BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Vương Trọng Đức
THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG
TRONG THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Vương Trọng Đức
THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG
TRONG THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 9210101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. Lê Anh Vân
Hà Nội - 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ Thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế
tạp chí Heritage là công trình do tôi nghiên cứu, thực hiện. Những vấn đề nghiên
cứu cùng những ý kiến tham khảo, tư liệu đều có chú thích nguồn đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung trong luận án.
Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2018
Tác giả luận án
Vương Trọng Đức
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................................................. I
DANH MỤC NHỮNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT....................................................................... III
DANH MỤC BẢNG........................................................................................................................ IV
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN
CỨU VỀ THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG TRONG THIẾT KẾ TẠP CHÍ
HERITAGE........................................................................................................................................ 12
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.................................................. 12
1.2. Cơ sở lý luận về thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí................................. 27
1.3. Khái quát về thiết kế tạp chí Heritage............................................................................... 40
CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE.........................44
2.1. Nghệ thuật thiết kế bìa tạp chí Heritage........................................................................... 44
2.2. Nghệ thuật thiết kế dàn trang tạp chí Heritage............................................................... 53
CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE TỪ CÁCH TIẾP CẬN LÝ
THUYẾT THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG.......................................................................... 80
3.1. Nhận thức Thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí Heritage.........................80
3.2. Phương pháp thể hiện Thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí Heritage .. 99
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN VỀ THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG VÀ THIẾT KẾ
TẠP CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................... 113
4.1. Thẩm mỹ truyền thông trên con đường phát triển của nghệ thuật đương đại .. 113
4.2. Xu hướng thiết kế tạp chí trong thời đại công nghệ truyền thông kỹ thuật số . 119
4.3. Bài học kinh nghiệm thẩm mỹ truyền thông trong sáng tạo của các nhà thiết kế
ở Việt Nam.......................................................................................................................................... 128
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ...................148
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................... 149
PHỤ LỤC......................................................... ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
iii
DANH MỤC NHỮNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
2D
Không gian 2 chiều
3D
Không gian 3 chiều
GS
Giáo sư
H
Hình
NCS
Nghiên cứu sinh
Nxb
Nhà xuất bản
PGS
Phó Giáo sư
PL
Phụ lục
TC
Tạp chí
TCH
Tạp chí Heritage
TMTT
Thẩm mỹ truyền thông
TKDT
Thiết kế dàn trang
TS
Tiến sĩ
Tr
Trang
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Sơ đồ phân tích cấu trúc của trang bìa tạp chí Heritage……….
46
Bảng 2: Cấu trúc dàn trang nội dung ấn phẩm tạp chí Heritage………..
54
Bảng 3: Danh mục cấu trúc nội dung tạp chí Heritage…………………
55
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21 tháng 6, những năm gần đây
Hội báo chí Việt Nam thường tổ chức cuộc triển lãm “Báo chí Việt Nam – Quá trình
hình thành và phát triển” tại thư viện Hà Nội. Triển lãm đã trưng bày những thành
tựu của báo chí qua các thời kỳ, đặc biệt có hàng trăm ấn bản báo chí nguyên gốc từ
thời kỳ đầu như An Nam tạp chí, Công luận, Phong hóa, Giai phẩm… trong đó có
Gia định báo của Trương Vĩnh Ký ra ngày 15 tháng 4 năm 1865 được coi là báo
quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Những ấn phẩm báo chí vô giá đã tái hiện cả một
khung cảnh văn hóa xã hội của Việt Nam cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ thứ 20 đã
thực sự gây xúc động lớn cho công chúng, đặc biệt những người làm báo và các nhà
nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Những trang bìa hay trang nhất của các báo thời đó
thường được những danh họa trụ cột của mỹ thuật Việt Nam như Nguyễn Tường
Lân, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân và một số họa sĩ thành danh
khác trực tiếp minh họa. Hình ảnh của những cô gái Hà thành, người nông dân, binh
sĩ, trí thức hay những nhân vật hài hước được khắc họa khá chân thực và giàu cảm
xúc cùng với tiêu đề, tít chữ quốc ngữ.
Khi so sánh với báo chí phương tây cùng thời, báo chí Việt Nam ban đầu
được thiết kế dàn trang (TKDT) khá tùy hứng, đôi khi tự nhiên hồn hậu theo cảm
hứng nghệ thuật của các họa sĩ của trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương. Đặc
điểm khác biệt rõ nét là trang bìa báo chí Việt Nam ngày ấy có xu hướng trình bày
minh họa mang tính nghệ thuật nhiều hơn thay vì diễn đạt cấu trúc thông tin và
truyền thông như báo chí châu Âu. Điều này chắc hẳn có những nguyên do xuất
phát từ bối cảnh chính trị xã hội cũng như đặc tính văn hóa của dân tộc ta. Báo chí
Việt Nam ngày nay cùng với báo chí thế giới đã có những bước chuyển mạnh mẽ
bắt kịp thời đại trong đó ấn phẩm tạp chí là một mũi nhọn đi đầu về mặt thẩm mỹ
TKDT. Cho đến nay các quy chuẩn hình thức TKDT tạp chí đã hoàn toàn hòa nhập
với thế giới đạt tới quy chuẩn chung, xứng đáng một loại hình truyền thông giữ vai
trò quan trọng trong xã hội.
2
Trong thời đại bùng nổ của thông tin và truyền thông, các xuất bản phẩm in
ấn như báo, tạp chí đang phát huy sức mạnh to lớn của mình. Tuy nhiên trong sự
phát triển ào ạt quá nóng thì các xuất bản phẩm đó cũng để lại không ít những vấn
đề mà chúng ta phải lưu tâm. Đặc biệt khâu đầu tiên trong quá trình in ấn là TKDT
ấn phẩm giữ vai trò vô cùng quan trọng nhưng lại chưa thực sự đi đúng hướng.
Trong khi các cơ sở đào tạo về thiết kế đồ họa thường chủ yếu dạy về thiết kế logo,
áp phích, bao bì... tuy nhiên lại rất sơ sài về thiết kế ấn phẩm xuất bản. Hệ quả của
nó là lĩnh vực TKDT báo chí chủ yếu dựa trên chủ nghĩa kinh nghiệm, học truyền
khẩu, truyền tay đã trở nên méo mó và không dễ kiểm soát.
