Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LVTS nghiên cứu nguyên nhân các sự cố đập vật liệu địa phương, áp dụng cho đập sông biêu tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.82 MB, 107 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐẬP VẬT LIỆU ĐỊA PHƯƠNG.......3
CHƯƠNG 2.HIỆN TRẠNG ĐẬP VẬT LIỆU ĐỊA PHƯƠNG TỈNH NINH
THUẬN..................................................................................................................22
CHƯƠNG 4. ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT TÍNH TOÁN CHO CÔNG TRÌNH
HỒ SÔNG BIÊU VÀ GIẢI PHÁP AN TOÀN.....................................................72


MỤC LỤC HÌNH VẼ
Hình 1-1: Đập Nurek ở Tajikistan cao 310m, hiện là đập đất cao nhất thế giới

10

Hình 1-2: Biểu đồ tỷ lệ vỡ đập của các châu lục trên thế giới

14

Hình 1-3: Cảnh tượng vỡ đập Tenton (Mỹ)

16

Hình 1-4: Nước chảy tràn ra mái HL ở hồ thủy lợi Tân Sơn tỉnh Gia Lai
Hình 1-5: Sự cố các loại ở hồ chứa nước
Hình 1-6: Các loại đập đất đắp
Hình 1-7: kết cấu chống thấm ở nền đập
Hình 1-8: Các giai đoạn xói mòn khi nước tràn qua đỉnh đập
Hình 1-9: Sạt lở mái hạ lưu đập do thấm
Hình 1-10: Trượt mái thượng lưu hồ Tây Di Linh (Lâm Đồng)
Hình 2-1: Bản đồ hành chính tỉnh Ninh Thuận
Hình 2-2: Nắng nóng ở Ninh Thuận


Hình 2-3.Sơ đồ hệ thống sông Cái Phan Rang
Hình 2-4: Hồ sông Sắt – dung tích 69,3 triệu m3

17

Hình 2-5: Hồ Ông Kinh – dung tích 0,83 triệu m

3
3

Hình 2-6: Hồ Sông Trâu – dung tích 31,5 triệu m

Hình 2-7: Hồ Lanh Ra – dung tích 13,88 triệu m

3

Hình 2-8: Biểu đồ tỷ lệ hồ có sự cố cần nâng cấp, sửa chữa
Hình 2-9: Biểu đồ thống kê các thiết bị quan trắc
Hình 3-1: Sơ đồ xác định vùng an toàn giới hạn của đập đất
Hình 3-2: Các loại phần tử
Hình 3-3: Mái dốc dập vật liệu địa phương
Hình 3-4: Phân mảnh khối trượt
Hình 3-5: Sơ đổ ổn định theo giả thiết mặt trượt cung tròn
Hình 3-6: Sơ đồ tính toán ổn định theo phương pháp K.Terxaghi
Hình 3-7: Sơ đồ tính toán ổn định theo phương pháp Bishop
Hình 3-8: Lực tác dụng lên mặt trượt thông qua khối trượt mặt trượt trụ tròn
Hình 3-9: Lực tác dụng lên mặt trượt thông qua khối trượt mặt trượt tổ hợp
Hình 3-10: Lực tác dụng lên mặt trượt thông qua khối trượt với
đường trượt đặc biệt
Hình 3-11: Đập đất đồng chất

Hình 3-12: Sơ đồ bố trí đất đắp trong thân đập
Hình 3-13: Đập có tường lõi mềm
Hình 3-14: Đập có tường nghiêng mềm
Hình 3-15: kết cấu đập đất có tường nghiêng sân phủ
Hình 3-16: đập có tường nghiêng và chân khay mềm

18
19
20
21
23
25
31
34
36
40
40
41
41
46
51
53
57
62
63
64
65
65
66
67


Hình 3-17: kết cấu đập có màng chống thấm bằng khoan phụt
Hình 3-18: Sơ đồ tường chống thấm bằng cừ thép

67

Hình 3-19: đập có tường nghiêng mềm kết hợp cừ chống thấm

69


Hình 3-20: đập có tường lõi kết hợp cừ chống thấm

70

Hình 3-21: Sơ đồ khối xác định cận trên

71

Hình 3-22: Xác định chuẩn an toàn thấm – đập đồng chất
Hình 3-23: Xác định chuẩn an toàn thấm – đập có tường lõi mềm

72

Hình 4-1: Bố trí tổng thể hồ chứa nước Sông Biêu
Hình 4-2: Mặt cắt tính toán chuẩn an toàn cho đập phụ Sông Biêu

73
74
74

76
76
76
78
80
81
88
10
3


MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1-1: Số lượng đập vật liệu địa phương ở các nước trên thế giới

10

Bảng 1-2: Xếp theo thứ tự thời gian đập đất, đá lớn ở Việt Nam

12

Bảng 1-3. Tình hình sự cố hư hỏng đập trên thế giới

14

Bảng 1-4: Thống kê một vài đập bị đổ vỡ ở Mỹ

15

Bảng 1-5:Thống kê nguyên nhân, biện pháp khắc phục của một vài công trình đã


26

được xử lý

35

Bảng 2-1: Đặc trưng sông suối của tỉnh Ninh Thuận

37

Bảng 2-2: Các hồ chứa được xây dựng trong thời gian từ năm 1975 đến 1992

38

Bảng 2-3: Các hồ chứa được xây dựng trong thời gian từ năm 1992 đến nay

41

Bảng 2-4: Thống kê hiện trạng đập vật liệu địa phương tỉnh Ninh Thuận
Bảng 2-5: Thống kê các sự cố đập vật liệu địa phương và biện pháp khắc phục
Bảng 3-1: Hệ số an toàn ổn định
Bảng 3-2: trị số gradient cho phép ở khối đắp thân đập
Bảng 3-3: trị số gradient trung bình tới hạn ở các bộ phận chống thấm
Bảng 4-1: Tốc độ gió lớn nhất ứng với các tần suất

46

Bảng 4-2: Phân phối dòng chảy năm thiết kế P = 75%
Bảng 4-3: Dòng chảy lũ theo các cấp tần suất
Bảng 4-4: Dòng chảy mùa cạn theo các tháng

Bảng 4-5: Các mực nước hồ chứa Sông Biêu
Bảng 4-6: Chỉ tiêu cơ lý đất đắp đập Trà Van
Bảng 4-7: chỉ tiêu cơ lý đất đắp đập phụ Sông Biêu
Bảng 4-8: Kết quả tính toán thấm đập Trà Van - mặt cắt D
Bảng 4-9: Kết quả tính toán thấm đập Trà Van - mặt cắt D9
Bảng 4-10: Kết quả tính toán thấm đập phụ Sông Biêu - mặt cắt E31
Bảng 4-11: Kết quả tính toán thấm đập phụ Sông Biêu - mặt cắt E
Bảng 4-12: Kết quả tính toán cho mặt cắt 10

