Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Luận văn tốt nghiệp : Lợi nhuận và một số giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.77 KB, 78 trang )

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

Chương I
Lợi nhuận và sự cần thiết phấn đấu tăng lợi nhuận của các doanh
nghiệp ttrong điều kiện hiện nay
1.1.lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1.1.Lợi nhuận
a) Khái niệm.
Nền kinh tế nước ta khi còn là nền kinh tế bao cấp, vai trò của lợi nhuận
không được chú ý đến, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh theo
kế hoạch của Nhà nước, việc lỗ lãi không ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp.
Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhìn chung các doanh
nghiệp đều tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là việc thực một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu, từ việc bỏ tiền ra mua sắm nguyên vật
liẹu lẫn vật tư cần thiết khác phục vụ cho quá trình sản xuất, tiến hành sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng trên thị trường. Doanh nghiệp nào khi
kết thúc kinh doanh đều thu về mộtt khoản tiền nhất định gọi là doanh thu. Với
nức doanh thu này, doanh nghiệp trích ra một khoản để bù đắp chi phí đã bỏ ra
để tiến hành sản xuất kinh doanh. Phần còn lại sau khi trừ đi các chi phí khác
gọi là lợi nhuận. Như vậy, lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt
động sản xuất kinh doanh và được xác định bằng khoản tiền chênh lệch giữa
doanh thu với toàn bộ chi phí bỏ ra để có được doanh thu đó.
b)Nội dung,phương pháp xác định lợi nhuận
Từ định nghĩa về lợi nhuận ta có thể khái quát phương pháp xác định lợi
nhuận như sau:
Lợi nhuận = Doanh thu - Thuế gián thu - Chi phí tương ứng
Trong đó, doanh thu là toàn bộ khoản tiền mà doanh nghiệp thu được khi


kết thúc mỗi quá trình kinh doanh, do các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp mang lại. Thuế gián thu là các loại thuế được cấu thành trong giá
bán sản phẩm, doanh nghiệp phải nộp cho Nhà nước sau khi có được doanh thu

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

bán hàng. Còn chi phí là biểu hiện bằng tiền của những hao phí lao động vật
hoá, lao động sống mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh để tạo ra thu nhập tương ứng.
Tổng lợi nhuận doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt động sản xuất
kinh doanh và lợi nhuận từ hoạt động khác. Nói cách khác lợi nhuận được tính
riêng cho từng hoạt động.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản chênh lệch giữa
doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh với toàn bộ các khoản chi phí tương
ứng trong việc thực hiện các hoạt động sản xuất có được doanh thu đó.
Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh có được thông qua công tác tiêu
thụ còn gọi còn gọi là doanh thu bán hàng, bao gồm toàn bộ số tiền bán sản
phẩm, hàng hoá, cung ứng các lao vụ, dịch vụ cho khách hàng(dã được thực
hiện). Đây là bộ phận chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn nhát trong tổng doanh thu
của doanh nghiệp và có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của doanh nghiệp
trong nền kinh tế.
Doanh thu tiêu thụ trước hết được dùng để nộp thuế gián thu cho Nhà

nước, sau đó bù đắp các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra. T rong đó,chi
phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh,nói cách khác chính kà giá thành toàn
bộ sản phẩm, bao gồm 3 loại: Giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản
lý doanh nghiệp.
Giá vốn hàng bán phản ánh trị giá vốn của thành phẩm, hàng hoá, laovụ,
dịch vụ xuất bán trong kỳ, bao gồm các chi phí:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là chi phí về nguyên, nhiên vật liệu
được sử dụng trực tiếp để tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
+ Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền lương, tiền công,các khoản
trích nộp của công nhân sản xuất trực tiếp mà doanh nghiệp phải nộp theo quy
định(BHXH, BHYT, KPCĐ).
+ Chi phí sản xuất chung: Là các chi phí sử dụng chung cho hoạt động
sản xuất kinh doanh trực tiếp tạo ra sản phẩm dịch vụ.

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

Chi phí bán hàng: Là toàn bộ các chi phí liên quan đến việc tiêu thụ hàng
hoá dịch vụ, bao gồm các chi phí bảo quản, đóng gói, vận chuyển, quảng cáo,
giới thiệu sản phẩm, tiền lương trả cho công nhân viên bán hàng.
Doanh nghiệp bán hàng sau khi trừ thuế gián thu và các khoản chi phíkể
trên thì được gọi là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, ta có
công thức sau:
Lợi nhuận từ

hoạt
động =
SXKD

Doanh
thu bán hàng

Thuế
gián
thu

-

Giá vốn
hàng
bán

Chi phí
Chi phí
bán
- QLDN
hàng

Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
Bên cạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể có các hoạt
động tài chính, hoạt động bất thường.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính.

Lợi nhuận
từ HĐTC


=

Doanh thu
HĐTC

-

Chi phí
HĐTC

Trong đó:
Doanh thu hoạt động tài chính bao gồm các khoản thu từ các hoạt động
tài chính như thu về lãi tiền gửi ngân hàn, lãi về tiền cho vay, các khonả lãi do
đầu tư mua bán chứng khoán ngắn và dài hạn, thu từ hoạt động liên doanh, liên
kết,…
Chi phí hoạt động tài chính là các cho phí có liên quan đến hoạt động tài
chính như chi phí cho việc môi giới, mua bán chứng khoán kể cả các khoản tổn
thất trong đầu tư(nếu có), chi phí cho việc liên doanh liên kết, chi phí lãi tiền
vay…
Lợi nhuận từ hoạt động khác.