Báo chí đang ở trong tình trạng lộ xộn và dễ dãi. So sánh một tờ báo Âu Mỹ
và một tờ báo Việt Nam, ai cũng nhận thấy báo “Tây” sáng sủa, mạch lạc, dễ nhìn
và “đẹp” hơn của ta. Phải chăng do chữ Việt quá nhiều dấu, câu trả lời là không
phải, vấn đề nằm ở chỗ quan niệm thẩm mỹ trong thiết kế và trình bày. Tiêu chí dễ
đọc, đưa thông tin nhanh mạnh dựa trên cơ sở chu trình đọc phải luôn đặt lên hàng
đầu. Báo chí của ta bối rối về cách sử dụng đồ hình, biểu đồ có thể thay thế cho
thông tin chữ dài lê thê. Phông chữ co kéo tùy tiện biến dạng mất đi sự cân đối của
chữ, cỡ chữ lúc to lúc nhỏ không quy định chuẩn. Có một số tạp chí (TC) Việt Nam
trình bày như vẽ tranh hoặc được trang trí lòe loẹt khiến chuyên gia nước ngoài
tưởng nhầm là sách thiếu nhi.
Thiết kế báo chí trực quan có hiệu quả là phải đảm bảo được mục đích
chuyển tải thông tin đến với người đọc, thu hút được sự quan tâm của họ. Tờ báo
thành công trong thiết kế cũng như trong quảng bá thương hiệu là tờ báo có cơ sở
vững chắc về thông tin thị giác định đưa ra cho độc giả là gì, xác định chính xác độc
giả của mình, phân định nguyên tắc trang trí đối ngược với truyền thông. Nghiên
cứu phân cấp thông tin, tạo tầng, lớp thông tin, nắm vững chu trình đọc từ trên
xuống dưới, từ trái qua phải, từ hình ảnh – chú thích ảnh – tiêu đề - mở đầu – nội
dung. Ảnh báo chí được thiết kế sử dụng như tài nguyên thông tin và sự kể truyện
bằng hiệu ứng thị giác đem lại hiệu quả nhanh hơn rất nhiều so với phần nội dung
chữ. Thiết kế đồ hình, đồ họa (infography) là một ngôn ngữ nghệ thuật để nhấn
3
mạnh thông tin và chuyển tải thông tin một cách rõ ràng nhất tới độc giả. Nói cách
khác có thể thay thế rất nhiều chữ bằng những đồ thị, biểu đồ, đồ hình ngắn gọn dễ
hiểu. Trong một bài báo, tiêu đề và phần mở dầu đóng vai trò thành bại, nếu độc giả
không muốn đọc tiêu đề và phần mở đầu thì họ sẽ không đọc bài báo đó. Màu sắc
cũng là một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra hiệu quả truyền đạt thông tin của bài
báo tới độc giả. Trình bày dàn trang là hướng dẫn độc giả xác định được những
thông tin quan trọng trong một trang báo, một bài báo, và một tờ báo.
Thiết kế và dàn trang ấn phẩm báo chí thực sự là điểm nóng vô cùng hấp dẫn
trong bước phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, nhưng cũng đặt ra nhiều
thách thức cần được giải quyết kịp thời thấu đáo. Ở Việt Nam đã có một số tài liệu
hướng dẫn về thiết kế dàn trang của Hội Nhà báo Việt Nam kết hợp với Trường báo
chí Lille của Pháp, Cục Báo chí Bộ Thông tin – Truyền thông và Viện báo chí Fojo
của Thụy điển. Tuy nhiên tài liệu mới dùng chủ yếu ở góc độ kỹ thuật mà chưa đề
cập đến cái đẹp thẩm mỹ của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong TKDT
báo chí.
Việc nghiên cứu sự chuyển biến thẩm mỹ trong TKDT ấn phẩm TC là một
yêu cầu cấp thiết hiện nay ở Việt Nam, khi bàn về lĩnh vực này chủ yếu các vấn đề
đưa ra đều mang tính thực hành kỹ năng. Các tài liệu nghiên cứu lý thuyết không
nhiều và cũng chưa bắt kịp được với sự phát triển đa dạng của nghệ thuật TKDT ấn
phẩm TC đương đại. Thiết kế dàn trang ấn phẩm TC là một công việc mỹ thuật nằm
trong lĩnh vực thông tin truyền thông. Một thể loại thiết kế vận hành với rất nhiều sự
trợ giúp của công nghệ như máy tính, chế bản, in ấn, liên quan trực tiếp đến văn hóa
đọc và chiếm tỷ trọng không nhỏ trong công nghiệp văn hóa, chắc chắn không thể
nằm ngoài xu thế chuyển biến chung của nghệ thuật thị giác.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
Dưới sự tác động của nhận thức mới trong thời đại khoa học công nghệ,
TKDT ấn phẩm TC có sự chuyển biến mạnh mẽ về thẩm mỹ. Cùng với nghệ thuật
đương đại, nghệ thuật TKDT ngày nay bộc lộ quan điểm thẩm mỹ mới, thẩm mỹ
4
truyền thông (TMTT). Tìm hiểu vấn đề này cần xác định các quan điểm của TMTT
nhằm chỉ rõ những yếu tố thẩm mỹ trong TKDT ấn phẩm tạp chí (TC) mà ở đây sẽ
xét cụ thể trường hợp tạp chí Heritage (TCH) của Hãng hàng không quốc gia Việt
Nam. Khi dòng TC thương mại giải trí mới bùng nổ ở Việt Nam, TCH do lợi thế về
nguồn lực đã thực sự tạo được một vị thế tuyệt đối về cả nội dung lẫn hình thức
thống trị thị trường quảng cáo Việt Nam. Nhưng cho đến nay cũng chưa có công
trình nghiên cứu chuyên biệt về TC này, đặc biệt trong lĩnh vực thẩm mỹ TKDT.
Bên cạnh đó lý thuyết TMTT, một lý thuyết ra đời trong bối cảnh nghệ thuật đương
đại cũng chưa được các nhà nghiên cứu Việt Nam khai thác triệt để, nhất là trong
lĩnh vực TKDT ấn phẩm TC Việt Nam. Bằng cách vận dụng các luận điểm của lý
thuyết TMTT, có thể chỉ ra được những thành công và xu hướng của nghệ thuật
TKDT ấn phẩm TCH, một TC có đầy đủ các yếu tố thành công với sự đóng góp của
đông đảo các văn nhân, nghệ sĩ, doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam. Qua đó xác
định được tính lan toả và bài học kinh nghiệm của TMTT trong thiết kế đồ hoạ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Xác định khái niệm và cơ sở lý luận của lý thuyết thẩm mỹ truyền thông, vận
dụng các luận điểm cơ bản của TMTT nhằm chỉ ra những vấn đề thẩm mỹ được vận
dụng trong TKDT tạp chí Heritage.
