Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

phan phoi chuong trinh tin hoc pho thong moi nhat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.28 KB, 17 trang )

I. Sự phát triển có tính chất bùng nổ của tin học
Quan niệm cũ: Xem tin học như là một bộ phận của toán học.
Quan niệm mới: Cho rằng nếu chỉ xem tin học như là một bộ phận của toán học thì sẽ kìm hãm sự
phát triển của tin học. Ngày nay tin học đã trở thành một ngành khoa học độc lập với nhiều ngành khoa
học liên quan và có đối tượng nghiên cứu riêng như công nghệ phần mềm, tin học lý thuyết, cơ sở dữ
liệu...
Giai đoạn mới trong sự phát triển về chất của tin học bắt đầu vào những năm 70, với sự phát
minh ra kỹ thuật vi xử lý đã tạo cơ sở cho việc chế tạo ra những thế hệ máy tính mới ngày càng gọn nhẹ,
tốc độ xử lý nhanh, độ tin cậy cao, điều khiển đơn giản hơn,... Về phần mềm các ngôn ngữ lập trình cũng
tiến gần đến những ngôn ngữ thông thường. Nhờ vậy máy tính điện tử đã nhanh chóng thâm nhập vào
mọi lĩnh vực sản xuất, kinh tế và đời sống xã hội. Tin học cung cấp cho con người những công cụ khai
thác và xử lý thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Ngày nay tin học đã được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực từ các ngành khoa học chính xác,
khoa học cơ bản đến điều khiển tự động, thông tin liên lạc,... Ðặc biệt tin học được sử dụng nhiều trong
công tác quản lý như quản lý sản xuất, quản lý con người, quản lý tài nguyên,... Tin học được xem là một
trong những ngành mũi nhọn, chiếm vị trí hàng đầu trong chính sách kinh tế và khoa học kỹ thuật của
các nước phát triển.

II. Tác động của công nghệ tin học đến trường học:
Sự nghiệp giáo dục phải đáp ứng những đòi hỏi của khoa học kỹ thuật. Ðó là yêu cầu có tính chất nguyên
tắc. Trong thời đại ngày nay máy tính điện tử ngày càng được sử dụng rộng rãi, một sự hiểu biết nhất định về máy
tính điện tử phải trở thành học vấn phổ thông của mọi thành viên trong xã hội. Nếu như sự phát triển mạnh mẽ và
ứng dụng rộng rãi của tin học là một đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học công nghệ của thế kỷ này, nếu
chúng ta đòi hỏi việc đào tạo của nhà trường phải gắn liền với thực tế xã hội thì không thể thoái thác việc đưa tin
học vào trường phổ thông. Việc làm này sẽ đón đầu với yêu cầu của thực tiễn trong kỹ nguyên thông tin và tự động
hóa.
Có 2 xu hướng chính trong việc đưa tin học vào trường phổ thông:
Ðưa tin học vào chương trình giảng dạy, xem tin học như một môn học tương tự như các môn học khác.
Sử dụng máy tính như một công cụ dạy học.
Ðối với học sinh phổ thông có thể hướng dẫn các em dùng máy tính như một công cụ để học các môn khác
nhau như toán, ngoại ngữ,... Ở bậc học cao hơn như đại học có thể dùng máy tính để mô phỏng các bài thí nghiệm,


đánh giá chất lượng học sinh...

III. Nhu cầu và hoàn cảnh của nhà trường phổ thông
Việt Nam:
1. Nhu cầu xã hội:
Xã hội ngày nay xuất hiện nhiều ngành nghề đòi hỏi phải có hiểu biết về tin học.


Giáo dục tin học ở trường phổ thông nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ Việt Nam về mặt tri
thức cũng như kỹ năng hoạt động, sử dụng trang thiết bị hiện đại. Phát triển về mặt năng lực, trí tuệ để
nhanh chóng thích ứng với thời đại mới.
2. Khả năng thực hiện:
Nhiều trường phổ thông đã được trang bị máy tính để giảng dạy cho học sinh.
Đối với các trường chưa đủ điều kiện trang bị máy tính phục vụ cho nhu cầu học tập của
học sinh chúng ta vẫn có thể dạy nhiều yếu tố liên quan đến văn hóa tin học như thuật toán, phát triển
tư duy thuật toán, kích thích tính sáng tạo của học sinh
3. Quan điểm "Phân hóa" trong việc đưa tin học vào nội dung dạy học:
Xã hội hiện nay và trong tương lai cần rất nhiều các tri thức tin học và những người nắm
vững các tri thức ấy. Tuy nhiên, không phải mọi người khi ra đời đều trở thành các cán bộ hoạt động tin
học. Mặt khác, chúng ta cũng không thể để họ "bị mù" về tin học. Vì vậy, việc đưa tin học vào nội dung
dạy học ở trường phổ thông tùy theo điều kiện trang thiết bị và cả con người chúng ta có thể phân làm 2
diện:
Diện phổ cập: Cung cấp cho học sinh phổ thông một nền kiến thức cơ bản về tin học, chẳng
hạn như khái niệm thuật giải, tư duy thuật giải, cấu trúc và nguyên tắc làm việc của máy tính,...
Diện mũi nhọn: Tập trung các học sinh có năng khiếu về tin học, dạy cho các em nhiều kiến
thức về tin học. Tạo điều kiện để các em có thể trở thành các cán bộ hoạt động chuyên sâu về tin học
hay trở thành các chuyên gia tin học sau này.
4. Nội dung, mục đích, con đường đưa giáo dục tin học vào nhà trường Việt Nam
Nội dung: Giáo dục tin học được xét ở 3 phương diện:
Truyền thụ các kiến thức tin học như nội dung của một môn học bình đẳng như các môn học

