Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Luận văn kế toán kiểm toán : Tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty Điện lực thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.47 KB, 76 trang )

LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC
KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU
1.1.Sự cần thiết phải tổ chức kế toán nguyên vật liệu
1.1.1.Khái niệm, đặc điểm của nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là đối tượng lao động, là một trong ba yếu tố cơ bản
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Nguyên vật liệu tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên
hình thái vật chất ban đầu của nó.
Giá trị của nguyên vật liệu bị hao mòn toàn bộ trong quá trình sử dụng
cho nên nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh
theo kỳ.
1.1.2.Vai trò, vị trí của nguyên vật.
Trong các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố
cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh và là cơ sở vật chất chính hình thành
lên sản phẩm. Do đặc điểm nó chỉ tham gia vào một quá trình sản xuất và
được tiêu dùng toàn bộ không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị
của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm mới tạo ra. Cho
nên, có thể nói nguyên vật liệu là một trong những yếu tố không thể thiếu
được ở bất kỳ quá trình sản xuất nào. Dưới hình thái giá trị nó được biểu hiện
bằng vốn lưu động. Chính vì lý do này nguyên vật liệu được quản lý tốt tức là
đã quản lý tốt vốn sản xuất kinh doanh và tài sản của doanh nghiệp.
1.1.3.Đặc điểm yêu cầu quản lý nguyên vật liệu.
Xuất phát từ vai trò, đặc điểm của nguyên vật liệu trong quá trình sản
xuất kinh doanh đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ cả hai chỉ tiêu hiện vật và giá
trị ở mọi khâu, từ khâu thu mua, bảo quản dự trữ, đến khâu sử dụng.
Để có được nguyên vật liệu đáp ứng kịp thời quá trình sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp thì nguồn chủ yếu là thu mua. Do đó, ở khâu này
SV: L:ê Thị Mỹ



Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

cần quản lý chặt chẽ về số lượng, chất lượng, quy cách, chủng loại, giá mua,
chi phí mua, thực hiện kế hoạch thu mua đúng tiến độ thời gian, phù hợp với
kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với khâu bảo quản, doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt hệ thống kho
tàng, bến bãi, trang bị đầy đủ các phương tiện cân, đo, đong đếm cũng như
thực hiện đầy đủ chế độ bảo quản hợp lý đối với nguyên vật liệu để tránh hư
hỏng mất mát.
Trong khâu sử dụng, phải tuân thủ việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm có
hiệu quả. Việc tính toán đầy đủ, chính xác, kịp thời giá trị nguyên vật liệu
xuất dùng trên cơ sở định mức tiêu hao, dự toán chi phí có ý nghĩa quan trọng
trong việc giảm chi phí, hạ giá thành từ đó tăng tích luỹ cho doanh nghiệp.
Đối với khâu dự trữ, đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định được định
mức dự trữ tối đa và mức dự trữ tối thiểu để đảm bảo cho quá trình sản xuất
kinh doanh được tiến hành bình thường, không bị ngừng trệ, gián đoạn do
công việc cung ứng nguyên vật liệu không kịp thời hoặc gây ứ đọng vốn do
dự trữ quá nhiều.
Sử dụng hợp lý, tiết kiệm trên cơ sở các định mức tiêu hao và dự toán
chi phí có ý nghĩa quan trọng trong việc hạ thấp chi phí sản xuất (giá thành
sản phẩm) làm cho lợi nhuận tăng và phần tích luỹ của doanh nghiệp cũng
tăng lên. Do vậy, trong khâu sử dụng nguyên vật liệu cần phải tổ chức tốt việc
ghi chép, phản ánh tình hình xuất dùng sử dụng cũng như khoản chi phí
nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất sản phẩm, nhằm tìm ra nguyên nhân
dẫn đến việc tăng hoặc giảm chi phí nguyên vật liệu cho một đơn vị sản
phẩm.

Như vậy, quản lý nguyên vật liệu từ khâu thu mua, bảo quản, dự trữ
đến sử dụng là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý và
luôn đuợc các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm.
1.1.4.Nhịêm vụ của kế toán nguyên vật liệu.
Để đáp ứng được yêu cầu quản lý, kế toán nguyên vật liệu trong doanh
nghiệp cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

- Tổ chức đánh giá, phân loại nguyên vật liệu phù hợp với các nguyên tắc, yêu
cầu quản lý của nhà nước và yêu cầu quản trị của doanh nghiệp.
- Tổ chức phân loại chứng từ, tài khoản, sổ kế toán phù hợp với phương
pháp hạch toán hàng tồn kho của doanh nghiệp để ghi chép, phân loại tổng
hợp số liệu về tình hình hiện có và sự biến động tăng giảm của nguyên vật
liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh, cung cấp số liệu kịp thời để tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
- Thực hiện việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch mua
cũng như tình hình sử dụng nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất nhằm
thúc đẩy nhanh quá trình chuyển hoá của nguyên vật liệu, hạn chế ứ đọng
nguyên vật liệu để rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh.
1.2- Phân loại và đánh giá nguyên vật liệu.
1.2.1- Phân loại nguyên vật liệu.
Trong mỗi doanh nghiệp, do tính chất đặc thù trong hoạt động sản xuất
kinh doanh nên phải sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau. Mỗi loại
nguyên vật liệu lại có vai trò, công dụng, tính chất lý, hoá học khác nhau. Do

đó, việc phân loại nguyên vật liệu có cơ sở khoa học là điều kiện quan trọng
để có thể quản lý một cách chặt chẽ và tổ chức hạch toán chi tiết nguyên vật
liệu phục vụ cho yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
Phân loại nguyên vật liệu là việc nghiên cứu, sắp xếp các loại nguyên
vật liệu theo từng nội dung, công dụng, tính chất thương phẩm của chúng,
nhằm phục vụ cho yêu cầu quản trị của doanh nghiệp.
*) Căn cứ vào nội dung kinh tế và yêu cầu quản trị doanh nghiệp thì
nguyên vật liệu được chia thành các loại sau:
+ Nguyên vật liệu chính: là đối tượng lao động cấu thành nên thực thể
của sản phẩm. Các doanh nghiệp khác nhau thì nguyên vật liệu chính không
giống nhau như sắt, thép, xi măng, gạch… trong doanh nghiệp xây dựng cơ
bản; vải trong doanh nghiệp may mặc…Đối với các doanh nghiệp mà tiếp tục
sản xuất kinh doanh từ những bán thành phẩm mua ngoài thì những bán thành
SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

