Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh kon tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.17 KB, 103 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Phát triển kinh tế tư nhân là một trong những chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước.
Những năm gần đây, kinh tế tư nhân đã có những tiến bộ vượt bậc và là
nguồn lực to lớn thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển.
Tỉnh Kon Tum, trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế đã chú ý đến
phát triển kinh tế tư nhân và đạt được những thành tựu nhất định. Đã huy
động nhiều nguồn lực đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc
làm cho người lao động, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, hổ
trợ, bổ sung cho kinh tế Nhà nước, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tạo ra
nhiều sản phẩm, hàng hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim
ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân ở Kon Tum vẫn chưa được khai thác thỏa
đáng. Vì vậy việc tìm kiếm giải pháp để phát triển mạnh hơn nữa bộ phận
kinh tế tư nhân là một yêu cầu bức thiết. Với lý do đó, em chọn đề tài “ Phát
triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Kon Tum” làm định hướng nghiên cứu
cho luận văn cao học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa về mặt lý luận các vấn đề liên qua đến phát triển kinh tế tư
nhân.
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Kon Tum trong thời
gian qua.
- Đề xuất giải pháp phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Kon Tum trong thời
gian đến.


2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến việc
phát triển kinh tế tư nhân tại tỉnh Kon Tum.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung phát triển kinh
tế tư nhân tỉnh Kon Tum thông qua các loại hình doanh nghiệp tư nhân, cụ
thể: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần.
+ Về không gian: nội dung trên được nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Kon Tum.
+ Về thời gian: Các giải pháp đề xuất trong luận văn chỉ có ý nghĩa
những năm trước mắt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp duy vật lịch sử
- Phương pháp phân tích thực chứng, phương pháp phân tích chuẩn tắc
- Phương pháp thống kê điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp
- Các phương pháp nghiên cứu khác.....
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo
luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về KTTN và phát triển KTTN.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tại tỉnh Kon Tum thời
gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian
đến trên địa bàn tỉnh Kon Tum.


3


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG NỀN KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân
Khái niệm kinh tế tư nhân hay khu vực kinh tế tư nhân hiện nay còn có
nhiều ý kiến chưa đồng nhất. Ở nhiều nước, thuật ngữ kinh tế tư nhân được sử
dụng để phân biệt với nền kinh tế Nhà Nước.
Ở Việt Nam còn nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế tư nhân.
Một số người coi kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp tư nhân trong
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc hiểu khu vực kinh tế tư
nhân như vậy tạo cơ sở để đánh giá hết tiềm năng của khu vực kinh tế này đối
với sự phát triển kinh tế của Việt Nam, nhưng mặt khác lại gặp khó khăn
trong thống kê, khi muốn tách bạch phần vốn góp của Nhà nước trong các
công ty cổ phần cũng như trong các doanh nghiệp liên doanh hay doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, quan niệm được nhiều người đồng tình nhất, đó là nói đến
kinh tế tư nhân thực chất là nói đến bộ phận kinh tế tư nhân, trong đó hoạt
động sản xuất kinh doanh được tiến hành dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất, lao động, sản phẩm làm ra, kết quả quá trình sản xuất đó
thuộc về tư nhân. Kinh tế tư nhân ở Việt Nam bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ
và tư bản tư nhân. Bản thân tôi ủng hộ quan điểm này [29,2].
Kinh tế cá thể được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay
một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
lao động là của chính hộ cá nhân đó, không thể thuê mướn lao động làm thuê.


4


Kinh tế tiểu chủ được hiểu là hình thức kinh tế của chủ tổ chức, quản lý
và điều hành hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
sử dụng lao động làm thuê; qui mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn các hình
thức doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần.
Kinh tế tư bản tư nhân, về hình thức tổ chức sản xuất, hình thức doanh
nghiệp bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần được
thành lập theo luật doanh nghiệp.
Trong luận văn chỉ tập trung nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân tỉnh
Kon Tum thông qua các loại hình doanh nghiệp tư nhân, cụ thể: doanh nghiệp
tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần.
1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được thành lập hoặc đăng ký
kinh doanh theo qui định pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
sản xuất kinh doanh theo qui định pháp luật nhằm mục đích thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân gồm: Doanh nghiệp tư
nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, cụ thể:
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định việc sử dụng thu nhập
thuần( sau khi nộp thuế TNDN). Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp
hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp
thuê người khác làm giám đốc quản lý doanh nghiêp, chủ doanh nghiệp tư


5


nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp [22,65].
Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân
hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động
kinh doanh của Doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh
nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh
nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bỡi pháp luật như loại hình doanh nghiệp
khác. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rũi ro của doanh
nghiệp cao, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của doanh nghiệp và của cả chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn số vốn
mà chủ doanh nghiệp đã đầu tư vào doanh nghiệp.
Từ đặc điểm trên, chúng ta có thể nhận thấy doanh nghiệp tư nhân sẽ là
loại hình doanh nghiệp ít được lựa chọn trong thời gian đến do những hạn chế
và tính rũi ro của nó không đáp ứng được xu hướng thay đổi của nền kinh tế
trong quá trình hội nhập quốc tế.
Công ty TNHH: là doanh nghiệp trong đó các khoản nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào
doanh nghiệp. Thành viên của công ty TNHH có thể là tổ chức, cá nhân; số
lượng thành viên tối thiểu là một( hai) và tối đa không vượt quá năm mươi.
Công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, công ty TNHH không được quyền phát hành
cổ phiếu để huy động vốn [22,14].
Công ty TNHH có 02 thành viên trở lên phải có hội đồng thành viên,
chủ tịch thành viên, giám đốc. Công ty TNHH có trên 11 thành viên phải có
ban kiểm soát.


