Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Hiệu lực của hợp đồng theo quy định bộ luật dân sự năm 2015 một số vấn đề lí luận và thực tiễn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.04 KB, 17 trang )

Câu 8. Hiệu lực của hợp đồng theo quy định bộ luật dân sự năm 2015một số vấn đề lí luận và thực tiễn.
A. MỞ ĐẦU
Hợp đồng là một trong những chế định quan trọng và xuất hiện sớm nhất
trong lịch sử của pháp luật dân sự. Ở Việt Nam trước khi Bộ Luật Dân Sự năm
1995 ra đời có rất nhiều văn bản pháp luật khác đưa ra các những quy định để điều
chỉnh về quan hệ hợp đồng. Song đến Bộ Luật Dân Sự năm 1995 và Bộ Luật Dân
Sự 2005 thì hợp đồng dân sự đã được xem xét, quy định một cách đầy đủ và hoàn
thiện hơn. Trong bối cảnh hiện nay Việt Nam luôn phát triển sâu rộng, định hướng
phát triển một nền kinh tế mở và ngày càng hoàn thiện định hướng xã hội chủ
nghĩa vì vậy mà hợp đồng ngày càng thể hiện được vai trò của nó trong nền kinh tế
hiện đại. Do vậy việc xác định hiệu lực của hợp đồng có nghĩa vô cùng quan trọng,
tuy nhiên bên cạnh đó còn một số vướng mắc và thực tiễn vì vậy tôi xin chọn đề tài
“Hiệu lực của hợp đồng theo quy định bộ luật dân sự năm 2015 - một số vấn đề li
luận và thực tiễn”.

1


B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG
Trong pháp luật của các nước phát triển phương Tây (còn gọi là các nước tư
sản), chế định hợp đồng được coi là một chế định hoàn thiện và ít mang dấu ấn
chính trị nhất. Trong chế định này, tự do hợp đồng được khẳng định như một
nguyên tắc chủ yếu trong các giao dịch dân sự, thương mại, toàn bộ chế định hợp
đồng được xây dựng trên nền tảng của tự do, bình đẳng. Có thể nói đó là chế định
pháp luật có tính nhất thể hóa cao trong pháp luật tư sản. Trong hệ thống pháp luật
của các nước Xã hội chủ nghĩa, chế định hợp đồng cũng là một chế định cơ bản
bên cạnh các chế định quyền sở hữu, quyền thừa kế….
Ở Việt Nam, các bộ cổ luật đã từng tồn tại trước đây như Luật Hồng Đức, Bộ
luật Gia Long không có quy định riêng về hợp đồng dân sự mặc dù trong thực tế
hình thành rất nhiều quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể với nhau.Qua quá trình


phát triển, cùng với sự phát triển của pháp luật dân sự nói chung, chế định về hợp
đồng dân sự ngày càng được xem là một chế định có vai trò trung tâm, cơ bản
trong pháp luật dân sự.
Trong Bộ luật dân sự năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, chế định về hợp đồng dân sự đã được khẳng định với 205 điều trên tổng số
777 điều luật (từ Điều 388 đến điều 593) đó là chưa kể đến 45 điều quy định về các
hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất (từ điều 693 đến điều 732). Điều đó
chứng tỏ chế định hợp đồng dân sự đóng vai trò rất quan trọng. Chế định này tập
trung làm rõ các vấn đề liên quan đến việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự, các
hợp đồng dân sự thông dụng…

2


Đến Bộ Luật Dân Sự năm 2015 được quy định tại chương XV mục 7 từ Điều
385 đến Điều 408 chưa kể đến quy định về các hợp đồng liên quan.
Có thể nói hợp đồng xuất hiện trong sản xuất hàng hàng hóa trao đổi mua bán
và chế độ công hữu.1
1. Khái niệm hợp đồng dân sự theo quy định của Bộ Luật Dân Sự năm
2005 và hợp đồng Bộ Luật Dân Sự năm 2015
Hợp đồng dân sự là một khái niệm có nguồn gốc lâu đời và thông dụng nhất,
là một trong những chế định quan trọng của pháp luật Dân sự. Có rất nhiều cách
định nghĩa “Hợp đồng dân sự”, chẳng hạn:
Theo phương diện chủ quan: Hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự, trong
đó các bên có sự thỏa thuận thống nhất ý chí với nhau nhằm xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự cho nhau.
Theo phương diện khách quan: Hợp đồng dân sự là một loại quan hệ xã hội
được quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh và thể hiện dưới một hình thức nhất
định.
Dưới góc độ pháp luật thực định, khái niệm hợp đồng dân sự tại Việt Nam