Lợi nhuận
từ khác

=

Doanh thu
khác


-

Chi phí
khác

Trong đó:
Doanh thu khác của doanh nghiệp là các khoản thu không thường xuyên
như thu về nhường bán tài sản cố định, thanh lý tài sản, cho thuê tài sản cố

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

định hoạt động, thu về các khoản nợ khó đòi đã xử lý, xoá sổ, các khoản nợ
không xác định được chủ….
Chi phí khác là các khoản chi phí xảy ra không thường xuyên như chi phí
thanh lý, nhợng bán TSCĐ, các khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng trong sản
xuất do ngừng sản xuất bất thương…
Khi đó, tổng lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định bằng công thứ c:

Tổng lợi
Lợi nhuận
Lợi nhuận
Lợi nhuận
=

+
+
nhuận của DN
HĐSXKD
HĐTC
HĐ khác
Tuy nhiên các chỉ tiêu tính ở trên mới là trước thuế, còn lợi nhuận sau
thuế được tính theo công thức sau:

Lợi nhuận sau
Lợi nhuận
=
thuế
trước thuế

-

Thuế TNDN
phải nộp

c)Ý nghĩa của chỉ tiêu lợi nhuận.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh
doanh, là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp.
Toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có được tiến
hành một cách hợp lý, tiết kiệm hay khôngđều được phản ánh khá rõ nét qua
chỉ tiêu lợi nhuận. Nừu doanh nghiệp biết tổ chức hoạt động sản xuất kinh
doanh một cách có hiệu quả, tiết kiệm chi phí ở từng khâu một cách hợp lý, cải
tiến các hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho sản phẩm dịch vụ của doanh
nghiệp luôn đợc thị trường chấp nhận thì sẽ dẫn tới tăng thu, giảm chi, làm

tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp quản lý yếu
kém, lãng phí nguyên vật liệu, phương hướng sản suất kinh doanh nói chung
và chiến lược sản phẩm nói riêng không hướng tới thị trường thì chắc chắn chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng cao, sản phẩm không phù
hợp nhu cầu thị trường, sẽ ứ đọng, tình trạng tăng chi giảm thu tất yếu dẫn tới
quy mô lợi nhuận bị thu hẹp, chỉ tiêu lợi nhuận bị giảm sút.
Thêm vào đó, lợi nhuận còn là chỉ tiêu phản ánhchính xác khả năng tái
sản xuất mở rộng doanh nghiệp vì trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận là

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

một nguồn bổ sung vốn rất quan trọng rất quan trọng đối với doanh ngiệp. Cho
nên chỉ tiêu lợi nhuận không chỉ đánh giá được quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh đã qua của doanh nghiệp mà còn hé mở phần nào khả năng phát
triển trong tương lai của doanh nghiệp đó.
Tuy nhiên, chỉ tiêu lợi nhuận không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá
chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì có còn có
những hạn chế nhất định.
Trước hết, do tính chất tổng hợp của mình, chỉ tiêu lợi nhuận chỉ phản ánh
kết quả của tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh Scủa
doanh nghiệp. Nhưng kết quả này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố lại ảnh
hưởng ngược chiều nhau như sản lượng và giá thành, do đó chúng bù trừ cho
nhau, che lấp lẫn nhau. Kết quả là chúng ta vẫn chưa thể đánh giá chính xác sự

tác động của từng yếu tố đến lợi nhuận thu được và do vậy chưa thể đánh giá
chính xác hiệu quả cũng như trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong kỳ.
Mặt khác lợi nhuận là một chỉ tiêu tuyệt đối, nó chỉ có ý nghĩa đầy đủ khi
được xem xét trong một điều kiện cụ thể nhất định( của một doanh nghiệp cụ
thể trong một thời kỳ cụ thể ).
Chỉ tiêu này chưa phản ánh được toàn diện mối tương quan giã yếu tố đầu
vào và yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất(tình độ sử dụng vốn của doanh
nghiệp) chưa thể dùng để so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong các thời kỳ khác nhau hay so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh
giữa các doanh nghiệp trong cùng một thời kỳ vì không có cùng mặt bằng so
sánh về vốn, về điều kiện công nghệ, thiết bị sản xuất, thị trường tiêu thụ…
Do đó, đánh giá một cách toàn diện và chính xác vấn đề lợi nhuận mà
rộng hơn là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người ta còn xem
xét các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
hay còn gọi là doanh lợi.

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

1.1.2.Tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận, là một chỉ tiêu tương đối cho phép ta so sánh hiệu quả
sản xuất kinh doanh giữa các thời kỳ khác nhau trong một doanh nghiệp, giữa
thực tế với kế hoạch hoặc giữa các doanh nghiệp trong cùng một thời kỳ.Tỷ

suất lợi nhuận càng cao càng chứng tỏ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh càng
có hệu quả.
Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi cách chứa đựng một nội
dung kinh tế khác nhau, thông thường các doanh nghiệp sử dụng các chỉ tiêu tỷ
suất lợi nhuận sau đây: Tỷ suất lợi nhuận vốn, tỷ suât lợi nhuận giá thành, tỷ
suất lợi nhuận doanh thu tiêu thụ.
Tỷ suất lợi nhuận vốn.
Tỷ suất lợi nhuận vốnlà quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được(lợi
nhuận trước thuế hoặc lợi nhuận ròng) với số vốn kinh doanh sử dụng bình
quân trong kỳ. Công thức xác định như sau:
Tsv(%) =

P(Pr)
x100%
Vbq

Trong đó:
Tsv : Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh (doanh lợi vốn)
P(Pr):Lợi nhuận (lợi nhuận ròng) trong kỳ.
Vbq : Tổng vốn kinh doanh sử dụng bình quân.
Vbq =

V k  Vck
2

Vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu
động:

Vốn cố định


=

Nguyên
giá TSCĐ

-

Số tiền khấu hao
luỹ kế đã thu hồi

Vốn lưu động bao gồm vốn dự trữ sản xuất, vốn sản phảm dở dang, bán
thành phẩm tự chế, vốn thành phẩm…

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn phản ánh: Cứ mỗi đồng vốn kinh doanh
bình quân trong kỳ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận(lợi nhuận ròng).
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất, thể hiện trình độ sử dụng tài sản, vật tư,tiền
vốn của doanh nghiệp, thông qua đó thúc đẩy doanh nghiệp tìm kiếm và phát
huy những khả năng tiềm tàng của mình nhằm quản lý và sử dụng vốn có hiệu
quả cao.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành.

