Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.06 KB, 80 trang )

Lời nói đầu
Thực hiện đường lối đúng đắn mà Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra,
nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, từ một nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô
của Nhà nước, làm cho nền kinh tế nước ta đã từng bước hoà nhập với
nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Trong nền kinh tế đa thành phần,
các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế của đất nước. Mặc dù có không ít các doanh nghiệp Nhà
nước phải giải thể vì làm ăn không có hiệu quả, nhưng bên cạnh đó có
những doanh nghiệp đứng vững và ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất,
đồng thời cũng có những doanh nghiệp Nhà nước đứng trước cơ chế thị
trường với quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của nó vẫn đang gặp rất nhiều
khó khăn, lúng túng.
Đối với các doanh nghiệp, cơ chế thị trường tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho mọi hoạt động nhưng chính nó cũng tạo ra những thách
thức mới. Chấp nhận cơ chế thị trường là một tất yếu, chính vì thế trong
các doanh nghiệp, các công tác nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
như công tác quản trị tiêu thụ, công tác quản trị cung ứng, công tác
Marketing...đặc biệt là công tác quản trị vốn trong các doanh nghiệp cần
được phát triển và hoàn thiện. Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế
thị trường, nhu cầu vốn cho từng doanh nghiệp đang là một vấn đề rất
bức xúc. Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trường với sức cạnh tranh của
nền kinh tế cũng như của từng doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào hiệu quả
kinh doanh. Vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nói đến hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có vốn. Mục đích
của sản xuất kinh doanh là thu được lợi nhuận. Do đó vấn đề đặt ra cho
các doanh nghiệp là phải huy động vốn để đảm bảo sản xuất kinh doanh
diễn ra thuận lợi, và phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả ngày càng cao
để đứng vững hơn trên thương trường, từ đó mở rộng sản xuất kinh
doanh, tạo công ăn việc làm nâng cao đời sống cho người lao động, đặc


biệt lợi nhuận thu được ngày càng nhiều.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn và việc nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại
Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội, được sự hướng dẫn
tận tình của các thầy cô và tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty
em đã bước vào làm quen với thực tế, nghiên cứu tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của Công ty và đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện
pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần
Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội”.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng trình độ lý luận và thực tế còn
nhiều hạn chế nên vấn đề nghiên cứu của em không tránh khỏi những
khiếm khuyết và sai sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô
giáo, cán bộ công nhân viên trong Công ty cùng toàn thể các bạn để đề tài
của em thêm hoàn thiện.
Nội dung đề tài được chia làm ba phần:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn kinh doanh và
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp.
Chương 2. Thực trạng về sử dụng vốn kinh doanh tại ở Công ty
Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh ở Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN
KINH DOANH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH
DOANH TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 VỐN KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm vốn kinh doanh:
Trong nội dung hoạt động tài chính doanh nghiệp, việc quản lý và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là khâu quan trọng nhất quyết
định tới mức độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp. Để nâng

cao hiệu qua sử dụng vốn kinh doanh đòi hỏi phải giải quyết vấn đề như:
Xác dịnh nhu cầu vốn kinh doanh, tăng hiệu suất sử dụng vốn kinh
doanh, tăng vòng quay vốn kinh doanh, đổi mới, sửa chữa, hiện đại hoá
máy móc thiết bị... song tựu chung lại phải tập trung giải quyết hai vấn đề
cơ bản sau:
Một là: Nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều giá trị sản phẩm
đáp ứng nhu cầu thị trường.
Hai là: Tìm một giải pháp tiết kiệm vốn với một đồng vốn tạo ra
được nhiều giá trị hàng hoá dịch vụ.
Trước khi đi vào nội dung cụ thể của vấn đề nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn chúng ta cần xem xét: vốn kinh doanh là gì ? Những đặc điểm
của nó trong quá trình vận động như thế nào ?
Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt.
Mục tiêu của quỹ tiền tệ là để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, tức là
mục đích tích luỹ không phải là mục đích tiêu dùng như một vài quỹ tiền
tệ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh phải có trước khi diễn ra
hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta nói vốn là số tiền phải ứng trước
cho kinh doanh. Song khác với một số quỹ tiền tệ khác trong doanh
nghiệp, vốn kinh doanh sau khi ứng ra được sử dụng vào kinh doanh và
sau một chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho chu kỳ hoạt
động sau. Vốn kinh doanh không thể bị tiêu mất đi như một số quỹ khác
trong doanh nghiệp. Mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với nguy
cơ phá sản.
Cần có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Muốn có vốn thì trước hết
chúng ta phải có tiền. Song có tiền, thậm chí có những khoản tiền rất lớn
cũng không phải là vốn. Tiền được gọi là vốn khi nó đồng thời thoả mãn
hai điều kiện sau:
Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định hay
nói cách khác tiền phải đảm bảo bằng lượng tài sản có thực.
Hai là: Tiền phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định. Sự