phẩm đó cũng được coi là nguyên vật liệu chính như dây nhôm, cột điện…
trong đơn vị sản xuất kinh doanh điện.
+ Vật liệu phụ: Là các loại vật liệu khi sử dụng chỉ có tác dụng làm
tăng chất lượng sản phẩm, hoàn chỉnh sản phẩm hoặc phục vụ cho công việc
quản lý sản xuất, bao gói sản phẩm như thuốc nhuộm, thuốc tẩy, sơn, dầu
nhờn, …
+ Nhiên liệu: Là những loại vật liệu có tác dụng cung cấp nhiệt lượng
trong quá trình sản xuất kinh doanh gồm: xăng, dầu, than, củi, khí gas… được
sử dụng để phục vụ cho công nghệ sản xuất, cho phương tiện vận tải, máy
móc thiết bị hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh.

+ Phụ tùng thay thế: Là các loại phụ tùng, chi tiết được sử dụng để thay
thế, sửa chữa máy móc, thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải, phương tiện
truyền dẫn.
+ Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: bao gồm các loại thiết bị cần lắp
và thiết bị không cần lắp, công cụ, khí cụ, vật kết cấu… dùng cho công tác
xây lắp, xây dựng cơ bản.
+ Vật liệu khác: Là các loại vật liệu không được xếp vào các loại kể
trên, các loại vật liệu này do quá trình sản xuất loại ra, phế liệu thu hồi từ việc
thanh lý tài sản cố định…
Cách phân loại này là cơ sở để xác định định mức tiêu hao, định mức
dự trữ cho từng loại, từng thứ từng nhóm nguyên vật liệu. Và là cơ sở để hạch
toán chi tiết nguyên vật liệu trong doanh nghiệp (theo dõi số lượng, giá trị).
*) Căn cứ vào nguồn hình thành: Nguyên vật liệu được chia thành hai
nguồn:
+ Nguyên vật liệu nhập từ bên ngoài: Do mua ngoài, nhận vốn góp liên
doanh, nhận biếu tặng,…
+ Nguyên vật liệu tự chế: do doanh nghiệp tự gia công chế biến hay
còn gọi là nguyên vật liệu tự chế.

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

Cách phân loại này làm căn cứ cho việc lập kế hoạch thu mua và kế
hoạch sản xuất nguyên vật liệu, là cơ sở để xác định trị giá vốn thực tế nguyên
vật liệu nhập kho.
*) Căn cứ vào mục đích, công dụng của nguyên vật liệu có thể chia

nguyên vật liệu thành:
- Nguyên vật liệu dùng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh gồm:
+ Nguyên vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất chế tạo sản phẩm.
+ Nguyên vật liệu dùng cho quản lý ở các phân xưởng, dùng cho bộ
phận bán hàng, bộ phận quản lý doanh nghiệp.
- Nguyên vật liệu dùng cho nhu cầu khác: Nhượng bán; đem góp vốn
liên doanh; đem quyên tặng.
*) Các đối tượng quản lý có liên quan đến việc tổ chức kế toán nguyên
vật liệu cần thiết phải tiến hành mã hoá như:
- Mã hoá các loại nguyên vật liệu bao gồm: Các loại nguyên vật liệu
chính, các loại nguyên vật liệu phụ, các loại nguyên vật liệu khác.
- Mã hóa các kho chứa
- Mã hóa hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp sử dụng
- Mã hoá các đơn vị cung cấp nguyên vật liệu cho doanh nghiệp.
*) Đối với các doanh nghiệp tổ chức kế toán nguyên vật liệu trên máy
tính.
Hiện nay trong các doanh nghiệp, nguyên vật liệu có rất nhiều chủng
loại phong phú và biến động thường xuyên. Do đó, để tổ chức kế toán nguyên
vật liệu được chặt chẽ, hợp lý yêu cầu đặt ra là phải quản lý tới từng loại, từng
nhóm, và từng thứ, từng danh điểm. Với yêu cầu này, đòi hỏi phải mã hoá đối
tượng kế toán nguyên vật liệu đến từng danh điểm. Vì vậy danh mục nguyên
vật liệu được xây dựng chi tiết từng danh điểm và khi kết hợp với TK hàng
tồn kho (TK 152) sẽ tạo ra hệ thống sổ chi tiết từng nguyên vật liệu. Khi nhập
dữ liệu nhất thiết phải chỉ ra danh điểm nguyên vật liệu và để tăng cường tính

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11



LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

tự động hoá, có thể đặt sẵn mức thuế suất thuế GTGT của từng nguyên vật
liệu ở phần danh mục.
1.2.2- Đánh giá nguyên vật liệu.
Đánh giá nguyên vật liệu là việc xác định giá trị của nguyên vật liệu ở
những thời điểm nhất định và theo những nguyên tắc nhất định.
1.2.2.1-Khi đánh giá nguyên vật liệu phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
*) Nguyên tắc giá gốc : Là một bộ phận của hàng tồn kho nên khi đánh
giá nguyên vật liệu cần thiết phải tuần thủ nguyên tắc giá gốc theo chuẩn mực
02- hàng tồn kho.Giá gốc hay được gọi là trị giá vốn thực tế của nguyên vật
liệu; là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để có được nguyên vật
liệu đó ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
*) Nguyên tắc thận trọng : Nguyên vật liệu được đánh giá theo giá gốc,
nhưng trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì tính
theo giá trị thuần có thể thực hiện được.
*) Nguyên tắc nhất quán: Các phương pháp kế toán áp dụng trong đánh
giá nguyên vật liệu phải đảm bảo tính nhất quán ít nhất là trong một niên độ
kế toán.
Ngoài các nguyên tắc trên thì khi đánh giá nguyên vật liệu vẫn còn phải
tuân thủ thêm nguyên tắc hoạt động liên tục. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi loại
tài sản trong đó có nguyên vật liệu phải được ghi nhận theo giá gốc.
1.2.2.2- Đánh giá nguyên vật liệu.
a. Xác định trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho.
Trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho được xác định theo
từng nguồn nhập:
*) Nhập kho do mua ngoài: trị giá vốn thực tế nhập kho bao gồm : giá
mua, các loại thuế không được hoàn lại, chi phí vận chuyển bốc xếp, bảo quản
trong quá trình mua hàng và các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến việc


SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

mua nguyên vật liệu, trừ đi các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá
hàng mua do không đúng quy cách, phẩm chất.
Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì
giá mua ghi trên hoá đơn là giá chưa có thuế GTGT.
Còn đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp
hoặc không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT thì giá ghi trên hoá đơn là giá
gồm cả thuế GTGT.
*) Nhập do tự sản xuất, chế biến: Trị giá vốn thực tế nhập kho là giá
thành sản xuất của nguyên vật liệu tự sản xuất, chế biến.
*) Nhập do thuê ngoài gia công chế biến: như thép phục vụ cho sản
xuất chế tạo xe máy, xe đạp. Trị giá thực tế nhập kho là trị giá vốn thực tế của
vật liệu xuất kho để thuê ngoài gia công chế biến cộng số tiền phải trả cho
người nhận gia công chế biến cộng các chi phí vận chuyển bốc dỡ khi giao
nhận.
*) Nhập nguyên vật liệu do nhận vốn góp liên doanh: Trị giá vốn thực
tế của nguyên vật liệu nhập kho là giá do hội đồng liên doanh thoả thuận cộng
với các chi phí khác phát sinh khi tiếp nhận nguyên vật liệu.
*) Nhập nguyên vật liệu do được cấp: Trị giá vốn thực tế nhập kho là
giá ghi trên biên bản giao nhận cộng các chi phí phát sinh khi nhận.
*) Nhập nguyên vật liệu do được biếu tặng, được tài trợ: trị giá vốn
thực tế nhập kho là giá trị hợp lý công các chi phí khác phát sinh.
*) Nhập nguyên vật liệu do thu hồi phế liệu từ sản xuất, thanh lý
TSCĐ, công cụ dụng cụ: được đánh giá theo giá ước tính (giá thực tế có thể

sử dụng được hoặc bán được).
*) Trong điều kiện áp dụng máy vi tính:
Trong điều kiện áp dụng máy vi tính, các nghiệp vụ nhập nguyên vật
liệu cần thiết phải nhập dữ liệu về giá mua, các chi phí mua được tính vào giá
vốn hàng nhập kho. Trường hợp nhập cùng một phiếu nhiều loại nguyên vật
liệu thì chương trình cũng cho phép nhập cùng nhưng phải cùng kho. Nếu
phát sinh chi phí thu mua, cần phân bổ chi phí cho từng loại nguyên vật liệu
nhập kho để làm căn cứ tính giá vốn xuất kho. Để tạo điều kiện thuận lợi cho
SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

việc nhập các nghiệp vụ nhập nguyên vật liệu cần thiết xây dựng danh mục
chi tiết các chứng từ nhập như: phiếu nhập vật liệu, phiếu nhập vật liệu mua
nhập khẩu,… Yêu cầu đối với chương trình là không chỉ quản lý được nguyên
vật liệu nhập kho mà còn phải tổng hợp các nghiệp vụ nhập để trình bày trên
tờ khai thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Bên cạnh đó, để tăng cường tính
tự động hoá khi nhập dữ liệu, chương trình phải tự động tính thuế GTGT khi
nhập giá mua, mức thuế suất thuế GTGT và điền vào bút toán.
b. Xác định trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho.
Nguyên vật liệu được nhập kho từ nhiều nguồn khác nhau, ở nhiều thời
điểm khác nhau nên có nhiều giá khác nhau. Do đó, khi xuất kho nguyên vật
liệu tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động, yêu cầu, trình độ quản lý và điều kiện
trang bị phương tiện kĩ thuật tính toán ở từng doanh nghiệp có thể xác định trị
giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho theo một trong bốn phương pháp
được quy định trong chuẩn mực hàng tồn kho ( chuẩn mực số 02) sau:
*) Phương pháp tính theo giá đích danh

Nội dung: Theo phương pháp này khi xuất kho nguyên vật liệu thì căn
cứ vào số lượng xuất kho thuộc lô nào và đơn giá thực tế của lô đó để tính trị
giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho.
Điều kiện áp dụng: phương pháp này đựoc áp dụng cho những doanh
nghiệp có ít chủng loại nguyên vật liệu, giá trị của từng loại nguyên vật liệu
tương đối lớn có thể nhận diện được từng lô hàng.
Nhược điểm: phương pháp này trở nên phức tạp khó theo dõi nếu
doanh nghiệp có nhiều chủng loại nguyên vật liệu.
*) Phương pháp giá bình quân gia quyền.
Nội dung: Trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho được tính
căn cứ vào số lượng nguyên vật liệu xuất kho và đơn giá bình quân gia quyền,
theo công thức:
Trị giá vốn thực
tế nguyên vật
liệu xuất kho

SV: L:ê Thị Mỹ

=

số lượng nguyên
vật liệu xuất kho

x

đơn giá bình
quân gia quyền

Lớp: K39 – 21.11



LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

Đơn giá
bình
quân

=

Trị giá thực tế nguyên
vật
liệu tồn đầu kỳ
số lượng nguyên vật liệu
tồn đầu kỳ

+
+

trị giá vốn thực tế
nguyên vật liệu nhập
trong kỳ
số lượng nguyên vật liệu
nhập trong kỳ

- Đơn giá bình quân thường được tính cho từng thứ nguyên vật liệu.
- Đơn giá bình quân có thể xác định cho cả kỳ ( được tính vào cuối kỳ
kế toán) được gọi là ĐGBQ cả kỳ hay ĐGBQ cố định. Theo cách tính này
khối lượng tính toán giảm nhưng chỉ tính đựoc trị giá vốn thực tế của nguyên
vật liệu vào thời điểm cuối kỳ nên không thể cung cấp thông tin kịp thời.
- Đơn giá bình quân có thể xác định sau mỗi lần nhập hoặc tính vào

thời điểm trước mỗi lần xuất được gọi là ĐGBQ liên hoàn hay ĐGBQ di
động. Theo cách tính này, xác định được trị giá vốn thực tế hàng ngày cung
cấp thông tin được kịp thời. Tuy nhiên, khối lượng công việc tính toán sẽ
nhiều hơn nên phương pháp này rất thích hợp với những doanh nghiệp có
chủng loại nguyên vật liệu không nhiều, hoặc có chủng loại nguyên vật liệu
nhiều nhưng đã làm kế toán trên máy.
*) Phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO)
Nội dung: Phương pháp này dựa trên giả định hàng nào nhập trước sẽ
được xuất trước và lấy đơn giá xuất bằng đơn giá nhập. Do vậy, trị giá vốn
thực tế của hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo đơn giá của những lần nhập
sau cùng.
Điều kiện áp dụng: Phương pháp này áp dụng thích hợp với những
doanh nghiệp sử dụng nhiệu loại nguyên vật liệu theo dõi được số lượng, đơn
giá của từng lần nhập.
*) Phương pháp nhập sau xuất trước. (LIFO).
Nội dung: Theo phương pháp này giả định hàng nào nhập sau sẽ được
xuất trước, lấy đơn giá xuất bằng đơn giá nhập của nhãng lần nhập sau cùng.
Do vậy, trị giá vốn thực tế của hàng tồn cuối kỳ được tính theo đơn giá của
những lần nhập đầu tiên.
SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

