quản TSCĐ, vật liệu sử dụng ở phân xưởng.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất: Phản ánh chi phí công cụ dụng cụ dùng chung ở
phân xưởng: như khuôn mẫu, dụng cụ cầm tay, bảo hộ lao động,..
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao
TSCĐ hữu hình, vô hình, thuê tài chính sử dụng ở phân xưởng như khấu hao máy
móc thiết bị sản xuất tại phân xưởng, phương tiện vận tải, truyền dẫn, nhà
xưởng,..nhà làm việc tại phân xưởng.


- 15 -

+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh những lao vụ, dịch vụ mua ngoài
như: điện, nước, chi phí sửa chữa TSCĐ,…
+ Chi phí khác bằng tiền: Phản ánh những chi phí bằng tiền ngoài những chi
phí nêu ở trên.
Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế có tác dụng phục vụ cho yêu cầu
quản lý chi phí sản xuất theo định mức; cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành
sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm dịch vụ; làm
tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành sản
phẩm kỳ sau.
1.4.6 Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động

Chi phí phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất, xét theo từng hoạt động
có chức năng khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh mà chúng phục vụ,
được chia thành hai loại lớn: Chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
1.4.6.1 Chi phí sản xuất
Giai đoạn sản xuất là giai đoạn chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm
bằng sức lao động của công nhân kết hợp với việc sử dụng máy móc thiết bị. Chi
phí sản xuất bao gồm 3 khoản mục: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Khoản mục này bao gồm các loại nguyên
liệu và vật liệu xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Trong đó, nguyên vật
liệu chính dùng để cấu tạo nên thực thể chính của sản phẩm và các loại vật liệu phụ
khác có tác dụng kết hợp với nguyên vật liệu chính để hoàn chỉnh sản phẩm về mặt
chất và lượng và hình dáng.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Khoản mục này bao gồm tiền lương và những
khoản trích theo lương phải trả cho bộ phận công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm.
- Chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung là các chi phí phục vụ và
quản lý quá trình sản xuất sản phẩm phát sinh trong phạm vi các phân xưởng.
Khoản mục chi phí này bao gồm: Chi phí vật liệu phục vụ quá trình sản xuất hoặc


- 16 -

quản lý sản xuất, tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý
phân xưởng, chi phí khấu hao, sửa chữa và bảo trì máy móc thiết bị, nhà xưởng, chi
phí dịch vụ mua ngoài phục vụ sản xuất và quản lý ở phân xưởng.
1.4.6.2 Chi phí ngoài sản xuất
Đây là các chi phí phát sinh ngoài quá trình sản xuất sản phẩm hoặc phục vụ
công tác quản lý chung toàn doanh nghiệp. Thuộc loại chi phí này gồm có hai khoản
mục chi phí: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Chi phí bán hàng: Khoản mục chi phí này gồm các chi phí phát sinh phục

vụ cho khâu tiêu thụ sản phẩm. Có thể kể đến các chi phí như chi phí vận chuyển,
bốc dỡ thành phẩm giao cho khách hàng, chi phí bao bì, khấu hao các phương tiện
vận chuyển, tiền lương nhân viên bán hàng, chi phí tiếp thị quảng cáo,v.v..
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm tất
cả các chi phí phục vụ cho công tác tổ chức và quản lý quá trình sản xuất kinh
doanh nói chung trên giác độ toàn doanh nghiệp. Khoản mục này bao gồm các chi
phí như: Chi phí văn phòng, tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên
quản lý doanh nghiệp, khấu hao tài sản cố định phục vụ cho quản lý doanh nghiệp,
các chi phí dịch vụ mua ngoài khác,v.v..

1.5 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất tính giá thành
1.5.1 Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, tài khoản 621 được mở chi tiết theo từng
đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp sử dụng để sản xuất sản phẩm phần lớn là
chi phí trực tiếp nên được tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng liên quan căn cứ vào
các chứng từ xuất kho vật liệu và báo cáo sử dụng vật liệu ở từng phân xưởng (đội,
địa điểm,..) sản xuất.
- Trường hợp cần phải phân bổ gián tiếp, tiêu chuẩn phân bổ thường sử dụng là:


- 17 -

+ Đối với chi phí nguyên liệu, vật liệu chính, nửa thành phẩm, có thể chọn
tiêu chuẩn phân bổ là: Chi phí định mức, chi phí kế hoạch, khối lượng sản phẩm sản
xuất,..
+ Đối với chi phí vật liệu phụ, nhiên liệu có thể chọn tiêu chuẩn phân bổ là:
chi phí định mức, chi phí kế hoạch, chi phí thực tế của nguyên liệu, vật liệu chính,
khối lượng sản phẩm sản xuất...
1.5.2 Kế toán chi phí nhân công trực tiếp