tích tụ và tập trung một lượng tiền đến một hạn độ nào đó mới làm cho nó
đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh, cho dù là nhỏ nhất. Nếu tiền
nằm rải rác khắp nơi, không được "thu gom" lại thành một khoản lớn thì
không tiến hành được việc gì. Vì thế một doanh nghiệp muốn khởi nghiệp
thì nhất thiết phải có một lượng vốn đủ lớn. Để có vốn, doanh nghiệp phải
tìm các biện pháp khai thác, thu hồi các nguồn tiền tệ nhàn rỗi thành một
khoản lớn để đầu tư kinh doanh.
Ba là: Khi có đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích
sinh lời. Các vận động và phương thức vận động của tiền lại do phương
thức đầu tư kinh doanh quyết định.
Các phương thức đầu tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau:
TLSX (TLLĐ - ĐTLĐ)
T - H ... SX ... H' - T' ( T' > T)
SLĐ
Sự vận động của vốn được bắt đầu bằng hình thái tiền tệ sang hình
thái hàng hoá (tư liệu lao động, sức lao động), qua quá trình sản xuất vốn trở
lại hàng hoá (sản phẩm, dịch vụ.), cuối cùng trở về hình thái tiền tệ lớn hơn
lượng tiền tệ ban đầu.
1.1.1.2 Đặc điểm vốn kinh doanh:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ một doanh
nghiệp nào cũng phải có vốn, đó là một tiền đề cần thiết. Trong thời kỳ
bao cấp, phần lớn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp được Nhà nước
cấp phát hoặc cho vay với lãi suất thấp nên các doanh nghiệp không quan
tâm đến tính hàng cũng như đặc trưng của vốn. Trong nền kinh tế thị
trường vốn là yếu tố số một của mọi quá trình sản xuất kinh doanh, số
vốn đó không tự nhiên mà có. Vì vậy để quản lý và sử dụng vốn có hiệu
quả, chúng ta cần phải nhận thức đủ hơn về những đặc trưng sau đây:
Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản
được sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Vốn chính
là hàng hoá được biểu hiện dưới dạng nhà xưởng máy móc, thiết bị,