Nghiên cứu nghệ thuật TKDT tạp chí Heritage có hai phần quan trọng, thiết
kế trang bìa và TKDT nội dung TC. Trang bìa có vai trò quan trọng đặc biệt và có
đặc điểm thiết kế riêng, khác biệt với hệ thống các trang nội dung. Các hạng mục
nghiên cứu đi sâu vào cấu trúc, tiêu chí, dạng thức và phương pháp thiết kế nhằm là
nổi bật giá trị nghệ thuật TKDT mang đến cho TCH.
Trong khuôn khổ luận án này, đề tài nghiên cứu không có ý định trình bày
chi tiết các quy trình xây dựng và thiết kế kỹ thuật ấn phẩm tạp chí mà chủ yếu tìm
ra những yếu tố thể hiện cái đẹp, sự hiệu quả, tính cập nhật và sự phù hợp thời đại
công nghệ theo quan điểm thẩm mỹ truyền thông. Trên cơ sở đó xác lập những
nguyên tắc và định hướng cho ngành thiết kế đồ hoạ, tòa soạn báo, các cơ quan nhà
xuất bản, cơ sở đào tạo, cũng như các cá nhân thiết kế sáng tạo.
5
Nghiên cứu nhằm mở ra hướng tiếp cận và phát triển thẩm mỹ mới cho
nghành TKDT ấn phẩm TC và tạo ra một văn hóa mới trong chuyển biến nhận thức
và phương pháp thể hiện trong ấn phẩm tạp chí. Xây dựng hệ thống giáo trình học
liệu dành cho các cơ sở đào tạo ngành thiết kế trình bày sách báo tạp chí. Hiện nay
các tài liệu giảng dạy còn sơ sài và chắp vá, giảng dạy không gắn liền với thị trường
hoặc lại bị những yếu tố ngoại lai làm lệch lạc và không đúng về tiêu chí. Nghiên
cứu này sẽ giúp định hướng lại các yêu cầu và quy trình của đào tạo chuyên ngành
thiết kế đồ hoạ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu tập trung vào nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC,
một thể loại báo chí đặc biệt chú trọng hình thức trình bày trước yêu cầu của thị
trường. Thông qua đó tìm ra những yếu tố thẩm mỹ mới phù hợp với xu thế thẩm
mỹ truyền thông của nghệ thuật đương đại của Việt Nam cũng như trên thế giới.
Thẩm mỹ truyền thông là một lý thuyết thẩm mỹ mới của nghệ thuật thị giác
đương đại. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, TMTT vừa là lý thuyết nghiên cứu
đồng thời vừa là đối tượng nghiên cứu do tính cập nhật thời đại và hoàn toàn mới ở
Việt Nam.
Tạp chí Việt Nam rất phong phú và đa dạng, trong giai đoạn hiện nay tạp chí
Heritage (TCH) của Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam là một trong những TC
thành công nhất có đầy đủ thế mạnh được đầu tư nghiêm túc xứng đáng là đại diện
tiêu biểu nhất cho các dòng TC ở Việt Nam. Được đóng góp bởi nhiều công ty thiết
kế nổi tiếng nước ngoài cũng như trong nước, thiết kế trình bày TCH thực sự là một
trong những hình mẫu mang tính tiêu chuẩn đối với nghề TKDT cũng như các nhà
thiết kế đồ hoạ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận án đề cập đến nghiên cứu tính thẩm mỹ truyền thông
của nghệ thuật TKDT các số TC Heritage đã xuất bản, các trang bìa, các trang nội
dung cũng như các chuyên mục. Bên cạnh đó những số TC mang tính chuyên đề về
6
những ngày lễ lớn trong năm như số Tết Nguyên đán, Tết dương lịch… Bởi đây là
TC phục vụ chủ yếu cho khách hàng của hãng hàng không Vietnam Airlines, nên
việc dàn trang, trình bày được quan tâm song hành cùng nội dung của từng bài viết
cũng như hình ảnh mang tính quảng bá truyền thông thẩm mỹ.
Thực tế thì TCH cho đến nay đã có thêm nhiều biến thể như Heritage
Fashion, Heritage Japan, Heritage Korea… tuy nhiên trong khuôn khổ luận án này
chỉ tập trung nghiên cứu tạp chí Heritage chính mà thôi.
Về thời gian: Thời điểm ra đời TCH số đầu tiên năm 1993 tới những số báo
tiếp theo cho đến ngày nay trải qua các thời kỳ do các công ty thiết kế khác nhau
đảm nhiệm được xác định là khoảng thời gian nghiên cứu đề cập.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Về phương diện lý luận
Luận án đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn của thiết kế dàn trang TCH theo
quan điểm của thẩm mỹ truyền thông. Thẩm mỹ mới của nghệ thuật hậu hiện đại
trong bối cảnh đương đại, thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với sự tác động
mạnh mẽ của khoa học công nghệ và truyền thông kỹ thuật số. Một quan điểm thẩm
mỹ mới sẽ hoá giải các bất cập tồn tại trong nội hàm phát triển của nghệ thuật
đương đại nói chung và nghệ thuật thiết kế đồ hoạ nói riêng.
Chỉ ra tính logic, cập nhật và những biểu hiện TMTT khi nội dung thông qua
hình thức thiết kế và trình bày TCH luôn hướng đến sự truyền tải thông điệp và văn
hoá thẩm mỹ. Đúng như quy luật vận động của phép biện chứng, nội dung quy định
và dẫn dắt định hướng hình thức và ngược lại hình thức tác động đóng góp trở lại
nội dung đồng thời trở thành một phần của nội dung trong TKDT ấn phẩm TC.
Tính thẩm mỹ của nghệ thuật TKDT báo chí nói chung, TCH nói riêng phải
dựa trên cơ sở mối quan hệ tương tác giữa nội dung thông tấn và hình thức thiết kế.
Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC không nằm ngoài xu thế phát triển chung của nghệ
thuật hậu hiện đại luôn mang tinh thần TMTT.
4.2. Trong công tác đào tạo
Nghiên cứu thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế TCH ở Việt Nam trước hết
7
bổ sung một quan điểm thẩm mỹ mới cho hệ thống lý thuyết trong chương trình đào
tạo của các trường đại học cao đẳng chuyên sâu trong lĩnh vực mỹ thuật. Lý thuyết
mới này nhằm giải quyết các khủng hoảng về nhận thức thẩm mỹ tạo hình trong bối
cảnh đương đại, giúp cho việc nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy có cơ sở học thuật đào
tạo về nghệ thuật hậu hiện đại đang diễn ra. Việc nghiên cứu về thẩm mỹ mới không
chỉ bó hẹp ở ngành thiết kế đồ hoạ mà còn phát triển lan rộng ra cách ngành thuộc
lĩnh vực nghệ thuật thị giác.