được quy định tại Điều 388 Bộ luật dân sự 2005, theo đó: “Hợp đồng dân sự là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.”
Đối với hợp bộ luật dân sự năm 2015 được quy định Cụ thể tại Điều 385
BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”.
/>%A3p_%C4%91%E1%BB%93ng_(Lu%E1%BA%ADt_d%C3%A2n_s%E1%BB%B1_Vi
%E1%BB%87t_Nam)
1

3


So sánh với định nghĩa về hợp đồng trong Bộ luật dân sự năm 2005 có thể
nhận thấy định nghĩa về hợp đồng trong Bộ luật dân sự năm 2015 có một sự tiến
bộ đáng kể. Nếu Điều 394 Bộ luật dân sự năm 2005 sử dụng thuật ngữ “Khái niệm
hợp đồng dân sự” thì Điều 385 BLDS năm 2015 đã bỏ đi cụm từ “dân sự” và chỉ
để “Khái niệm hợp đồng”. Định nghĩa này thể hiện sự tiến bộ và hợp lý bởi lẽ khái
niệm hợp đồng vừa thể hiện sự ngắn gọn, súc tích vừa mang tính khái quát cao
được hiểu là bao gồm tất cả các loại hợp đồng theo nghĩa rộng (hợp đồng dân sự,
hợp đồng lao động, hợp đồng kinh tế, hợp đồng chuyển giao công nghệ...) chứ
không chỉ là các hợp đồng dân sự theo nghĩa hẹp đơn thuần. Quy định này. cũng
tạo sự thống nhất, tránh sự chồng chéo của nội dung các văn bản và cũng thể hiện
được sự bao quát của Bộ luật dân sự là đạo luật gốc của hệ thống luật tư.
2. Đặc điểm của hợp đồng
Thứ nhất, Phải có ít nhất hai bên chủ thể
Khác với giao dịch là hành vi pháp lý đơn phương thể hiện ý chí của một bên
chủ thể như di chúc, hứa thưởng; hợp dồng phải lả sự thể hiện ý chí của ít nhất hai
bên chủ thể. Cần lưu ý rằng ở dây có sự tham gia của hai bên chủ thể trong quan hệ
hợp đồng chứ không phải là hai người vì mỗi bên có thể bao gồm một hoặc nhiều

người. Thông thường, một hợp đồng bao gồm hai bên nhưng cũng có những hợp
đồng có thể bao gồm ba, bốn bên... được gọi chung là hợp đồng đa phương.
( ví dụ: a với b giao kết hợp đồng thì đây là 2 bên chủ thể ...)
Thứ hai, Phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên
Hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí các bên. Nhưng phải là ý chí thỏa
thuận của các bên.
(Ví dụ: Các bên đàm phán, tranh luận, thỏa thuận...)

4


Thứ ba, Sự thỏa thuận phải có hậu quả pháp lý làm xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
Không phải mọi sự thỏa thuận và có sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên
thì đều hình thành nên hợp đồng.
(Ví dụ: Như thỏa thuận kết hôn, thỏa thuận một cuộc hẹn... không phải là hợp
đồng. Chỉ những thỏa thuận có hậu quả pháp lý nhằm làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự mới hình thành nên hợp đồng.)
Thứ tư: Hợp đồng thể hiện dưới một hình thức nhất định
Hợp đồng có thể thể hiện dưới một hình thức nhất định hình thức ở đây có thể
thể hiện ở dạng lời nói, hình thứ bằng văn bản, hình thức hợp đồng có công chứng,
chứng thực hoặc bằng hành vi cụ thể.
(Ví dụ: Như hợp đồng gửi xe trong Trường Đại Học Kiểm Sát Hà Nội thường
xác lập dưới hình thức bằng lời nói, hay hợp đồng mua bán nhà đòi hỏi phải lập
thành văn bản có công chứng, chứng thực...)
3. Phân loại hợp đồng
Theo Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra định nghĩa một số hợp
đồng cơ bản, tuy nhiên, trong thực tiễn có rất nhiều loại hợp đồng, ta có thể dựa
vào các căn cứ khác nhau để phân biệt các loại hợp đồng.
Thứ nhất: Phân loại hợp đồng dựa vào mối liên quan giữa chúng

Nếu dựa vào mối liên quan về hiệu lực và chức năng giữa hai hợp đồng với
nhau thì các hợp đồng này được xác định thành:
Hợp đồng chính: Là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng
kia.