78
79
79
85
86
86
86
91
92
92
95
97
99
10
1
10
4


1


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng đập vật liệu địa phương có lịch sử rất lâu đời. Ở Ai Cập, Trung Quốc

và một số nước khác đã xây dựng đập đất từ 2500-4700 năm trước công nguyên. Ví
dụ đập đất đá hỗn hợp Sadd-el-Kafara được xây dựng ở Ai Cập vào khoảng 27782563 năm trước công nguyên có chiều dài 108m, cao 12m; Trung Quốc có đập dài
300m, cao 30m xây dựng năm 240 trước công nguyên; đập Anderson Ranch – Mỹ
cao 139m xây dựng năm 1950...Ở Việt Nam, đập vật liệu địa phương được ứng
dụng muộn hơn nhưng đến nay đã có những phát triển vượt bậc nhờ ưu điểm của
nó. Đập Cửa Đạt cao 138m, dài hơn 1km, đập Hòa Bình cao 128m, dài 640m và
98% các con đập là đập vật liệu địa phương có chiều cao nhỏ hơn 50m.
Trong những năm gần đây, trên thế giới và cả Việt Nam có không ít những công
trình hiện đại, phức tạp gặp sự cố. Có thể kể ra những sự cố điển hình như đập đất
hồ Lawn- Mỹ với diện tích mặt nước là vỡ 66.000 m2 đã vỡ ngày 15/7/1982; đập
Bản Kiều – Trung Quốc vỡ năm 1975; đập Teton – Mỹ cao 93m, dung tích 289 triệu
m3 nước vỡ ngày 5/6/1976... ở Việt Nam 50 m đập chính đang thi công của công
trình hồ chứa nước Cửa Đạt bị vỡ ngày 5/10/2007 , sự phá hoại công trình do động
đất gây ra thì phải kể đến thủy điện Sông Tranh 2; rất nhiều công trình thủy lợi thủy
điện khác bị hư hỏng ở nhiều mức độ khác nhau từ nhẹ đến không thể sử dụng
được nữa...Tất cả các sự cố trên không chỉ liên quan đến tác động đặc biệt của thiên
nhiên, việc khai thác sử dụng quá khả năng cho phép hoặc nhân tố chủ quan khác
mà còn liên quan đến những quan điểm đã nỗi thời về độ an toàn của chính bản
thân công trình như một hệ thống phức tạp cần đảm bảo độ bền vững lâu dài tổng
thể trong một khái niệm rộng hơn về chất lượng công trình xây dựng. Tuy nhiên với
tình hình khí hậu biến đổi nhanh chóng và ngày càng khắc nghiệt hơn, khó lường
hơn điều kiện tự nhiên không thuận lợi là nguyên nhân chính giảm tuổi thọ của các
đập, hồ chứa.
Đa số các công trình thủy lợi thủy điện đều là những công trình có sức ảnh

hưởng lớn đến tự nhiên, kinh tế và xã hội. Đã có rất nhiều người thiệt mạng, hoa


2

màu bị tàn phá thiệt hại nhiều tỷ đồng, chính vì thế việc tìm ra nguyên nhân và khắc
phục các sự cố đập là vô cùng quan trọng.
Một trong các nguyên nhân gây mất an toàn đập vật liệu địa phương là thấm.
Các sự cố do thấm gây ra cũng rất phong phú như gây mất nước hồ, làm mất ổn
định mái đập, gây xói ngầm trong thân, nền đập…Chính vì vậy việc quản lý sự
thấm nước của đập cũng trở nên rất phức tạp. Việc tìm ra chuẩn an toàn cho đập vật
liệu địa phương giúp ích rất nhiều cho công tác quản lý vận hành hồ đập. Qua chuẩn
an toàn các nhà quản lý có thể xác định được mức độ thấm nước của đập.
2.

Mục đích của đề tài
Nghiên cứu nguyên nhân các sự cố đập vật liệu địa phương nói chung, và

nguyên nhân các sự cố đập do thấm nói riêng. Đánh giá và đề ra giải pháp an toàn.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đập vật liệu địa phương và áp dụng cho đập Sông Biêu tỉnh Ninh Thuận

4.

Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Tổng hợp, kế thừa các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay về an toàn đập.
Thu thập tài liệu các công trình đập vật liệu địa phương tỉnh Ninh Thuận.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp số.


5.

Kết quả dự kiến đạt được
Phân tích ưu nhược điểm của các loại đập vật liệu địa phương và biện pháp

chống thấm tương ứng.
Tính toán, đánh giá, đề xuất giải pháp đảm bảo an toàn thấm cho một loại đập
cụ thể.
Lập được chuẩn an toàn thấm.


3

CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐẬP VẬT LIỆU ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Tình hình xây dựng đập vật liệu địa phương và vấn đề an toàn hồ đập
1.1.1. Trên thế giới
Hồ chứa nước trên thế giới được xây dựng và phát triển rất đa dạng, phong phú.
Đến nay trên thế giới đã xây dựng hơn 1.400 hồ có dung tích hơn 100 triệu mét khối
nước mỗi hồ với tổng dung tích các hồ là 4.200 tỷ mét khối.
Theo tiêu chí phân loại của Ủy ban quốc tế về đập lớn, hồ có dung tích từ một
triệu mét khối nước trở lên hoặc có chiều cao trên 15 mét, thuộc loại hồ đập lớn.
Hiện thế giới có hơn 45.000 hồ. Trong đó châu Á có 31.340 hồ (chiếm 70%), Bắc
và Trung Mỹ có 8.010 hồ, Tây Âu có 4.227 hồ, Đông Âu có 1203 hồ, châu Phi
1.260 hồ, châu Đại Dương 577 hồ. Đứng đầu danh sách các nước có nhiều hồ là
Trung Quốc (22.000 hồ), Mỹ (6.575 hồ), Ấn Độ (4.291 hồ), Nhật Bản (2.675 hồ),
Tây Ban Nha (1.196 hồ).
Liên Bang Nga có hơn 150 hồ với tổng dung tích trên 200 tỷ mét khối nước,
Các hồ lớn nhất thế giới là hồ Boulder trên sông Colorado (Mỹ) dung tích 38 tỷ mét
khối nước, hồ Grand Coulle trên sông Columbia (Mỹ) dung tích 24 tỷ mét khối