Đề tài cũng đóng góp cho đào tạo ngành thiết kế đồ hoạ nói chung và chuyên
ngành thiết kế dàn trang xuất bản phẩm nói riêng cơ sở khoa học trong công tác
giảng dạy môn học TKDT, một môn học chưa thực sự phát triển đúng với yêu cầu
thực sự của thị trường. Thực tế môn học này mới chỉ đưa vào chương trình giảng
dạy thiết kế đồ hoạ khá sơ sài và đặt vấn đề thuần tuý kỹ thuật mà thôi. Nghiên cứu
này sẽ khẳng định rõ hơn mục tiêu đào tạo của chuyên ngành TKDT xuất bản phẩm,
giúp sinh viên xác định được mục đích học tập và nghiên cứu môn học.
4.3. Hướng tiếp cận thẩm mỹ trong thiết kế đồ hoạ
Ngành thiết kế đồ hoạ cho tới nay chủ yếu dựa vào cảm quan thẩm mỹ thị
giác nói chung và các nguyên tắc truyền thông theo yêu cầu của thị trường. Trên cơ
sở nghiên cứu này, thiết kế đồ hoạ có thể có những giải pháp rõ nét hơn nhằm giải
quyết nhiệm vụ thiết kế xuất bản phẩm và sản phẩm ấn loát.
Hình thức của một sản phẩm hoàn thiện không chỉ phụ thuộc vào người thiết
kế mà chịu sự ảnh hưởng của những vấn đề liên quan như nội dung thông điệp, chất
liệu sử dụng, chất lượng và kỹ thuật xử lý trong sản xuất và đặc biệt là quan điểm
thẩm mỹ trong bối cảnh đương đại.
Thiết kế dàn trang TCH không chỉ mang ý nghĩa TMTT mà qua đó thúc đẩy
các nghệ sĩ trở thành nhà xúc tiến thực hành xã hội thông qua môi trường truyền
thông. Bởi vì mỗi trang tạp chí đều được thể hiện bằng những ý tưởng táo bạo tác
động vào kênh thông tin xã hội. Nghệ thuật TKDT của TCH tinh tế, sang trọng đã
trở thành cầu nối giao lưu với văn hóa toàn cầu.
8
4.4. Đối với ngành in ấn và xuất bản
Đề tài nghiên cứu sẽ giải quyết được về căn bản mối quan hệ sản xuất giữa
các bộ phận trong chu trình biên tập, thiết kế và in ấn.
Đặt ra các tiêu chí rõ ràng cho các bộ phận thiết kế và trình bày trong tòa
soạn, nhà xuất bản, cơ sở truyền thông quảng cáo.
Định hướng cho chiến lược phát triển của các ấn phẩm như truyện tranh,
sách ảnh, sách báo giải trí.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập thông tin, sưu tầm và phân tích tài liệu
Thống kê, phân loại, hệ thống hóa các dữ liệu để đánh giá thông tin và đưa ra
nhận xét. Nguồn tài liệu sẽ được tra cứu thu thập tại các thư viện, các công ty thiết
kế, toà soạn TCH và các cá nhân trực tiếp tham gia TKDT cũng như các cán bộ phụ
trách trực tiếp và tham gia xây dựng TCH.
5.2. Phương pháp quy nạp và diễn giải
Thông qua hệ thống các mẫu dàn trang TCH rút ra những luận điểm nghiên
cứu đồng thời giải mã các ý tưởng thủ pháp của người thiết kế. So sánh giữa các số
xuất bản của TCH qua các thời kỳ. Đối chiếu những thành công của thiết kế TC
Heritage với các luận điểm của TMTT để tìm ra quan điểm thẩm mỹ mới.
5.3. Phương pháp điều tra xã hội học, phiếu hỏi, phỏng vấn sâu
Gặp trực tiếp những người có liên quan đến đề tài để tìm hiểu thông tin, thu
thập các số liệu cần thiết. Đây là điểm mạnh của luận án với các phỏng vấn chuyên
sâu với các chuyên gia đầu ngành, và đặc biệt với những đối tượng là độc giả ở các
phạm vi khác nhau. Do tài liệu ở trong nước chưa thực sự đầy đủ một cách có hệ
thống nên việc xác lập điều tra theo hướng phỏng vấn là rất cần thiết. Có rất nhiều
chuyên gia giỏi trong lĩnh vực này, nhưng chủ yếu trưởng thành từ kinh nghiệm và
tự học hỏi hoặc có một số nhãn quan sắc sảo mang tính cá nhân.
5.4. Phương pháp tiếp cận cấu trúc quan niệm và cấu trúc phân giải
Chủ nghĩa cấu trúc coi trọng tổng thể hơn cá thể. Sự vật chỉ có ý nghĩa khi
được xem xét trong một cấu trúc của tổng thể. Platon cũng đã từng nói: "Thực thể là
9
do mối liên hệ làm nên". Cấu trúc của một sự vật là một chỉnh thể thống nhất và
toàn vẹn, bao gồm cả nội dung lẫn hình thức, và nó có một ý nghĩa chính xác của
nó, độc lập với bất cứ yếu tố bên ngoài nào.
Theo quan điểm của cấu trúc phân giải thì cấu trúc của nội dung và hình thức
trong thiết kế trình bày sách báo sẽ có nhiều tầng nhiều lớp ý nghĩa, nó luôn mở
rộng. Với cách nhìn này thì các ấn phẩm xuất bản truyền thông sẽ còn phát triển đa
dạng và phong phú hơn, đạt đến những bước phát triển cao hơn.
6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu của đề tài
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
Kể từ khi ra đời ấn phẩm báo chí đầu tiên trên thế giới “Relation aller
Furnemmen und Gedenckwurdigen Historien” (tạm dịch: Mối liên hệ giữa các sự
kiện lịch sử nổi bật) năm 1605 tại Strassburg, Cộng hòa Pháp, trải qua các cuộc cách
mạng kinh tế xã hội như cách mạng công nghiệp, cách mạng truyền thông, TKDT
ấn phẩm TC cho tới nay vẫn luôn là một nghề thú vị và khá chọn lọc. Người đảm
nhiệm công việc này giữ một vai trò quan trọng thậm chí góp phần quyết định vào
sự thành công của TC cùng với ban biên tập, đặc biệt là những TC giải trí, thời
trang, xã hội, phong cách, và hiển nhiên mang tính thị trường rõ nét. Nghệ thuật
TKDT tạp chí Heritage, một trong những TC hàng đầu tại Việt Nam đã có những
thành công gì về thẩm mỹ?