5


Hợp đồng phụ: Là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào họp đồng chính.
Theo đó, hợp đồng phụ có chức năng hỗ trợ, bảo đảm cho việc thực hiện hợp
đồng chính, hợp đồng phụ được thực hiện khi hợp đồng chính không được thực
hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi đến hạn. Cũng vì vậy, nếu hợp đồng
chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng vô hiệu, trừ trường hợp hợp đồng chính vô
hiệu nhưng đã được thực hiện toàn bộ hoặc một phần.
Chẳng hạn, giữa hợp đồng vay tài sản với hợp đồng thế chấp tài sản để bảo
đảm thực hiện hợp đồng vay thì hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chính, hợp đồng
thế chấp tài sản là hợp đồng phụ. Trong trường hợp hợp đồng vay vô hiệu và chưa
được thực hiện thì hợp đồng thế chấp cũng bị vô hiệu. Nếu hợp đồng vay vô hiệu
nhưng bên cho vay đã chuyển tài sản cho bên vay thì hợp đồng thế chấp vẫn có
hiệu lực pháp luật và bên nhận thế chấp phải bảo đảm việc trả lại tài sản vay mà
bên vay đã nhận.
Thứ hai: Phân loại hợp đồng dựa vào quyền và nghĩa vụ của các bên và ý
nghĩa của việc phân loại
Căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của các bên, hợp đồng được phân thành hai
loại sau:
Hợp đồng đơn vụ: Là hợp đồng làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên
tham gia hợp đồng mà trong quan hệ nghĩa vụ đó chỉ một bên có nghĩa vụ.
Hợp đồng song vụ: Là hợp đồng làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên
tham gia hợp đồng mà trong quan hệ nghĩa vụ đó mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với
nhau.

Như vậy, khi xác định một hợp đồng là đơn vụ hay song vụ phải dựa vào
quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng (chính là

6


thời điểm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên). Vì vậy, có thể cùng loại hợp
đồng nhưng ở trường hợp này là hợp đồng song vụ, ở trường hợp khác lại là hợp
đồng đơn vụ. Chẳng hạn, hợp đồng cho vay được thỏa thuận là có hiệu lực từ thời
điểm các bên cùng ký vào văn bản hợp đồng thì hợp đồng vay này là hợp đồng
song vụ vì từ thời điểm đó đã phát sinh một quan hệ nghĩa vụ và trong đó cả bên
cho vay và bên vay đều có nghĩa vụ (bên cho vay có nghĩa vụ giải ngân, bên vay
có nghĩa vụ trả nợ). Nếu hợp đồng cho vay được thỏa thuận là chỉ có hiệu lực khi
bên cho vay đã chuyển tài sản vay cho bên vay thì hợp đồng vay này là hợp đồng
đơn vụ vì vào thời điểm hợp đồng có hiệu lực, bên cho vay không còn nghĩa vụ.
Thứ ba: Phân loại hợp đồng dựa vào sự trao đổi ngang giá và ý nghĩa của
việc phân loại
Hợp đồng có đền bù: Là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích từ
bên kia chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho bên kia một lợi ích tương ứng.
Hợp đồng không có đền bù: Là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi
ích do bên kia chuyển giao nhưng không phải chuyển giao lại bất kỳ lợi ích nào.
Như vậy, căn cứ vào sự trao đổi ngang giá (có đi có lại về lợi ích giữa các
bên) để xác định hợp đồng nào là có đền bù, hợp đồng nào là không có đền bù.
Chẳng hạn, hợp đồng mua bán tài sản luôn luôn là hợp đồng có đền bù vì khi
bên mua nhận được tài sản do bên bán chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho
bên bán một khoản tiền tương đương với giá trị tài sản đã nhận; hợp đồng cho vay
có lãi là hợp đồng có đền bù vì khi bên vay nhận được lợi ích là được sở hữu vốn
vay trong thời hạn nhất định thì phải chuyển giao cho bên cho vay một khoản lợi
ích là tiền lãi tương ứng với vốn vay và thời gian vay; hợp đồng cho vay không có
lãi là hợp đồng không có đền bù vì bên vay nhận được lợi ích là được sở hữu vốn