Tỷ suất lợi nhuận giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ (trước
thuế hoặc sau thuế) so với giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong
kỳ của doanh nghiệp. Nó có thể tính riêng cho từng loại sản phẩm hoặc tính
chung cho toàn bộ sản phẩm tiêu thụ.
Công thức xác định như sau:
Tsg(%) =

P(Pr)
x100%
Zt

Trong đó:
Tsg : Tỷ suất lợi nhuận giá thành(doanh lợi giá thành).
P(Pr): Lợi nhuận(lợi nhuận ròng) trong kỳ.
Zt : Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho ta biết cứ một đồng chi phí bỏ ra cho sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm dịch vụ trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Thông qua đó,
có thể thấy rõ hiệu quả của việc bỏ chi phí vào sản xuất và tiêu thụ như thế
nào. Tỷ suất này càng câo chứng tỏ việc đầu tư của doanh nghiệp càng có hiệu
quả.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước hoặc sau
thuế với doanh thu tiêu thụ sản phẩm dịch vụ, hàng hoá trong kỳ của doanh
nghiệp.
Công thức xác định như sau:

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07



HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

Tst(%) =

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ
P(Pr)
x 100%
Dt

Trong đó:
Tst(%) : Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng.
P(Pr)

: Lợi nhuận(lợi nhuận ròng) trong kỳ.

Doanh thu : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm dịch vụ trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong
kỳmang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất này càng cao chứng tỏ hoạt động
sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp càng có
hiệu quả.
Việc sử dụng các chỉ tiêu ở trên đã giúp thực hiện được sự so sánh về hiệu
quả sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp có mựt bằng sản xuất kinh
doanh khác nhau, so sánh giữa chất lượng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp với mức trung bình của nghành…Trên cơ sở đó, có thể đưa ra kết luận
đúng đắnvề hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tìm ra nguyên nhân
và đề ra các giải pháp đúng đắn để xử lý.
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Là tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng và số vốn chủ sở hữu tham gia kinh doanh
trong kỳ.

Công thức xác định:
Tsh(%) =

Pr
x 100%
Vcsh

Trong đó:
Tsh(%) : Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Vcsh : Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ.
Pr : Lợi nhuận sau thuế.

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

Đây là chỉ tiêu được các chủ sở hữu quan tâm nhất, nó thể hiện nếu bỏ
một đồng vốn chủ sở hữu để kinh doanh thì sau cùng sẽ mang lại cho họ ba
nhiêu đồng lợi nhuận.
Ngoài các chỉ tiêu doanh lợi(tỷ suất lợi nhuận) phổ biến kể trên, người ta
còn có thể sử dụng các chỉ tiêu doanh lợi khác như: Doanh lợi vốn đi vay,
doanh lợi vốn cố địn,h, doanh lợi vốn lưu động…để đánh giá và so sánh kết
quả kinh doanh trong những năm cần thiết.
1.2. Sự cần thiết phảI phấn đấu tăng lợi nhuận của
doanh


nghiệp trong đIều kiện hiện nay
1. 2.1.Ý nghĩa, tầm quan trọng của lợi nhuận.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh
doanh, do vậy nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói
riêng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, ý nghĩa đó được thể hiện như
sau
- Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh và là mục đích hoạt động kinh doanh của
một doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh không kể thuộc thành phần kinh tế nào, hoạt động trong
lĩnh vực nào, khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có chung
một mục đích là tìm kiếm lợi nhuận. Chỉ khi sản xuất kinh doanh có hiệu quả
thì doanh nghiệp mới thu được lợi nhuận. Do vậy, lợi nhuận chính là chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả và mục đích hoạt động của sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp. Không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận ít đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp không đạt được mục tiêu kinh doanh của mình .
- Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp. Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa doanh thu
và chi phí đã bỏ ra để thu được số doanh thu đó. Mọi biện pháp để tăng doanh
thu, tiết kiệm chi phí sản xuất cuối cùng đều phản ánh ở quy mô của lợi nhuận
của doanh nghiệp. Vì vậy, thông qua xem xét chỉ tiêu lợi nhuận,ta có thể đánh
giá được phần lớn chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Lợi nhuận là nguồn tài chính quan trọng để bù đắp các thiệt hại, rủi ro
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Là nguồn tích luỹ để thực hiện tái sản

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07



HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

xuất mở rộng , để thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước cũng như khuyến
khích lợi ích vật chất đối với người lao động trong doanh nghiệp .
Lợi nhuận không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với từng doanh nghiệp
mà nó còn có vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vì
đây cũng là nguồn thu quan trọng của Ngân sách nhà nước . Hiện nay Nhà
nước động viên lợi nhuận của các doanh nghiệp vào ngân sách thông qua hình
thức thuế thu nhập doanh nghiệp .

1.2.2.Sự cần thiết phải phấn đấu tăng lợi nhuận.
Trước đây, nền kinh tế nước ta hoạt động trong cơ chế quản lý kế hạch
hoá tập trung, các doanh nghiệp được bao cấp hầu hết về vốn nên lợi nhuận
không phát huy được vai trò của mình bởi vì các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh không hoàn toàn quan tâm đến mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Nhưng từ khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường
với nhiều thành phần kinh tế cùng song song tồn tại và có sự sạnh tranh mạnh
mẽ thì lúc này vai trò cũng như ý nghĩa của lợi nhuận được bộc lộ rõ nét và trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết .
Việc doanh nghiệp luôn quan tâm đến vấn đề lợi nhuận và không ngừng
phấn đấu tăng lợi nhuận xuất phát lý do sau :
Xuất phát từ vai trò của lợi nhuận đối với các doanh nghiệp .
Lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của
toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , nó đóng vai trò vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và sự tăng
trưởng của toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung .
Trong thời kỳ bao cấp trước đây ,vai trò của lợi nhuận chưa được quan

tâm đúng mức ,do đó nó chưa bộc lộ được tầm quan trọng của mình .Vai trò
của lợi nhuận chỉ thực sự bộc lộ khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường và lúc này chính lợi nhuận sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp .Vai trò cũng như tầm quan trọng của lợi nhuận được thể hiện
qua những điểm chủ yếu sau :