Nghệ thuật hậu hiện đại ra đời từ những năm 60 của thế kỷ trước gây ra
khủng hoảng về nhận thức thẩm mỹ, năm 1983 thẩm mỹ truyền thông ra đời đã cơ
bản giải quyết được vấn đề này. Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TCH, thuộc lĩnh vực
nghệ thuật thị giác đã có những biểu hiện gì mang tinh thần của TMTT?
Thẩm mỹ truyền thông đã phát triển thế nào trong nghệ thuật đương đại Việt
Nam trong mối liên hệ với nghệ thuật hậu hiện đại thế giới. Xu hướng phát triển của
thiết kế TC đang phát triển theo hình thức nào và nghệ thuật TKDT ấn phẩm TCH
với các biểu hiện của TMTT đã mang đến những bài học kinh nghiệm gì cho các
nhà thiết kế TC ở Việt Nam?
10
6.2 Giả thuyết nghiên cứu
Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TCH luôn mang trong mình bản sắc của văn hoá
Việt Nam, đồng thời cập nhật những phong cách nghệ thuật hậu hiện đại phù hợp
với hơi thở của cuộc sống. Khi nghệ thuật đương đại với sự cộng hưởng của công
nghệ truyền thông kỹ thuật số mang đến quan điểm thẩm mỹ mới, nghệ thuật TKDT
ấn phẩm TC không thể nằm ngoài xu thế chung mà phải chuyển mình để bắt kịp
thẩm mỹ của nghệ thuật đương đại. Từ thiết kế trang bìa cho đến TKDT nội dung
TCH luôn có những quy chuẩn chặt chẽ về mặt dạng thức, kết cấu, tiêu chí rõ ràng
cùng những phương pháp thể hiện phong phú.
Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC bên cạnh sự phát triển nhanh chóng cùng
công nghệ số có sự chuyển biến về nhận thức TMTT, các ý tưởng thiết kế đều mang
đến những luận điểm rõ ràng về quan niệm chứ không dừng ở mức độ làm đẹp.
Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC có sự chuyển biến về phương pháp thể hiện TMTT,
những phương pháp này hoàn toàn dựa trên cơ sở khoa học của công nghệ truyền
thông cùng hướng đi mới của nghệ thuật đương đại.
Thẩm mỹ truyền thông ra đời trong bối cảnh khủng hoảng nhận thức thẩm
mỹ của nghệ thuật hậu hiện đại tại châu Âu và Bắc Mỹ. Các quan điểm của TMTT
đã lan toả khắp thế giới và phát triển tại Việt Nam thông qua các nghệ sĩ thực hành
nghệ thuật đương đại, đặc biệt là nghệ thuật thị giác đã có nhiều đóng góp cho đời
nghệ thuật. Có nhiều xu hướng phát triển nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC, điểm nổi
bật đó là xu thế xuất bản điện tử tích hợp đa phương tiện. Các biểu hiện của TMTT
trong TKDT ấn phẩm TCH để lại nhiều bài học kinh nghiệm thực hành và sáng tạo
cho các nhà thiết kế đồ hoạ nói chung và TKDT ấn phẩm TC nói riêng.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (11 trang), Kết luận (04 trang), Tài liệu tham khảo (09
trang) và Phụ lục (105 trang), nội dung luận án được kết cấu bao gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và Tổng quan tình hình nghiên cứu về thẩm mỹ
truyền thông trong thiết kế tạp chí Heritage (32 trang).
Chương 2: Nghệ thuật thiết kế tạp chí Heritage (36 trang).
11
Chương 3: Thiết kế tạp chí Heritage từ cách tiếp cận lý thuyết thẩm mỹ
truyền thông (33 trang).
Chương 4: Bàn luận về thẩm mỹ truyền thông và thiết kế tạp chí ở Việt Nam
hiện nay (31 trang).
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ
THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG TRONG THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Các tài liệu nghiên cứu về thiết kế đồ họa ấn phẩm
Năm 2003, Jan V. White trong cuốn Editing by Design (Biên tập bằng thiết
kế) [106], cung cấp hệ thống kiến thức cho việc thực hành dàn trang xuất bản phẩm
với những hướng dẫn và minh họa chi tiết. Các kiến thức được trình bày rất cụ thể,
chi tiết và bao gồm tổng thể căn bản như cách người xem lật giở ấn phẩm, tạo hệ
thống lưới, bố cục chữ và hình ảnh, căn lề. Cuốn sách cũng đưa ra một số nhận định
về việc lựa chọn kiểu chữ và tính năng của chúng trong thiết kế dàn trang. Nó rất
hữu ích cho những người thực hành thiết kế với kiến thức cơ bản, rõ ràng. Tuy
nhiên, cuốn sách chỉ cung cấp kiến thức để thực hành trình bày báo, tạp chí là chính
mà không đề cập đến dàn trang sách. Tác giả cũng không đưa ra kiến thức trong
việc thiết kế sách, báo, tạp chí.
Năm 2004, cuốn Thiết kế, tạo mẫu và dàn trang - Design & Layout (tập 1)
của Roger C. Parker’s [48] đem đến cho người đọc những kiến thức cơ bản trong
việc thiết kế và dàn trang. Nội dung cuốn sách được xây dựng một cách trình tự các
bước thực hiện từ việc lên phác thảo trang, lựa chọn kiểu chữ và những vấn đề xử lý
chữ, các vấn đề trong việc dàn trang và xử lý văn bản đến sử dụng các ký tự biểu
tượng và hình ảnh.
- Trong việc lên phác thảo trang: cuốn sách gợi ý cách phác thảo sơ bộ như
liệt kê nội dung, sắp xếp lại chúng theo một trình tự, xác định đối tượng độc giả,
kích cỡ của ấn phẩm. Kế đến, người thiết kế phác họa trên giấy mà không dùng đến
máy tính. Sau đó, dựa trên bản phác thảo đó, người thiết kế thể hiện chúng trên máy
tính.
-
Trong việc lựa chọn kiểu chữ và những vấn đề xử lý chữ: nội dung cung
cấp kiến thức rất chi tiết trong việc chọn kiểu chữ cho các vị trí của nội dung cần
13
thiết kế, dàn trang như tiêu đề, phụ đề, trích dẫn, nội dung và một số định hướng
trong việc tạo và xử lý khoảng trắng của tiêu đề, ngắt dòng, canh lề…
Ngoài ra, kiến thức cũng nêu lên một số hiệu ứng đồ họa như sử dụng màu
để tạo hiệu quả thị giác và xử lý kỹ thuật. Nội dung của sách không đưa ra những
vấn đề nghiên cứu mà những kiến thức trong cuốn sách chỉ dẫn và đưa ra những
kinh nghiệm cụ thể trong việc thực hành dàn trang, thiết kế ấn phẩm.