nước, hồ Bownrrat trên sông Angera (Nga) có dung tích gần 20 tỷ mét khối nước.
Xây dựng và sử dụng hồ chứa nước trên thế giới đã trải qua lịch sử phát triển
lâu đời. Cách đây hơn 6000 năm người Trung Quốc và Ai Cập đã biết sử dụng vật
liệu tại chỗ để đắp đập ngăn sông suối tạo thành hồ chứa. Thời kỳ cổ đại, hồ
Vicinity tại Menphis thuộc thung lũng sông Nile (Ai Cập) có xây đập đá đổ cao
15m, dài 45m. Trong khoảng 4000 năm trước công nguyên, cùng với sự phát triển
rực rỡ của các nền văn minh cổ đại Ai Cập, Trung Quốc, Hi Lạp, La Mã, Ấn Độ…
kỹ thuật xây dựng hồ đập trên thế giới cũng không ngừng phát triển. Người Nam Tư
xây dựng đập Mardook ở thung lũng sông Tigris. Người Saba xây dựng đập đá đổ
Marib cao 32,5m dài 3.200m. Đến nay, thực tế phát triển xây dựng các hồ chứa
nước lớn trên thế giới đã được khẳng định mục đích và yêu cầu sử dụng của mỗi hồ
trong từng khu vực đối với từng quốc gia là khác nhau.
Trong thế kỷ XX, xây dựng đập tạo hồ chứa phát triển mạnh cả về số lượng và
quy mô, hình thức. Cứ 10 năm sau, số lượng đập hồ được xây dựng nhiều hơn tổng


4

số các đập hồ của các năm trước đó. Chiều cao đập từ chỗ vài mét buổi ban đầu, đến
chiều cao đập lên tới 10÷15 m (ở thế kỷ XV), đến 200m (ở thế kỷ XX), rồi đến trên
300m như hiện nay.

Hình 1-1: Đập Nurek ở Tajikistan cao 310m, hiện là đập đất cao nhất thế giới
Xếp theo thứ tự về số lượng đập của các nước ta có thứ tự như sau:
Bảng 1-1: Số lượng đập vật liệu địa phương ở các nước trên thế giới
TT

Tên nước

1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

Trung Quốc
Mỹ
Ấn Độ
Nhật
Tây Ban Nha
Canada
Hàn Quốc
Thổ Nhĩ Kỳ
Brazin
Pháp
Nam Phi
Mexico
Italia
Vương Quốc Anh

Số

lượng
22000
6575
4291
2675
1196
793
765
625
594
569
539
537
524
517

TT

Tên nước

17
18
19
20
21
22
23
24
25
26

27
28
29
30

Na uy
CHLB Đức
Al-ba-ni
Ru-ma-ni
Zim-ba-buê
Thái Lan
Thụy Điển
Bulgari
Thụy Sĩ
Áo
Cộng hòa Séc
Algerie
Bồ Đào Nha
Indonesia

Số
lượng
335
311
306
246
213
204
190
180

156
149
118
107
103
96


5

TT

Tên nước

15
16

Oxtraylia
Việt Nam

Số

TT

Tên nước

lượng
486
31
460


Liên bang Nga

Số
lượng
91

Qua thứ tự này ta thấy Việt Nam là nước có nhiều đập lớn so với thế giới (đứng
thứ 16) và nếu so với các nước Đông Nam Á thì Việt Nam có số lượng đập lớn
đứng đầu sau đó đến Thái Lan rồi Indonesia.
1.1.2. Tại Việt Nam
Hồ chứa ở Việt Nam là biện pháp công trình chủ yếu để chống lũ cho các vùng
hạ du; cấp nước tưới ruộng, công nghiệp, sinh hoạt, phát điện, phát triển du lịch, cải
tạo môi trường nuôi trồng thủy sản, phát triển giao thông, thể thao, văn hóa.
Theo thời gian, trước năm 1964 việc xây dựng hồ chứa diễn ra chậm, có ít hồ
chứa được xây dựng trong giai đoạn này.Sau năm 1964, đặc biệt từ khi nhà nước
thống nhất thì việc xây dựng hồ chứa phát triển mạnh.Từ năm 1976 đến nay số hồ
chứa xây dựng mới chiếm 67%. Không những tốc độ phát triển nhanh, mà cả về
quy mô công trình cũng lớn lên không ngừng. Hiện nay, đã có nhiều hồ lớn, đập cao
ở những nơi có điều kiện tự nhiên phức tạp.
Tính đến nay, ở nước ta có 6648 hồ chứa thuộc địa bàn của 45/64 tỉnh thành,
trong đó, có gần 100 hồ chứa nước có dung tích trên 10 triệu mét khối, hơn 567 hồ
có dung tích từ 1÷10 triệu mét khối, còn lại là các hồ nhỏ. Tổng dung tích trữ nước
của các hồ là 35,8 tỷ mét khối, trong đó có 26 hồ chứa thủy điện lớn có dung tích 27
tỷ mét khối nước còn lại là các hồ có nhiệm vụ tưới là chính với tổng dung tích 8,8
tỷ mét khối nước đảm bảo tưới cho 80 vạn hecta.
Bảng 1-2: Xếp theo thứ tự thời gian đập đất, đá lớn ở Việt Nam
TT

Tên hồ


Tỉnh

Loại đập

1
2
3
4
5

Khuôn Thần
Đa Nhim
Suối Hai
Thượng Tuy
Cẩm Ly

Bắc Giang
Lâm Đồng
Hà Tây
Hà Tĩnh
Quảng Bình

Đất
Đất
Đất
Đất
Đất

Hmax


Năm hoàn

(m)
26,00
38,00
24,00
25,00
30,00

thành
1963
1963
1963
1964
1965


6

TT

Tên hồ

Tỉnh

Loại đập

6
7

8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37

38
39
40
41
42
43
44

Tà Keo
Cấm Sơn
Vực Trống
Đồng Mô
Tiên Lang
Núi Cốc
Pa Khoang
Kẻ Gỗ
Yên Mỹ
Yên Lập
Vĩnh Trinh
Liệt Sơn
Phú Ninh
Sông Mực
Quất Đông
Xạ Hương
Hòa Trung
Hội Sơn
Dầu Tiếng
Biển Hồ
Núi Một
Vực Tròn

Tuyền Lâm
Đá Bàn
Khe Tân
Kinh Môn
Khe Chè
Phú Xuân
Gò Miếu
Cà Giây
Sông Hinh
Sông Sắt
Sông Sào
Easoup
Hà Động
IaM’La
Tân Sơn
Tả Trạch
Suối Mỡ