Điều kiện áp dụng: Phương pháp này áp dụng thích hợp với những
doanh nghiệp sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu, theo dõi được số lượng, đơn
giá của từng lần nhập.
Nhược điểm của phương pháp này là khối lượng tính toán nhiều, phức

tạp dễ xảy ra sai sót nếu đơn vị nào tính toán thủ công. Vì vậy, sẽ phù hợp hơn
với doanh nghiệp nào thực hiện kế toán trên máy.
* Các phương pháp khác: Trong thực tế ngoài các phương pháp tính trị giá
vốn thực tế của nguyên vật liệu theo chuẩn mực kế toán hàng tồn kho quy
định thì các doanh nghiệp còn áp dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp tính theo đơn giá tồn đầu kỳ: Phương pháp này tính trị giá
vốn thực tế nguyên vật liệu xuất kho trên cơ sở số lượng nguyên vật liệu xuất
kho và đơn giá thực tế của nguyên vật liệu tồn đầu kỳ.
Trị giá vốn thực tế
nguyên vật liệu
xuất kho

=

số lượng nguyên vật
liệu xuất kho

x

đơn giá thực
tế tồn đầu kỳ

+ Tính theo giá hạch toán: Giá hạch toán của nguyên vật liệu là giá do
doanh nghiệp tự quy định (có thể là giá kế hoạch, hoặc giá thống kê gần sát
với giá thực tế) và được sử dụng chi tiết và thống nhất trong một thời gian dài.
Hàng ngày sử dụng giá này để ghi sổ kế toán ghi trên chứng từ phiếu xuất
kho, nhập kho. Cuối kỳ kế toán điều chỉnh giá hạch toán về giá thực tế tuân
thủ theo nguyên tắc giá vốn trình bày trong tài khoản kế toán, sổ kế toán tổng
hợp, báo cáo tài chính theo hệ số giá.


Hệ số giá (H)

SV: L:ê Thị Mỹ

Trị giá thực tế NVL
trị giá vốn thực tế NVL
+
tồn đầu kỳ
nhập trong kỳ
Trị giá vốn
= trị giá hạch toán x
=
trị NVL
giá hạch
NVL
xuấttoán
kho NVL hệ số giá (H)
Trị giáthực
hạchtếtoán
+
nhập trong kỳ
NVL tồnxuất
đầukho
kỳ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ


Tuỳ thuộc vào đặc điểm, yêu cầu quản lý của doanh nghiệp mà hệ số giá
nguyên vật liệu có thể tính riêng cho từng thứ, từng nhóm hoặc cho cả loại
nguyên vật liệu.
*)Trong điều kiện áp dụng máy vi tính hiện nay: Đối với các nghiệp vụ xuất
nguyên vật liệu thì chương trình phải tự động tính được giá vốn xuất kho.
Theo quy định, giá vốn của nguyên vật liệu xuất kho có thể tính được bằng
một trong các phương pháp trên. Khi xuất kho nguyên vật liệu cần thiết phải
lựa chọn các chứng từ phù hợp, các chứng từ này đã đặt sẵn giá trị là ghi TK
Có 152, kế toán ghi Nợ TK liên quan và nhập số chứng từ phiếu xuất, tên
nguyên vật liệu, số lượng, tên kho, chương trình sẽ thông báo số lượng tồn
kho ở mỗi kho có đủ xuất hay không và tính ra giá vốn để điền vào bút toán.
Tuy nhiên, chương trình cũng có thể chưa tính ngay được mà phải tính lại giá
vốn. Khi xuất nguyên vật liệu cho sản xuất còn cần phải chỉ ra tên đối tượng
để tập hợp chi phí sản xuất theo khoản mục tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tính giá thành.
1.2.4-Tổ chức hạch toán chi tiết nguyên vật liệu
Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu là việc hạch toán kết hợp giữa thủ kho
và phòng kế toán trên cùng cơ sở các chứng từ nhập, xuất kho nhằm đảm bảo
theo dõi chặt chẽ số hiện có và tình hình biến động từng loại, nhóm, thứ
nguyên vật liệu về số lượng và giá trị.
- Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Phải theo dõi được tình hình nhập, xuất kho của từng thứ, từng nhóm, từng
loại nguyên vật liệu về hiện vật đối với từng kho, về cả hiện vật và giá trị với
phòng kế toán.
+ Phải đảm bảo khớp đúng về nội dung các chỉ tiêu tương ứng giữa số liệu
hạch toán chi tiết ở kho và ở phòng kế toán, giữa số liệu của kế toán tổng hợp
và kế toán chi tiết.

SV: L:ê Thị Mỹ


Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

+ Phải đảm bảo cung cấp thông tin kế toán kịp thời theo yêu cầu quản lý. Do
đó, phải xây dựng được mối quan hệ về việc luân chuyển chứng từ giữa kho
và phòng kế toán.
1.2.4.1- Chứng từ sử dụng.
- Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các nghiệp vụ kinh
tế phát sinh liên quan đến việc nhập, xuất vật tư đều phải lập chứng từ đầy
đủ, kịp thời, đúng chế độ quy định.
Theo chế độ chứng từ kế toán ban hành theo QĐ 1141/TC/QĐ/CĐKT
ngày 01/11/1995 và theo QĐ 885/1998/QĐ/BTC ngày 16/7/1998 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính, các chứng từ về vật tư hàng hoá bao gồm:
+ Phiếu nhập kho (mẫu 01-VT)
+ Phiếu xuất kho (mẫu 02-VT)
+ Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (mẫu 03-VT)
+ Biên bản kiểm kê vật tư (mẫu 08-VT)
+ Hoá đơn (GTGT)
+ Biên bản kiểm nghiệm vật tư (mẫu 05)
+ Thẻ kho (mẫu 06-VT)
+ Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho (mẫu 02-BH)
+ Hoá đơn cước vận chuyển (mẫu 03-BH)
Các chứng từ bắt buộc phải được sử dụng thống nhất theo quy định của
nhà nước, còn doanh nghiệp có thể sử dụng thêm các chứng từ hướng dẫn
phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp mình.
Mọi chứng từ kế toán về nguyên vật liệu phải được tổ chức luân chuyển
theo trình tự và thời gian do kế toán trưởng quy định, phục vụ cho việc phản
ánh, ghi chép, tổng hợp kịp thời của các bộ phận, cá nhân có liên quan.