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

Trước hết lợi nhuận là thước đo, là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua chỉ tiêu lợi nhuận
cho phép chúng ta có thể đánh giá nhiều mặt hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp từ khâu cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất đến khâu trực
tiếp sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng như trình độ tổ chức và quản lý lao
động , quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh ….
Bên cạnh đó lợi nhuận của doanh nghiệp còn là nguồn thu khá quan trọng
của ngân sách Nhà nước được thể hiện dưới hình thức thuế thu nhập doanh
nghiệp. Nếu các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thu được lợi nhuận và
lợi nhuận ngày càng cao thì nguồn thu ngân sách của Nhà nước theo đó cũng
tăng lên, từ đó góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
Ngoài ra lợi nhuận còn là nguồn tích luỹ quan trọng của doanh nghiệp
dùng để bổ sung vốn lưu động và vốn cố định, tạo thế và lực mới cho doanh
nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi vì chỉ có lợi nhuận thì
doanh nghiệp mới có thể trích lập các quỹ của doanh nghiệp, tạo ra nguồn vốn

đáp ứng cho hoạt động sản xuất, đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho toàn thể các bộ công nhân viên thông qua các
khoản chi về phúc lợi xã hội, khen thưởng.
Lợi nhuận còn là đòn bẩy kinh tế có hiệu lực nhất tác động đến mọi hoạt
động của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay đòi
hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện tốt nguyên tắc hạch toán kinh doanh.Yêu
cầu của nguyên tắc này là lấy thu bù chi và có lợi nhuận, nhất là lợi nhuận
ròng. Muốn vậy các doanh nghiệp cần phải tận dụng những nguồn dự trữ nội
bộ, sử dụng lao động hợp lý có hiệu quả, tiết kiệm nguồn vốn nhằm đem lại
hiệu qủa kinh tế cao nhất.Hơn nữa lợi nhuận còn có vai trò kích thích người lao
động quan tâm hơn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thông qua việc sử dụng phần lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp hình
thành các quỹ khen thưởng, phúc lợi dành cho người lao động một cách hợp lý
sẽ góp phần giải quyết mối quan hệ giữa ba lợi ích : lợi ích của người lao động,
lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của Nhà nước.

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

Lợi nhuận của doanh nghiệp cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp dến uy tín
của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nếu làm ăn thua lỗ, khả năng thanh toán
yếu kém sẽ làm mất uy tín doanh nghiệp, thậm trí mất khả năng thanh toán
trong một thời gian dài sẽ đẫn đến việc doanh nghiệp bị phá sản hay bị giải thể.
Ngược lai nếu doanh nghiệp làm ăn phát đạt có hiệu quả thu được lợi nhuận

cao không những có khả năng thanh toán ổn định mà còn nâng cao được uy tín
của mình trên thương trường góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng tăng trưởng.
Thực tế đã chứng minh rằng bất cứ doanh nghiệp nào dù là doanh nghiệp
Nhà nước hay tư nhân, doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp thương mại
khi đã tạo ra được thữ tín trên thương trường thì các hoạt động sản xuất kinh
doanh ngày càng phát triển , hoạt động có hiệu quả và lợi nhuận thu được ngày
càng cao .
Tóm lại, lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp nói
riêng và với toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung ,vì vậy phấn đấu tăng lợi
nhuận có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đối với các doanh nghiệp, phấn đáu tăn g lợi nhuận sẽ tạo cho doanh
nghiệp có đIều kiện mở rộng phát triển sản xuất, tăng vốn kinh doanh ,đổi mới
máy móc thiết bị, áp dụng những tiến bộ khoa học vào sản xuất, từ đó không
ngừng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh .
Đối với nền kinh tế, tăng lợi nhuận sẽ thúc đẩy nền sản xuất phát triển
mạnh mẽ hơn, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, từ đó làm tăng
thêm nhu cầu của Nhà nước về các mặt như :an ninh, quốc phòng,giáo dục,y
tế…đồng thời mở rộng quy mô sản xuất của nền kinh tế, đưa nền kinh tế ngày
càng tăng trưởng mạnh mẽ.

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ


1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và những phương
hướng biện pháp cơ bản tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong đIều
kiện hiện nay .
1.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận .
Chúng ta đã biết, lợi nhuận của doanh nghiệp có thể thu được từ nhiều
hoạt động khác nhau (hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động khác). Tuy
nhiên, trong đó hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm tỉ trọng lớn trong tổng
doanh thu cũng như lợi nhuận. Chính vì vậy việc tập trung nghiên cứu các
nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh là hết sức
cần thiết. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính là lợi nhuận thu
được do bán các sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp .
Lợi nhuận tiêu thụ được xác định theo công thức sau :
Pt = T- Zt -Tg
Trong đó :

Pt : Lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ
T :Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ
Zt : Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá dịch vụ trong kỳ.
Tg :Thuế gián thu phải nộp trong kỳ.

Từ công thức tên cho ta thấy lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp chịu
ảnh hưởng bởi : doanh thu tiêu thụ (doanh thu bán hàng ), giá thành sản phẩm
hàng hoá dịch vụ và các khoản thuế gián thu phải nộp .Tuy nhiên ta thấy rằng
thuế là chỉ tiêu thể hiện nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp đối với nhà
nước ,do đó các doanh nghiệp phải có nghĩa vụ hoàn thành ,vì vậy nó được coi
như không ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp .
Như vậy ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm
hai nhân tố : doanh thu tiêu thụ và giá thành toàn bộ của sản phẩm ,hàng hoá
và dịch vụ tiêu thụ trong kỳ .Tuy nhiên bản thân mỗi nhân tố lại chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố khác. Chính vì thế doanh nghiệp muốn không ngừng

phấn đấu tăng lợi nhuận thì trước tiên phải đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến doanh thu tiêu thụ và giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá dịch vụ
tiêu thụ .