Tài khoản 622 “ Chi phí nhân công trực tiếp” được mở chi tiết cho từng đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất đã được xác định.
- Chi phí nhân công trực tiếp thường được tính trực tiếp vào từng đối tượng
chịu chi phí liên quan. Trường hợp chi phí nhân công trực tiếp có liên quan đến
nhiều đối tượng mà không hạch toán trực tiếp được (như tiền lương phụ, các khoản
phụ cấp, hoặc tiền lương theo thời gian của công nhân sản xuất thực hiện nhiều
công tác khác nhau trong ngày) thì được tập hợp chung, sau đó chọn tiêu thức tích
hợp để tính toán phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí có liên quan.
- Tiêu thức phân bổ chi phí nhân công trực tiếp có thể là:
+ Chi phí nhân công định mức hoặc kế hoạch.
+ Giờ công định mức.
+ Giờ công thực tế.
+ Khối lượng sản phẩm sản xuất.
- Các khoản trích theo lương như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đoàn, bảo hiểm thất nghiệp được tính cho từng đối tượng căn cứ vào tỷ lệ tính
theo quy định hiện hành và số chi phí tiền lương đã tập hợp của từng đối tượng.
1.5.3 Kế toán chi phí sản xuất chung
Tài khoản 627 " Chi phí sản xuất chung” được mở và tập hợp theo từng địa
điểm phát sinh chi phí và được mở theo chi phí sản xuất chung. Trường hợp mỗi
đơn vị, bộ phận sản xuất chỉ tiến hành sản xuất một loại sản phẩm, một loại công


- 18 -

việc hay lao vụ nhất định, chi phí sản xuất chung của bộ phận, đơn vị đó là chi phí
trực tiếp và được kết chuyển trực tiếp cho loại sản phẩm, công việc hoặc lao vụ đó.
- Nếu có nhiều loại sản phẩm, công việc hoặc lao vụ, chi phí sản xuất chung
của từng bộ phận, đơn vị được phân bổ cho các đối tượng liên quan theo tiêu thức
phân bổ nhất định. Có thể phân bổ chung theo tổng chi phí sản xuất phát sinh, cũng
có thể phân bổ riêng theo từng khoản mục của chi phí sản xuất chung đã tập hợp

trên các tài khoản cấp 2 của tài khoản 627 – Chi phí sản xuất chung. Tiêu thức sử
dụng để phân bổ chi phí sản xuất chung có thể là:
+ Chi phí nhân công trực tiếp
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+ Tổng chi phí sản xuất cơ bản (bao gồm chi phí nhân công trực tiếp và chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp)
+ Dự toán (hoặc định mức) chi phí sản xuất chung
Trong một hệ thống tính giá thành linh hoạt hơn, chi phí sản xuất chung có
thể được tính cho các đối tượng liên quan theo định mức, hay dự toán. Phần chênh
lệch giữa mức thuẹc tế và dự toán được điều chỉnh vào cuối kỳ kế toán theo một
phương pháp nhất định.

1.6 Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm đang trong quá trình gia công, sản
xuất, chế biến. Toàn bộ chi phí sản xuất thực tế chi dùng trong kỳ thì một phần cấu
thành trong giá thành sản phẩm, phần còn lại nằm trong sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Vì vậy, tính toán sản phẩm dở dang cuối kỳ là một trong những điều kiện đảm bảo
cho giá thành sản phẩm chính xác.
Việc tính toán, xác định chi phí sản xuất cho sản phẩm dở dang cuối kỳ có
thể được tiến hành theo các phương pháp khấu hao khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc
điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc
điểm, tính chất sản phẩm, tỷ trọng từng loại chi phí tham gia vào quá trình chế tạo


- 19 -

sản phẩm cũng như yêu cầu, trình độ quản lý doanh nghiệp mà vận dụng phương
pháp đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ cho phù hợp.
1.6.1 Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí phát sinh thực tế
Theo phương thức này sản phẩm dở dang được đánh giá dựa vào chi phí thực

tế phát sinh theo từng khoản mục chi phí: Nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực
tiếp, sản xuất chung (trừ trường hợp đánh giá sản phẩm dở dang theo nguyên vật
liệu trực tiếp chỉ tính nguyên vật liệu trực tiếp trong sản phẩm dở dang mà thôi), sau
đó tổng hợp lại để xác định được chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ.
1.6.2 Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí định mức
Theo phương thức này sản phẩm dở dang được đánh giá dựa vào định mức
chi phí theo từng khoản mục chi phí và tỷ lệ hoàn thành của sản phẩm để tính được
chi phí định mức khối lượng sản phẩm dở dang của từng công đoạn, sau đó tổng
hợp lại để xác định chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Chi phí sản xuất
dở dang cuối kỳ

=

Chi phí sản xuất định
mức ở từng công đoạn

x

Số lượng sản phẩm dở
dang ở công đoạn đó

Phương thức này chỉ áp dụng thích hợp cho những sản phẩm, công việc đã
xây dựng được một hệ thống định mức chi phí hợp lý, hoặc giá thành sản phẩm
được thực hiện theo phương pháp định mức.
* Trong mỗi phương thức đánh giá sản phẩm dở dang nêu trên có hai
phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang như sau
- Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Theo phương pháp này, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ chỉ tính phần chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc nguyên vật liệu chính, còn chi phí nhân công trực

tiếp và chi phí sản xuất chung được tính cả cho sản phẩm hoàn thành.