6


Công ty TNHH là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở Việt Nam
hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty TNHH đem lại cho
nhà đầu tư nhiều lợi thế như:
- Do có tư cách pháp nhân nên các thành viên công ty chỉ chịu trách
nhiệm về các hoạt động công ty trong phạm vi vốn góp vào công ty nên ít rũi
ro cho người góp vốn;
- Số lượng thành viên công ty TNHH không nhiều và các thành viên
thường quen biết, tin cậy lẫn nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không
quá phức tạp;
- Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư
dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế việc xâm nhập
của người lạ vào công ty.
Tuy nhiên, hình thức công ty TNHH cũng có những hạn chế nhất định:
- Do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác,
bạn hàng cũng phần nào ảnh hưởng;
- Công ty TNHH chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là
doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh;
- Việc huy động vốn của công ty TNHH bị hạn chế do không có quyền
phát hành cổ phiếu
Công ty cổ phần: là doanh nghiệp, trong đó :
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các khoản nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần biểu quyết;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa [22,36].


7


Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
ra công chúng theo qui định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc( Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải
có Ban kiểm soát.
Do có những đặc thù như vậy công ty cổ phần có những lợi thế nhất
định đó là:
- Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi vốn góp nên mức độ rũi ro của các cổ đông không cao;
- Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng trong hầu hết các
lĩnh vực, ngành nghề;
- Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều
người cùng góp vốn vào công ty;
- Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất cao thông qua việc
phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ
phần;
- Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dể dàng,
do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả
cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
Bên cạnh những lợi thế trên, loại hình công ty cổ phần cũng có những
hạn chế nhất định như:
- Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng
các cổ đông công ty có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và
thậm chí có thể phân hoá giữa các nhóm cổ đông đối kháng nhau về lợi ích;


8


- Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại
hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bỡi các qui định pháp luật, đặc
biệt là chế độ tài chính, kế toán.
Như vậy, so với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần là
loại hình doanh nghiệp có tính tổ chức và xã hội hoá cao cả về vốn cũng như
về hoạt động.
Việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh
doanh là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình
doanh nghiệp là: uy tín doanh nghiệp, khả năng huy động vốn, rũi ro đầu tư,
tính phức tạp các thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp, tổ chức quản
lý doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
- Huy động nhiều nguồn lực trong xã hội cho đầu tư vào sản xuất kinh
doanh: Phát triển kinh tế tư nhân khai thác và tận dụng có hiệu quả tiềm năng
về vốn, các nguồn nguyên liệu ở từng địa phương. Với những lợi thế riêng chỉ
có ở khu vực kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo ra nguồn đầu tư
quan trọng đóng góp vào quá trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
quốc dân;
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động: Phát triển kinh tế tư
nhân sẽ tạo việc làm cho một lượng lớn lao động, đời sống và do đó góp phần
vào việc ổn định kinh tế - xã hội. Trong 5 năm từ 2000 đến 2005, khu vực
kinh tế tư nhân cả nước thu hút khoảng 1,6 đến 2 triệu chỗ làm việc và đang
trở thành nơi thu hút lao động chủ yếu của cả nước. Doanh nghiệp tư nhân
chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, doanh nghiệp của tư nhân không chỉ phát triển
mạnh mẽ ở các thành thị, khu công nghiệp còn dễ thích nghi với điều kiện


9


nông thôn, nơi có nhiều lao động nhàn rỗi, giải quyết việc làm, giảm thất
nghiệp ;
- Duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống: Kinh tế tư nhân
góp phần duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, qua đó sử dụng
và phát huy kinh nghiệp sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm quản lý sản xuất
đã được tích luỹ qua nhiều thế hệ, kết hợp tính truyền thống và tính hiện đại
trong sản xuất. Đặc điểm cơ bản nhất của ngành nghề truyền thống là gắn chặt
với kinh tế cá thể và thực tế đã chứng minh, kinh tế tư nhân phát triển thì các
ngành nghề truyền thống phát triển.
- Hỗ trợ, bổ sung cho khu vực kinh tế Nhà nước tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh: Kinh tế tư nhân giữ vai trò hỗ trợ, bổ sung cho khu vực kinh
tế thuộc sở hữu Nhà nước, tạo thành mối liên kết cùng hợp tác, cùng cạnh
tranh để cùng phát triển. Vai trò hỗ trợ không chỉ tạo ra hàng hoá đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng mà còn là động lực để kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò
chủ đạo của mình thông qua cạnh tranh.
- Tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng kinh ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách Nhà nước: Phát
triển kinh tế tư nhân tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần bình ổn giá cả, kiềm chế lạm
phát. Khu vực kinh tế tư nhân có thế mạnh trong việc huy động vốn, khai thác
các tiềm năng khác có hiệu quả, đóng góp ngày càng lớn cho ngân sách Nhà
nước[23,1].
Kinh tế tư nhân góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Để công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không thể không có doanh nghiệp quy mô
lớn, có nhiều vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong một số ngành, nhằm tạo
ra sức mạnh để cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Để làm được