nguyên vật liệu, chất xám...
Vốn vận động phải sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng
để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải vận động sinh lời. Tiền là dạng
tiềm năng của vốn trong quá trình vận động, đồng vốn được biểu hiện
dưới những hình thái khác nhau: Tiền, vật tư, hàng hoá. Nhưng đến khi
kết thúc một vòng tuần hoàn vốn lại quay về hình thái tiền tệ nhưng phải
lớn hơn thì sản xuất kinh doanh mới có lãi. Nếu đồng vốn bị ứ đọng, tài
sản cố định không cần dùng, tài nguyên, sức lao động không được sử
dụng, tiền, vàng bỏ vào dự trữ hoặc các khoản nợ khế đọng khó đòi...chỉ
là những đồng vốn ''chết''. Mặt khác tiền có vận động nhưng lại bị thất
tán, không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì đồng vốn cũng
không được bảo đảm chu kỳ vận động tiếp theo bị ảnh hưởng.
Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định thì mới có
thể phát huy tác dụng. Không có đủ lượng vốn nhất định thì không thể
đáp ứng được yêu cầu tối thiểu đặt ra trong sản xuất kinh doanh.
Vốn phải có giá trị về thời gian: Điều này có nghĩa là phải xem xét
yếu tố thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kế hoạch tập trung vấn đề
này không được xem xét kỹ lưỡng vì Nhà nước đã tạo ra sự ổn định của
đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế. Trong điều kiện cơ chế thị
trường đều phải xem xét giá trị thời gian của tiền vốn, bởi vì do ảnh
hưởng của sự biến động giá cả, lạm phát sức mua của đồng tiền ở những
thời điểm khác nhau cũng khác nhau.
Vốn phải gắn với chủ sở hữu: Mỗi đồng tiền vốn phải gắn với chủ
sở hữu nhất định. Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng
vốn vô chủ, bởi lẽ những đồng vốn vô chủ gây ra sự chi tiêu lãng phí kém
hiệu quả. Khi xác định được chủ sở hữu thì đồng vốn mới được chi tiêu tiết
kiệm có hiệu quả.
Vốn phải được quan niệm là hàng hoá đặc biệt. Những người có
vốn có thể đưa vốn vào thị trường, những người cần tới vốn, tới thị
trường vay nghĩa là người đi vay vốn được quyền sử dụng vốn của người

chủ sở hữu hay quyền sở hữu của đồng vốn không di chuyển nhưng
quyền sử dụng vốn được chuyển nhượng qua sự vay nợ; người vay phải
trả một tỷ lệ lãi suất thoả thuận đối với người cho vay. Như vậy khác với
hàng hoá thông thường, hàng hoá vốn khi được bán đi thì người bán
không bị mất quyền sở hữu mà chỉ bị mất quyền sử dụng. Người mua
được quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định và họ phải trả cho
người chủ sở hữu vốn một khoản tiền, đó là lãi suất. Việc mua bán vốn
diễn ra trên thị trường tài chính, do đó lãi suất cũng phải tuân theo quan
hệ cung cầu của thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường vốn không những chỉ biểu hiện bằng
tiền của những tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện bằng những tài sản
vô hình như: vị trí kinh doanh, nhãn hiệu, bản quyền phát minh sáng chế,
bí quyết công nghiệp, uy tính doanh nghiệp... Những tài sản vô hình này
góp phần vô cùng quan trọng trong quyết định đầu tư và phát triển vốn
của doanh nghiệp.
1.1.2 Phân loại vốn kinh doanh ở doanh nghiệp:
Căn cứ vào chức năng, công dụng kinh tế thì vốn kinh doanh của
doanh nghiệp bao gồm 2 loại vốn cố định và vốn lưu động.
1.1.2.1 Vốn cố định.
a. Khái niệm vốn cố định.
Như mọi hàng hoá khác, tài sản cố định cũng có hai thuộc tính là
giá trị và giá trị sử dụng, nó cũng là đói tượng để mua bán trao đổi trên
thị trường. Như vậy trong nền sản xuất hàng hoá tiền tệ, để mua sắm tài
sản cố định trước hết phải có một số vốn ứng trước. Số vốn đầu tư ứng
trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định hữu hình và
vô hình được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Số vốn này nếu
được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại
được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình.
b. Đặc điểm vốn cố định.
Là số vốn đầu ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố định nên

quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố
định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng
lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc
điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng
quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định.
Vì vậy trước hết ta phải xem xét đặc điểm trong cách phân loại tài sản cố
định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, tham gia trực
tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất như máy móc thiết bị, nhà
xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc, chi phí mua bằng phát minh
sáng chế.
Đặc điểm cơ bản của tài sản cố định là có thể tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tài sản cố định bị hao mòn,
song nó vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu,
còn giá trị của nó được chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra.
Chỉ khi nào tài sản cố định bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy
không có lợi về mặt kinh tế thì nó mới được thay thế đổi mới. Tài sản cố
định là một phạm trù kinh tế, tài sản cố định phải là sản phẩm của lao
động xã hội (tức là có giá trị) và tham gia vào quá trình sản xuất với chức
năng của tư liệu lao động (giá trị sử dụng). Điều này cho thấy tài sản cố
định phải có đầy đủ các thuộc tính của một hàng hoá (giá trị và giá trị sử
dụng) như mọi hàng hoá thông thường khác. Do đó những lực lượng tự
nhiên như thác nước, dòng sông, đất đai...có trường hợp làm tư liệu lao
động của xã hội chế tạo máy chỉ được coi là sản phẩm đang lưu thông;
nhà xưởng, thiết bị máy móc đang xây dựng và lắp đặt chỉ được coi là đối
tượng lao động. Tư liệu lao động chỉ được coi là tài sản cố định khi thoả
mãn 2 điều kiện sau.
- Có thời gian sử dụng hơn 1 năm
- Có giá trị ≥ 5 triệu đồng
Có thể nói, quá trình vận động của tài sản cố định được cụ thể hoá như

sau:
Về mặt hiện vật, tài sản cố định gồm những tư liệu lao động chủ
yếu tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, bị hao mòn, biểu hiện ở giá trị sử
dụng ngày càng giảm bớt nhưng vẫn giữ nguyên hình thái hiện vật cho
đến khi hư hỏng hoàn toàn phải loại ra khỏi quá trình sản xuất.
Về mặt giá trị, vốn để mua sắm tài sản cố định phải ứng toàn bộ 1
lần khi bắt đầu tham gia vào quá trình sản xuất, số vốn đó chỉ được hoàn
lại từng phần nhỏ do được rút ra từ lưu thông sau khi kết thúc mỗi chu kỳ
sản xuất. Như vậy, trong quá trình sản xuất, giá trị tài sản cố định luôn
luôn tồn tại dưới 3 hình thái: hình thái ban đầu gắn liền với hiện vật tài
sản cố định, một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm sản xuất ra và một
bộ phận chuyển hoá thành tiền khi sản phẩm hàng hoá bán được. Bộ phận
ban đầu ngày càng giảm bớt, bộ phận tiền tệ ngày càng tăng lên cho đến
khi bộ phận này vừa đúng bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì
cũng là lúc kết thúc một vòng chu chuyển của vốn cố định. Vì thế mà quá
trình tái sản xuất ra hình thái vật chất ban đần của tài sản cố định không
tiến hành đồng thời với tái sản xuất ra giá trị của nó và không nhất thiết
thực hiện sau một chu kỳ sản xuất mà có thể thực hiện sau một thời gian
dài, khi nó kết thúc thời gian sử dụng và bị hư hỏng hoàn toàn. Từ đó cho
thấy việc quản lý tài sản cố định rất phức tạp và khó khăn, việc tái sản
xuất tài sản cố định và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có một ý
nghĩa quan trọng trong sản xuất kinh doanh.
Từ việc nghiên cứu đặc điểm tài sản cố định ta có thể rút ra một số
đặc điểm luân chuyển vốn cố định là:
Một là: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm,
điều này do đặc điểm của tài sản cố định được sử dụng lâu dài, trong
nhiều chu kỳ sản xuất quyết định.
Hai là: Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các
chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được

luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi
phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của tài sản cố định.
Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất, vốn cố định mới hoàn thành một
vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển
vào giá trị sản phẩm dần dần tăng lên, song phần vốn cố định ban đầu và
tài sản cố định lại dần giảm xuống cho đến khi tài sản cố định hết thời
gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm
sản xuất ra thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi hỏi việc
quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật
của nó là các tài sản cố định của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Vốn lưu động.
a. Khái niệm vốn lưu động
Mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh,
ngoài tư liệu lao động ra còn có đối tượng lao động. Đối tượng lao động
khi tham gia vào sản xuất không giữ nguyên trạng thái vật chất ban đầu,
bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình chế biến
hợp thành thực thể sản phẩm. Bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá
trình sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải dùng loại đối tượng lao
động khác. Cũng do đặc điểm nêu trên nên toàn bộ giá trị của đối tượng
lao động được chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm và được bù đắp
khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật
được gọi là các tư liệu lao động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn
lưu động của doanh nghiệp.
Vậy vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tư liệu
lao động và tài sản lưu thông nhằm đảo bảo cho quá trình tái sản xuất của
doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục.
b. Đặc điểm của vốn lưu động.
Vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động trong