- 20 -

Công thức tính:
Chi phí của sản phẩm
Chi phí phát
dở dang đầu kỳ
+ NVLTT phát sinh
trong kỳ

Chi phí của
sản phẩm

=

dở dang
cuối kỳ

Khối lượng
x

Khối lượng sản phẩm
hoàn thành
+

Khối lượng sản
phẩm dở dang
cuối kỳ


sản phẩm
dở dang cuối
kỳ

Trường hợp doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu
liên tục gồm nhiều giai đoạn công nghệ kế tiếp nhau thì sản phẩm dơ dang ở giai
đoạn công nghệ sau được đánh giá theo chi phí nửa thành phẩm của giai đoạn
công nghệ trước đó.
Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp có ưu điểm là tính toán đơn giản, khối lượng công việc ít. Tuy nhiên phương
pháp này có nhược điểm là kết quả không chính xác cao vì chỉ có một khoản chi phí.
Do vậy, đây là phương pháp chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất, khối lượng sản
phẩm dở dang ít và không biến động nhiều giữa cuối kỳ với đầu kỳ.
- Đánh giá sản phẩm dở dang theo khối lượng hoàn thành tương đương:
Theo phương pháp này, sản phẩm dở dang cuối kỳ phải chịu mọi khoản chi
phí đã sử dụng trong quá trình sản xuất. Căn cứ vào khối lượng và mức độ hoàn
thành của sản phẩm dở dang, ta tính ra khối lượng sản phẩm hoàn thành tương
đương, sau đó áp dụng các công thức sau để tính toán khoản mục chi phí cho sản
phẩm dở dang:
- Đối với những chi phí bỏ ra một lần ngay từ đầu vào sản xuất như chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp thì khoản mục này được tính theo công thức của đánh giá
sản phẩm dở dang theo nguyên vật liệu trực tiếp.


- 21 -

- Đối với chi phí bỏ dần vào quá trình sản xuất như chi phí nhân công trực
tiếp, chi phí sản xuất chung thì các khoản mục chi phí trong sản phẩm dở dang cuối

kỳ được xác định như sau:
+ Đối với những chi phí bỏ vào một lần ngay từ đầu quá trình sản xuất như
nguyên vật liệu trực tiếp, nguyên vật liệu chính:
Chi phí của
sản phẩm dở
dang đầu kỳ

Chi phí của
sản phẩm

+

Chi phí phát
sinh trong kỳ
Khối lượng

=

dở dang cuối kỳ

x
Khối lượng
sản phẩm
hoàn thành

+

Khối lượng
sản phẩm dở
dang cuối kỳ


sản phẩm
dở dang cuối
kỳ

+ Đối với những chi phí bỏ dần trong quá trình sản xuất như chi phí nhân
công trực tiếp, chi phí sản xuất chung thì tính cho sản phẩm dở dang cuối kỳ theo
mức độ hoàn thành.
Chi phí của
sản phẩm dở
dang đầu kỳ

Chi phí của
sản phẩm
dở dang cuối
kỳ

Chi phí
+

phát sinh

Khối lượng sản
phẩm

trong kỳ

=

x

Khối lượng
sản phẩm
hoàn thành

+

Khối lượng sản
phẩm dở dang cuối
kỳ tương đương sản
phẩm hoàn thành

dở dang
cuối kỳ tương
đương sản phẩm
hoàn thành

Trong đó:
Khối lượng sản phẩm dở dang
Khối lượng sản
cuối kỳ tương đương sản
= phẩm dở dang x
phẩm hoàn thành
cuối kỳ

Tỷ lệ chế biến đã
hoàn thành

Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo khối lượng sản phẩm hoàn thành
tương đương có ưu điểm là kết quả chính xác nhưng khối lượng tính toán nhiều. Do



- 22 -

vậy phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp chiếm tỷ trọng không lớn lắm trong toàn bộ chi phí sản xuất.
- Đánh giá sản phẩm dở dang theo phương pháp tính 50% chi phí chế biến
là hệ quả của phương pháp đánh giá theo khối lượng hoàn thành tương đương:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (hoặc vật liệu chính) tính cho sản phẩm
hoàn thành và sản phẩm dở dang là như nhau, các chi phí khác còn lại gọi là chi phí
chế biến tính cho sản phẩm dở dang theo mức độ hoàn thành 50%.