Năm 2004, cuốn Ý tưởng, bố cục và thể hiện - Design & Layout (tập 2) của
Alan Swann [2] cung cấp cho người đọc kiến thức và nội dung trong việc lên ý
tưởng, bố cục và thể hiện ấn phẩm. Nếu cuốn Design & Layout, tập 1 trình bày
những kiến thức cơ bản nhất và những lời khuyên trong thiết kế, dàn trang thì cuốn
này đem đến cho người thực hành những kỹ năng cụ thể hơn. Với những ví dụ cụ
thể, tác giả chỉ ra một số cách thức bố cục, dàn trang, cách xử lý tình huống khác
nhau. Nó cho người xem thấy một vài phương án để gợi ý cho người thực hành như
lựa chọn tỷ lệ cho hình, sử dụng các hình trong thiết kế, thay đổi kích cỡ và tạo
khoảng cách cho tiêu đề, các gợi ý sắp xếp tiêu đề, tô màu, kết hợp hình minh họa
và văn bản…
Tuy nhiên, cũng như cuốn Thiết kế, tạo mẫu và dàn trang - Design & Layout,
tập 1, cuốn sách này chỉ đưa đến kiến thức cho người thực hành thiết kế, dàn trang
mà không có nghiên cứu về đặc điểm đồ họa của ấn phẩm, những đặc trưng riêng
của từng thể loại hay biểu hiện trong thẩm mỹ thị giác của chúng như thế nào.
Năm 2005, Krintin Culler trong cuốn Layout Workbook (Sách thực hành dàn
trang) [87] đề cập đến các khía cạnh trong thiết kế là những kiến thức giúp cho
người muốn thực hành việc dàn trang có được từng bước thực hiện công việc của
mình. Nội dung kiến thức định hướng cho người thiết kế từ việc nghiên cứu thông
tin, thảo luận ý tưởng, xây dựng ý tưởng chủ đạo và thực hành dàn trang.
Trong tổ chức cấu trúc dàn trang, hệ thống lưới có nhiều kích cỡ khác nhau
và hình dạng từ cơ bản đến phức tạp. Chúng tùy thuộc vào lượng thông tin mà
người thiết kế cần trình bày. Dựa theo hệ thống lưới, nhà thiết kế xây dựng cấu trúc,
14
xác định tỷ lệ của nội dung và các đối tượng. Trong lịch sử, hệ thống lưới đã được
Pythagoras, Michelangelo, Leonardo da Vinci hay Le Corbusier sử dụng để thiết lập
cấu trúc và tỷ lệ, trong đó có tỷ lệ vàng. Thông qua hệ thống này, các nhà thiết kế có
thể tạo nên sự đa dạng trong việc bố cục các yếu tố thị giác. Tuy nhiên, hệ thống
lưới không bắt buộc phải được tuân thủ trong thiết kế. Nhà thiết kế có thể sử dụng
lưới, và căn cứ theo hệ thống đó thể bố cục nhưng cũng có thể phá vỡ quy luật ấy.
Điều đó phụ thuộc vào kinh nghiệm của người thiết kế để tạo nên một ấn phẩm
thuyết phục hay không.
Năm 2005, cuốn Publication Design Workbook (Thực hành thiết kế xuất bản
phẩm) của Timothy Samara [102] đem đến cho người đọc một khối kiến thức tổng
thể cho việc thiết kế xuất bản phẩm bao gồm các ấn phẩm như tạp chí, báo,
catalogs, báo cáo thường niên, bản tin, văn chương. Tác giả cho rằng, không giống
với các ấn phẩm ở dạng đơn như áp phích quảng cáo, thậm chí là những ấn phẩm có
số lượng trang ít, xuất bản phẩm có số lượng trang lớn, nội dung có chứa đựng văn
bản và hình ảnh. Do vậy, nó đòi hỏi người thiết kế phải tổ chức thông tin, lựa chọn
kiểu chữ sử dụng trong thiết kế để người đọc cảm thấy thoải mái khi đọc số lượng
trang lớn nhưng chúng cũng phải đủ sống động để hấp dẫn độc giả. Nhà thiết kế dựa
trên lượng thông tin cần thiết để kiến trúc lại các bộ phận, các thành phần của trang,
sắp đặt hình ảnh cùng với nghệ thuật chữ để đạt được sự thống nhất trong thiết kế và
mục đích truyền thông của ấn phẩm.
Mặc dù thông điệp cốt lõi là vấn đề mà nhà thiết kế tập trung vào đó nhưng
cần thiết phải xây dựng ý tưởng chủ đạo. Bên cạnh đó, ý tưởng chủ đạo phải được
định hình rõ vì mục đích của xuất bản phẩm là cung cấp thông tin và truyền thông
tới độc giả. Độc giả phải đọc với lượng thông tin lớn, do vậy, ý tưởng đó phải rõ
ràng để người đọc có thể dễ dàng tiếp cập và lĩnh hội thông tin. Hình thức mà ý
tưởng chủ đạo đưa ra thường chứa đựng những câu chuyện, hình ảnh, hình minh
họa, các biểu đồ hay các yếu tố thị giác khác. Thêm vào đó, hình ảnh, màu sắc và
các yếu tố thị giác là những yếu tố cần thiết và hỗ trợ hiệu quả cho ấn phẩm. Những
nội dung này là nguyên liệu để nhà thiết kế xây dựng thành ấn phẩm đồ họa. Việc
15
hiểu chủ đề, bối cảnh văn hóa, khán giả mục tiêu và cấu trúc ấn phẩm là điều mà các
nhà thiết kế cần trước khi tiến hành công đoạn thiết kế, dàn trang.
Những kiến thức được trình bày trong cuốn sách này giúp người thiết kế xây
dựng ý tưởng chủ đạo và hoạch địch kế hoạch thiết kế, xác định mối quan hệ giữa
các thành phần và liên kết chúng để đem đến hiệu quả truyền thông thị giác.
Năm 2007, Timothy Samara trong cuốn Design Elements – A Graphic Style
Manual (Thực hành thiết kế xuất bản phẩm), Nxb Rockport Publishers, New York
[103], đưa ra quan điểm tối thượng của ngành thiết kế và trình bày mà không phải ai
cũng nhớ, đó là “Hãy truyền thông, đừng trang trí” (Communicate – don’t decorate).
Và quan điểm mới “Hãy là việc với chữ như với hình ảnh, coi đó là điều hệ trọng”
(Treat the type as image, as though it’s just as important). Hai quan điểm này thể
hiện sự nghiêm túc trong thiết kế truyền thông là sự tối giản và đề cao thông tin nội
dung.