1.2.4.2- Các sổ kế toán chi tiết nguyên vật liệu
- Sổ kế toán chi tiết phục vụ cho việc hạch toán chi tiết các nghiệp vụ kinh tế
liên quan đến đối tượng kế toán cần hạch toán chi tiết. Tuỳ thuộc vào phương

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

pháp hạch toán chi tiết nguyên vật liệu áp dụng trong doanh nghiệp mà sử
dụng các sổ (thẻ) kế toán chi tiết như sau:
- Thẻ kho.
- Sổ (thẻ) kế toán chi tiết nguyên vật liệu.
- Sổ đối chiếu luân chuyển.
- Sổ số dư.
Ngoài các sổ kế toán chi tiết nêu trên, còn có thể sử dụng các bảng kê nhập,
xuất; các bảng luỹ kế tổng hợp nhập-xuất-tồn nguyên vật liệu phục vụ cho
việc ghi sổ kế toán chi tiết được đơn giản, nhanh chóng, kịp thời.
1.2.4.3- Các phương pháp kế toán chi tiết nguyên vật liệu
Tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế của doanh nghiệp mình mà có thể áp
dụng một trong ba phương pháp kế toán chi tiết sau:
- Phương pháp ghi thẻ song song.
- Phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển.
- Phương pháp ghi sổ số dư.
Ba phương pháp có điểm giống nhau là ở kho: thủ kho dùng thẻ kho để
ghi chép hàng ngày tình hình nhập, xuất, tồn kho của từng thứ vật tư theo chỉ
tiêu số lượng.
Khi nhận chứng từ nhập, xuất nguyên vật liệu, thủ kho phải kiểm tra

tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ rồi tiến hành ghi chép số thực nhập, thực
xuất vào chứng từ và thẻ kho; cuối ngày tính ra số tồn kho để ghi vào cột tồn
trên thẻ kho. Định kỳ thủ kho gửi các chứng từ nhập, xuất đã phân loại theo
từng thứ vật tư cho phòng kế toán.
Tuy nhiên điểm khác nhau giữa các phương pháp này là ở phòng kế toán:
*) Đối với phương pháp ghi thẻ song song:
Sử dụng sổ kế toán chi tiết để ghi chép tình hình nhập-xuất cho từng
thứ nguyên vật liệu theo cả hai chỉ tiêu số lượng và giá trị. Việc ghi chép vào
sổ này dựa trên cơ sở các chứng từ nhập- xuất kho.

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

Cuối tháng mở Bảng kê nhập-xuất-tồn (tổng hợp các sổ (thẻ) trên) theo
trật tự loại, nhóm, thứ sau đó đối chiếu:
+ Đối chiếu sổ kế toán chi tiết với thẻ kho của thủ kho.
+ Đối chiếu số liệu dòng tổng cộng trên bảng kê nhập –xuất- tồn với số liệu
trên sổ kế toán tổng hợp.
+ Đối chiếu số liệu trên sổ kế toán chi tiết với số liệu kiểm kê thực tế.
Trình tự sổ được khái quát theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Kế toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp ghi thẻ song
song:
ThÎ kho
PhiÕu nhËp
kho


PhiÕu xuÊt
kho
Sæ kÕ to¸n
chi tiÕt
B¶ng kª nhËp-xuÊttån
Sæ kÕ to¸n
tæng hîp

Ghi chú:

Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu hàng tháng

Ưu điểm: ghi chép đơn giản, dễ kiểm tra, đối chiếu.
Nhược điểm: Việc ghi chép giữa kho và phòng kế toán còn trùng lặp về chỉ
tiêu số lượng, khối lượng ghi chép còn nhiều.

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

Điều kiện áp dụng: thích hợp với những doanh nghiệp có ít chủng loại vật tư;
việc nhập xuất diễn ra không thường xuyên. Tuy nhiên, trong điều kiện
doanh nghiệp đã làm kế toán máy thì phương pháp này vẫn áp dụng cho
doanh nghiệp có nhiều chủng loại nguyên vật liệu. Nhập, xuất diễn ra
thường xuyên.

*) Phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển
- Ở phòng kế toán mở sổ đối chiếu luân chuyển(mở cho cả năm) để phản
ánh tình hình nhập- xuất- tồn cho từng thứ nguyên vật liệu theo cả hai chỉ
tiêu số lượng và giá trị. Là sự kết hợp giữa sổ kế toán chi tiết nguyên vật liệu
với bảng kê tổng hợp nhập xuất tồn trong phương pháp trên.
Việc đối chiếu số liệu giống như phương pháp ghi thẻ song song nhưng chỉ
tiến hành vào cuối tháng.
- Kế toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp ghi sổ đối chiếu luân
chuyển

Thẻ kho

Phiếu xuất

Phiếu nhập

Bảng kê nhập

Sổ đối chiếu
luân chuyển

Bảng kê xuất

Sổ kế toán
tổng hợp

Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu cuối tháng

- Ưu điểm: khối lượng ghi chép của kế toán được giảm bớt do chỉ ghi một
lần vào cuối tháng.
SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