Lạng Sơn
Bắc Giang
Hà Tĩnh
Hà Tây
Quảng Bình
Thái Nguyên
Lai Châu
Hà Tĩnh
Thanh Hóa
Quảng Ninh
Quảng Nam
Quảng Ngãi

Quảng Nam
Thanh Hóa
Quảng Ninh
Vĩnh Phúc
Đà Nẵng
Bình Định
Tây Ninh
Gia Lai
Bình Định
Quảng Bình
Lâm Đồng
Khánh Hòa
Quảng Nam
Quảng Trị
Quảng Ninh
Phú Yên
Thái Nguyên
Bình Thuận
Phú Yên
Ninh Thuận
Nghệ An
Đắc Lắc
Quảng Ninh
Gia Lai
Gia Lai
Thừa Thiên Huế
Bắc Giang

Đất
Đất

Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất

Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất
Đất

Hmax

Năm hoàn

(m)
35,00
42,50
22,80
21,00
32,30
26,00
26,00
37,50
25,00
40,00
23,00
29,00
39,40
33,40
22,60
41,00
26,00

29,00
28,00
21,00
30,00
29,00
32,00
42,50
22,40
21,00
25,20
23,70
30,00
30,00
50,00
29,00
30,00
29,00
30,00
37,00
29,20
60,00
27,80

thành
1972
1974
1974
1974
1978
1978

1978
1979
1980
1980
1980
1981
1982
1983
1983
1984
1984
1985
1985
1985
1986
1986
1987
1988
1989
1989
1990
1996
1999
1999
2000
2005
2006
2005
2007
2009

2009
2012
2012


7

Trong hai thập kỷ qua, sau khi phát triển kinh tế nói chung và xây dựng đập cao
nói riêng người ta dần dần càng thấy nổi lên những tác hại về mặt môi trường khiến
người ta đã so sánh thận trọng hơn, mặt khác cũng có thể những công trình dễ làm
có hiệu ích cao hơn đều đã được làm, những công trình còn lại suất đầu tư thường
cao và nhiều bất lợi về mặt môi trường nên người ta ít làm. Do vậy việc xây dựng
đập cao trên thế giới đã giảm hẳn.
1.2. Tổng quan về sự cố, hư hỏng công trình đầu mối
1.2.1. Tổng quan về sự cố hư hỏng đập trên thế giới
Theo thống kê đánh giá của Ủy ban quốc tế về đập lớn ICOLD thì tỷ lệ vỡ đập
qua các thời kỳ được thể hiện như bảng sau:
Bảng 1-3. Tình hình sự cố hư hỏng đập trên thế giới
Thời gian
Trước năm 1920
Năm 1930
Năm 1950
Năm 1970

Tỷ lệ vỡ đập (%)
4%
3%
2,2%
1,0%


Năm 1980

0,85%

Châu Á, Châu Mỹ, Châu Âu là những Châu lục xây dựng được nhiều đập nên tỷ
lệ vỡ cũng nhiều. Theo số liệu của ICOLD 1998 thì tỷ lệ vỡ đập theo biểu đồ sau:

Hình 1-2: Biểu đồ tỷ lệ vỡ đập của các châu lục trên thế giới
Trung Quốc và Mỹ là hai nước xây dựng được nhiều đập nhất nhì thế giới. Tính
đến năm 2.000, Trung Quốc có 22.000 đập lớn còn Mỹ có 6.575 đập.


8

Nhận định về tình trạng các đập hiện có ở Trung Quốc, nhật báo Trung Quốc
ngày 22/3/1999 đã nêu lên thực trạng là có trên 1/3 số đập của Trung Quốc đã xây
dựng từ lâu hoặc chất lượng không tốt, các đập này giống như những “time bombs”
(những quả bom nổ chậm). Bài báo cũng cho biết từ năm 1949 đến 1999 đã có
3.200 đập bị đổ vỡ. Sự cố gây chết người nhiều nhất ở Trung Quốc được nhiều
người biết đến nhất là vụ vỡ đập Bản Kiều đã làm 85.000 người bị thiệt mạng.
Theo cơ quan quản lý các trường hợp khẩn cấp của Mỹ (United States Fereral
Emergency Management Agency) cho biết:
Trong số khoảng 80.000 đập lớn nhỏ của Mỹ thì có 9.326 đập đang ở mức
“nguy hiểm cao” có nghĩa là khi chúng bị vỡ sẽ gây thiệt hại lớn về người và tài
sản. Có khoảng 1.600 đập ở mức nguy hiểm nêu trên chỉ nằm cách khu dân cư một
khoảng cách nhỏ hơn một dặm. Hiện nay chỉ có gần 40% số đập ở mức nguy hiểm
cao có kế hoạch hành động khẩn cấp để giúp đỡ cho người dân trong vùng bị ảnh
hưởng. Tuy nhiên trong những năm gần đây do được tăng cường quản lý nên vỡ đập
ít xảy ra hơn và ít gây tổn thất về sinh mạng con người. Thống kê tổng hợp trong
150 năm qua cho thấy có tất cả 1.449 vụ vỡ đập (trung bình 97 vụ vỡ đập trong 1

năm) nhưng trong các năm 1996, 1997 mỗi năm chỉ có 29 vụ vỡ đập.
Tài liệu về đổ vỡ đập ở Mỹ có rất nhiều nhưng tiêu biểu sau đây là một số đập
cao trên 30 m bị vỡ trong các năm 1912-1913.
Bảng 1-4: Thống kê một vài đập bị đổ vỡ ở Mỹ
TT

Tên đập

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Tenton
Bald win Hills
Swift
Lower Otay
Litter field
Sweet water
Apishapa
Graham lake
Elwha river
Corpus Christi

Hell hole

Năm hoàn Năm bị
thành
1976
1951
1914
1911
1911
1920
1922
1912
1930

đổ vỡ
1976
1963
1964
1916
1929
1916
1923
1923
1912
1930
1964

Chiều

Dung tích


Loại

cao đập chứa (triệu m3)
đập
93
289
Đất
71
11
Đất
57
37
Đất
46
52
Đất/Đá
37
Đá
35
Đá
35
24
Đất
34
220
Đất
33
9
Đá xây