các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh. Dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu
thông. Quá trình này được diễn ra liên tục, thường xuyên lặp lại theo chu
kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Qua
mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại được thay đổi hình
thái thể hiện từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn
vật tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái
vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một
vòng chu chuyển.
Vậy vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của
quá trình sản xuất. Đáp ứng đầy đủ vốn lưu động cho quá trình sản xuất
cũng như quá trình lưu thông giúp cho doanh nghiệp có thể rút ngắn được
vòng luân chuyển của vốn. Việc đáp ứng không kịp thời và hợp lý nhu
cầu vốn lưu động sẽ gây gián đoạn quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến
doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, việc xác định nhu
cầu vốn lưu động quá cao sẽ gây ra ứ đọng vốn, vật tư, hàng hoá, vốn lưu
động chậm luân chuyển. Do đó vấn đề tổ chức, bảo toàn và sử dụng vốn
lưu động hợp lý có vai trò rất quan trọng, doanh nghiệp sử dụng vốn lưu
động càng có hiệu quả thì càng sản xuất được nhiều sản phẩm, tiết kiệm
được vốn lưu động và mang lại hiệu quả cao, giúp doanh nghiệp đạt đuợc
mục đích kinh doanh của mình.
1.1.3 Nguồn hình thành vốn kinh doanh:
Nếu người quản lý không bao quát được các nguồn vốn, nội dung
và tính chất của các nguồn vốn có thể huy động được trong sản xuất kinh
doanh thì đó là sai lầm trong công tác quản lý đầu tư, sử dụng vốn kinh
doanh. Vì vậy việc nghiên cứu nội dung, tính chất của các nguồn vốn sẽ
là cơ sở cho việc lựa chọn, khai thác huy động vốn phù hợp với nhu cầu
khả năng cho phép của mỗi doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
Tuy nhiên mỗi loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác, huy
động vốn trên một số nguồn nhất định. Vì thế, người ta có thể căn cứ vào

nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp để nhận biết doanh
nghiệp đó thuộc loại nào. Chẳng hạn, doanh nghiệp có vốn kinh doanh
chủ yếu thuộc nguồn ngân sách Nhà nước thì đó là doanh nghiệp Nhà
nước, hoặc một doanh nghiệp khác lại có vốn kinh doanh từ nguồn tự có
và cổ phần thì đó là một doanh nghiệp tư nhân, một công ty cổ phần.
Trong cơ chế thị trường, vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp có
thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi ngành đều có ưu
nhược điểm nhất định, vì thế huy động vốn với một chi phí thấp nhất là
yêu cầu cấp bách đặt ra đối với doanh nghiệp. Do đó cần thiết phải phân
loại.
- Căn cứ vào quyền sở hữu về vốn thì vốn kinh doanh của doanh
nghiệp có thể chia làm hai loại: Nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả:
+ Vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc quyền sử hữu của doanh
nghiệp (doanh nghiệp Nhà nước chủ sở hữu là Nhà nước, doanh nghiệp
tư nhân chủ sở hữu là những người đóng góp vốn). Khi doanh nghiệp mới
được thành lập, vốn chủ sở hữu hình thành vốn điều lệ, còn có một số
nguồn khác cũng thuộc nguồn vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia,
quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, chênh lệch tỷ giá, đánh giá lại
tài sản... Đây là nguồn rất quan trọng và có tính ổn định cao.
+ Nợ phải trả: Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân
kinh tế: nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, tiền huy động
từ phát hành trái phiếu, các khoản nợ, phải trả cho Nhà nước, cho người
bán, cho công nhân viên. Nguồn này có tính chất tạm thời và thường
xuyên biến đổi. Sử dụng loại vốn này doanh nghiệp phải trả một khoản
chi phí gọi là chi phí sử dụng vốn hay lãi vay.
Để đo lường vốn vay của chủ sở hữu với số nợ vay người ta thường
dùng hệ số nợ hay đòn bẩy tài chính. Nó vừa là một công cụ tích cực cho
việc khuyếch đại lợi nhuận ròng trên một đồng vốn chủ sở hữu và là một
công cụ kìm hãm sự gia tăng đó. Sự thành công hay thất bại này tuỳ thuộc