- Nhược điểm: Phương pháp này vẫn còn ghi sổ trùng lặp giữa kho và phòng
kế toán về chỉ tiêu số lượng; việc kiểm tra đối chiếu giữa kho và phòng kế
toán chỉ được tiến hành vào cuối tháng nên hạn chế tác dụng kiểm tra của kế
toán.
- Điều kiện áp dụng: thích hợp với các doanh nghiệp có chủng loại nguyên
vật liệu ít. Không có điều kiện ghi chép, theo dõi tình hình nhập, xuất hàng
ngày; phương pháp này thường ít áp dụng trong thực tế.
*) Phương pháp ghi sổ số dư:
- Ở kho còn sử dụng thêm sổ số dư để ghi số tồn kho cuối tháng của từng thứ
nguyên vật liệu cột số lượng.
+ Sổ số dư do kế toán lập cho từng kho, được mở cho cả năm. Trên sổ số dư
nguyên vật liệu được sắp xếp thứ, nhóm,loại; sau mỗi nhóm, loại, có dòng
cộng nhóm, cộng loại. Cuối tháng sổ số dư được chuyển cho thủ kho để ghi
chép.
- Phòng kế toán: Mở bảng kê luỹ kế nhập và Bảng kê luỹ kế xuất. Cuối tháng
căn cứ vào các bảng kê này để cộng tổng số tiền theo từng nhóm nguyên vật
liệu để ghi vào Bảng kê nhập- xuất- tồn. Đối chiếu số liệu trên Bảng kê
nhập-xuất- tồn với số liệu trên sổ kế toán tổng hợp.
Trình tự ghi sổ được khái quát theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.3: Kế toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp sổ số dư
Thẻ kho

Phiếu xuất kho

Phiếu nhập kho
Sổ số dư
Phiếu giao nhận
chứng từ

Phiếu giao nhận
chứng từ

Bảng kê luỹ kế nhập

Bảng kê nhập-xuất-tồn

Bảng kê luỹ kế xuất

Sổ kế toán tổng hợp

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu hàng ngày
Ưu điểm: Giảm được khối lượng ghi chép do kế toán chỉ ghi chép theo chỉ

tiêu
số tiền và ghi theo nhóm nguyên vật liệu.
+ Phương pháp này đã kết hợp chặt chẽ giữa hạch toán nghiệp vụ và hạch
toán kế toán. Kế toán đã thực hiện kiểm tra được thường xuyên việc ghi
chép và bảo quản trong kho của thủ kho. Công việc được dàn đều trong
tháng.
- Nhược điểm: Kế toán chưa theo dõi chi tiết đến từng thứ nguyên vật liệu,
nên phải căn cứ vào thẻ kho thì mới có được số liệu về tình hình nhập, xuất
tồn của từng thứ nguyên vật liệu.
- Điều kiện áp dụng: Doanh nghiệp có nhiều chủng loại nguyên vật liệu, việc
nhập-xuất diễn ra thường xuyên. Doanh nghiệp đã xây dựng được hệ thống
giá hạch toán và xây dựng được hệ thống danh điểm nguyên vật liệu. Trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ kế toán vững vàng.
1.2.5- kế toán tổng hợp nguyên vật liệu.
1.2..5.1- Kế toán tổng hợp nguyên vật liệu theo phương pháp kê khai thường
xuyên.
1.2.5.1.1-Đặc điểm phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp kế toán phải tổ
chức ghi chép một cách thường xuyên liên tục các nghiệp vụ nhập kho, xuất
kho và tồn kho của nguyên vật liệu trên các tài khoản kế toán hàng tồn kho.

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

Việc xác định trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho được tính căn
cứ trực tiếp vào các chứng từ xuất kho và tính theo các phương pháp đã trình

bày ở phần trên.
Trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu tồn kho trên tài khoản, sổ kế toán
được xác định ở bất kỳ thời điểm nào trong kỳ kế toán.
- Tài khoản sử dụng:
Để phản ánh số hiện có và tình hình biến động của nguyên vật liệu, kế toán
sử dụngTài khoản 152 - Nguyên vật liệu.
Tài khoản 152 có thể được mở theo dõi chi tiết các TK cấp 2 theo từng
loại nguyên vật liệu phù hợp với cách phân loại theo nội dung kinh tế và yêu
cầu quản trị doanh nghiệp, bao gồm:
TK 1521- Nguyên vật liệu chính
TK 1522- Vật liệu phụ
TK 1523- Nhiên liệu
TK 1524- Phụ tùng thay thế
TK 1525- Thiết bị xây dựng cơ bản
TK 1528- Vật liệu khác.
Trong từng tài khoản cấp 2 có thể mở chi tiết tài khoản cấp 3, cấp 4… tới
từng nhóm, thứ nguyên vật liệu tuỳ theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
- Tài khoản 151- Hàng mua đang đi đường.
Tài khoản này phản ánh trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu mà doanh
nghiệp đã mua, đã thanh toán tiền hoặc chấp nhận thanh toán nhưng chưa về
nhập kho doanh nghiệp.Và trị giá hàng đang đi đường cuối kỳ.
- Tài khoản 331- Phải trả người bán.
TK này dùng để phản ánh mối quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với
người bán, người nhận thầu về các khoản vật tư, lao vụ theo hợp đồng đã ký
kết.

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11



LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

Ngoài các tài khoản trên, kế toán tổng hợp tăng, giảm nguyên vật liệu
còn sử dụng nhiều tài khoản liên quan khác: TK 111, TK 112, TK141, TK
411, TK 621, TK 627, TK 641…
1.2.5.1.2- Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chủ yếu.
Kế toán tổng hợp nguyên vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên
được biểu diễn dưới sơ đồ sau (Sơ đồ: 1.4)

1.2.5.2- Kế toán tổng hợp NVL theo phương pháp kiểm kê định kỳ
Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp kế toán không tổ chức
ghi chép một cách thường xuyên, liên tục các nghiệp vụ nhập, xuất và tồn
kho của NVL trên các tài khoản hàng tồn kho. Các tài khoản này chỉ phản
ánh trị giá vốn thực tế của NVL tồn kho cuối kỳ và đầu kỳ.
Trị giá vốn thực tế của NVL nhập, xuất kho hàng ngày được phản ánh
theo dõi trên tài khoản “mua hàng”.
Việc xác định trị giá vốn thực tế của NVL xuất kho không căn cứ vào
các chứng từ xuất kho mà được căn cứ vào kết quả kiểm kê cuối kỳ để tính
theo công thức:
Số lượng
hàng xuất
kho