10

điều đó, cần tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa tạo điều kiện để vươn lên thành doanh nghiệp lớn. Điều này có thể
thực hiện thông qua phát triển kinh tế tư nhân. Thực tế cho thấy, quá trình
phát triển kinh tế tư nhân đồng thời là quá trình tìm kiếm phương thức kinh
doanh có hiệu quả nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản
phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Đó là quá trình các
chủ doanh nghiệp phải tự đổi mới công nghệ, kỹ thuật tại doanh nghiệp của
mình, chuyển hướng kinh doanh vào những vấn đề đó, tự nó làm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý hơn. Điều này càng trở nên có ý
nghĩa đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn ở nước ta.
- Nâng cao chất lượng lao động, nuôi dưỡng tiềm năng trí tuệ kinh
doanh: Phát triển kinh tế tư nhân góp phần nâng cao chất lượng lao động,
nuôi dưỡng tiềm năng trí tuệ kinh doanh. Tiềm năng trí tuệ, kinh nghiệm quản
lý, tay nghề lao động và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh được tích luỹ, lưu
truyền trong từng ngành nghề sẽ góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế
bền vững.
Tuy nhiên, thực tế tại tỉnh Kon Tum kinh tế tư nhân chưa thực sự phát
huy hết các nguồn lực, tiềm năng để phát triển và đóng góp tương xứng với
vai trò, vị trí của mình đối với sự tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề
xã hội của tỉnh Kon Tum, đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay.
1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Phát triển kinh tế tư nhân là sự tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân
đồng thời có sự biến đổi sâu sắc về mặt cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội theo
hướng tiến bộ.
1.2.1. Phát triển số lượng các doanh nghiệp



11

Phát triển số lượng các doanh nghiệp tư nhân là số lượng các doanh
nghiệp của kinh tế tư nhân có sự tăng lên đáng kể, năm sau nhiều hơn năm
trước.
Đây là tiêu chí quan trọng để nghiên cứu đánh giá sự phát triển của
kinh tế tư nhân. Phát triển số lượng là những tiêu chí quan trọng thể hiện rõ
ràng nhất sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân. Phát triển kinh tế tư nhân
trước là sự gia tăng về số lượng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân.
Phải phát triển số lượng doanh nghiệp kinh tế tư nhân vì đó là nơi tiến
hành các quá trình sản xuất, là nơi diễn ra sự kết hợp các yếu tố nguồn lực để
tạo ra sản phẩm, sản phẩm hàng hóa cho xã hội. Doanh nghiệp càng nhiều
càng nhiều sản phẩm, sản phẩm hàng hóa.
Doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành kinh tế tư nhân, vì vậy số
lượng doanh nghiệp này càng nhiều chứng tỏ kinh tế tư nhân ngày càng phát
triển. Phát triển về số lượng doanh nghiệp không chỉ xem xét số lượng doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh mà phải xem xét cả số lượng doanh nghiệp đi vào
hoạt động ổn định. Ngoài ra sự tăng lên về số lượng còn phải phù hợp xu
hướng phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung cũng như của tỉnh nói
riêng. Để phản ánh sự phát triển số lượng kinh tế tư nhân, người ta có thể
dùng một số tiêu chí phản ánh:
- Sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp;
- Tốc độ tăng số lượng các doanh nghiệp.
Để phát triển số lượng các đơn vị, doanh nghiệp kinh tế tư nhân bằng
cách tạo điều kiện để các doanh nghiệp đơn vị ra đời và hoạt động. Đó chính
là tạo điều kiện về thủ tục hành chính, tạo điều kiện về tiếp cận nguồn vốn,
đất đai, cơ sở vật chất, thị trường để các doanh nghiệp ra đời và phát triển
bình thường.



12

1.2.2. Tăng qui mô các nguồn lực trong từng doanh nghiệp
Tăng qui mô các yếu tố nguồn lực trong từng doanh nghiệp là tăng qui
mô của các yếu tố sản xuất, từng nguồn lực sản xuất, ví dụ như: vốn, lao
động, diện tích mặt bằng kinh doanh, trình độ công nghệ của máy móc thiết bị
Phải tăng qui mô các yếu tố nguồn lực của một doanh nghiệp bỡi vì các
yếu tố các yếu tố nguồn lực là thành phần cấu thành của quá trình sản xuất.
Sản xuất không thể phát triển nếu các nguồn lực không được tăng cường.
Tiêu chí đánh giá qui mô của doanh nghiệp.
Đánh giá qui mô của mô của doanh nghiệp người ta có thể sử dụng chỉ
tiêu để phản ánh mô của doanh nghiệp, từng cơ sơ sở kinh tế tư nhân là diện
tích đất đai, số lượng lao động, qui mô vốn, trình độ công nghệ máy móc thiết
bị, năng lực trình độ quản lý của doanh nghiệp, cụ thể:
a. Vốn
Mọi doanh nghiệp muốn bắt đầu đều phải xuất phát từ vốn, nói cách
khác vốn là yếu tố tiên quyết của sự hình thành và phát triển doanh nghiệp. Sự
tăng lên về vốn đầu tư của mỗi doanh nghiệp phần nào thể hiện sự phát triển
của doanh nghiệp đó, tuy nhiên để đánh giá thực chất sự phát triển này cần
phải đánh giá dựa trên tính hiệu quả mà lượng vốn tăng lên này đem lại. Sự
tăng lên về vốn của doanh nghiệp tư nhân tăng lên chứng tỏ qui mô của kinh
tế tư nhân phát triển. Vốn đầu tư của doanh nghiệp là vốn ban đầu cũng như
nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Để phản ánh sự phát triển về vốn của doanh nghiệp kinh tế tư nhân,
người ta có thể dùng một số tiêu chí phản ánh:
- Vốn chủ sở hữu bình quân một doanh nghiệp qua các năm;
- Tỷ trọng doanh nghiệp theo mức vốn.
Vốn là một một nguồn lực quan trọng cho bất kỳ loại hình doanh
nghiệp nào, các doanh nghiệp tăng qui vốn bằng cách: Doanh nghiệp tự tích