khác trong chương trình giảng dạy.
Giáo dục tin học thông qua nội dung của các môn học khác
Sử dụng máy tính điện tử như một công cụ để dạy học.
Mục đích:
Giáo dục tin học ở trường phổ thông là nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ Việt Nam về mặt
tri thức, kỷ năng, về mặt năng lực, trí tuệ và các phẩm chất cần thiết giúp học sinh thích ứng với thời đại
vi tính hóa.
Về mặt tri thức kỷ năng: Giúp cho học sinh sau khi tốt nghiệp nắm được một số yếu tố
cơ bản của tin học. Trong đó có một số em (diện đào tạo mũi nhọn) có khả năng sử dụng máy tính để xử
lý thông tin, dùng máy tính như một công cụ phục vụ cho việc học tập và hoạt động.
Về mặt năng lực, trí tuệ: Giúp phát triển nhiều phương thức, tư duy liên hệ mật thiết với
việc sử dụng kỹ thuật xử lý thông tin như: tư duy thuật toán, tư duy điều khiển, tư duy ngôn ngữ,... Ðồng


thời hình thành và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ nói chung như phân tích, tổng hợp, khái quát
hóa, trừu tượng hóa,...
Con đường đưa giáo dục tin học vào nhà trường: Giáo dục tin học có thể đưa vào nhà trường
theo 2 con đường:
Truyền thụ một số yếu tố tin học như một môn học hay nói cách khác là đưa tin
học vào nhà trường bình đẳng như các môn học truyền thống khác.
Giáo dục tin học thông qua nội dung của các môn học khác nhau, sử dụng các hình thức
nội khóa, ngoại khóa,...

. Các đặc thù quan trọng của môn Tin học dạy 
trong nhà trường phổ thông 
Môn Tin học cho học sinh phổ thông có những đặc thù rất quan trọng sau đây: 
A. Thực hành trên máy tính là bắt buộc và là một cấu thành của bài giảng lý thuyết. 
Đối với môn tin học rất khó dạy khi giáo viên hoàn toàn không được dùng máy tính để minh họa hay thực
hành các thao tác mẫu của bài học. Nếu thày và trò trên lớp được học tập hoàn toàn với phấn và bảng 
(học chay), việc tiếp thu kiến thức bài học có thể suy giảm đến 90%. Mặc dù theo thiết kế của chương 

trình và cố gắng của các tập thể tác giả sách giáo khoa việc trình bày các kiến thức của bài học đã cố 
gắng độc lập tối đa với các thao tác cụ thể trên máy tính, việc truyền đạt của giáo viên vẫn phụ thuộc rất 
nhiều vào việc minh họa hay trình diễn trên máy tính. 
B. Nhiều kiến thức và bài học được diễn đạt thông qua các bước thực hành và thao tác cụ thể trên máy 
tính. 
Rất nhiều bài học (ví dụ các bài học Tin học văn phòng) được diễn đạt hoàn toàn thông qua các thao tác 
cụ thể với phần mềm. Cần chú ý đặc điểm này để giáo viên chủ động trong việc diễn đạt bài học trong 
trường hợp không có máy tính trình diễn trên lớp. 
C. Kiến thức môn học gắn liền với công nghệ và thay đổi rất nhanh trên thế giới. 
Đặc thù này làm cho Tin học khác hẳn so với tất cả các môn học có liên quan đến công nghệ hay học 
nghề khác. Công nghệ Tin học, cụ thể là máy tính đã và đang thay đổi từng ngày và len lỏi trong mọi ngõ 
ngách của cuộc sống hàng ngày, trong mọi ngành, nghề khác nhau. Đặc thù này là cho Tin học trở thành
môn học khó giảng dạy nhất và đòi hỏi giáo viên phải không ngừng nâng cao trình độ cá nhân của mình 
mới đủ kiến thức cập nhật. 
D. Khái niệm "tay nghề" Tin học có thể được hiểu và đánh giá theo nhiều cách và quan điểm đa dạng 
khác nhau. 
Thông thường chúng ta hiểu "nghề" và đánh giá "tay nghề" theo các kỹ năng và thao tác cụ thể thuần túy
"cơ học". Đối với các môn khác, bản thân môn học là khép kín với các tiêu chuẩn tương đối rõ ràng để 
đánh giá "tay nghề". Còn đối với Tin học khái niệm "nghề" lại có thể được hiểu theo nhiều cách khác 
nhau bởi Tin học có liên quan trực tiếp đến rất nhiều ngành nghề, khoa học khác nhau. Chương trình Tin 
học này chỉ giới hạn trong phạm vi bản thân các kiến thức và kỹ năng cơ bản và nội tại của công nghệ 
thông tin mà thôi. Ví dụ việc đánh giá "tay nghề" của trình bày văn bản trên máy tính thực chất sẽ phụ 
thuộc rất nhiều vào lĩnh vực cụ thể của công việc này. Ví dụ việc trình bày sách và báo, tạp chí là hai lĩnh
vực nghề khác nhau với những tiêu chí đánh giá khác nhau. 


E. Môi trường thực hành rất đa dạng và không thống nhất. 
Đây cũng là một đặc thù rất nổi bật của bộ môn Tin học. Chỉ nói riêng họ hệ điều hành kiểu Windows 
cũng đã có đơn gần 20 phiên bản khác nhau hiện đang được dùng tại Việt Nam, ví dụ: Windows 95, 98, 
98SE, ME, 2000 Professional, 2000 Server, XP Professional, XP Home, 2003 Server và sắp tới lại có thể 