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

a) Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ tiêu thụ .
Giá thành tòan bộ sản phẩm hàng hoá ,dịch vụ tiêu thụ được xác định
theo công thức sau :
Ztb = Zsx + CPBH + CPQLDN
Trong đó: + Ztb : là giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá dịch vụ tiêu thụ
+Zsx : là giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu
thụ
+CPBH : là chi phí tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ
+CPQLDN : là chi phí quản lý doanh nghiệp
Từ công thức trên, ta nhận thấy ảnh hưởng đến giá thành toàn bộ của
doanh nghiệp bao gồm 3 nhân tố sau :
- Giá thành sản xuất sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ : Là biểu hiện bằng tiền
của những khoản chi phí sản xuất sản phẩm được tập hợp theo từng mặt hàng .
Những khoản chi phí này bao gồm :
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : bao gồm các chi phí về nguyên
nhiên liệu và động lực tiêu dùng trực tiếp cho sản phẩm hàng hoá ,dịch vụ của

doanh nghiệp .
+ Chi phí về nhân công trực tiếp: bao gồm các khoản trả cho người lao
động trực tiếp sản xuất như tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính
chất như lương, chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn .
+ Chi phí sản xuất chung: bao gồm các khoản chi phí phát sinh ở các
phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như: tiền lương, phụ cấp
trả cho nhân viên phân xưởng, chi phí về vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng
cho phân xưởng, khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài .
Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, các khoản mục chi phí
này giảm xuống (tức là giá thành sản xuất hạ )sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp và ngược lại .
- Chi phí tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ (chi phí bán hàng) là
những khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đảm bảo cho quá trình tiêu thụ

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

sản phẩm, hàng hoá dịch vụ được thực hiện . Các khoản chi phí này phát sinh
trong qúa trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ như : tiền lương, các khoản
phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, chi cho công tác đóng gói, vận
chuyển, bảo quản… và các chi phí khác như chi phí điều tra nghiên cứu thị
trường, chi phí quảng các giới thiệu sản phẩm sản phẩm
Chi phí tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ phụ thuộc vào đặc điểm của sản
phẩm sản xuất, vào điều kiện tự nhiên và xã hội của địa phương, tình hình thị

trường tiêu thụ . Nếu các khoản chi phí tiêu thụ được tiết kiệm sẽ góp phần hạ
chi phí, giảm giá thành từ đó làm tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp . Tuy
nhiên doanh nghiệp phải phấn đấu giảm chi phí một cách hợp lý để không làm
ảnh hưởng xấu đến uy tín của doanh nghiệp trên thương trường .
- Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm: chi phí quản lý kinh doanh,
quản lý hành chính và các khoản chi phí chung khác có liên quan đến hoạt
động của doanh nghiệp như : tiền lương, các khoản phụ cấp cho ban giám đốc
và nhân viên quản lý các phòng, ban các khoản chi này tuy chiếm tỉ trọng nhỏ
trong tổng giá thành nhưng các khoản chi phí này nếu được tiết kiệm một cách
hợp lý sẽ làm cho giá thành sản phẩm hàng hoá ,dịch vụ giảm xuống góp
phần làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp .
b)Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng
hoá,dịch vụ .
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá ,dịch vụ được xác định bằng
công hức sau:
n

T=

 ( Si * Gi )
i 1

Trong đó: + T: là doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá ,dịch vụ trong kỳ
+ Si: Khối lượng sản phẩm hàng hoá , dịch vụ của mặt hàng tiêu
thụ thứ i trong kỳ
+ Gi: là giá bán đơn vị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mặt hàng
thứ i tiêu thụ trong kỳ .
+ n: là loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ .

SV: Ngô Duy Phương


Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

Qua công thức trên cho ta thấy các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến
doanh thu tiêu thụ bao gồm :
-

Thứ nhất là khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ .

Nhân tố này được coi là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến doanh
thu tiêu thụ sản phẩm .Nếu ta cố định giá bán đơn vị sản phẩm thì khối lượng
sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng lên hoặc giảm đi bao nhiêu kéo theo doanh
thu tiêu thụ cũng tăng lên bấy nhiêu. Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu
thụ phản ánh mặt cố gắng chủ quan của doanh nghiệp trong quá trình thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh như tăng số lượng sản phẩm sản
xuất, dự trữ hợp lý đầu kỳ và cuối kỳ tiêu thụ sản phẩm , mở rộng thị trường
tiêu thụ .
- Thứ hai là kết cấu mặt hàng tiêu thụ
Như chúng ta đã biết mỗi loại sản phẩm tiêu thụ có giá bán cao thấp
khác nhau, do đó trong trường hợp nếu doanh nghiệp tăng tỉ trọng sản xuất và
tiêu thụ mặt hàng có giá bán cao, giảm tỉ trọng mặt hàng có giá bán thấp thì
khi đó mặc dù tổng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ không đổi nhưng tổng
doanh thu sẽ được tăng lên và ngược lại. Nhìn chung việc thay đổi kết cấu mặt
hàng tiêu thụ chủ yếu do sự biến động của nhu cầu thị trường, trong trường
hợp này doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động sản xuất của mình sao cho

thích ứng với nhu cầu thị trường nhằm thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh sao cho mang lại hiệu quả cao nhất. Việc doanh nghiệp muốn thay đổi
kết cấu mặt hàng tiêu thụ nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và mang lại doanh
thu lợi nhuận tối đa thì đòi hỏi những người làm công tác quản lý và điều
hành doanh nghiệp phải nhậy bén trong việc nghiên cứu, điều tra và nắm bắt
đầy đủ thông tin cũng như nhu cầu thị trường .
- Thứ ba là nhân tố giá bán sản phẩm .
Trong điều kiện bình thường đối với các doanh nghiệp sản xuất, giá bán
sản phẩm phần lớn là do doanh nghiệp tự xây dựng. Khi khối lượng sản phẩm
sản xuất và tiêu thụ không thay đổi thì giá bán sản phẩm tăng lên sẽ làm cho
doanh thu tiêu thụ cũng tăng lên và ngược lại. Nhưng trong nền kinh tế thị

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

trường hiện nay, giá bán các mặt hàng thường được hình thành một cách khách
quan do quan hệ cung cầu trên thị trường, do đó doanh nghiệp không thể tự
điều chỉnh giá bán cao hơn giá bán mặt hàng cùng loại trên thị trường .
Đối với một số doanh nghiệp còn được Nhà nước giao chỉ tiêu sản xuất,
tiêu thụ một số mặt hàng nào đó thì giá bán là do Nhà nước quy định. Trong
trường hợp này, giá bán thay đổi dẫn đến doanh thu tiêu thụ thay đổi, điều này
được đánh giá là tác động khách quan ngoài ý muốn chủ quan của doanh
nghiệp .
- Thứ tư là chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ.