31
79
Đất
30
2600
Đá


9

Đập Tenton bị vỡ được giới thiệu trong cuốn sách “Đập và an toàn về đập “Dam
and Public Safety” do Văn phòng Cải tạo đập của Mỹ xuất bản năm 1983. Đập
Tenton là đập đất cao 93m, dung tích hồ 289 triệu m 3 trên sông Tenton. Từ ngày
10/4/1976 mực nước hồ tăng nhanh do có lũ lớn. Ngày 3/6/1976 xuất hiện hai vị trí
thấm cách chân đập 400m về phía hạ lưu với lưu lượng thấm 40÷60
gallon/phút.Ngày 4/6/1976 phát hiện một vị trí thấm nhỏ ở bờ bên phải cách chân
hạ lưu đập 45÷60m với lưu lượng thấm 20 gallon/phút. Ngày 5/6/1976 từ 7 giờ sáng
xuất hiện thấm lớn hơn trong thân đập, sau đó dòng thấm lớn dần rồi xuất hiện dòng
nước xoáy ở thượng lưu hồ chứa. Đến 11 giờ 30 xuất hiện các vết nứt lớn, phát triển
nhanh phá vỡ toàn bộ đập. Như vậy, từ khi phát hiện có thấm ở phía hạ lưu đập đến
khi vỡ đập chỉ có 5 giờ đồng hồ. Thiệt hại về người tuy không nhiều, nhưng có đến
25.000 người bị mất nhà cửa, nhiều đường sá, cầu cống, ruộng đồng bị hư hại vùi
lấp, thiệt hại ước tính khoảng 400 triệu USD.

Hình 1-3: Cảnh tượng vỡ đập Tenton (Mỹ)
1.2.2. Tổng quan về sự cố hư hỏng đập vật liệu địa phương ở Việt Nam
Đập được xây dựng để ngăn các sông suối, giữ lại hàng triệu mét khối nước để
tạo thành hồ chứa. Vì vậy hậu quả do sự cố đập xảy ra hết sức nghiêm trọng, việc
xử lý rất tốn kém, gây tổn thất lớn về tính mạng, tài sản của nhân dân và tài sản của



10

quốc gia, có ảnh hưởng xấu về kinh tế, và đối với các sự cố lớn và nghiêm trọng
còn ảnh hưởng xấu đến tình hình xã hội.
Sự cố xảy ra đối với đập khá đa dạng. Sự cố đập có thể xảy ra ngay trong quá
trình xây dựng hoặc khi công trình được đưa vào sử dụng nhiều năm. Tuy nhiên sự
cố lớn và nghiêm trọng thường xảy ra khi gặp lũ cực lớn (như vỡ đập Vệ Gừng ở
tỉnh Nghệ An, đập Sông Mực ở Thanh Hóa, sự cố vỡ đập Suối Trầu lần thứ 3 ở tỉnh
Khánh Hòa, và vỡ đập Cà Giây ở tỉnh Bình Thuận…). Có những công trình xảy ra
sự cố trong năm tích nước đầu tiên ( vỡ đập Ia Krêl 2 tỉnh Gia Lai khi mực nước
tích được cách mực nước dâng bình thường 4m, vỡ đập Am Chúa, đập Suối
Hành…).

Hình 1-4: Nước chảy tràn ra mái HL ở hồ thủy lợi Tân Sơn tỉnh Gia Lai
Bộ Thủy Lợi năm 1992 đã tiến hành tổng kiểm tra, đánh giá sự cố các công
trình thủy lợi. Kết quả kiểm tra tuy chưa thật đầy đủ nhưng cũng đã cho thấy những
việc cần phải làm và những kinh nghiệm bổ ích để nâng cao chất lượng và phòng
tránh sự cố cho các công trình đã, đang và sẽ xây dựng ở nước ta.


11

Hình 1-5: Sự cố các loại ở hồ chứa nước
Dựa vào biểu đồ thống kê có thể thấy rằng sự cố xảy ra đối với đập chiếm
49,9% trong đó nguyên nhân do thấm chiếm 15,06%.
Theo số liệu đánh giá an toàn hồ chứa do liên Bộ Xây dựng, Bộ nông nghiệp và
PTNT, Bộ Công thương năm 2012:
+ Công trình thủy lợi cao 15÷50 m hoặc dung tích hồ chứa trên 3 triệu m 3 (551
hồ chứa) hầu hết các đập chính kết cấu bằng đất đắp (trừ hồ chứa sông Lòng Sông –

Bình Thuận và đập Tân Giang – Ninh Thuận có kết cấu BTCT) có một số hư hại
thường thấy ở các đập là: Nứt 44/551 đập, thấm 228/551 đập, biến dạng mái đập
101/551 đập.
+ Công trình đập cao dưới 15m và dung tích hồ chứa dưới 3 triệu m 3: có trên
80% các đập được xây dựng trước những năm 1990 (kết cấu chủ yếu bằng đất đắp)
đã xuống cấp nghiêm trọng tập trung ở một số địa phương như: Tuyên Quang
57/503 công trình, Thừa Thiên Huế 18/55 công trình, Quảng Trị 40/123 công trình,
Quảng Ninh 6/9 công trình, Lạng Sơn 34/68 công trình, Phú Thọ 107/613 công
trình…
1.3. Phân loại
1.3.1. Phân loại theo cấu tạo mặt cắt ngang của đập
1. Đập đồng chất, gồm một loại đất (hình a)
2. Đập không đồng chất, gồm nhiều loại đất (hình b)
3. Đập có tường nghiêng bằng đất sét (hình c)
4. Đập có tường nghiêng bằng vật liệu không phải là đất (hình d)
5. Đập có lõi giữa bằng đất sét (hình đ)
6. Đập có màn chống thấm (hình e)


12

Hình 1-6: Các loại đập đất đắp
1-mái thượng lưu, 2-gia cố mái, 3-đỉnh đập, 4-mái hạ lưu, 5-thân đập,
6-lăng trụ thoát nước, 7-đáy đập, 8-vùng chuyển tiếp, 9-khối trung tâm,
10-lớp bảo vệ, 11-tường nghiêng, 12-khối nêm thượng lưu, 13-lõi,
14-khối nêm hạ lưu, 15-màn chống thấm
1.3.2.
1.
2.
3.


Phân loại theo bộ phận chống thấm ở nền
Đập đất có sân trước.
Đập đất có tường răng.
Đập đất có màn phun: bằng các loại vật liệu như vữa sét, vữa xi măng, thủy

tinh lỏng, nhựa đường hoặc hỗn hợp vật liệu chống thấm.
4. Đập đất có màn phun dạng treo lơ lửng khi chiều dày lớp nền thấm nước khá
lớn.
5. Đập có màn chống thấm dạng tường bằng bê tông cốt thép hoặc kim loại.