13

lũy; Doanh nghiệp huy động từ các cổ đông; Doanh nghiệp tiếp cận từ ngân
hàng. Vốn từ nguồn này doanh nghiệp thường phải vay vốn tín dụng cả chính
thức và phi chính thức trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Các tổ chức, cá nhân kinh doanh tiền tệ có tín dụng thuận lợi sẽ tác
động đến việc hình thành vốn, chẳng hạn như tín dụng đầu tư, vốn hỗ trợ của
ngân hàng thương mại cho nhu cầu vốn hoạt động của doanh nghiệp. Ngược
lại để tiếp cận vốn thuận lợi khác các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả
và đảm bảo các qui định khi làm thủ tục vay vốn của các tổ chức tín dụng.
b. Lao động
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
Việc gia tăng về lao động trong khu vực doanh nghiệp tư nhân cũng thể hiện
sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp khu vực này.
Để phản ánh sự phát triển về lao động của doanh nghiệp kinh tế tư
nhân, người ta có thể dùng một số tiêu chí phản ánh:
- Số lượng lao động bình quân;
- Lao động đã qua đào tạo;
- Lao động chưa qua đào tạo;
- Cơ cấu doanh nghiệp theo phân theo lao động.
Khu vực KTTN đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra công ăn việc làm
mới thu hút lực lượng lao động. Tuy nhiên các doanh nghiệp không sẵn sàng
tiếp nhận những lao động phổ thông mà ngược lại chỉ nhận những lao động có
tay nghề, có khả năng đóng góp vào công việc kinh doanh, sản xuất của họ.
Chính vì vậy, nếu chính quyền địa phương có chính sách về lao động phù hợp
để phát triển và nâng cao chất lượng lực lượng lao động địa phương sẽ có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với môi trường kinh doanh trên địa bàn và sự
phát triển của doanh nghiệp.



14

Chính sách quản lý về lao động tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận
được nguồn lao động phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, gồm có những
khía cạnh sau:
- Chính sách quy hoạch và phát triển các trường dạy nghề nhằm đáp
ứng nhu cầu của tuyển dụng lao động của doanh nghiệp;
- Hỗ trợ đào tạo và tuyển dụng lao động cho doanh nghiệp.
c. Mặt bằng kinh doanh
Mặt bằng sản xuất kinh doanh không chỉ là qui mô về diện tích mà còn
là yếu tố sinh lợi như vị trí thuận lợi, kết cấu hạ tầng đồng bộ hiện đại, nhà
xưởng bố trí hợp lý, xây dựng hợp lý. Mặt bằng kinh doanh thuận lợi, hợp lý
cũng là yếu tố để đánh giá sự tăng trưởng và phát triển doanh nghiệp tư nhân.
Ở Việt Nam, hầu hết các doanh nghiệp KTTN là vừa và nhỏ, thường
khởi sự bằng việc sử dụng đất ở của mình làm địa điểm sản xuất kinh doanh,
song thường gặp khó khăn khi có nhu cầu thuê thêm đất nhằm mở rộng quy
mô hoạt động.
Chính sách quản lý đất đai và mặt bằng kinh doanh tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tiếp cận được nguồn lực đất đai, tạo mặt bằng cho doanh nghiệp
tiến hành hoạt động kinh doanh và mở rộng sản xuất. Ngoài ra, chính sách
quản lý đất đai còn liên quan đến khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của
doanh nghiệp, vì thông thường doanh nghiệp KTTN phải thế chấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại ngân hàng để được vay vốn tín dụng.
Để phản ánh về mặt bằng kinh doanh của doanh nghiệp kinh tế tư nhân,
người ta có thể dùng một số tiêu chí phản ánh:
- Sự thuận lợi của mặt bằng kinh doanh;
- Mức độ thuận lợi của doanh nghiệp khi tìm kiếm mặt bằng kinh
doanh.