Năm 2008, cuốn Information Design Workbook (Thực hành thiết kế thông
tin), Kim Baer [81] đề cập đến việc thiết kế thông tin được ứng dụng trong các lĩnh
vực khác nhau, từ thiết kế in ấn cho đến thiết kế trực tuyến như thiết kế đồ họa, thiết
kế tương tác, biên tập, kiến trúc thông tin v.v… Thông tin nếu thiếu cấu trúc thì nó
giống như một mớ dữ liệu bòng bong, lộn xộn, không có một trật tự tuyến tính. Dữ
liệu có thể bao gồm nội dung văn bản, hình ảnh, sự chuyển động, âm thanh… dựa
trên các giác quan của con người để biên dịch các dữ liệu đó sang việc hiểu chúng
như thế nào. Khi các yếu tố được đưa vào trong thiết kế, chúng cần có một mục đích
và kế hoạch rõ ràng. Người thiết kế luôn luôn cố gắng để tạo ra sự giao tiếp giữa
mục đích và kế hoạch để đem đến một ý nghĩa cho người đọc cảm nhận.
Có rất nhiều cách để người đọc hấp thụ và hiểu thông tin. Vì thế, người thiết
kế phải đưa ra được giải pháp để thiết kế và trình bày thông tin đó đầy đủ nội dung,
ý nghĩa và làm cho người đọc dễ dàng tiếp thu. Đây chính là điểm giao thoa của
mối quan hệ liên ngành như soạn thảo, biên tập, đồ họa và minh họa hội tụ trong
thiết kế thông tin. Hiệu quả của truyền thông chính là bản chất của thiết kế này.
Năm 2009, cuốn Graphic Design Theory (Lý thuyết thiết kế đồ hoạ) của
16
Helen Armstrong [80] đưa ra thuật ngữ Typophoto và định nghĩa typophoto là sự kết
hợp giữa typography và photography. Typography là một nghệ thuật sử dụng chữ để
truyền thông được tạo thành bằng cách bố cục các ký tự. Photography được hiểu là
nghệ thuật hình ảnh được tạo ra bằng việc sử dụng thấu kính quang học để thu nhận
hình và tạo ra ảnh của nó. Từ đó có thể hiểu rằng Typophoto là một dạng nghệ thuật
chữ không chỉ sử dụng nó như một phương tiện để truyền đạt thông tin với cách
giao tiếp là người xem đọc chúng bằng cách thức đọc ngôn ngữ của văn bản để hiểu
mà Typophoto diễn đạt ý bằng hình và người xem đọc chúng bằng thị giác để hiểu.
Các mặt chữ và thuật sắp chữ truyền thống đã tuân thủ chặt chẽ việc đảm bảo
tính chất của việc đọc nhưng lại bỏ qua việc đáp ứng những giá trị mới của cuộc
sống. Mục đích của thiết kế là để đơn giản hóa, làm rõ, để đề cao, để thuyết phục và
thậm chí là để giải trí. Gần đây, việc sử dụng sự tương phản của các nguyên liệu chữ
như các ký tự, các tín hiệu, sử dụng không gian âm bản và dương bản đã nỗ lực để
làm tương thích với cuộc sống hiện đại. Sự cố gắng ấy đã ít nhiều tạo nên sự linh
hoạt trong nghệ thuật chữ. Sự thay đổi đạt được chuyển biến mạnh mẽ khi có sự
tham gia của nhiếp ảnh, của thuật in bản kẽm, in khắc điện v.v. Sự linh hoạt này đã
đáp ứng được mối quan hệ giữa tính kinh tế và cái đẹp thẩm mỹ. Với sự phát triển
của phototelegraphy (điện-báo ảnh), các dạng đồ họa chữ mới sẽ phát triển và sẽ tạo
ra sự khác biệt với tính chất chữ, tính quang học của ảnh và những khái niệm của
các mẫu chữ đơn thuần ngày nay.
Năm 2011, cuốn The Element of Graphic Design (Các yếu tố trong thiết kế
đồ họa) của Alexander W. White [105] đề cập đến các yếu tố cơ bản như màu sắc,
hình thể, nhịp điệu, sự đồng nhất, các nguyên lý về khoảng trống và bố cục trong
thiết kế nói chung. Trong đó, tác giả cũng đưa ra một số gợi ý cho việc bố cục và sử
dụng chữ trong dàn trang. Tác giả cho rằng, điều quan trọng là làm cho các trang
sách trở nên hút người xem. Sự kích thích thị giác sẽ dẫn mắt người xem tới các
trang, khơi dậy sự hiếu kỳ và tham gia một cách tích cực vào việc tiếp nhận thông
tin. Tính đơn giản trong thị giác là loại bỏ bớt những yếu tố không cần thiết và xây
17
dựng chúng một cách logic và phù hợp. Một thiết kế tốt sẽ giảm thiểu việc độc giả
đọc càng nhiều càng tốt mà thay vào là việc hiểu như thế nào.
Năm 2012, cuốn Grids and Page Layouts (Dàn trang và ô lưới) Amy Graver
& Ben Jura [90] đưa ra những gợi ý về việc xây dựng hệ thống lưới và bố cục trang
như số lượng lưới, vị trí của các đối tượng đặt trên hệ thống lưới; nhịp điệu, sự đối
xứng, hình minh họa, mối tương quan của hình và chữ, không gian, tỷ lệ. Trong
cuốn sách, Massimo Vignelli cho rằng có rất nhiều phương cách để làm cho các bố
cục trở nên thú vị, nhưng mục đích của lưới trong thiết kế là để tạo ra sự nhất quán
cho bố cục. Sự hấp dẫn của bố cục là tổng hòa các yếu tố được sử dụng trong thiết
kế. Bên cạnh đó, Vignelli cũng cho rằng nội dung sẽ quyết định những cái gì mà
một bố cục chứa đựng. Khi thực hiện công việc, điều đầu tiên cần cân nhắc đó là
cấu trúc của vùng nội dung, trong đó cần xác định kích thước, tỷ lệ, vị trí, các mà
độc giả tương tác với ấn phẩm, cách họ đọc trên một trang và từ trang này qua trang
khác. Cái cốt lõi không phải là làm tăng cái vẻ hiển thị trên bề mặt trong sự nhất
quán thị giác mà làm sao để đơn giản những thông tin để đem đến cho độc giả sự dễ
dàng tiếp cận.
Nhận xét:
Các tài liệu thiết kế đồ hoạ ấn phẩm khá phong phú cung cấp đầy đủ các cơ
sở nền tảng cho ngành thiết kế đồ hoạ nói chung. Từ nghệ thuật ứng dụng chữ cho
đến sử dụng hình ảnh, đồ hình đồ hoạ, ô lưới, màu sắc cùng những tiêu chí, thông
điệp, ý tưởng thiết kế. Tuy nhiên các tài liệu chủ yếu đề cập đến vấn đề kỹ thuật và
giải pháp, ít bàn luận đến vấn đề quan điểm thẩm mỹ hay xu hướng thẩm mỹ mang
tính cập nhật đương đại.