=

Số lượng hàng
tồn đầu kỳ

+


Số lượng
hàng nhập
trong kỳ

-

Số lượng
hàng
tồn cuối kỳ

1.2.5.2.1- Tài khoản sử dụng
Kế toán tổng hợp tình hình nhập, xuất nguyên vật liệu theo phương
pháp kiểm kê định kỳ vẫn sử dụng TK 152, nhưng tài khoản này không phản
ánh tình hình nhập, xuất nguyên vật liệu mà chỉ dùng để kết chuyển trị giá
vốn thực tế nguyên vật liệu tồn kho cuối kỳ, tồn kho đầu kỳ.
Ngoài ra còn sử dụng thêm TK 611- Mua hàng. TK này phản ánh trị giá
vốn thực tế của nguyên vật liệu tăng, giảm trong kỳ. Tài khoản này không có
số dư, được mở chi tiết theo hai tài khoản cấp 2:
- TK 6111- Mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ
SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

- TK 6112- Mua hàng hoá.
Để phản ánh các nghiệp vụ liên quan đến nhập, xuất nguyên vật liệu, kế toán
còn sử dụng các tài khoản liên quan khác giống như phương pháp kê khai

thường xuyên: TK 111, 128,222,621,641,642,331…
1.2.5.2.2- Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chủ yếu:
Kế toán tổng hợp NVL theo phương pháp kiểm kê định kỳ được biểu
diễn khái quát bằng sơ đồ sau(Sơ đồ 1.5)

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH THỰC TẾ VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN
NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI CÔNG TY ĐIỆN LỰC TP HÀ NỘI
2.1- Đặc điểm tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty điện lực hà
nội.
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Điện lực Hà Nội
.
Công ty Điện lực Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc
Tổng Công ty Điện lực Việt Nam- Bộ công nghiệp, có trụ sở đóng tại 69
Đinh Tiên Hoàng, Hoàn Kiếm- Hà Nội.
Quá trình hình thành và phát triển của công ty có thể tóm lược một số nét cơ
bản sau:
Tổ chức tiền thân của Công ty Điện lực TP Hà Nội là Nhà máy đèn Bờ Hồ,
do thực dân Pháp xây dựng năm 1892 sau khi xâm chiếm toàn bộ nước ta,
với vốn đầu tư ban đầu là 3 triệu Frăng.
Năm 1954 chính quyền cách mạng tiếp nhận nhà máy từ tay thực dân Pháp.
Năm 1960 Nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ ba đã chỉ rõ: “… Để phát triển
các nghành kinh tế khác thì cần phải phát triển điện lực trước một bước”. Vì

vậy, trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nhiều nhà máy nhiệt điện được xây
dựng và đi vào sử dụng và song song với nó các trạm cao thế 110KV được
đưa vào vận hành. Lúc này, Nhà máy đèn Bờ Hồ được đổi tên thành Sở quản
lý và phân phối điện khu vực I. Sở được giao quản lý trạm 110KV Đông
Anh và phần lớn đường dây 110KV. Tính đến cuối năm 1964 sản lượng điện
thương phẩm đã đạt được 251,5 KWh (riêng khu vực Hà Nội là 82,5 triệu
KWh) gấp 12 lần sơ với năm 1954.
Đến năm1980 Sở quản lý và phân phối điện I được đổi tên thành Sở Điện
lực Hà Nội. Năm 1980 Sở Điện lực Hà Nội được củng cố một bứơc về tổ
chức sản xuấtm các trạm 110KV tách khỏi Sở để thành lập Sở truyền tải.
Phân xưởng Diezel tách ra thành lập Nhà máy Diezel. Bộ phận đèn đường

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

tách ra trở thành Xí nghiệp đèn công cộng trực thuộc Thành phố quản lý.
Nhiệm vụ của Sở Điện lực Hà Nội lúc này là:
- Quản lý vận hành lưới điện 35KV trở xuống.
- Kinh doanh phân phối điện.
- Làm chủ đầu tư các công trình phát triển lưới điện
Từ năm 1984, lưới điện Hà Nội bắt đầu được cải tạo với quy mô lớn
nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô. Tuy nhiên, do nguồn điện còn nhiều khó khăn
nên việc cấp điện cho Hà Nội vẫn không ổn định, chưa thoả mãn được nhu
cầu sản xuất và kinh doanh của nhân dân Thủ đô. Cuối năm 1984, điện năng
thương phẩm đạt 604,8 triệu KWh (khu vực Hà Nội 273,4 triệu KWh) tăng
26,8 lần so với nam 1954 và lưới điện đã phát triển tới 3.646,58km đường

dây cao, hạ thế.
Năm 1989, các tổ máy của Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình lần lượt đưa
vào hoạt động, nguồn điện của Thủ đô dần được đảm bảo. Do việc cải tạo
lưới điện theo sơ đồ của Liên Xô chỉ mới đề cập đến việc cải tạo l ưới điện
trung thế nên lưới phân phối hạ thế còn nhiều nhược điểm : tổn thất cao, sự
cố nhiều. Được sự đồng ý của Bộ Năng lượng, Sở Điện lực Hà Nội đã tiến
hành cải tạo lưới điện hạ thế đảm bảo cho việc cấp điện ổn định, giảm tỷ lệ
tổn thất.
Từ năm 1991, được sự giúp đỡ của Chính Phủ Thuỵ Điển thông qua tổ
chức SIDA, Sở Điện lực Hà Nội đã tiến hành triển khai 5 dự án theo chương
trình cải tạo và nâng cấp lưới điện Hà Nội.
Đến tháng 4-1995 Sở Điện lực Hà Nội được đổi tên thành Công ty Điện lực
Thành phố Hà Nội, Công ty Điện lực TP Hà Nội đã mở rộng ra 9 quận,
huyện của thành phố và đã khắc phục mọi khó khăn để cung cấp điện năng
đầy đủ, ổn định phục vụ cho sản xuất kinh doanh và đời sống các tầng lớp
nhân dân trên toàn Thành phố Hà Nội.
Năm 1997 để phục vụ cho công việc đổi mới và quy hoạch đô thị, công
ty Điện lực TP Hà Nội thành lập mới thêm 2 Điện lực nội thành là Điện lực
SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