15

Các chính sách liên quan đến đất đai của chính quyền như: chính sách
cấp đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đền bù và thu hồi đất, đấu giá đất,
quản lý về thị trường nhà đất, v.v…
Chính sách quản lý mặt bằng kinh doanh như: phát triển các khu công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; chính sách cho thuê mặt bằng kinh doanh, chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm mặt bằng kinh doanh, v.v…
d. Trình độ công nghệ máy móc thiết bị
Sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thể hiện sức mạnh của
một doanh nghiệp về mọi mặt. Khi nói đến sức mạnh của một doanh nghiệp
trước hết cần nói đến trình độ công nghệ, máy móc thiết bị của sản xuất dịch
vụ. Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện
nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc thiết
bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Việc phát triển công ngệ máy móc
thiết bị không chỉ đơn giản là mua máy móc, thiết bị mà phải quan tâm đến
phương pháp, bí quyết sản xuất năng lực quản lý. Phát triển công nghệ máy
móc thiết bị không thể đầu tư nhỏ giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm
một số máy móc, thiết bị rồi vừa làm vừa cải tiến. Một số doanh nghiệp thiếu
thông tin, không có kinh kinh nghiệm lựa chọn mua bán chuyển giao công
nghệ đã trở thành nạn nhân của các thương vụ về công nghệ.
Để phản ánh về công nghệ máy móc thiết bị của doanh nghiệp kinh tế
tư nhân, người ta có thể dùng tiêu chí phản ánh:
- Mức độ hiện đại của công nghệ.
Để giúp cho doanh nghiệp có được những phát triển và ứng dụng công
nghệ trong sản xuất kinh doanh, gồm có:
- Chính sách khuyến khích bản thân các doanh nghiệp phát triển và ứng
dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh;



16

- Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các cơ sở dữ liệu về khoa
học công nghệ và những thông tin về tiến bộ khoa học công nghệ.
e. Phát triển trình độ quản lý doanh nghiệp
Trình độ quản lý doanh nghiệp là khả năng điều hành, năng lực nghiên
cứu thị trường và đăng ký bảo hộ quyền sở hữu.. ảnh hưởng đến uy tín, hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ quản lý được nâng cao
có nghĩa là chủ doanh nghiệp và và cán bộ quản lý có khả năng nắm bắt được
thông tin về thay đổi môi trường thể chế, thị trường, khách hàng, nhạy bén với
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế…để điều chỉnh công nghệ, qui trình sản
xuất, mặt hàng, sản phẩm.
Trong thực tế doanh nghiệp còn thiếu những nhà quản trị chuyên
nghiệp và việc tổ chức hoạch định chiến lược vẫn còn nặng về thủ tục hành
chính. Các chiến lược thường được hoạch định trên cơ sở năng lực sản phẩm
hiện tại, chưa có yếu tố khách hàng, đối thủ cạnh tranh hiện tại, thiếu hẳn khả
năng và lộ trình hội nhập quốc tế…..Điều quan trọng nữa là một số doanh
nghiệp Việt Nam nếu có chiến lược kinh doanh thì ít khi dựa trên phân tích thị
trường, lợi thế so sánh của doanh nghiệp , định hướng vào một mảng thị
trường nhất định, tập trung vào những sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh
tranh.
So với doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có trình độ quản lý
yếu và không đồng đều, vì vậy phát triển trình độ quản lý của doanh nghiệp
trong khu vực kinh tế tư nhân chính là một tiêu chí quan trọng để đánh giá sự
phát triển của kinh tế tư nhân.
Để phản ánh về năng lực trình độ quản lý của doanh nghiệp kinh tế tư
nhân, người ta có thể dùng tiêu chí phản ánh:

Trình độ chuyên môn của giám đốc.


17

Để bồi dưỡng, phát triển năng lực quản lý chiến lược và tư duy chiến
lược cho đội ngũ giám đốc và cán bộ kinh doanh trong các doanh nghiệp, cần
chú trọng đặc biệt những kỹ năng: Phân tích kinh doanh, dự đoán và định
hướng chiến lược, lý thuyết và quản trị chiến lược, quản trị rủi ro và tính nhạy
cảm trong quản lý.
Để nâng cao trình độ quản lý của người điều hành doanh nghiệp của
khu vực kinh tế tư nhân thì ngoài việc doanh nghiệp tự bỏ kinh phí đào tạo,
Nhà nước cũng nên có chương trình bồi dưỡng về các kỹ năng quản lý doanh
nghiệp.
1.2.3. Phát triển thị trường
Phát triển thị trường là các doanh nghiệp tìm cách gia tăng sản phẩm
trên thị trường và đưa ra các sản phẩm vào thị trường mới. Làm cho thị phần,
khách hàng của sản phẩm ngày càng tăng.
Mở rộng thị trường làm từng doanh nghiệp phải tăng khả năng sản xuất
hàng hóa, dịch vụ, khả năng cung cấp sản phẩm cho thị trường, cho xã hội, là
sự biết vững chắc, rõ ràng về các loại thị trường trong và ngoài nước, về cơ
hội và thách thức tự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mở rộng thị trường,
có thêm thị trường mới để đạt được thị phần ngày càng lớn. Có như vậy
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân mới tự khẳng định được, mới có
vai trò trong thị trường và xã hội.
Để phản ánh về phát triển thị trường của doanh nghiệp kinh tế tư nhân,
người ta có thể dùng một số tiêu chí phản ánh:
- Các thị trường mà doanh nghiệp có thể tham gia;
- Thị phần mà doanh nghiệp chiếm giữ;
- Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia thị trường nguyên liệu trong tỉnh, ngoài

tỉnh, nhập khẩu, nguyên liệu tự sản xuất ra;