là Longhorn, Vista. Hệ thống cấu hình đĩa đi kèm các tại các máy tính cũng rất đa dạng. Các máy tính có 
thể có một, hai hay nhiều hơn các ổ đĩa cứng trong máy tính. Hệ thống file chính của hệ điều hành không
nhất thiết được cài đặt trong đĩa cứng C. Trên các máy tính thậm chí có thể cài đặt song song nhiều hệ 
điều hành khác nhau. Giáo viên cần có chủ động cao nhất khi giảng dạy lý thuyết cũng như hướng dẫn 
thực hành cho học sinh. Thông tin trong các tài liệu giáo khoa chỉ mang tính pháp lý về kiến thức môn 
học chứ không áp đặt qui trình thao tác trên máy tính. Với mỗi bài học cụ thể, tùy vào các điều kiện thực 
tế mà giáo viên có thể hoàn toàn chủ động trong việc trình bày khái niệm, minh họa thao tác trên máy 
tính sao cho dễ hiểu nhất đối với học sinh. 
F. Là một môn học mới chưa có nhiều kinh nghiệm và về lý luận cũng như thực tế cho việc giảng dạy 
trong nhà trường phổ thông. 
Tin học là một ngành công nghệ khá mới mẻ đối với Việt Nam và phát triển rất nhanh trên thế giới. Tại 
Việt Nam, chưa bao giờ Tin học được đưa vào nhà trường thành môn học chính thức và phổ cập đại trà 
(thời điểm 2005). Chính vì các lý do trên mà Tin học, Máy tính mặc dù đối với xã hội đã phổ cập nhưng 
đối với nhà trường lại rất mới mẻ. 
Từ các đặc thù quan trọng đã nêu trên có thể rút ra một vài kết luận về môn Tin học khi đưa vào giảng 
dạy trong nhà trường. 
(1) Tin học phải là một môn học “đặc biệt” theo nghĩa nó phải được giảng dạy một cách “linh hoạt”, không
nên và không được phép áp đặt các tiêu chuẩn đánh giá chặt về phương pháp, tiến độ giảng dạy như 
các môn học khác trong nhà trường. 
(2) Cần ưu tiên tối đa trang thiết bị cho giáo viên khi giảng dạy môn học này. Việc học chay môn Tin học 
có thể dẫn đến thảm họa không lường trước. 
(3) Giáo viên dạy môn Tin học cần cập nhật kiến thức thường xuyên và cần được kiểm tra kiến thức 
thường xuyên. Nhà trường cần tạo điều kiện cho các giáo viên này có điều kiện học tập, nâng cao kiến 
thức và kinh nghiệm. Ngược lại giáo viên không thể ngồi yên và bằng lòng với kiến thức chỉ ghi trong 
sách giáo khoa. 
(4) Phuơng pháp giảng dạy, học và đánh giá học sinh cũng cần phải đổi mới và tuân theo các qui chế 
đặc biệt linh động. Về vấn đề này tôi sẽ còn nhắc lại trong phần sau của bài viết này. 




2. Sơ lược đánh giá hiện trạng dạy học Tin học ở THPT
Môn học Tin học đã được Bộ Giáo dục & Đào tạo chính thức đưa vào chương trình phân ban cho khối
THPT, bắt đầu từ năm học tới (2006-2007) việc triển khai môn học này sẽ trở thành bắt buộc trên phạm
vi toàn quốc. Đồng thời Bộ cũng đã thiết lập khung chương trình môn Tin học là môn học tự chọn cho
các cấp Tiểu học, Tin học là môn học tự chọn (bắt buộc) ở Trung học cơ sở.
Có thể coi Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông (2015) là một bản “tổng phổ”, kết quả của sự điều
chỉnh, hoàn thiện, tổ chức lại các chương trình đã được ban hành trước đây, làm căn cứ cho việc quản lí,
chỉ đạo và tổ chức dạy học ở tất cả các cấp học, trường học trên phạm vi cả nước. Môn Tin học ở trường
phổ thông nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về công nghệ thông tin và vai trò của nó
trong xã hội hiện đại, phương pháp giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ và kĩ năng sử dụng máy
tính phục vụ học tập và cuộc sống.
Về quan điểm xây dựng chương trình là cần phải trang bị cho học sinh những kiến thức và kĩ năng cơ bản
để chương trình môn học không bị nhanh lạc hậu. Tránh cả hai khuynh hướng khi xác định nội dung: hoặc
chỉ thiên về lí thuyết mang tính hệ thống chặt chẽ hoặc chỉ thuần tuý chú ý tới việc hình thành và phát
triển kĩ năng sử dụng. Xuất phát từ điều kiện thực tế của từng địa phương và đặc trưng của môn học mà
tiến hành tổ chức dạy học một cách linh hoạt với những hình thức đa dạng để đảm bảo được yêu cầu
chung của môn học và nâng cao nếu có điều kiện. Chương trình phải có tính “mở : có phần bắt buộc và
phần tự chọn nhằm linh hoạt khi triển khai và dễ dàng cập nhật với thực tế phát triển của ngành Tin học.

Bảng 1. Bảng mạch nội dung môn Tin học ở các cấp học [2, tr.7]


Tiểu học

Nội dung
3
Một số khái niệm cơ bản
của tin học
Hệ điều hành
Soạn thảo văn bản

Bảng tính
Đồ hoạ
Phần mềm trình chiếu
Đa phương tiện
Thuật toán
Lập trình
Cơ sở dữ liệu. Hệ quản trị
cơ sở dữ liệu
Mạng máy tính và Internet
Tin học và xã hội

4

Trung học cơ sở
5

6

7

8

9

Trung học phổ
thông
10
11
12


TC

TC

BB

TC

TC
TC

BB
BB

TC

TC

TC
TC

TC

TC

BB
TC
TC
TC
TC


BB

TC

BB
BB
BB
BB

TC
TC

BB
BB

Ghi chú: TC: nội dung tự chọn, BB: nội dung bắt buộc
Tuy nhiên, có thể chỉ ra được nhược điểm của chương trình hiện hành là mới chú trọng việc truyền đạt
kiến thức, kĩ năng theo từng cấp học, chưa có tính có tính phát triển theo các cấp học. Việc đặt nội dung
tự chọn theo từng cấp khiến các nội dung bị trùng lặp đối với học sinh đã chọn các nội dung đó ở cấp
dưới, vì vậy chưa đáp ứng tốt yêu cầu về hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh.
Ở cấp THPT, các nội dung đều là bắt buộc và có thể coi là hướng đến năng lực chung như các nội dung
dạy học về như hệ điều hành (Windows), soạn thảo văn bản (Word), bảng tính (Excel). Tuy nhiên năng
lực lập trình thì chỉ các học sinh muốn dự thi học sinh giỏi môn Tin học hoặc học sinh có hướng học tiếp
ở đại học khối kỹ thuật mới cần học về lập trình (thường là ngôn ngữ lập trình Pascal trong khi thi học
sinh giỏi Tin học Quốc gia và Quốc tế lại chủ yếu dùng ngôn ngữ lập trình C/C++).
Như vậy, cần phải có sự cân nhắc, điều chỉnh để phù hợp với việc phân nhánh theo định hướng nghề
nghiệp: học sinh theo hướng ngành Khoa học xã hội (KHXH) không cần thiết phải học về lập trình và cơ
sở dữ liệu (CSDL), hệ quản trị CSDL; trong khi các học sinh có hướng về ngành Khoa học tự nhiên (KHTN)
lại học quá nhiều về Windows, Word, Excel trong khi kiến thức mà các em sẽ sử dụng trong tương lai