vào sự không ngoan hay khờ dại của doanh nghiệp khi chọn cơ cấu nguồn
sản xuất kinh doanh.
Căn cứ vào phạm vi huy động có thể chia thành 2 loại nguồn vốn
sau:
+ Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: là nguồn vốn có thể huy
động được từ bản thân doanh nghiệp, nó được hình thành từ tiền khấu hao
tài sản cố định, lợi nhuận để lại, quỹ đầu tư phát triển kinh doanh, các
khoản dự trữ, dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố
định.
Nguồn vốn bên trong có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển của
doanh nghiệp. Huy động và sử dụng nguồn vốn bên trong tốt tạo điều kiện
cho doanh nghiệp sử dụng vốn. Tuy nhiên không vì thế mà xem nhẹ công
tác quản lý sử dụng nguồn vốn này, vì trong hầu hết các doanh nghiệp
nguồn vốn này sử dụng kém hiệu quả nhất.
+ Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn mà doanh nghiệp
có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Nguồn vốn này có thể từ vốn liên doanh, liên kết, vốn vay
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các
khoản nợ khác.
Việc vay vốn bên ngoài giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh
doanh đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc... sử dụng nguồn vốn bên
ngoài có ưu điểm: do phải trả chi phí cho việc vay vốn nên doanh nghiệp
thường sử dụng số tiền vay đó sao cho có hiệu quả nhất để bù đắp được
những chi phí mà vốn thu được lợi cho mình. Hơn nữa khi doanh nghiệp
đạt mức doanh thu cao thì không phải phân chia phần lợi nhuận cao đó.
Song sử dụng nguồn vốn bên ngoài cũng mang lại một số bất lợi
đáng kể: cho dù doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không thì vẫn phải trả lợi
tức tiền vay và hoàn trả tiền vay đúng thời hạn, nếu doanh nghiệp sử
dụng vốn kém hiệu quả hoặc trong hoàn cảnh nền kinh tế thay đỏi bất lợi
cho doanh nghiệp thì nợ vay là gánh nặng và doanh nghiệp phải chịu rủi

ro lớn. Do dó người lãnh đạo phải thận trọng suy xét phương pháp lựa
chọn hình thức huy động vốn, chi phí sử dụng vốn thấp nhất, khả năng
gặp rủi ro nhỏ nhất, hiệu quả kinh tế đem lại lớn nhất.
- Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia thành:
Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
+ Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định và có
thể sử dụg trong một thời gian dài gồm: Vốn chủ sở hữu, khoản vay trung
và dài hạn. Nguồn vốn này được dùng để mua sắm tài sản cố định và một
bộ phận tư liệu lao động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tạm thời: là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể dụng
mang tính chất tạm thời trong một thời gian ngắn (dưới 1 năm) như:
Nguồn vốn chiếm dụng hợp lý vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín
dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác.
Phân loại nguồn vốn kinh doanh thành nguồn vốn thường xuyên và
nguồn vốn tạm thời, giúp cho người quản lý xem xét, huy động các nguồn
vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, lập kế hoạch tài chính, hình
thành nên những dự định về tổ chức vốn trong tương lai trên cơ sở xác
định quy mô, số lượng cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích
hợp cho từng nguồn vốn đó, tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao.
Việc lựa chọn nguồn vốn nào, số lượng và thời hạn bao nhiêu là
tuỳ thuộc và điều kiện cụ thể của từng nguồn cấp vốn. Song cũng phải
theo xu hướng khai thác triệt để nguồn vốn tự có, vốn bên trong doanh
nghiệp. Chỉ khi nguồn vốn bên trong không đủ đáp ứng thì doanh nghiệp
phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài. Nguồn tài trợ từ bên ngoài là cần
thiết nhưng cũng không nên trông đợi quá mức vào những nguồn vốn bên
ngoài doanh nghiệp.
Từ việc nghiên cứu các phương pháp phân loại nguồn vốn sản xuất
kinh doanh chúng ta rút ra những ý nghĩa quan trọng.
Một là: việc phân loại vốn giúp cho người quản lý nắm bắt được cơ