Thanh Xuân và Điện lực Tây Hồ. Và đến năm 2004 tiếp tục thành lập thêm
hai điện lực mới nữa là Điện lực Hoàng Mai và Điện lực Long Biên để phục
vụ tốt điện năng cho sinh hoạt và sản xuất.
2.1.2- Chức năng, nhiệm vụ hoạt động của Công ty.
Công ty Điện lực Hà Nội có phạm vi hoạt động là khu vực Hà Nội và vùng

phụ cận, bao gồm : 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành.
2.1.2.1- Chức năng của Công ty:
- Tổ chức kinh doanh và vận hành lưới điện.
- Khảo sát điện và sửa chữa các thiết bị điện
- Xây lắp điện
- Sản xuất phụ kiện và thiết bị điện
- Xuất nhập khẩu vật tư thiết bị điện
- Tổ chức và hoàn thiện hệ thống kinh doanh truyền tải và phân phối điện
năng trên khu vực Hà Nội, thực hiện nghĩa vụ thu nộp tiền điện cho Tổng
công ty và ngân sách Nhà nứơc. Thực hiện các dịch vụ liên quan đến nghành
điện.
2.1.2.2- Nhiệm vụ của Công ty.
Để thực hiện tốt các chức năng trên Công ty đã đề ra các nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Tổ chức tốt công tác kế hoạch hoá:
+ Lập kế hoạch cải tạo, nâng cấp và phát triển lưới điện trong địa bàn
+ Lập kế hoạch mua bán điện năng thương phẩm, kế hoạch cung ứng điện
cho các thành phần kinh tế địa phương.
- Quản lý chặt chẽ khách hàng điện năng thương phẩm
- Tổ chức công tác cán bộ, lao động tiền lương và đào tạo.
- Tổ chức tốt công tác quản lý lưới điện trong thành phố, giảm thiểu thất
thoát.
- Tổ chức tốt công tác phát triển điện nông thôn.

SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ


- Phấn đấu giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, đặc biệt là chi phí trong quản
lý sản xuất, vận hành điện.
- Thực hiện tốt nghĩa vụ đóng góp với ngân sách nhà nước.
- Quản lý và vận hành các thiết bị truyền tải cao, trung và hạ áp, bảo đảm
cung cấp điện đầy đủ ( lưới điện phủ khắp các ngõ phố trong nội thành và
các khu vực phụ cận), ổn định (điện áp ổn định, ít dao động), liên tục (cung
cấp 24/24 giờ) với chất lượng cao, thực hiện tốt kế hoạch hàng năm và kế
hoạch 5 năm do ngành đề ra.
- Xây dựng phương án quy hoạch và phát triển lưới điện cao, trung và hạ áp
cho các thời kỳ. Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch bảo dưỡng các thiết bị
điện nhằm ngày càng hoàn thiện lưới điện Hà Nội.
2.1.3- Đặc điểm hoạt động sản xuất- kinh doanh.
Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội là một công ty hạch toán độc lập
thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam.
Điện lực là một ngành sản xuất công nghiệp then chốt của nền kinh tế
quốc dân, tất cả mọi ngành sản xuất đều cần có điện mói hoạt động được.
Chính vì vậy, sản xuất điện phải đi trước các ngành kinh tế khác một bước;
yêu cầu cung cấp điện đầy đủ, ổn định, liên tục và an toàn được đặt lên hàng
đầu. sản phẩm điện có điểm đặc biệt là nó không mang hình thái hiện vật
như sản phẩm của các ngành công nghiệp khác mà là sản phẩm dưới dạng
năng lượng. Quy trình sản xuất vừa mang tính chất của ngành khai thác
(thuỷ điện), vừa mang tính chất của ngành công nghiệp chế biến (từ than,
dầu). Quy trình sản xuất từ thuỷ điện, nhiệt điện…có khác nhau nhưng đều
cho một sản phẩm điện đồng nhất, không nhiều dạng sản phẩm như các
ngành khác.
Quy trình công nghệ kỹ thuật của doanh nghiệp Điện lực hoàn chỉnh
bao gồm đầy đủ các khâu: Phát điện, truyền tải và phân phối điện, đây là
một quá trình khép kín có tác động qua lại trực tiếp với nhau. Thời gian sản
xuất ra điện, truyền tải điện (quá trình vận chuyển sản phẩm ) và tiêu dùng


SV: L:ê Thị Mỹ

Lớp: K39 – 21.11


LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ

điện cùng xảy ra đồng thời. Ngành điện không có sản phẩm tồn kho, không
có bán thành phẩm và sản phẩm dở dang cũng như không có trường hợp
hàng đã bán bị trả lại (đối với sản phẩm điện) như các ngành sản xuất khác.
Vì vậy, việc tiêu dùng điện có ảnh hưởng chặt chẽ đến sản xuất điện. Hơn
nữa việc tiêu dùng điện cũng hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố kỹ thuật và tự
trang bị, đầu tư của ngành điện, người sử dụng điện không làm chủ được sản
phẩm mà mình đã mua và phụ thuộc vào sự điều hành sản xuất, truyền tải
và phân phối điện của người bán.
Việc sản xuất điện được giao cho các nhà máy điện đảm nhận. Sản
phẩm của các nhà máy điện là sản lượng điện đã sản xuất ra trừ đi lượng
điện dùng để sản xuất điện, sản lượng điện này gọi là điện thanh cái.
Điện thanh cái

Tổng sản lượng điện
do nhà máy điện sản
xuất ra

=

-

sản lượng điện dùng

để sản xuất
điện ở nhà máy điện

Điện do các nhà máy sản xuất ra, muốn đưa đến người sử dụng điện
phải qua hệ thống truyền tải, phân phối điện. Chức năng này được giao cho
các công ty truyền tải điện và công ty Điện lực đảm nhận trên địa dư từng
thành phố, tỉnh thành. Hệ thống truyền tải điện gồm: cột, đường dây cao thế
(từ 66KV đến 220KV và 500KV), hệ thống điện trung thế (từ 6KV đến
35KV), các trạm biến thế điện và mạng lưới điện hạ thế. Hệ thống truyền tải
điện đi càng xa, càng mở rộng thì càng hao hụt nhiều ở đường dây và trạm
biến áp. Sản lượng điện của hệ thống truyền tải phân phối là lượng điện
thương phẩm tức là sản lượng điện truyền dẫn đến người sử dụng điện. Điện
thương phẩm bằng điện thanh cái của các nhà máy phát điện đưa lên máy
truyền tải trừ đi sản lượng điện hao hụt mất mát trên hệ thống truyền tải và
phân phối (tổn thất điện).
Điện
thương
phẩm

SV: L:ê Thị Mỹ

=

Điện
thanh cái

-

tổn thất
điện


Lớp: K39 – 21.11


×