13

Hình 1-7: kết cấu chống thấm ở nền đập
1-sân trước, 2-tường răng, 3-màn phun vật liệu chống thấm, 4-màn phun
1.3.3.
1.
2.
3.
4.
5.
1.3.3.
1.
2.
3.
4.
1.4.

dạng treo, 5-màn chống thấm xuyên qua nền thấm

Phân loại đập đất theo phương pháp thi công
Đập đất thi công bằng phương pháp đầm nén.
Đập đất thi công bằng đổ đất trong nước.
Đập đất thi công bằng bồi thủy lực.
Đập đất thi công hỗn hợp đắp và bồi thủy lực.
Đập đất thi công bằng nổ mìn định hướng.
Phân loại đập đất theo chiều cao đập
Đập thấp, chiều cao cột nước tác dụng dưới 20m.
Đập cao trung bình, cột nước tác dụng 20÷50 m.
Đập cao, cột nước tác dụng lớn hơn 50÷100 m.
Đập rất cao, cột nước lớn hơn 100 m.

Các sự cố và nguyên nhân xảy ra ở đập vật liệu địa phương
Công trình thủy lợi là sản phẩm của cuộc đấu tranh giữa loài người với nước.

Mấy nghìn năm nay, nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước trên thế giới đã xây
dựng rất nhiều công trình thủy lợi, để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu.
Trong đó tuyệt đại bộ phận là kinh nghiệm thành công, song cũng có một phần là
kinh nghiệm thất bại. Dựa theo phân tích sơ bộ thì nguyên nhân làm cho công trình


14

thủy lợi xảy ra sự cố có 5 yếu tố: yếu tố tự nhiên; yếu tố khảo sát, thiết kế; yếu tố thi
công; yếu tố khai thác và quản lý; yếu tố chiến tranh. Qua quá trình nghiên cứu lâu
dài và các công trình thực tế, các sự cố và nguyên nhân xảy ra ở đập vật liệu địa
phương như sau:
1.4.1. Lũ tràn qua đỉnh đập
- Tính toán thủy văn sai: mưa gây ra lũ tính nhỏ lưu lượng đỉnh lũ nhỏ; tổng
lượng lũ nhỏ hơn thực tế; các dạng lũ không phải là bất lợi; thiếu lưu vực;

lập đường cong dung tích hồ W = f(H) lệch về phía lớn, lập đường cong xả lũ
-

của đập tràn Q = f(H) sai lệch với thực tế.
Cửa đập tràn bị kẹt.
Lũ vượt tần suất thiết kế, không có tràn xả lũ dự phòng.
Đỉnh đập đắp thấp hơn cao trình thiết kế.

Hình 1-8: Các giai đoạn xói mòn khi nước tràn qua đỉnh đập
1.4.2. Sạt mái đập thượng lưu
- Tính sai cấp bão.
- Biện pháp thiết kế gia cố mái không đủ sức chịu đựng sóng do bão gây ra.
- Thi công lớp gia cố kém chất lượng: kích thước đá lát hoặc tấm bê tông nhỏ
hơn thiết kế; chất lượng đá hoặc bê tông kém; đá lát đặt nằm. Không chèn
-

chặt các hòn đá.
Đất mái đập thượng lưu đầm nện không chặt, hoặc không xén mái.


15

1.4.3. Thấm
1.4.3.1. Thấm mạnh gây sủi nước ở nền đập
- Đánh giá sai tình hình địa chất nền, để sót lớp thấm mạnh không được xử lý.
- Biện pháp thiết kế xử lý nền không đảm bảo chất lượng.
- Chất lượng xử lý nền kém: khoan phụt không đạt yêu cầu; hót không sạch
-

lớp bồi tích; thi công chân khay, sân phủ kém dẫn đến thủng lớp cách nước.

Xử lý lớp tiếp giáp nền và thân đập không tốt do thiết kế không đề ra biện

pháp xử lý, hoặc do khi thi công không thực hiện tốt biện pháp xử lý.
1.4.3.2. Thấm mạnh gây sủi nước ở vai đập
- Thiết kế không đề ra biện pháp xử lý hoặc biện pháp xử lý đề ra không tốt.
- Không bóc hết lớp thảo mộc ở các vai đập.
- Đầm nện đất trên đoạn tiếp giáp ở các vai đập không tốt.
- Thi công biện pháp xử lý không tốt.
1.4.3.3. Thấm mạnh gây sủi nước ở mang công trình
- Thiết kế không đề ra biện pháp xử lý hoặc biện pháp không tốt.
- Đắp đất ở mang công trình không đảm bảo chất lượng: chất lượng đất đắp
không được lựa chọn kỹ, không dọn vệ sinh sạch sẽ để vứt bỏ các tạp chất
-

trước khi đắp đất, đầm nện không kỹ.
Thực hiện biện pháp xử lý không đảm bảo chất lượng.
Hỏng khớp nối của công trình.
Cống bị thủng do hỏng khớp nối (hồ Bản Muông – Sơn La).

1.4.3.4. Thấm mạnh hoặc sủi nước trong phạm vi thân đập
- Bản thân đất đắp có chất lượng không tốt: hàm lượng cát, bụi dăm sạn nhiều,
-

hàm lượng sét ít, đất bị tan rã mạnh.
Kết quả khảo sát sai với thực tế, cung cấp sai các chỉ tiêu cơ lý lực học, do
khảo sát sơ sài, khối lượng khảo sát thực hiện ít, không thí nghiệm đầy đủ

-

các chỉ tiêu cơ lý lực học cần thiết, từ đó đánh giá sai chất lượng đất đắp.

Chọn dung trọng khô thiết kế quá thấp, nên đất sau khi đầm vẫn tơi xốp, bở

-

rời.
Không có biện pháp thích hợp để xử lý độ ẩm, do đó độ ẩm của đất đắp
không đều, chỗ khô chỗ ẩm, làm cho đất sau khi đắp có chỗ chặt có chỗ vẫn

-

rời rạc tơi xốp.
Đất được đầm nện không đảm bảo độ chặt yêu cầu do: lớp đất rải dày quá
qui định, số lần đầm ít, nên đất sau khi đắp có độ chặt không đồng đều, phân
lớp, trên mặt thì chặt phía dưới vẫn còn tơi xốp không đạt độ chặt qui định,
hình thành từng lớp đất yếu nằm ngang trong suốt cả bề mặt lớp đầm.


16

-

Thiết kế và thi công không có biện pháp xử lý khớp nối thi công do phân

-

đoạn đập để đắp trong quá trình thi công.
Thiết bị tiêu nước bị tắc.