nhiều lại là C/C++. Vì vậy, chương trình hiện hành chưa coi trọng hướng nghiệp, quan điểm tích hợp và
phân hoá chưa được quán triệt đầy đủ.
Từ khi có chương trình môn Tin học, đã có khá nhiều tỉnh, thành phố đã và đang triển khai các chương
trình này. Tuy nhiên trên thực tế các nhà trường và giáo viên vẫn đang rất lúng túng trong việc triển khai
giảng dạy môn học này. Các khó khăn phát sinh từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau: không có hoặc
không đủ phòng thực hành, giáo viên giảng chay không có máy tính trình diễn, bất cập trong chương
trình sách giáo khoa với thực tế, cấu hình máy tính quá thấp, chưa có kinh nghiệm trong việc giảng dạy
môn học này... Đồng thời, môn Tin học được coi là môn "phụ", khi chủ trương đưa Tin học trở thành
môn chính, hầu hết các trường THPT đều thiếu GV! Các trường "chữa cháy" bằng cách chuyển GV các
môn khác như Toán, Lý, Hóa,... sang dạy "kiêm nhiệm" Tin học hoặc tuyển các cử nhân Tin học của các


trường ngoài Sư phạm tham gia giảng dạy. Điều này dẫn đến tình trạng chung là chuyên môn và nghiệp
vụ Sư phạm không đi liền nhau. Làm thế nào để giải quyết thực trạng này là một câu hỏi khó! Bên cạnh
đó, việc tất cả các ban học chung một giáo trình Tin học là điều bất cập cần giải quyết hiện nay.
Tin học là môn học mới mẻ đối với Việt Nam và mới được đưa vào nhà trường thành môn học chính
thức và phổ cập đại trà (thời điểm 2005). Máy tính mặc dù đối với xã hội phát triển nhanh chóng nên Tin
học phải một môn học “đặc biệt” theo nghĩa nó phải được giảng dạy một cách “linh hoạt”, Giáo viên dạy
môn Tin học cần cập nhật kiến thức thường xuyên, không thể ngồi yên và bằng lòng với kiến thức chỉ ghi
trong sách giáo khoa. Ngoài ra, CNTT giúp cho giáo viên không những nâng cao chất lượng dạy và học
trong nhà trường phổ thông mà còn là công cụ, phương tiện và thiết bị để làm một cuộc “Cách
mạng” trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Do vậy môn Tin học đã được Bộ GD&ĐT đưa vào
chương trình học phổ thông trong những năm gần đây và ngày càng có vai trò nhất định trong công cuộc
“Đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục”.

Năng lực CNTT

Lớp 10

Lớp 11


Lớp 12

Năng lực sử
dụng, quản lý
các công cụ của
ICT, khai thác
các ứng dụng
thông dụng của
ICT

Sử dụng đúng
nguyên tắc của các
thiết bị và phần
mềm ICT thông
dụng.

Sử dụng đúng nguyên
tắc của các thiết bị và
phần mềm ICT hỗ trợ
học tập.

Sử dụng đúng nguyên
tắc của các thiết bị và
phần mềm ICT
chuyên dụng.

Tổ chức lưu trữ, quản
lý dữ liệu đảm bảo an
ninh và bảo mật


Tổ chức và lưu trữ dữ
liệu dưới các dạng
thức khác nhau một
cách an toàn và bảo
mật.

Năng lực nhận
biết và ứng xử
trong sử dụng
ICT phù hợp với
chuẩn mực đạo
đức, luật pháp,
văn hóa Việt
Nam và Quốc
tế

Nhận biết được các
hành vi vi phạm
chuẩn mực đạo đức,
văn hóa và luật
pháp Việt Nam và
luật bản quyền quốc
tế.

Khai thác và sử dụng
ICT đảm bảo quyền sở
hữu trí tuệ và tránh
các tác động tiêu cực
tới bản thân và cộng

đồng.

Tôn trọng và bảo vệ
quyền an toàn thông
tin của người khác

Tổ chức và lưu trữ
dữ liệu đảm bảo an
toàn và dễ tìm
kiếm.

Biết bảo vệ thông
tin cá nhân và
quyền sở hữu trí
tuệ.
Biết bảo vệ sức
khoẻ bản thân khi
sử dụng thiết bị

Sử dụng được các
chiến lược để bảo vệ
thông tin của cá nhân
và cộng đồng;
Sử dụng các ứng
dụng ICT một cách tự
tin, có trách nhiệm và
sáng tạo.


ICT.

Năng lực phát
hiện và giải
quyết vấn đề
một cách sáng
tạo với sự hỗ
trợ của các
công cụ ICT kết
hợp tư duy về
tự động hóa và
điều khiển;

Lựa chọn, xác định
được độ tin cậy,
thông tin; sử dụng
được kỹ thuật tìm
kiếm thông tin.
Sử dụng được công
cụ ICT để xử lý
thông tin, hình
thành ý tưởng mới,
lập kế hoạch trong
học tập.

Lựa chọn, xác định
được độ tin cậy,
thông tin; sử dụng
được kỹ thuật nâng
cao tìm kiếm thông
tin.


Lựa chọn, xác định
được độ tin cậy,
thông tin; sử dụng
được kỹ thuật nâng
cao tìm kiếm thông
tin.

Sử dụng được công
cụ ICT chuyên dụng
để giải quyết vấn đề
trong học tập.

Sử dụng được công
cụ ICT để giải quyết
vấn đề trong học tập.

Biết cách tổ chức dữ
liệu cơ bản và sử
dụng phần mềm phù
hợp để tạo được sản
phẩm giải quyết vấn
đề.