Chất lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và chất lượng
của sản phẩm nói riêng có tính chất quyết định đến vấn đề sống còn của các
doanh nghiệp trong cơ chế hiện nay. Doanh nghiệp càng quan tâm đến công tác
nâng cao chất lượng sản phẩm thường xuyên thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng
chiếm lĩnh được thị trường và uy tín doanh nghiệp được nâng cao. Trong điều
kiện nền kinh tế có sự cạnh tranh mạnh mẽ thì chất lượng sản phẩm, uy tín của
doanh nghiệp chính là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển lâu dài
của doanh nghiệp. Mặt khác trong điều kiện các yếu tố sản xuất không thay
đổi,việc đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm là cách để
doanh nghiệp tiêu thụ được khối lượng sản phẩm nhiều hơn, tăng doanh thu,
tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trên cơ sở của việc nhiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận , vấn
đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải tìm ra phương hướng biện pháp tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay .

1.3.2. Một số phương hướng , biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận
cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay .
Thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận và lợi
nhuận ngày càng cao là mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ
chế hiện nay .
Các doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm, quy mô sản xuất, điều kiện
kinh doanh và tình hình cụ thể của mình mà lựa chọn, áp dụng các biện pháp

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH


CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

thích hợp, có hiệu quả cao nhất. Muốn nâng cao lợi nhuận thì các doanh nghiệp
cần chú ý những phương hướng biện pháp cơ bản sau đây .
a) Hạ thấp giá thành sản phẩm .
Hạ thấp giá thành sản phẩm là phương hướng biện pháp cơ bản để tăng
thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hạ thấp giá thành sản phẩm thực chất là
giảm chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm, tức là tiết kiệm các chi phí
về lao động sống và lao động vật hoá như : chi phí về nguyên vật liệu, máy
móc, chi cho nhân công , chi phí quản lý điều này có ý nghĩa kinh tế to lớn
không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa tiết kiệm chi phí trong
phạm vi toàn xã hội. Hạ thấp giá thành sản phẩm là tăng lợi nhuận mà không
cần tăng thêm chi phí, do đố nó không chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự
bù đắp chi phí sản xuất kinh doanh mà còn giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm
được vốn để mở rộng quy mô sản xuất góp phần tiết kiệm chi phí cho toàn bộ
xã hội. Để hạ thấp giá thành sản phẩm góp phần làm tăng lợi nhuận cho doanh
nghiệp thì các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các biện pháp sau .
Một là phấn đấu nhằm tăng năng suất lao động (NSLĐ)
Tăng NSLĐ là quá trình áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp để tăng năng
lực sản xuất của người lao động sao cho số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn
vị thời gian tăng lên, hoặc giảm thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm. Muốn vậy doanh nghiệp cần làm tốt các công tác sau:
- Đầu tư, đổi mới máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, áp dụng các thành
tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến để tạo tiền đề làm thay
đổi căn bản điều kiện sản xuất, cho phép sử dụng triệt để công suất máy móc
thiết bị. Đây là biện pháp trực tiếp làm tăng NSLĐ .
- Tăng cường công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc, thiết bị
để tăng NSLĐ. Thực tế hiện nay ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp chưa sử
dụng triệt để công suất máy móc, thiết bị thường chỉ sử dụng 60% - 70% công
suất thiết kế. Việc đẩy mạnh công tác sử dụng tối đa công suất máy móc, thiết

bị sẽ tạo tiềm năng khai thác cho doanh nghiệp. Tăng cường sử dụng triệt để
theo đúng thiết kế cả về thời gian và công suất có thể làm cho số tiền khấu hao

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

tăng lên nhưng số sản phẩm được tạo ra cũng nhiều hơn nên số tiền khấu hao
tính trên môt đơn vị sản phẩm lại giảm đi, do đó làm giảm giá thành sản phẩm
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết
bị tăng NSLĐ thí doanh nghiệp phải tổ chức lại quá trình sản xuất kinh doanh,
sắp xếp lao động hợp lý, giảm tối thiểu số gìơ máy ngừng nghỉ đặc biệt để
đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra thường xuyên, liên tục thì doanh
nghiệp phải tiến hành sửa chữa, bảo quản máy móc, thiết bị định kỳ và thực
hiện nghiêm ngặt yêu cầu của quy trình kỹ thuật khi vận hành máy móc .
- Tổ chức quản lý sử dụng lao động hợp lý, không ngừng nâng cao trình
độ tay nghề và ý thức trách nhiệm của người lao động. Bố trí lao động đúng
người,đúng nghề, không ngừng nâng cao bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho
người lao động, bên cạnh đó cần tăng cường công tác giáo dục ý thức trách
nhiệm của người lao động trong công việc của mình. Ngoài ra doanh nghiệp
phải sử dụng linh hoạt các đòn bẩy kinh tế như tiền lương, tiền thưởng nhằm
khuyến khích người lao động say mê,gắn bó với công việc, chủ động phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật tăng NSLĐ, đồng thời phải đảm bảo làm tốt công
tác tổ chức, sắp xếp lao động hợp lý giảm tối đa lao động gián tiếp, giảm nhẹ
bộ máy quản lý, từ đó làm giảm các chi phí về quản lý, chi phí cho lao động

gián tiếp góp phần vào việc hạ thấp giá thành tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp
.
Hai là ,tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao .
Tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất cũng góp
phần to lớn vào vệc giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm. Chúng ta biết chi phí
nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm ,do đó
nếu làm tốt công tác giảm NVL tiêu hao sẽ làm cho giá thành sản phẩm giảm
đáng kể. Để tiết kiệm NVL tiêu hao cần giảm tỷ lệ hao hụt NVL trước khi đưa
vào sản xuất và giảm mức tiêu hao NVL trong một đơn vị sản phẩm . Muốn
vậy ngay từ khi lập kế hoạch phải có sự thống nhất giữa kế hoạch sản xuất với
kế hoạch cung ứng vật tư tránh tình trạng ứ đọng NVL và quan trọng hơn là
tránh tình trạng gián đoạn sản xuất do thiếu NVL.