vay trong một thời hạn nhất định nhưng không phải chuyển giao cho bên cho vay
7


một lợi ích nào tương ứng với việc được sở hữu khoản vay trong thời hạn nhất
định.
Thứ tư: Phân loại hợp đồng theo thời điểm có hiệu lực
Hợp đồng ưng thuận: Là hợp đồng có hiệu lực trước thời điểm các bên
chuyển giao đối tượng của hợp đồng cho nhau.
Ví dụ: Hợp đồng mua bán tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kểt, các bên có
nghĩa vụ chuyển giao tài sản và trả tiền cho nhau sau thời điểm này là một hợp
đồng ưng thuận.
Hợp đồng thực tế: Là hợp đồng chỉ có hiệu lực khi các bên đã chuyển giao đối
tượng của hợp đồng cho nhau.
Ví dụ: Họp đồng tặng cho luôn là hợp đồng thực tế, vì pháp luật đã quy định
hợp đồng này chỉ có hiệu lực vào thời điểm bên được tặng cho đã nhận được tài
sản tặng cho.
Hợp đồng luôn là một công cụ quan trọng, được sử dụng rộng rãi nhằm phục
vụ nhu cầu và lợi ích khác nhau của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Liên quan
đến quy định về giai đoạn tiền hợp đồng và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, Bộ
luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã có những thay đổi phù hợp để tạo thuận lợi tối
đa cho các bên tham gia giao dịch.
4. Quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng để hợp đồng có thể được xác
định là một căn cứ pháp lý phát sinh nghĩa vụ là nội dung liên quan đến các điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng. Theo BLDS 2015, có 4 điều kiện về hiệu lực của
hợp đồng.

8



Điều kiện về chủ thể giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 117 BLDS
2015 “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập”.
Việc sử dụng thuật ngữ “chủ thể” thay cho thuật ngữ “người tham gia giao
dịch” như ở BLDS 2005 cho thấy được sự toàn diện và cách hiểu thống nhất về
những đối tượng có thể tham gia xác lập giao dịch, tránh được cách hiểu phiến diện
chỉ là cá nhân.
Điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể khi giao kết hợp đồng được quy định
“chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”. Điều này thể hiện một phần
nguyên tắc “tự do hợp đồng” trong lý luận về hợp đồng truyền thống, được hiểu là
ý chí bên trong của mỗi chủ thể và sự thể hiện ý chí đó ra bên ngoài có sự thống
nhất với nhau. Khi vi phạm điều kiện về tính tự nguyện, hợp đồng có khả năng bị
tuyên bố vô hiệu.
Mục đích và nội dung của hợp đồng cũng là một trong những yêu cầu cần
phải đáp ứng khi xem xét tính có hiệu lực của một hợp đồng. Theo nguyên tắc
chung, “việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm
đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác”. Từ “và” ở đây được sử dụng thể hiện tính chặt chẽ trong quy định pháp luật
về nội dung này mà những chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải đảm bảo.
Khác với ba điều kiện trên, điều kiện về hình thức không phải là điều kiện có
hiệu lực đối với mọi hợp đồng: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Việc sửa đổi
thuật ngữ “pháp luật” thành “luật” mang lại một ý nghĩa to lớn khi quy định hình
thức hợp đồng trong các văn bản dưới luật không có giá trị áp dụng, tạo thuận lợi

9


cho các chủ thể giao kết hợp đồng khi không phải tra cứu quá nhiều văn bản để rà

soát những quy định pháp luật về điều cấm.

II. HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2015- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
1. Hiệu lực của hợp đồng theo quy định Bộ Luật Dân Sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 401 Bộ Luật Dân Sự năm 2015 về Hiệu lực của hợp
đồng như sau:
“1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.
2. Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa
vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo
thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật”.
Việc xác định hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm các bên tham gia hợp đồng chính thức
bị ràng buộc bởi các thỏa thuận của mình trong hợp đồng. Luật pháp các nước quy
định hợp đồng được giao kết hợp pháp có giá trị là luật của cát hên.
Do vậy, khi hợp đồng đã được giao kết hợp pháp, hợp đồng có hiệu lực pháp
luật, điều đó có nghĩa là một trong các bên không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ thỏa
thuận đã được giao kết. Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng có thế được
thực thì ngay vào thời điểm giao kết hoặc vào một thời điểm nào đó do luật quy
định hoặc các bên thỏa thuận.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì việc xác định thời điểm có hiệu của
hợp đồng đang tồn tại ở nhiều văn bản luật khác nhau, điều này đã và đang gây
10


không ít khó khăn trong thực tế hiện nay. Khoản 1 Điều 401 Bộ luật dân sự năm
2015 của nước ta quy định hợp đồng phát sinh hiệu lực vào thời điểm giao kết hợp
pháp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan quy định khác.
Như vậy, có ba căn cứ xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng như đã