Biết cách tổ chức dữ
liệu phức tạp và sử
dụng phần mềm
chuyên dụng để tạo
được sản phẩm giải
quyết vấn đề.


Sử dụng được một
Năng lực khai
số loại phần mềm
thác các ứng
dụng, các dịch hỗ trợ học tập; sử
dụng thành thạo
vụ của công
môi trường mạng
nghệ kỹ thuật
máy tính trong tìm
số của môi
hiểu tri thức mới;
trường ICT để
học tập có hiệu biết lựa chọn, khai
thác các dịch vụ
quả ở các lĩnh
vực khác nhau; đào tạo và kiểm tra
đánh giá hiện đại
trong môi trường
số hoá.

Sử dụng được một số
phần mềm học tập
chuyên dụng cho các
môn học

Sử dụng được một số
loại phần mềm trong
lĩnh vực nghề nghiệp
và lao động sản xuất;


sử dụng được môi
trường mạng máy
tính để tìm kiếm, thu
thập, cập nhật và lưu
trữ thông tin phù hợp
với mục tiêu học tập
và khai thác được các
điều kiện hỗ trợ tự
học.

sử dụng thành thạo
môi trường mạng
máy tính trong tìm
hiểu tri thức mới; biết
lựa chọn, khai thác
các dịch vụ đào tạo và
kiểm tra đánh giá
hiện đại trong môi
trường số hoá.

Năng lực sử
dụng các công
cụ và môi
trường ICT để
chia sẻ thông

Biết lựa chọn và sử
dụng các công cụ ICT
thông dụng để chia

sẻ, trao đổi thông tin
và hợp tác một cách

Lựa chọn và sử dụng
các công cụ ICT một
cách hệ thống, hiệu
quả trong một số lĩnh
vực lao động, sản

Lựa chọn và sử
dụng các công cụ
ICT để chia sẻ, trao
đổi thông tin, mở
mang tri thức và tạo


tin, hợp tác với
mọi người.

sản phẩm hữu ích;

an toàn;

xuất.

Nhận biết các rủi ro
có thể có trong giao
tiếp và hợp tác liên
quan đến sử dụng
môi trường ICT


Hợp tác trong ứng
Trao đổi thông tin,
dụng ICT để tạo ra
mở mang tri thức và
các sản phẩm phục vụ tạo sản phẩm hữu ích.
học tập và đời sống.

Đề xuất phương án chương trình môn tin học cấp THPT
Căn cứ vào chuẩn đầu ra năng lực CNTT của học sinh theo các khối lớp, chúng
tôi đề xuất nội dung chương trình môn tin học bậc THPT như sau (Xem bảng 3).

Bảng 3. Đề xuất phương án chương trình môn tin học cấp THPT
Nội dung
Phổ biến CNTT (ICT Literacy)
Al. Khái niệm cơ bản
A2. Sử dụng máy tính, hệ ĐH và quản lí File
A3. Soạn thảo văn bản
A4. Làm việc với bảng tính
A5. Làm việc với cơ sở dữ liệu
A6. Soạn tài liệu và bài thuyết trình
A7. Thông tin và Truyền thông
A8. Nghề nghiệp và CNTT
Ứng dụng CNTT trong môn học (Application

Lớp 10
BB
BB
BB
BB

TC
BB
BB
TC

of ICT in Subject Areas)
B1. Ứng dụng CNTT trong học ngoại ngữ
B2. Ứng dụng CNTT trong học KHTN (*)
B3.Ứng dụng CNTT trong học Toán
B4. Ứng dụng CNTT trong học KHXH (+)
B5. Ứng dụng CNTT trong nghệ thuật
Tích hợp CNTT trong chương trình (Infusing
ICT across the Curriculum)
C1. Khai thác thông tin trên Internet
C2. Mạng xã hội và các vấn đề đạo đức
C3. Đa phương tiện
C4. Mạng máy tính

Lớp 11

BB
TC
BB
TC
TC

TC
TC
TC
TC


Lớp 12


Chuyên sâu, nâng cao về CNTT (ICT
Specialization)
TC
D1. Lập trình cơ bản (C/C++/ Pascal) (*)
TC
D2. Cấu trúc dữ liệu và giải thuật (*)
TC
D3. Lập trình nâng cao(C/C++/ Pascal) (*)
TC
D4. Thiết kế bảng tính (+)
TC
D5. Thiết kế CSDL (+)
Ghi chú: Các môn (*) dành cho học sinh có hướng chuyên sâu CNTT và KHTN, (+) dành cho
học sinh có hướng KHXH.

1.1.3 Vị trí môn Tin học
Môn Tin học là môn học công cụ. Do tính trừu tượng cao độ, Tin học có tính thực tiễn phổdụng. Những
tri thức và kĩ năng Tin học cùng với những phương pháp làm việc trong Tin học đãtrở thành công cụ để
học tập những môn học khác trong nhà trường, là công cụ của nhiều ngànhkhoa học khác, là công cụ để
hoạt động trong đời sống thực tế và vì vậy là một thành phần khôngthể thiếu của trình độ văn hoá phổ
thông của con người mới. Về mặt tri thức và kĩ năng, môn Tinhọc trong nhà trường cần làm cho tất cả
mọi học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học đều nắm đượcnhững yếu tố cơ bản của Tin học, có khả
năng ứng dụng công nghệ thông tin như công cụ học tậpvà hoạt động, có thể nhanh chóng bước vào
những ngành nghề đòi hỏi sử dụng công nghệ này. Cụthể là học sinh có những hiểu biết về Tin học và
máy tính điện tử, có khái niệm về thuật giải và làmquen với tư duy thuật giải. Học sinh biết lập trình để
giải những bài toán đơn giản, trước hết lànhững bài toán trong sách giáo khoa Toán, Lí, Hoá,... từ đó