18

- Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia thị trường tiêu thụ trong tỉnh, ngoài tỉnh,
nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm tự sản xuất ra;
- Tỷ lệ doanh nghiệp có sử dụng môi giới trong xuất nhập khẩu.
Việc doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng chiếm lĩnh
được thị trường và có thị phần ngày càng lớn cũng chứng tỏ sự phát triển của
khu vực kinh tế tư nhân.
Để phát triển thị trường, Nhà nước phải cung cấp thông tin và tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp tiếp xúc với thị trường. Các doanh nghiệp thuộc tư
nhân rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước về các mặt như tìm kiếm thị trường và
nhất là tìm một môi trường xã hội.
1.2.4. Liên kết doanh nghiệp
Liên kết doanh nghiệp là làm cho sự kết hợp giữa các doanh nghiệp
được diễn ra chặt chẽ, thường xuyên, rộng lớn hơn.
Hình thành các chuỗi liên kết dọc
Là mối liên hệ liên kết giữa các khâu, các công đoạn: khai thác, chế tạo,
lắp ráp, phân phối trong cùng một ngành. Có thể thấy ở khu vực kinh tế tư
nhân nước tra nói chung mối liên hệ này hoặc chưa được hình thành hoặc hết
sức lỏng lẻo. Hầu hết các cơ sở chỉ đơn độc đảm nhận một khâu trong quá
trình, lại là khâu kém hiệu quả nhất ( khai thác, sơ chế tài nguyên; nuôi trồng,
sơ chế nông lâm, thủy sản; gia công may mặc, giày da ; lắp ráp cơ khí, điện
tử, bán lẻ ...). Các khâu này mang lại giá trị gia tăng thấp với chi phí đầu vào
cao và giá bán thấp. Năng lực thương lượng kém so với người mua ( nguyên
liệu hoặc nguyên liệu qua sơ chế ), so với người bán ( vải sợi, da giày, linh
kiện, phụ tùng, thành phẩm..) làm cho các cơ sở càng chịu nhiều áp lực và sự
thua thiệt. Tham gia hình thành các mối liên hệ liên kết dọc trong ngành giúp

tháo gỡ phần nào khó khăn này [ 24, 22].


19

Các cơ sở hoạt động trong công đoạn khai thác, sơ chế nguyên liệu
(vật liệu xây dựng, nông lâm thủy sản, khoáng sản ...) cần tăng cường các nỗ
lực liên kết dọc thuận chiều. Đó là việc liên kết vối các cơ sở chế biến có trình
độ công nghệ cao trong địa phương (và có thể trong nước ), có thể đóng vai
trò là một cổ đông, hoặc là nhà cung cấp tin cậy cho các cơ sở đó. Giá trị gia
tăng lớn thu được từ hoạt động chế biến công nghệ cao có thể được chia sẻ.
Các cơ sở hoạt động trong công đoạn lắp ráp có thể tham gia hình thành
mối quan hệ liên kết dọc về hai phía (cung cấp và tiêu thụ ). Trong điều kiện ở
địa phương và trong nước, khi mà các ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát
triển thì đây là khó khăn rất lớn nếu muốn tham gia vào hướng cung cấp. Dù
vậy, chủ động tự chế tạo một số yếu tố đầu vào trong nhiều yếu tố, tăng cường
mối quan hệ thêm chặc chẽ với các nhà chế tạo trong nước và địa phương là
hết sức cần thiết. Điều này cũng là gợi ý cho khu vực kinh tế tư nhân định
hướng đầu tư vào các lĩnh vực mà các ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ phát triển
trong tương lai. Về phía tiêu thụ sản phẩm, các sơ sở có thể tự tổ chức hệ
thống phân phối của mình hoặc liên kết chặt chẽ với các nhà phân phối để
tăng thêm tính chủ động và tìm kiếm thêm lợi nhuận. Với các cơ sở xuất
khẩu, việc chủ động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng để bán hàng
trực tiếp không qua trung gian cần được chú trọng với những cách thức phù
hợp với điều kiện của mình. Trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp thì khai thác
những tiện ích từ Internet là biện pháp hợp lý.
Hình thành mối quan hệ liên kết ngang
Liên kết ngang là liên kết giữa các doanh nghiệp cùng loại. Sự liên kết
này có thể giúp các cơ sơ kinh tế tư nhân có tiếng nói chung và có năng lực
thương lượng mạnh hơn trước. Việc thống nhất phân định khối lượng và địa

bàn hoạt động làm giảm thiểu tình trạng tranh mua, tranh bán mạnh. Kinh tế
tư nhân có năng lực thương lượng yếu. Nhiều cơ sở tranh mua nguyên liệu


20

đẩy chi phí đầu vào tăng cao. Hiện tượng tranh bán làm sụt giảm giá cả và
doanh thu. Tất cả đều ảnh hưởng xấu đến khả năng thu lợi nhuận - cơ sở
quyết định sự tồn tại và phát triển. Tham gia hình thành các mối quan hệ liên
kết ngang có thể khắc phục nhược điểm này.
Liên kết ngang có thể làm cho nhiều cơ sở nhỏ như là một cơ sở lớn và
làm xuất hiện lợi thế theo quy mô (tiết kiệm chi phí đặt hàng, vận chuyển,
marketing...). Liên kết ngang còn giúp các cơ sở chia sẻ kinh nghiệm, thông
tin và các yếu tố nguồn lực khác.
Đối với kinh tế cá thể nông, lâm, thủy sản, tiểu thủ công nghiệp: cần
tham gia hoặc hình thành các hình thức kinh tế hợp tác : hợp tác xã, tổ hợp
tác hoặc lỏng lẻo hơn là các câu lạc bộ, nhóm, hội theo đối tượng sản xuất tại
địa phương. Các tổ chức này sẽ là người đại diện cho các cơ sở trong các giao
dịch mua bán; là cầu nối cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ; là trung
tâm điều phối, chia sẻ nguồn lực.
Đối với các doanh nghiệp và ở các lĩnh vực khác: Thành lập và tham
gia vào các hiệp hội ngành nghề một cách thực chất là thực hiện liên kết
ngang phù hợp. Các hiệp hội ngành nghề là các tổ chức nghề nghiệp cần được
kiện toàn theo hướng tăng cường năng lực, tính chuyên nghiệp, chuyên môn,
tính thiết thực và hiệu quả. Ngoài việc tuyên truyền, giáo dục văn hóa kinh
doanh, ý thức chấp hành luật pháp và trách nhiêm cộng đồng cũng như thực
hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên, các hiệp hội cũng
cần xây dựng chiến lược, kế hoạch và nội dung hoạt động hướng vào việc hỗ
trợ, nâng cao lợi thế cạnh tranh của các hội viên.
Cần nâng cao chất lượng cung cấp thông tin không chỉ là thông tin thị