cấu vốn trong doanh nghiệp và xác định chính xác nên bổ sung vốn từ
nguồn nào là thích hợp.
Hai là: Phân loại nguồn vốn giúp cho công tác lập kế hoạch huy
động vốn được chính xác sát với thực tế của doanh nghiệp. Tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp sử dụng tối đa nguồn vốn đã huy động với
chất lượng cao nhất, nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh.
Trên đây là một số hình thức doanh nghiệp có thể lựa chọn huy
động vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Để sử dụng các nguồn này có
hiệu quả nhất doanh nghiệp cần phải có chính sách thích hợp trong từng
thời kỳ đối với từng nguồn vốn, đặc biệt cả trong quá trình huy động vốn
cũng cần phải có chính sách cụ thể. Tiêu thức quan trọng nhất để xem xét
huy động sử dụng vốn là tính đến hiệu quả.
1.2 VAI TRÒ CỦA VỐN KINH DOANH TRONG DOANH
NGHIỆP:
Vốn kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trước tiên nó có vai trò quyết định trong
việc thành lập, hoạt động, phát triển và phá sản của doanh nghiệp. Muốn
thành lập được doanh nghiệp cần phải có vốn để đăng ký kinh doanh. Đồng
thời doanh nghiệp cũng cần phải có vốn kinh doanh để tiến hành các hoạt
động nghiệp vụ như mua, bán, dự trữ hàng hóa, vận chuyển, xếp dỡ…
Vốn kinh doanh còn đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn phát
triển kinh doanh cũng cần phải có đủ vốn để mua sắm trang thiết bị máy
móc, chuẩn bị nguồn hàng đủ lớn, mở rộng mạng lưới thu mua và cũng cần
phải có đội ngũ đông đảo can bộ công nhân viên đủ lớn để thực hiện các
nhiệm vụ đặt ra.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp lơn hay nhỏ là điều kiện quan
trọng để xếp doanh nghiệp vào loại có quy mô lớn, doanh nghiệp có quy mô
trung bình và doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Ngoài ra vốn kinh doanh của
doanh nghiệp nhiều hay ít còn là điều kiện để doanh nghiệp có thể phân

phối và sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có như sức lao động, nguồn hàng
hóa, và các nguồn lực khác một cách tốt nhất nhằm phát triển hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường, vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường
được xem xét về quyền sở hữu đối với vốn, từ đó quyết định loại hình doanh
nghiệp. Chẳng hạn như đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn kinh doanh
của doanh nghiệp là do Nhà nước cấp. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân,
đây là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.Đối với công ty cổ phần thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp do
vốn góp của các cổ đông.
1.3 HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH VÀ BIỆN
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.3.1 Hiệu quả vốn kinh doanh
1.3.1.1.Khái niệm hiệu quả vốn kinh doanh.
Mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới hiệu
quả kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng một cách triệt để mọi nguồn
lực sẵn có. Chính vì thế các nguồn lực kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn kinh
doanh của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh, tạo lập, khai thác và sử dụng các tiềm lực về vốn hợp lý
hay không hợp lý sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực tới hiệu quả sử
dụng vốn nói riêng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung
của doanh nghiệp.
Hiệu quả vốn kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng sử
dụng vốn kinh doanh của một doanh nghiệp, là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh
nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với
chi phí thấp nhất.
Nếu nhìn nhận tổng quát thì hiệu quả vốn kinh doanh của 1 doanh