chuẩn bị những tri thức kỉ năng vàphong cách làm việc cần thiết để sau này có thể đi sâu hơn về lĩnh vực
lập trình. Học sinh biết làmviệc với một số hệ điều hành, một số phần mềm như soạn thảo văn bản, bảng
tính điện tử, hệ quảntrị cơ sở dữ liệu.Ngoài việc tạo điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh những tri thức và
kỉ năng Tin học cần thiết,môn Tin học còn có tác dụng góp phần phát triển năng lực trí tuệ chung như
phân tích, tổng hợp,trừu tượng hoá, khái quát hoá,... rèn luyện những đức tính, phẩm chất của người
lao động mới nhưtính cẩn thận, chính xác, tính kỉ luật, tính phê phán, tính sáng tạo. Học sinh thấy rõ hiệu
lực mạnhmẽ của công nghệ thông tin và nhận thức được cần có những phẩm chất nào của người lao
độngtrong thời đại mới.Với những lí do trên, trong trường phổ thông môn Tin học giữ một vị trí hết sức
quan trọng.Việc xác định mục tiêu và nhiệm vụ của môn Tin học không thể không tính tới vị trí của môn
họcnày trong nhà trường phổ thông.Để thực hiện được mục tiêu giáo dục chung, căn cứ vào đặc điểm và
vị trí môn Tin học, bộmôn Tin học ở trường phổ thông cần đạt được những mục tiêu cụ thể (hay những
nhiệm vụ cụ thể)sau đây:+ Vũ trang cho học sinh những tri thức, kỉ năng cơ bản, cơ sở của Tin học, từ đại
cương vềTin học đến phương pháp lập trình giải các bài toán trên một ngôn ngữ lập trình nào đó. Từ đó
làmcho họ có khả năng, có kỉ năng khai thác những thành tựu mới của khoa học Tin học và vận dụngTin
học vào thực tiễn. Tiến thêm một bước nữa, bộ môn Tin học phải cung cấp cho học sinh những hiểu
biết cơ bản về những ứng dụng của Tin học vào trong các quá trình công nghệ, trong thông
tinliên lạc, trong các quá trình sản xuất, trong quản lí kinh tế, xã hội,... Đó chính là nhiệm vụ
giáodưỡng của bộ môn Tin học.+ Trên cơ sở cung cấp những tri thức cơ bản, có hệ thống,
bộ môn Tin học còn phải rèn luyệncho học sinh những năng lực trí tuệ chung như kỉ năng


tư duy trừu tượng, kỉ năng thực hành cầnthiết. Về tư duy, cần hình thành và phát triển các
thao tác chủ yếu: tư duy logic, phân tích, so sánh,tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá.
Về thực hành cần chú trọng đến kỉ năng sử dụng máy tính,kỉ năng vận dụng Tin học vào
thực tiễn. Cũng cần chú ý luyện tập cho học sinh thói quen gắn liềncác thao tác tư duy với
các kỉ năng thực hành như là một thể thống nhất trong hoạt động nhận thức.Nếu làm tốt
nhiệm vụ này học sinh có thể tiếp tục tự lực học tập một cách thường xuyên, học tậpsuốt
đời một cách có hiệu quả.+ Tin học là khoa học nghiên cứu về thông tin và những quá trình
xử lí thông tin một cách tựđộng, các quy luật biến đổi thông tin tuân theo những quy luật tự
nhiên. Vì vậy thông qua việc dạyTin học mà hình thành cho học sinh những quan niệm,

những phương thức tư duy và hoạt độngđúng đắn, phù hợp với những quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời phải làm chohọc sinh biết sử dụng các tri thức Tin học
để làm bằng chứng kiểm nghiệm những quan điểm đó. Từđó có được nhân sinh quan khoa
học trong lối sống, trong sự xây dựng nhân cách của người laođộng, đạo đức phẩm chất
của người chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con người khỏi sựmù quáng, lạc
hậu. Đây chính là nhiệm vụ giáo dục của bộ môn Tin học.+ Cuối cùng bộ môn Tin học phải
đảm bảo chất lượng phổ cập, đồng thời phải có nhiệm vụphát hiện và bồi dưỡng học sinh
giỏi Tin học, cung cấp cho đất nước những nhân tài trong lĩnh vựccông nghệ thông tin.


Mục tiêu học phần thêm vào chỗ phẩm chất LN
+ Nắm quan điểm xây dựng CT;
+ Biết cách làm việc với chương trình mới của môn học ở cấp THPT và cách tiếp c ân CT, Sgk của từng
khối lớp cụ thể;
+ Nhận biết những điểm mới, điểm khó trong SGK;
+ Chú ý quan niệm về nội dung dạy học bao gồm nội dung tri thức, kĩ năng, kĩ xảo chuyên môn, về
phương pháp làm việc chung cũng như phương pháp làm việc với từng nội dung cụ thể;
+ Có kĩ năng tiếp xúc xã hội, cộng tác làm việc, …nhằm hình thành năng lực cá thể và giáo dục phẩm chất;
+ Sử dụng hiệu quả các thiết bị DH, các PP kiểm tra đánh giá;
+ Áp dụng PPDH mới phát huy tính tích cực học tập của học sinh;
+ Biết cách phân tích cấu trúc logic nội dung của chương trình tin học THPT từ nó nêu lên những chú ý,
nhận xét về phương pháp, phương tiện dạy học sử dụng vào những tình huống dạy học cụ thể.

Ưu nhược điểm môn Tin học
Tin học được coi là môn học có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển
trí tuệ, tư duy thuật toán cho HS, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục toàn diện. Tuy nhiên, việc giảng dạy tin học ở trường phổ
thông Việt Nam vẫn còn không ít khó khăn.
Theo ThS.Nguyễn Thị Ngọc Thúy – Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, đội ngũ giáo viên đảm
nhận môn Tin học hiện nay tại các trường phổ thông ở Việt Nam không hoàn toàn được đào tạo