1.7 Phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính giá thành là một trình tự các bước phải thực hiện để tính
tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm hoàn thành theo đúng các đối tượng
tính giá thành, dựa trên cơ sở số liệu về chi phí sản xuất đã được tập hợp.
Trong KTTC các chi phí sản xuất được tập hợp và tính giá thành theo các
phương pháp: Phương pháp tính giá thành giản đơn, phương pháp tính giá thành
phân bước, phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng, phương pháp tính giá
thành theo hệ số, phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ, phương pháp tính giá thành
loại trừ, phương pháp tính giá thành theo định mức.
Trong KTQT các chi phí sản xuất cũng được tập hợp theo các khoản mục:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất
chung, sau đó tính giá thành sản phẩm, giá thành sản phẩm trong KTQT chủ yếu
phục vụ cho công tác quản trị doanh nghiệp như kiểm soát chi phí, ra quyết
định,..Trong KTQT các phương pháp tính giá chủ yếu sau:
1.7.1 Tính giá thành theo phương pháp trực tiếp
Tính giá thành theo phương pháp trực tiếp là phương pháp mà theo đó, chỉ có
các biến phí sản xuất liên quan đến sản xuất sản phẩm tại nơi sản xuất được tính vào
giá thành sản phẩm hoàn thành. Định phí sản xuất không được tính vào giá thành
sản phẩm hoàn thành. Đây có thể được coi là cách tính không đầy đủ để phục vụ

những yêu cầu riêng cho nhà quản trị.


- 23 -

Theo phương pháp này, giá thành sản phẩm hoàn thành bao gồm ba loại: Chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và biến phí sản xuất chung.
Trình tự tập hợp chi phí sản xuất như sau:
- Xác định đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành.
- Chi phí sản xuất phát sinh cần phân loại theo cách ứng xử chi phí.
- Cuối kỳ, kế toán toán tổng hợp toàn bộ biến phí sản xuất để tính giá thành
sản phẩm. Giá thành đơn vị sản phẩm được xác định như sau:
Giá thành đơn vị sản phẩm =

Tổng biến phí sản xuất
Sản lượng tương đương hoàn thành trong kỳ


- 24 -

Sơ đồ 1.2: Phương pháp tính giá trực tiếp và báo cáo lãi lỗ
Chi phí vật
liệu trực tiếp

Chi phí nhân
công trực tiếp

Biến phí sản
xuất chung


Doanh thu

Sản xuất kinh
doanh dở dang

Thành phẩm

Biến phí sản
xuất của hàng
bán

Biến phí bán
hàng và quản lý
doanh nghiệp

=
Số dư đảm phí

Định phí sản
xuất chung

-

Định phí bán
hàng và QLDN

=
Lợi nhuận thuần

1.7.2 Tính giá thành theo phương pháp toàn bộ

Là giá thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí cố định và chi phí
biến đổi thuộc các khoản mục: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Giá thành sản xuất toàn bộ của sản phẩm bao gồm
các phương pháp sau:


- 25 -

1.7.2.1 Tính giá thành theo công việc
Đặc điểm cơ bản của hệ thống tính giá thành theo công việc là việc tính toán
phân bổ chi phí cho từng công việc cụ thể. Công việc ở đây có thể là một đơn đặt
hàng như: Sản xuất áo quần được thiết kế theo mẫu, sản xuất một chiếc máy bay,
xây dựng một toà nhà, hoặc đơn giản hơn là sản xuất những sản phẩm giống nhau
như in lịch, in thiệp,..một dịch vụ, lao vụ cụ thể: sửa chữa một xe ôtô, tổ chức một
tour du lịch,..
Trong hệ thống tính giá thành theo công việc, các khoản chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung được tập hợp và
theo dõi riêng để tính giá thành cho từng công việc. Qua đó, người quản lý doanh
nghiệp có thể nắm bắt được chi phí và theo dõi lãi lỗ riêng của từng công việc để có
biện pháp kiểm soát chi phí hữu hiệu.
Quá trình kế toán chi phí theo công việc được thể hiện qua sơ đồ sau:
Đơn đặt hàng
Lệnh sản xuất

Phiếu theo dõi
nguyên vật liệu

Phiếu theo dõi
nhân công


Phân bổ chi phí sản
xuất chung

Phiếu chi phí đơn đặt hàng
Khi đơn đặt hàng hoàn thành thì toàn bộ chi phí được tập hợp trên Phiếu chi
phí đơn đặt hàng trên là tổng giá thành. Giá thành đơn vị sản phẩm sẽ được xác định
như sau:
Tổng giá thành sản phẩm
Giá thành đơn vị =
Số lượng sản phẩm sản xuất


×