trường mà còn là thông tin môi trường kinh doanh, không chỉ là thông tin
trong hiện tại mà còn dự báo các xu hướng. Hiệp hội phải là nơi để các thành
viên tìm kiếm các cơ hội kinh doanh và chia sẻ kinh nghiệm. Hiệp hội phải là


21

người đại diện, giúp các thành viên nâng cao năng lực thương lượng trước các
áp lực của các đối tác.
Các cơ sở kinh tế tư nhân cũng cần nhận thấy điểm yếu của mình so với
các khu vực kinh tế khác và các địa phương khác, từ đó thấy được vai trò
quan trọng của các hiệp hội ngành nghề. Ngoài việc tự nguyện gia nhập, nhiệt
tình đóng góp xây dựng, kiện toàn hiệp hội còn là thái độ đúng mực về cạnh
tranh và hợp tác với các cơ sở khác trong cùng hiệp hội. Cùng hoạt động
trong một ngành, trên cùng một địa bàn các cơ sở trong hiệp hội cạnh tranh
lẫn nhau trong sử dụng nguyên liệu, nhân công trong thu hút khách hàng. Tuy
nhiên ở khía cạnh khác, cần thấy được sức mạnh của việc hợp tác trong việc
tạo lợi thế trước áp lực cạnh tranh, đặc biệt là áp lực từ bên ngoài địa bàn, bên
ngoài khu vực trong nền kinh tế hội nhập. Có như thế thì mối quan hệ giữa
các thành viên mới thật sự mang tính liên kết và tạo nên sức mạnh.
Vì sao phải liên kết giữa các doanh nghiệp, vì mỗi doanh nghiệp có một
thế mạnh có một lợi thế nhất định do đó liên kết tạo ra sức mạnh tổng hợp.
Mỗi doanh nghiệp lại có sở trường do đó liên kết khai thác hết thế mạnh của
từng doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp tư nhân thường có qui mô nhỏ do
đó liên kết doanh nghiệp tạo ra doanh nghiệp có qui mô lớn, vốn lớn tạo ra
sức cạnh tranh lớn hơn.
Để phản ánh về liên kết của doanh nghiệp kinh tế tư nhân, người ta có
thể dùng một số tiêu chí phản ánh:
- Tỷ lệ liên kết giữa các doanh nghiệp có cùng chức năng;
- Tỷ lệ liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất.

Để tăng cường liên kết, các doanh nghiệp có thể tham gia các hiệp hội
nhằm mở rộng nắm bắt thông tin qua đó thuận lợi cho việc tăng cường các
liên kết.


22

1.2.5. Kết quả và hiệu quả sản xuất
Một yếu tố quan trọng đánh giá sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân đó là sự đóng góp với phát triển kinh tế xã hội biểu hiện qua các tiêu chí
cơ bản sau:
a. Sản phẩm, sản phẩm hàng hóa
Sản phẩm là tổng hợp các đặc tính vật lý học, hoá học, sinh học... có
thể quan sát được, dùng thoả mãn những nhu cầu cụ thể của sản xuất hoặc đời
sống [32,1].
Hàng hóa là một trong những phạm trù cơ bản của kinh tế chính trị.
Theo nghĩa hẹp, hàng hóa là vật chất tồn tại có hình dạng xác định trong
không gian và có thể trao đổi, mua bán được. Theo nghĩa rộng, hàng hóa là tất
cả những gì có thể trao đổi, mua bán được [32,2].
Để phản ánh sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp người ta có thể dùng
tiêu chí đánh giá: sản phẩm chủ yếu
Để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp có thể thực
hiện các hình thức sau:
- Phát triển sản phẩm, dịch vụ mới hoàn toàn;
- Cải tiến, hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ, thay thế sản phẩm, dịch vụ
hiện có;
- Thõa mãn khách hàng: phát triển sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp cần
chú ý đến nhu cầu của khách hàng cũng như sự tiện ích và giá cả hợp lý nhằm
thõa mãn nhu cầu của khách hàng mới được xem là sản phẩm, dịch vụ có chất
lượng và hiệu quả.

b. Giá trị tổng sản lượng
Tổng sản lượng là mức sản lượng được sản xuất ra từ các mức khác
nhau của môt yếu tố đầu vào kết hợp với các mức cố định của các yếu tố
khác. Khái niệm tổng sản lượng khái niệm là khởi đầu để tính toán nhiều chỉ