nghiệp được xác định bằng cách so sánh kết quả đầu ra với chi phí đầu
vào.
Hiệu quả kinh doanh =
Hoặc:
Hiệu quả kinh doanh =
Đứng từ góc độ kinh tế nhìn nhận thì hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp được xem xét bằng chỉ tiêu lợi nhuận hay nói cách khác,
chỉ tiêu lợi nhuận ở một góc độ nào đó nói lên hiệu quả của việc sử dụng
vốn.
Thông qua các chỉ tiêu hiệu quả vốn kinh doanh có thể nhận thấy
sự tăng trưởng hay suy thoái, đổ vỡ doanh nghiệp. Người ta có thể đo
hiệu quả sử dụng vốn dưới nhiều chỉ tiêu cho từng yêu cầu quản lý.
1.3.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp.
a. Các chỉ tiêu tổng hợp.
* Vòng quay toàn bộ vốn
Công thức
Vòng quay toàn bộ vốn =
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu suất sử dụng vốn sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trong kỳ ý nghĩa là trên một đồng vốn sản xuất kinh
doanh bình quân trong kỳ thì được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Con
số này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp càng cao và ngược lại:
* Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn:
Công thức
Tỷ suất lợi nhuận vốn =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp cho thấy khi ta bỏ ra 1 đồng vốn sản xuất kinh
doanh thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Con số
này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh càng tốt và

ngược lại.
* Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu.
Công thức
Doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn chủ sở hữu sử dụng trong
kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.
Đây là những chỉ tiêu chung về vốn sản xuất kinh doanh, để đánh
giá một cách chính xác và tìm ra nguyên nhân khắc phục hay phát huy
phục vụ cho công tác quản lý thì doanh nghiệp tiến hành đánh giá hiệu
quả sử dụng của từng loại vốn thông qua các chỉ tiêu cá biệt sau:
b. Chỉ tiêu cá biệt.
* Hiệu quả sử dụng vốn cố định.
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định.
Hiệu suất sử dụng vốn cố
định
=
Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Để đánh giá đúng mức kết quả quản lý của từng thời kỳ, chỉ tiêu
hiệu suất sử dụng vốn cố định cần phải xem xét trong mối liên hệ với chỉ
tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Công thức
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định=
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng nguyên giá tài sản cố định tham
gia vào quá trình kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh
thu thuần trong kỳ.
- Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: Là đại lượng nghịch đảo của chỉ
tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định.

Công thức:
Hàm lượng vốn cố định =
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh
thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn cố định. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng
tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn cố định càng có hiệu quả.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn cố định.
Công thức:
Tỷ suất lợi nhuận
vốn cố định
= x 100
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập)
* Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- Số lần luân chuyển (số vòng quay) của vốn lưu động trong kỳ.
Công thức:
Số lần luân chuyển
vốn lưu động
=
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển (số vòng quay) vốn lưu
động trong kỳ là bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ doanh
nghiệp đã sử dụng có hiệu quả vốn lưu động, tiết kiệm vốn lưu động.
- Kỳ luân chuyển vốn lưu động (số ngày của 1 vòng luân chuyển)
Kỳ luân chuyển vốn lưu động =
Vòng quay vốn càng nhanh thì luân chuyển vốn càng được rút
ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.
- Hàm lượng vốn lưu động.
Công thức:
Hàm lượng vốn lưu động =
Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng doanh nghiệp thuần có sự
tham gia của bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này nhỏ chứng tỏ

doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm vốn lưu động.
- Doanh lợi vốn lưu động.
Công thức
Doanh lợi vốn lưu động =
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn lưu động sử dụng trong kỳ
tham gia sản xuất kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Mức
doanh loại vốn lưu động càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu
động càng cao và ngược lại.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

×