Hình 1-9: Sạt lở mái hạ lưu đập do thấm
1.4.4. Nứt ngang đập

- Lún nền đột biến do chất lượng nền kém.
- Lún không đều đột biến trong thân đập do chênh lệch đột biến về địa hình
-

nền đập không được xử lý.
Đất đắp đập có tính lún ướt lớn hoặc tan rã mạnh nhưng khi khảo sát không

phát hiện ra, hoặc có phát hiện ra nhưng thiết kế kết cấu đập không hợp lý.
1.4.5. Nứt dọc đập
- Nước hồ chứa dâng cao đột ngột gây ra tải trọng trên mái đập thượng lưu
-

tăng đột biến.
Nước hồ rút xuống đột ngột gây ra giảm tải đột ngột trên mái thượng lưu.
Nền đập bị lún trên chiều dài dọc tim đập.
Đất đắp đập khối thượng lưu có tính lún ướt hoặc tan rã mạnh nhưng khảo
sát không phát hiện ra hoặc có phát hiện ra nhưng thiết kế kết cấu đập không

hợp lý.
1.4.6. Nứt nẻ sâu mặt hoặc mái đập
- Đất đắp đập thuộc loại trương nở tự do mạnh.
1.4.7. Trượt sâu mái đập thượng lưu
Trong quá trình quản lý, khai thác, vận hành, có nhiều hồ chứa phải hạ thấp
mực nước hoặc tháo cạn hồ qua cống lấy nước, cống xả đáy, tuynen…để tránh gây
ra sự cố, bảo đảm an toàn công trình (khi có nguy cơ vỡ đập) hoặc tháo cạn để hồ
phục vụ công tác sửa chữa. Nước hồ rút quá nhanh dẫn đến gây trượt mái thượng
lưu đập đất. Các công trình đập Bản Chành (Lạng Sơn), bờ sông Đà hạ lưu thủy
điện Hòa Bình, hồ Tây Di Linh (Lâm Đồng)…Các nguyên nhân gây trượt sâu mái
thượng lưu là:



17

-

Bão lớn sóng to kéo dài, đầu tiên phá hỏng lớp gia cố, tiếp đó phá hoại khối

-

đất ở phần thượng lưu thân đập.
Nước hồ rút đột ngột ngoài dự kiến thiết kế.
Sức bền của đất đắp đập không đảm bảo các yêu cầu của thiết kế.
Thiết kế chọn tổ hợp tải trọng không phù hợp với thực tế.
Thiết kế chọn sai sơ đồ tính toán ổn định.
Chất lượng thi công đất đắp đập không đảm bảo yêu cầu thiết kế.
Địa chất nền đập xấu không được xử lý.

Hình 1-10: Trượt mái thượng lưu hồ Tây Di Linh (Lâm Đồng)
1.4.8. Trượt sâu mái đập hạ lưu
- Địa chất nền xấu hơn dự kiến của thiết kế do khảo sát đánh giá không đúng
-

với thực tế.
Sức bền của đất đắp đập kém hơn dự kiến của thiết kế do đánh giá sai các chỉ

-

tiêu về chất lượng đắp đập.
Nền đập bị thoái hóa sau khi xây dựng đập nhưng khi khảo sát và thiết kế đã


-

không dự kiến được.
Thiết kế chọn sai tổ hợp tải trọng.
Thiết kế chọn sai sơ đồ hoặc phương pháp tính toán.
Chất lượng thi công đất đắp đập không đảm bảo.
Thiết bị tiêu nước bị tắc làm dâng cao đường bão hòa.
Tiêu thoát nước mưa trên mặt mái hạ lưu không tốt, khi mưa kéo dài toàn
thân đập bị bão hòa nước ngoài dự kiến của thiết kế.


18

1.5. Những giải pháp an toàn cho một vài đập vật liệu địa phương
Bảng 1-5:Thống kê nguyên nhân, biện pháp khắc phục của một vài công trình đã
được xử lý
Công

Địa

trình

điểm

Năm
xảy ra

Sự cố

Biện pháp khắc phục


sự cố

Hồ

Huyện

Vỡ 180m

Suối

Cam

đập

đất

Ranh – phía cống 1986

Hành
(Đập Khánh
đất)
Hòa

Nguyên nhân

lấy nước
bờ tả

-Khoan phụt xử lý

Chủ yếu do khảo sát nền đập.
thiết kế không hợp -Lựa chọn lại kết cấu
lý,

thiếu

kinh đập.

nghiệm.

-Chọn lại chỉ tiêu cơ
lý đất đắp đập.

-Do thiết kế và thi
Hồ

Huyện

Suối

Ninh

Trầu

Hòa-

(Đập

Khánh


đất)

Hòa

Hồ Phú Huyện
Ninh
(Đập
đất)

Ba lần sự
cố vỡ đập 1977
chính, 1 1978
lần vỡ đập 1980
1983
phụ.

Sủi nước 1979

Tam Kỳ mạnh



công.
-Thiết kế chưa đạt
yêu cầu chỉ tiêu đất Chọn lại đất đắp đập
đắp, biện pháp xử lý và kết cấu đập.
mang cống và đập.
-Thi công chưa đảm
bảo chất lượng.
-Thiết kế: Khảo sát -Lần 1: Thiết kế bổ

chưa đánh giá hết sung tầng lọc ngược

- Quảng đập chính

khả năng thấm nước tốt phía ngoài phạm

Nam

nền đập.
-Thi công:

vị chân đập hạ lưu,
Chân

chạy suốt chân đập.
khay chống thấm có -Lần 2: Làm 2 dải
một số đoạn thi công lọc xuyên qua lớp
không đảm bảo chất bồi tích ở nền đập
lượng.

dọc 2 bên bờ để dẫn
nước ngầm từ trong
lớp bồi tích ở nền


19

Công

Địa


trình

điểm

Năm
xảy ra

Sự cố

Nguyên nhân

Biện pháp khắc phục

sự cố

đập chảy vào lăng
trụ tiêu nước.
Hồ

Huyện

Sông

Như

Mực

Xuân –


(Đập

Thanh

đất)

Hóa

Vỡ

Do đơn vị thi công

đập

đất trong
quá trình

thay đổi phương án
1978

dẫn dòng, để nước
tràn qua đập đất gây

thi công

Xử lý lại móng và
đắp lại đập.

vỡ đập.
-Đơn vị thi công sử


Hồ Vực
Tròn
(Đập
đất)

Huyện
Quảng

-Thấm

dụng đất đắp đập

đập chính.
-Sạt lớp

không

1984
Trạch –
gia cố mái 1984
Quảng
thượng
Bình
lưu.

đúng

quy


-Khoan phụt vữa xi

măng sét vào thân
hoạch vật liệu.
-Thi công lớp gia cố đập.
-Gia cố lại mái
mái không đúng theo
thượng lưu.
thiết kế: đường kính
lớp đá, cường độ đá.