23

tiêu kinh tế, kinh doanh, nhất là phân tích ngắn hạn. Khi xem xét các nhân tố
tác động đến tổng sản lượng, nhà quản lý có thể đi đến quyết định dịch
chuyển nhân tố nào để tối ưu hóa quá trình sản xuất [32,1].
Vậy giá trị sản lượng là gì: có thể coi giá trị sản lượng là năng lực sản
xuất của doanh nghiệp trong 1 thời gian nhất định, ví dụ là 1 năm, được quy
đổi thành tiền (đối với từng doanh nghiệp) [32,2].
Để đánh giá được giá trị tổng sản lượng mà tất cả các doanh nghiệp của
kinh tế tư nhân làm ra trong năm hoặc thời kỳ trên góc độ doanh nghiệp của
khu vực kinh tế tư nhân, người ta có thể dùng tiêu chí đánh giá:
- Tổng sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn tỉnh.
c. Doanh thu thuần của doanh nghiệp
Doanh thu thuần của doanh nghiệp là tổng thu nhập của doanh nghiệp
do tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ ra bên ngoài sau khi trừ các
khoản thuế ( thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XNK, thuế GTGT theo phương pháp
trực tiếp phải nộp).
Doanh thu thuần của doanh nghiệp tăng lên cho thấy phần nào biểu
hiện sự tăng trưởng của doanh nghiệp.
Để phản ánh doanh thu thuần của doanh nghiệp người ta có thể dùng
tiêu chí đánh giá: Doanh thu thuần bình quân 1 doanh nghiệp.
d. Lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận của DN là số chênh lệch giữa doanh thu với giá trị vốn của
hàng bán, chi phí lưu thông, chi phí quản lý.

Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả tài chính
cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Lợi nhuận là nguồn
vốn cơ bản để tái đầu tư trong phạm vi DN và trong nền kinh tế quốc dân. Lợi
nhuận là đòn bẩy tài chính hữu hiệu thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của DN.


24

Để phản ánh lợi nhuận của doanh nghiệp người ta có thể dùng tiêu chí
đánh giá : Lợi nhuận sau thuế bình quân của 1 doanh nghiệp.
e. Hiệu quả sử dụng vốn doanh nghiệp
Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu được tính bằng cách lấy lãi ròng sau
thuế chia cho tổng giá trị vốn chủ sở hữu dựa vào bảng cân đối tài sản cuối
kỳ.
Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là thước đo tốt nhất về năng lực của một
công ty trong việc tối đa hóa lợi nhuận từ mỗi đồng vốn đầu tư. Công ty đạt
được lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu càng cao thì khả năng cạnh tranh càng
mạnh, do đó lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu sẽ giúp nhà đầu tư đánh giá các
công ty trong cùng ngành nghề để ra quyết định lựa chọn đầu tư.
Có thể nói, bên cạnh các chỉ số tài chính khác thì lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu là thước đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích
lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. Đây cũng là chỉ số đáng tin cậy về khả
năng sinh lời của công ty trong tương lai.
Thông thường, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu > 20% được coi là hợp
lý.
Để phản ánh tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp người ta có thể dùng
tiêu chí đánh giá: Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân 1 doanh nghiệp.
g. Thu nhập bình quân của người lao động
Thu nhập của người lao động là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao

động mà người lao động đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và được
thanh toán theo kết quả cuối cùng. Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của
người lao động, vừa là một yếu tố chi phí cấu thành nên giá trị các loại sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ. Do đo việc thu nhập ngày càng tăng biểu hiện cho sự
phát triển của doanh nghiệp.


25

Để phản ánh tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp người ta có thể dùng
tiêu chí đánh giá: Tiền lương 1 tháng bình quân 1 lao động.
h. Nộp ngân sách Nhà nước
Nộp ngân sách nhà nước gồm toàn bộ các nguồn thu đã nộp vào ngân
sách Nhà Nước từ các đơn vị sản xuất kinh doanh[11,29].
Các khoản thu do kết quả của phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân được tập trung vào ngân sách để nhà nước chi
dùng vào việc duy trì bộ máy và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thu ngân sách của Nhà nước Việt Nam gồm thu trong nước và thu viện trợ
nước ngoài. Thu trong nước gồm: thu thuế và phí, thu khác. Thu thuế và phí có:
thu từ kinh tế quốc doanh, thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thuế công
thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh, thuế sử dụng đất, thuế xuất nhập
khẩu, thuế nhà đất, thuế thu nhập, phí giao thông, phí và các loại lệ phí khác.
Thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà nước ngày càng tăng của các doanh
nghiệp thuộc bộ phận kinh tế tư nhân cũng thể hiện sự phát triển của các
doanh nghiệp khu vực này, ngoài ra đó còn là nghĩa vụ của khu vực này đối
với nền kinh tế.
Để phản ánh thu NSNN của doanh nghiệp người ta có thể dùng tiêu chí
đánh giá: Nộp NSNN doanh nghiệp
Để tăng thu ngân sách Nhà nước ngoài việc thực hiện tốt chính sách
Thuế của Nhà nước qui định, đồng thời giảm thời gian khai thuế làm thủ tục

thuế cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Ngoài ra thực hiện
chính sách thuế còn phải ra sự công bằng và tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp hoạt động bình thường và ngày càng phát triển.


×