chính quy ở các trình độ khác nhau về Tin học mà được đào tạo từ các ngành khác như Toán –
Tin, Lý – Tin... hoặc giáo viên từ các môn tự nhiên khác chuyển sang đảm nhiệm môn Tin học
sau khi qua các lớp bồi dưỡng ngắn ngày về Tin học. Trong khi đó, Tin học là một trong những
môn học khó giảng dạy nhất và đòi hỏi giáo viên phải không ngừng nâng cao trình độ. Việc Tin
học là môn học mới nên chưa có nhiều kinh nghiệm về lý luận và thực tế; trình độ ngoại ngữ
hạn chế của giáo viên hiện nay... cũng là rào cản trong việc nâng cao trình độ Tin học giáo viên
hiện nay.
Trong khi đó, trình độ của học sinh không đồng đều giữa các vùng miền trong cả nước, học
sinh các thành phố lớn, các vùng miền có điều kiện tiếp xúc với khoa học công nghệ phát triển
sẽ có cơ hội tiếp cận với CNTT nhanh hơn. Không chỉ vậy, trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị
và các yếu tố khác kèm theo ở nhà trường cũng rất khác nhau giữa các vùng miền, gây khó
khăn không nhỏ cho giáo viên và học sinh trong dạy – học Tin học.
Đề cập đến những tồn tại trong nội dung chương trình, giảng viên khoa CNTT – Trường CĐSP
Hà Nội Hà Đặng Cao Tùng cho rằng, chất lượng và hiệu quả về giáo dục của môn Tin học hiện
nay vẫn là vấn đề dai dẳng, chưa được giải quyết là hệ quả của cách tiếp cận xây dựng nội
dung chương trình.
“Cách tiếp cận xây dựng chương trình môn Tin học là hướng dẫn sử dụng máy tính, mạng máy
tính và phần mềm ứng dụng, đại diện là chương trình Tin học phổ thông hiện nay của Việt
Nam. Cách tiếp cận này chỉ tạo ra những khách hàng tốt cho các công ty máy tính, các hãng


phần mềm. Trong khi đó, dạy phương pháp xử lý thông tin qua các tình huống làm nảy sinh nhu
cầu thông tin, cách khảo sát, tìm kiếm thông tin mới, lưu trữ, biến đổi, tổ chức lại thông tin... sẽ
tạo ra những nhà sản xuất biết lựa chọn công cụ phù hợp với mục đích của mình để tạo ra sản
phẩm. Học sinh của chúng ta đang bị nhà sản xuất dẫn dắt thay vì chủ động lựa chọn công cụ
phục vụ mục đích của mình” – giảng viên Hà Đặng Cao Tùng cho hay.
Giảng viên Hà Đặng Cao Tùng cho rằng, cần xuất phát từ yêu cầu về năng lực của học sinh để
xây dựng chương trình. Kỹ năng sử dụng các ứng dụng CNTT cụ thể chỉ là phần ngọn trong hệ
thống tri thức và kỹ năng của người lao động. Vì vậy, nội dung này nên được huấn luyện cho
người lao động ngay trước khi học cần đến nó trong quy trình nghiệp vụ của mình hơn là dạy

cho họ trong một chương trình căn bản.

LỚP 10
1. Tổ chức dạy học
- Thời lượng dạy học của môn Tin học lớp 10 là 70 tiết, được dạy trong 37
tuần của năm học.
- Phải đảm bảo dạy đủ số tiết Bài tập và thực hành của từng chương và của
cả năm học. Nếu thấy cần thiết và điều kiện cho phép, có thể bổ sung thời lượng cho Bài tập và thực hành, bài tập, ôn tập.
- Cuối mỗi học kì có 1 tiết ôn tâp và 1 tiết kiểm tra học kì.
- Các tiết Bài tâp, Ôn tâp chưa quy định nội dung cụ thể, cần căn cứ tình hình
thực tế để định ra những nội dung cho các tiết Bài tâp, Ôn tâp đảm bảo
truyền đạt đủ các kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu. Nên lựa chọn, xây dựng
nội dung cho các tiết Bài tâp, Ôn tâp để nhằm mục đích củng cố kiến thức
hay rèn luyện kĩ năng, hình thức có thể là học trên lớp học hay thực hành
trên phòng máy.
- Đối với các học sinh đã được học tin học ở cấp học dưới, giáo viên chọn các
bài đọc thêm trong sách giáo khoa, xây dựng thêm các Bài tập và thực hành,
để củng cố, hệ thống và nhất là chuẩn xác hoá các kiến thức, kĩ năng theo
yêu cầu. Đồng thời trong tiết Bài tập và thực hành giáo viên nên phân loại,
chia nhóm, bố trí chỗ ngồi để học sinh có thể giúp đỡ nhau nâng cao hiệu
quả của tiết học.
- Ở một số nội dung, việc học lí thuyết sẽ hiệu quả hơn khi sử dụng máy tính,
phần mềm, tranh, ảnh, sơ đồ để giới thiệu trực quan. Đặc biệt, một số nội
dung lí thuyết của chương 2 và chương 3 dạy trên máy sẽ hiệu quả hơn.
- Khi thực hành trên máy, nếu nội dung không được xây dựng để thực hành
theo nhóm thì bố trí tối đa là 2 học sinh/1 máy tính.



Kết thúc học kì I châm nhất cần dạy xong Bài tâp thực hành 5 (Thao tác

với tệp và thư mục)

2. Kiểm tra, đánh giá
- Phải thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng dẫn của Bộ GDĐT.
Việc kiểm tra, đánh giá phải bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của Chương
trình môn học.
- Trong thời lượng của môn Tin học lớp 10 phải dành 6 tiết để kiểm tra. Trong
đó có 2 tiết dành cho kiểm tra học kì (học kì I: 1 tiết; học kì II: 1 tiết); 02 tiết
kiểm tra (học kì I: 1 tiết; học kì II: 1 tiết); 02 tiết kiểm tra thực hành trên máy
(học kì I: 1 tiết; học kì II: 1 tiết).
- Phải đảm bảo thực hiện đúng, đủ các tiết kiểm tra, kiểm tra thực hành,
kiểm tra học kì.
- Phải đánh giá được cả kiến thức, kĩ năng, cả lí thuyết, thực hành và phải
theo nội dung, mức độ yêu cầu được quy định trong chuẩn kiến thức, kĩ năng
của Chương trình.