1.1.2. Các tài liệu nghiên cứu về thiết kế dàn trang ấn phẩm báo chí
Năm 2001, PGS. TS. Vũ Quang Hào trong cuốn Báo chí và đào tạo báo chí
Thụy Điển, Nxb Hà Nội [20], đã giới thiệu chương trình đào tạo trong dự án hợp tác
giữa Viện đào tạo báo chí Fojo Thụy điển và Cục báo chí, Bộ Thông tin – Truyền
thông. Đây là một dự án đào tạo khá tích cực với 3 lớp đào tạo chính trong lĩnh vực
báo chí, đó là lớp bồi dưỡng viết tin bài báo chí, lớp nhiếp ảnh báo chí, và lớp thiết
18
kế trình bày báo chí. Mỗi lớp đều có giảng viên Thụy điển và cùng với giảng viên
Việt Nam. Cả ba lớp luôn được phối hợp để tạo ra một sản phẩm thống nhất, đó là
trang báo. Lớp viết tin bài thì phụ trách nội dung, lớp thiết kế phụ trách phần hình
thức, lớp nhiếp ảnh phụ trách ảnh, vừa là nội dung vừa là hình thức. Tuy nhiên luôn
có sự xung đột giữa các lớp và đặc biệt không phải là học viên mà chính lại là các
giảng viên. Các lớp đều luôn quá đề cao vai trò của ngành mình nên tiếng nói chung
đôi khi bị phá vỡ. Đây cũng chính là thực trạng ở các cơ sở thiết kế mà đề tài muốn
giải quyết tận gốc bằng tiêu chí đẹp thẩm mỹ trong mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức.
Năm 2007, Đặng Đức Tuệ trong cuốn Ma-két và Trình bày báo, Hội nhà báo
Việt Nam, Hà Nội [61], đặt vấn đề ma-két báo là hệ thống quy chuẩn quy định việc
tổ chức kỹ thuật, dàn trang báo. Ma-két báo bao gồm những trang mẫu, được dự
tính cho những khả năng khác nhau, và quy định chi tiết về việc sử dụng các công
cụ để trình bày từng trang, mục trong tờ báo. Vai trò của ma-két là “phục vụ” nội
dung thông tin của tờ báo chứ không “áp đặt” lên nội dung, dàn dựng và làm tăng
giá trị thông tin, giúp thông tin trở nên rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu hơn đối với độc
giả. Việc thiếu trao đổi giữa “hình thức” và “nội dung” trong quá trình xây dựng
ma-két sẽ dẫn đến việc áp đặt những quy định cứng nhắc vào quy trình xử lý thông
tin, chứ không giúp cho việc chuyển tải hiệu quả các ý đồ của tòa soạn.
Năm 2010, Phạm Thúy Hằng và Mats Wikman trong Những trang báo đẹp –
Cẩm nang dành cho các nhà thiết kế, Bộ Thông tin - Truyền thông [22], đẩy mạnh
những nguyên tắc cơ bản về cách trình bày những tầng lớp thông tin, ảnh minh họa
và tông màu chủ đạo, sử dụng tài nguyên và các thông tin bằng hình ảnh là một
trong những chất lượng mà con người nhìn nhận thấy nhanh nhất. Cuốn sách đã chỉ
ra những nguyên tắc cơ bản nhất và giới thiệu được bộ ma-két quy chuẩn của trình
bày báo.
Năm 2011, Nguyễn Chí Hùng trong luận văn thạc sĩ Ma-két phụ trương báo
in ở thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ lý luận và thực tiễn, Đại học Khoa học Xã
hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội [27], sau khi khảo sát Tuổi trẻ cuối
19
tuần, Phụ nữ chủ nhật, Sài gòn giải phóng thứ bảy, Làm bạn với máy vi tính, Doanh
nhân Sài gòn cuối tuần từ 2008-2011, đã chia các yếu tố nội dung gồm có thông tin
văn tự và ảnh, bảng biểu, đồ hình đồ họa, còn các yếu tố hình thức bao gồm khổ
báo, lề, bát chữ, măng séc, chữ tít, chữ chính văn, khung, nền, vi nhét, minh họa và
một số tín hiệu đồ họa. Sự phân định này rất thực tế nhưng chưa tìm ra được mối
liên hệ tương hỗ chặt chẽ của chúng.
Nhận xét:
Thực tế các tài liệu về TKDT ấn phẩm báo chí không nhiều và cũng chưa
thực sự đầy đủ cho các loại hình thiết kế báo chí rất đa dạng. TKDT là một chuyên
ngành phục vụ báo chí truyền thông có tác động rất lớn đến xã hội, nhưng chính vì
sự phong phú của nó nên các nghiên cứu mang tính phổ quát khó đề cập. Tài liệu
thường đi vào những nội dung cụ thể và mang tính ứng dụng trực tiếp mà ít bàn đến
tính thẩm mỹ.
1.1.3. Các tài liệu nghiên cứu về thẩm mỹ truyền thông
Năm 1971, tác giả Paul N. Campell trong bài báo “Communication
aesthetics” (Thẩm mỹ truyền thông), tạp chí Today’s Speech [83], lần đầu tiên đưa
ra khái niệm mới thẩm mỹ truyền thông trong lĩnh vực mỹ học. Một vấn đề mới
trong các cấu trúc quen thuộc nhưng được kết hợp một cách khác thường. Một
phương pháp luận phân tích nghiên cứu như những cảnh báo chống lại Kant, ủng hộ
chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa hành vi. Mức độ giao tiếp của con người đã trở
nên kịch tính đòi hỏi phải sử dụng ngôn ngữ như một hoạt động thẩm mỹ, ngôn ngữ
giao tiếp mang tính tượng trưng, con người sở hữu ngôn ngữ và ngược lại, hành vi
của con người ảnh hưởng tới ngôn ngữ biểu tượng và môi trường truyền thông. Bài
báo khẳng định đây là vấn đề rất mới bao gồm những luận điểm dưới sự tác động
của công nghệ truyền thông. Khái niệm thẩm mỹ truyền thông lần đầu tiên được đề
cập trong giới học thuật đem đến những phản ứng trái chiều khởi đầu cho những
nghiên cứu thú vị.
Năm 2001, tác giả Yao Heming trong cuốn 传传传传传传 (Dẫn luận về Mỹ học
truyền thông), Bắc Kinh quảng bá học viện xuất bản xã [109], đề cập đến bản