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

Để giảm hao hụt NVL và đảm bảo chất lượng NVL phải có biện pháp bảo
quản tốt, cần quy trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân, từng đơn vị trong khâu
thu mua, vận chuyển và bảo quản NVL, từ đó làm giảm tỷ lệ hao hụt xuống
mức thấp nhất, tiết kiệm chi phí NVL góp phần hạ giá thành tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp.
Bên cạnh việc giảm tỷ lệ hao hụt NVL thì cũng cần tăng cường việc giảm
tiêu hao NVL cho một đơn vị sản phẩm. Định mức tiêu hao NVL cho một đơn
vị sản phẩm là số NVL cần thiết để tạo ra một đơn vị sản phẩm theo yêu cầu

kỹ thuật nhất định nào đó . Mức tiêu hao thực tế so với định mức càng nhỏ bao
nhiêu thì vật tư được sử dụng càng tiết kiệm bấy nhiêu. Để giảm bớt tiêu hao
NVL cho một đơn vị sản phẩm, doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp sau :
- Tổ chức tốt công tác cung ứng vật tư đảm bảo phù hợp kế hoạch sản
xuất, có thể cấp vật tư theo yêu cầu sản xuất hoặc theo kế hoạch định trước .
- Đổi mới máy móc thiết bị hiện đại có trọng điểm nhằm tiết kiệm NVL
áp dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, cho phép sử dụng NVL thay thế trên cơ
sở đảm bảo chất lượng sản phẩm, sử dụng vật tư tự chế của địa phương hoặc
trong nước để giảm chi phí về NVL .
- Tăng cường công tác kiểm tra các định mức tiêu hao NVL nhất là NVL
chính, giảm đến mức thấp nhất tỷ lệ hao hụt NVL và tỷ lệ phế phẩm . Bên
cạnh đó phải thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất nhằm ngăn
chặn kịp thời tình trạng mất mát, sử dụng lãng phí NVL , thực hiện tốt công
tác tận thu phế liệu nhằm giảm chi phí nguyên vật liệu , góp phần hạ giá thành
sản phẩm từ đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp .
b)Mở rộng thị trường, tăng số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất và
tiêu thụ
Nghiên cứu thị trường: Sản phẩm nào càng phù hợp với nhu cầu của người
tiêu dùng, sản phẩm đó càng có thị trường tiêu thụ rộng. Trong nền kinh tế thị
trường, nhu cầu của người tiêu dùng rất phong phú, đa rạng nhưng cũng biến đổi
thường xuyên. Do vậy, muốn mở rộng thị trường tiêu thụ, trước hết phải làm tốt
công tác nghiên cứu thị trường để nắm bắt được nhu cầu thị trường và xu hướng

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH


CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

biến đổi của nó. Từ đó xác định đúng loại sản phẩm dịch vụ cần sản xuất kinh
doanh.
Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm: Trong nền kinh tế hiện nay, số lượng và
chủng loại hàng hoá, dịch vụ trên thị trường rất đa dạng và phong phú, cạnh tranh
gay gắt. người bán không thể chỉ ngồi chờ người mua tìm đến mình mà phải chủ
động tìm đến người mua trước. Nếu không làm công tác quảng cáo, giới thiệu sản
phẩm, dịch vụ người mua sẽ không biết là có sản phẩm, dịch vụ đó trên thi trường.
Nếu có làm nhưng làm không tốt, người tiêu dùng không thấy được tính năng cơ
bản cũng như những điểm độc đáocủa sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp so với
sản phẩm dịch vụ cùng laọi của những doanh nghiệp khác, họ cũng không mua.
Chỉ có làm tốt công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ sao cho người tiêu
dùng biết đến và cảm thấy thôi thúc muốn mua sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp
để thoả mãn một nhu cầu nhất định của mình, doanh nghiệp mới có thể tiếp cận với
thị trường.
Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là hai mặt của quá trình sản xuất kinh
doanh, thông thường sản phẩm sản xuất ra càng nhiều, chất lượng cao và đẩy
mạnh việc tiêu thụ thì lợi nhuận thu được càng nhiều . Vì vậy tăng số lượng
sản phẩm sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh
công tác tiêu thụ là một biện pháp quan trọng để tăng lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, số lượng sản phẩm sản
xuất ra là bao nhiêu, chất lượng sản phẩm cao hay thấp và quá trình thực hiện
tiêu thụ tốt hay không tốt chủ yếu phụ thuộc vào trình độ trang bị kỹ thuật của
máy móc, thiết bị, phụ thuộc vào tay nghề trình độ của người lao động, trình
độ quản lý sản xuất và khả năng nắm bắt thông tin thị trường của doanh
nghiệp. Do vậy để tổ chức tốt công tác tăng số lượng sản phẩm sản xuất, nâng
cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh tiêu thụ thì doanh nghiệp phải thực hiện
tốt các biện pháp sau:
-Để tăng số lượng sản phẩm sản xuất, doanh nghiệp cần làm tốt khâu tổ

chức quản lý và sử dụng lao động một cách hợp lý và có hiệu quả, tổ chức tốt
các hệ thống ca kíp, có đẩy đủ cơ sở và quy trình phục vụ sản xuất thuận lợi,