LỚP 11

1. Tổ chức dạy học
– Thời lượng của môn Tin học lớp 11 là 52 tiết. Bố trí dạy: Học kì I: 34 tiết và
Học kì II: 18 tiết.
– Phải đảm bảo dạy đủ số tiết Bài tập và thực hành của từng chương và của
cả năm học. Nếu thấy cần thiết và điều kiện cho phép, có thể bổ sung thời
lượng cho Bài tập và thực hành, bài tập, ôn tập..
- Cuối mỗi học kì có 1 tiết kiểm tra học kì. Ở mỗi học kì, trước tiết kiểm tra
học kì có 1 hoặc 2 tiết ôn tâp (Học kì dạy 18 tiết có 1 tiết ôn tâp, học kì dạy
34 tiết có 2 tiết ôn tâp).
- Các tiết Bài tập, Ôn tập chưa quy định nội dung cụ thể, cần căn cứ tình hình
thực tế để định ra những nội dung cho các tiết Bài tập, Ôn tập đảm bảo
truyền đạt đủ các kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu. Nên lựa chọn, xây dựng

nội dung cho các tiết Bài tập, Ôn tập để nhằm mục đích củng cố kiến thức
hay rèn luyện kĩ năng, hình thức có thể là học trên lớp học hay thực hành
trên phòng máy.


- Đối với các học sinh đã được học lâp trình ở cấp học dưới, giáo viên chọn
các bài đọc thêm trong sách giáo khoa, xây dựng thêm các Bài tập và thực
hành, để củng cố, hệ thống và nhất là chuẩn xác hoá các kiến thức, kĩ năng
theo yêu cầu. Đồng thời trong tiết Bài tập và thực hành giáo viên nên phân
loại, chia nhóm, bố trí chỗ ngồi để học sinh có thể giúp đỡ nhau nâng cao
hiệu quả của tiết học.
- Ở một số nội dung, việc học lí thuyết sẽ hiệu quả hơn khi sử dụng máy vi
tính, phần mềm, tranh, ảnh, sơ đồ trực quan. Khi thực hành trên máy, nếu
nội dung không được xây dựng để thực hành theo nhóm thì bố trí tối đa là 2
học sinh/1 máy tính.
-

Kết thúc học kì I châm nhất cần dạy xong mục 13. Kiểu bản ghi.

2. Kiểm tra, đánh giá

- Phải thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng dẫn của Bộ GDĐT.
Việc kiểm tra, đánh giá phải bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của Chương
trình môn học.
- Trong thời lượng của môn Tin học lớp 11 phải dành 4 tiết để kiểm tra. Trong
đó có 2 tiết dành cho kiểm tra học kì (học kì I: 1 tiết; học kì II: 1 tiết) và 02
tiết kiểm tra (trong đó có 1 tiết kiểm tra thực hành trên máy).
- Phải đảm bảo thực hiện đúng, đủ các tiết kiểm tra, kiểm tra thực hành,
kiểm tra học kì.
- Phải đánh giá cả kiến thức, kĩ năng, cả lí thuyết, thực hành và phải theo nội

dung, mức độ yêu cầu được quy định trong chuẩn kiến thức, kĩ năng của
Chương trình môn học.
LỚP 12
1. Tổ chức dạy học
- Thời lượng của môn tin học lớp 12 là 52 tiết. Bố trí dạy: học kì I: 18 tiết và
học kì II: 34.
- Các bài lí thuyết và Bài tập và thực hành nên được dạy học theo trình tự
trình bày trong sách giáo khoa. Kết thúc học kì I châm nhất cần dạy xong
mục5. Các thao cơ bản trên bảng.
- Phải đảm bảo dạy đủ số tiết Bài tập và thực hành của từng chương và của
cả năm học. Nếu thấy cần thiết và điều kiện cho phép, có thể bổ sung thời
lượng cho Bài tập và thực hành, bài tập, ôn tập.
-

Cuối mỗi học kì, có 1 tiết ôn tâp và 1 tiết kiểm tra học kì.

- Các tiết Bài tập, Ôn tập chưa quy định nội dung cụ thể, cần căn cứ tình
hình thực tế để định ra những nội dung cho các tiết Bài tập, Ôn tập đảm bảo
truyền đạt đủ các kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu. Nên lựa chọn, xây dựng


nội dung cho các tiết Bài tập, Ôn tập để nhằm mục đích củng cố kiến thức
hay rèn luyện kĩ năng, hình thức có thể là học trên lớp học hay thực hành
trên phòng máy.
- Đối với các học sinh đã có hiểu biết về cơ sở dữ liệu, giáo viên chọn các
bài đọc thêm trong sách giáo khoa, xây dựng thêm các Bài tập và thực hành,
để củng cố, hệ thống và nhất là chuẩn xác hoá các kiến thức, kĩ năng theo
yêu cầu. Đồng thời trong tiết Bài tập và thực hành nên phân loại, chia nhóm,
bố trí chỗ ngồi để học sinh có thể giúp đỡ nhau nâng cao hiệu quả của tiết
học.

- Ở một số nội dung (đặc biệt là chương II), việc học lý thuyết sẽ hiệu quả
hơn khi sử dụng máy vi tính, phần mềm, tranh, ảnh, sơ đồ trực quan. Khi
thực hành trên máy, nếu nội dung không được xây dựng để thực hành theo
nhóm thì bố trí tối đa là 2 học sinh/1 máy tính.
2. Kiểm tra, đánh giá
- Đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng dẫn của Bộ GDĐT. Việc kiểm tra,
đánh giá phải bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng của Chương trình môn học.
- Trong thời lượng của môn Tin học lớp 12 phải dành 4 tiết để kiểm tra.
Trong đó có 2 tiết dành cho kiểm tra học kì (học kì I: 1 tiết; học kì II: 1 tiết) và
2 tiết kiểm tra (trong đó có 1 tiết kiểm tra thực hành trên máy).
- Phải đảm bảo thực hiện đúng, đủ các tiết kiểm tra, kiểm tra thực hành,
kiểm tra học kì.
- Phải đánh giá được cả kiến thức, kĩ năng, cả lý thuyết và thực hành và
phải theo nội dung, mức độ yêu cầu được quy định trong chương trình môn
học.



×