Hồ Cà
Giây
(Đập
đất)

Hồ Cửa
Đạt
(Đập
đất đá)

Huyện
Bắc
Bình –
Bình

Thấm qua
đập chính

1998


Thuận
Huyện
Thường
Xuân –
Thanh
Hóa

Vỡ

đoạn

đập chính Tháng
phía
hữu.

bờ 10/2007

-Xây dựng một đập
-Lũ thiết kế tính nhỏ.
-Do lún nền và sập tràn sự cố.
-Khai quật và đắp lại
nền.
-Thẩm lậu qua tiếp đoạn đập bị sự cố.
-Khoan phụt xi măng
giáp các lớp đất qua
sét thân đập trên toàn
các năm thi công.
tuyến.
Lũ dẫn dòng thi

công vượt quá tần
suất thiết kế.


20

1.6.

Những kết quả nghiên cứu về an toàn đập trên thế giới và Việt Nam

1.6.1. Trên thế giới
Ken Y.Lum và Megan R.Sheffer đã tiến hành nghiên cứu và đánh giá các
phương pháp địa vật lý nhằm phát hiện thẩm thấu và xói ngầm bên trong các đập
đất. Ngoài ra nghiên cứu cũng đưa ra một số phương pháp đơn giản, không cần đến
thiết bị quan trắc để giải quyết vấn đề này, ưu và nhược điểm của từng phương
pháp.
F.J. Colomer Mendoza và các đồng nghiệp đã nghiên cứu để xác định các hệ số
an toàn cho đập đất nhỏ dưới 10m. Các tác giả đề xuất một số phương trình dùng
cho tính toán chỉ số an toàn cho đập đất.
Corinne Curt, Aurélie Talon, Gilles Mauris đã nghiên cứu và xây dựng một hệ
thống hỗ trợ đánh giá an toàn đập dựa trên cơ sở phương pháp quan trắc và chuyên
gia cho điểm.
Nic Lane đã đi sâu phân tích những rủi ro đập, các biện pháp quản lý an toàn
đập, hạn chế những thiệt hại do đập hư hỏng gây ra, và một số biện pháp nâng cấp
đập đất ở Mỹ. Đây là báo cáo được chuẩn bị cho các thành viên của Hạ nghị viện
Mỹ.
Yuefeng Sun, Haotian Chang, Zhengjian Miao, Denghua Zhong đã tập trung
nghiên cứu an toàn đập dựa trên việc phân tích những nguyên nhân dẫn đến tràn đập
như phương pháp tính toán chiều cao đập, sóng, gió, tần suất thiết kế, từ đó thiết lập
một phương pháp mô phỏng và đánh giá nguy cơ tràn đập đất.

Jusung Jeon, Jongwook Lee, Donghoon Shin, Hangyu Park đã tổng kết kết quả
nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý an toàn đập cho chính phủ Hàn Quốc nhằm
quản lý một cách đồng nhất và hiệu quả an toàn của hơn 30 đập ở Hàn Quốc. Hệ
thống quản lý này bao gồm cơ sở dữ liệu về các chỉ tiêu thiết kế, đặc tính hồ đập, số
liệu khí tượng thủy văn, số liệu quan trắc các yếu tố thủy văn thủy lực và kết cấu
đập, các số liệu quan trắc động đất. Với hệ thống này, các cơ quan quản lý của
chính phủ Hàn Quốc, các chủ đập sẽ rất chủ động phát hiện ra những hư hỏng,
những nguy cơ mất an toàn đập, từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời.


21

1.6.2. Ở Việt Nam
Vấn đề an toàn đập vật liệu địa phương ngày càng trở nên cấp thiết và được
quan tâm đúng mực hơn trong thời kì biến đổi khí hậu hiện nay. Đã có nhiều nghiên
cứu được sử dụng như tài liệu tham khảo để thiết kế, thi công, đánh giá an toàn đập.
Sổ tay an toàn đập được lập ra để đảm bảo tính hệ thống về an toàn đập từ các
khâu thiết kế, thi công, quản lý vận hành, bảo trì, kiểm tra đánh giá mức độ an toàn
đập theo định kỳ, công tác tổ chức an toàn đập và trách nhiệm đối với an toàn đập
từ chủ đập đến các cấp, cơ quan quản lý, các ngành có liên quan đến an toàn đập
theo quy định của Nghị định 72/ND-CP.
GS.TS. Phan Sỹ Kỳ đã thống kê sự cố một số công trình thủy lợi ở Việt Nam,
tìm ra nguyên nhân và đề ra biện pháp phòng tránh.
Nguyễn Văn Mạo và nhóm nghiên cứu (ĐHTL) năm 2010 đã tiến hành nghiên
cứu cơ sở khoa học để từ đó đề xuất các giải pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo an toàn
cho các công trình xây dựng trong điều kiện thiên tai bất thường miền Trung.
Nguyễn Phương Mậu và nhóm nghiên cứu (ĐHTL) năm 2009 đã nghiên cứu
giải pháp quản lý các hồ chứa vừa và nhỏ miền Trung và Tây Nguyên nhằm chống
hạn trong những thời kỳ thiếu nước từ đó đưa ra các kiến nghị quản lý, sử dụng
nguồn nước hồ hợp lý để phục vụ pháp triển nông nghiệp trong những năm hạn.

Nguyễn Thế Hùng và nhóm nghiên cứu (ĐHBKĐN) đã sử dụng mô hình số
tương tác giữa nước và kết cấu mặt không thẳng đứng ở thượng lưu đập để xác định
chính xác áp suất thủy động (áp suất dao động của nước do động đất) tác dụng lên
kết cấu đập trong vùng địa chấn. Kết quả nghiên cứu nêu lên hình dạng bề mặt
thượng lưu của đập ảnh hưởng khá lớn đến độ lớn và sự phân bố của áp lực thủy
động. Kết quả nghiên cứu này cần được quan tâm và áp dụng đúng mức khi thiết kế
đập trong vùng chịu ảnh hưởng của động đất như sự khuyến cáo của các nhà địa
chất trong thời gian gần đây trên các vùng có khả năng động đất cao.


×