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

đảm bảo tận dụng mọi năng lực của người lao động cũng như máy móc, thiết
bị
-Song song với việc tăng thêm khối lượng sản phẩm sản xuất là việc
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở đầu tư theo chiều sâu
như hiện đại hoá máy móc thiết bị, mạnh dạn áp dụng tíên bộ khoa học kỹ
thuật, chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất. Ngoà ra doanh nghiệp cũng
cần phải luôn luôn quan tâm đến người lao động trong doanh nghiệp bằng cách
có chế độ khen thưởng, khuyến khích vật chất cụ thể nhằm động viên người
lao động gắn bó với công việc và có ý thức trách nhiệm quan tâm đến chất
lượng sản phẩm mà mình trực tiếp tạo ra.
c) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh .
Sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh không phải là một
hoạt động đơn thuần về mặt thu chi tài chính mà thực chất là một nghệ thuật sử
dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Sử dụng vốn có hiệu quả nghĩa
là lợi nhuận thu được trên một đồng vốn bỏ vào sản xuất kinh doanh ngày
càng nhiều.Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là biện pháp cơ bản mà
luôn được các doanh nghiệp quan tâm .
Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận là vốn

lưu động (VLĐ) và vốn cố định (VCĐ).
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản lưu động trong
doanh nghiệp như : vật tư , tiền vốn, thành phẩm...sử dụng tốt vốn lưu động tức
là nâng cao hiệu quả của chúng, tăng tốc độ luân chuyển VLĐ. Tốc độ luân
chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt công
tác như: mua sắm dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp hợp lý hay không
hợp lý, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không, các khoản phí tổn trong
quá trình sản xuất kinh doanh tiết kiệm hay không tiết kiệm thông qua đó thúc
đẩy doanh nghiệp tăng cường sử dụng tiết kiệm VLĐ góp phần hạ giá thành
sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp .
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư
nói riêng, của vốn sản xuất nói chung. Quy mô vủa VCĐ là nhân tố ảnh hưởng

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

quyết định đến trình độ trang bị kỹ thuật, VCĐ được coi là hệ thống “xương
cốt, bắp thịt ” của sản xuất kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ được
coi là một trọng điểm của công tác quản lý tài chính trong doanh nghiệp .
Trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay nhất là các doanh
nghiệp Nhà nước, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chưa
được quan tâm đúng mức. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp cần chú ý biện pháp sau :
-Thẩm định, kiểm tra chặt chẽ các dự án đầu tư mua sắm, xây dựng mới

tài sản cố định, không cho phép thực hiện các dự án đấu tư tài sản cố định khi
chưa đánh giá,thẩm định kỹ về hiệu quả đầu tư.
-Xác định cơ cấu vốn kinh doanh hợp lý
-Xây dựng quy chế sử dụng chặt chẽ, rõ ràng và có hiệu quả đối với từng
loại tài sản, đối với từng tập thể, từng cá nhân được giao sử dụng tài sản của
doanh nghiệp.
-Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ khuyến khích vật chất và trách nhiệm
vật chất, chế độ hành chính đối với cá nhân ,tập thể gây tổn thất tài sản , tiền
vốn của doanh nghiệp .
-Thực hiện đầy đủ quy chế giao vốn và trách nhiệm bảo toàn vốn kinh
doanh trong doanh nghiệp .
d) Lựa chọn kết cấu mặt hàng tối ưu.
Đối với những mặt hàng nào dự kiến khả nămg tiêu thụ trong kỳ lớn hơn
thì doanh doanh nghiệp nên tăng tỷ trọng của nó trong tổng số các mặt hàng
sản xuất và tiêu thụ, giảm tỷ trọngcác mặt hàng bắt đầu lạc hậu so với thị
trường so với thị trường sao cho kết cấu các mặt hàng tiêu thụ trong kỳ, hạn
chế tối đa số sản phẩm dư thừa, tồn đọng.
Đối với những mặt hàng nào dự đoán trong kỳ khả năng tiêu thụ như nhau
thì nên tập trung đầu tư vào mặt hàng có mức lợi nhuận cao, tăng khối lượng
sản phẩm sản xuất, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm để chớp cơ hội kinh
doanh.

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ


Trên đây là một số phương hướng biện pháp chủ yếu để phấn đấu tăng lợi
nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong việc phấn đấu tăng lợi nhuận các
doanh nghiệp không nên vì chạy theo lợi nhuận tối đa mà không quan tâm đến
lợi ích chung của toàn xã hội. Các doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý rằng
không có một biện pháp chung nào có thể áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp,
mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào đặc điểm tình hình sản xuất, đặc thù của
mình và trên cơ sở các phương hướng biện pháp chung mà lựa chọn cho mình
những giải pháp hữu hiệu nhất .

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHOÁ

Chương II
Thực trạng lợi nhuận ở công ty cổ phần dịch vụ du lịch đường sắt
hà nội
2.1. Khái quát ở công ty cổ phần dịch vụ du lịch đường sắt hà nội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Dịch
vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội
Trong giai đoạn hiện nay, nghành vận tải ngày càng trở nên quan trọng và
cấp thiết nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách, hàng hoá xã hội.
Công cuộc đổi mới đến nay đã hơn 10 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ đường sắt, cán bộ công nhân viên nghành đường sắt đã đem tất cả tâm
huyết, trí tuệ, sức lực phục vụ cho công cuộc đổi mới,từng bước đã thu dược

thành quả quan trọng, được Đảng,Nhà nước, Nhân dân ghi nhận.
Đóng góp vào kết quả đó, phải kể đến một bộ phận không nhỏ hệ thống
dịch vụ du lịch trong đó có Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà
Nội.
Do yêu cầu phát triển của nghành vận tải đường sắt, năm 1970, Bộ giao
thông vận tải và bưu điện có quyết định số 3271/QĐ-TC ngày 9/ 12/1970, hợp
nhất “Công ty ăn uống đường sắt” và “Trạm bán hàng trên tàu” thành “Công
ty phục vụ đường sắt” , có nhiệm vụ phục vụ ăn uống cho cán bộ công nhân
viên trong ngành, hành khách trên các đoàn tàu và khách đợi tàu ở các ga lớn.
Đến năm 1989, do yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường, nhất là khách
du lịch bằng đường sắt, Tổng giám đốc liên hiệp đường sắt Việt Nam(theo
phân cấp của bộ GTVT và bưu điện) đã có quyết định số 836/ĐS-TC, ngày
13/11/1989, đổi tên công ty phục vụ đường sắt thành “Công ty dịchvụ du lịch
đường sắt Hà Nội”.
Đến năm 1993, theo quyết định của Nhà nước về việc đăng ký thành lập
doanh nghiệp Nhà nước, theo quyết định số 607/QĐ/TCCB-LĐ ngày 5/4/1993
của Bộ GTVT, công ty dịch vụ du lịch đường sắt được thành lập là doanh
nghiệp Nhà nước trực thuộc liên hiệp đường sắt Việt Nam.

SV: Ngô Duy Phương

Lớp: K39 – 11.07


×