phân tích ở trên và thứ tự ưu tiên để áp dụng các căn cử đó lần lượt là:
+ Một là: theo quy định của luật liên quan,
+ Hai là: theo thỏa thận của các bên
+ Ba là: theo thoời điểm giao kết hợp đồng
Về thời điểm giao kết hợp đồng dân sự được Điều 400 Bộ luật dân sự năm
2015 quy định theo nguyên tắc chung, hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên
đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Ngoài ra, tùy theo hình
thức, cách thức giao kết mà thời điểm giao kết hợp đồng được duy định khác nhau,
và vì vậy, hợp đồng được coi là có hiệu lực vào một trong các thời điểm sau đây:
- Hợp đồng bằng lời nói hoặc hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được
xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định tại thời điểm
các bên đã trực tiếp thỏa thuận với nhau về những nội dung của hợp đồng.
Ví dụ: A điện thoại cho B thỏa thuận về hợp đồng lao động thỏa thuận về các
điều khoản liên quan. Ngày hôm sau A mới đến công ty của B để ký kết hợp đồng
lao động.
- Hợp đồng bằng văn bản thường có hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Ví dụ: Hình thức điểm chỉ, ký tên, đóng dấu, ...

11


- Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép
có hiệu lực tại thời điểm hợp đồng đó được công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc
cho phép.
Ví dụ: Họp đồng mua bán nhà thường có hiệu lực khi đã được công chứng,
chứng thực...
- Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết thì
hợp đồng cũng được xem là giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề
nghị vẫn im lặng.

Ví dụ: A và B có thỏa thuận mua một lô hàng theo đó A cho B thời gian để
suy nghĩ là 5 ngày nếu như sau 5 ngày mà B không trả lời thì coi như là đã chấp
nhận giao kết hợp đồng.
- Bên cạnh đó, hợp đồng còn có thể có hiệu lực sau thời điểm nói trên nếu các
bên đã tự thỏa thuận với nhau hoặc trong trường hợp pháp luật đã quy định cụ thể.
Ví dụ: Khoản 2 Điều 459 Bộ luật dân sự năm 2015 xác định rõ: “Hợp đồng
tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kéo từ thời điển
chuyển giao tài sản ”.
2. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.
Theo khoản điều 401 Bộ Luật Dân Sự năm 2015 quy định rằng:
“Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa
vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo
thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật”.

12


Từ điều trên ta có thể hiểu rằng vậy, theo Bộ luật dân sự năm 2015 của Việt
Nam, trên thực tế sẽ có những trường hợp đã giao kết nhưng chưa có hiệu lực pháp
luật.
Ví dụ: Tại khoản 2 Điều 459 Bộ luật dân sự năm 2015 về hợp đồng tặng cho
bất động sản “2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng
ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có
hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản”.
Đặt ra vấn đề: trong thời gian từ lúc giao kết đến trước khi hợp đồng có hiệu
lực, làm sao có thể ràng buộc được trách nhiệm của bên giao kết một khi bên này
phá vỡ cam kết?
Ví dụ: a tặng cho b bất động sản nhưng vì một lí do nào đó a không thể cùng
b thực hiện việc đăng ký hoặc hoàn thành các thủ tục giấy tờ. Vì vậy trong trường

này cũng không áp dụng chế độ trách nhiệm trong hợp đồng được mặc dù 2 bên đã
có thỏa thuận và nếu xét cho cùng trong trường hợp này hợp đồng vẫn chưa có
hiệu lực.
Bộ luật dân sự lại chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm trong giai đoạn
chuẩn bị hợp đồng nên cơ chế xử lý tranh chấp chắc chắn phải dựa trên trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Vì vậy, quy định tại khoản 2 Điều 401 bộ luật dân sự năm 2015 “Từ thời
điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau
theo cam kết”
Tôi nhận thấy rằng không ổn về mặt lôgic và cũng như tính khả quan khi áp
dụng khoản này trên thực tế khi có một hợp đồng được giao kết mà hợp đồng đó
lại chưa có hiệu lực của pháp lực khi mà bên có quyền lợi bị xâm phạm quyền lợi

13


của mình thì không bảo vệ được quyền lợi của mình trong hợp đồng mà chỉ bảo vệ
quyền lợi của mình ngoài hợp đồng.
Mặt khác, dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hiệu lực của hợp đồng và thực hiện hợp
đồng vì có thể gây ra hoàn cảnh hợp đồng có hiệu lực nhưng các bên chưa phải
thực hiện ngay.
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng,
xác định được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là xác định được thời điểm phát
sinh quyển và nghĩa vụ của các bên với nhau, và đặc biệt là khi giải quyết các tranh
chấp về tài sản trong hợp đồng mà quy ra thành tiền thì xác định giá trị của tài sản
đó theo giá thị trường tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực. Đồng thời, hiệu lực của
hợp đồng cũng là một trong những căn cứ để xem xét về tính hợp lệ và thời hiệu
khởi kiện trong vụ án dân sự.
Ví dụ: Khi hợp đồng được giao kết nhưng chưa có hiệu lực thì các tranh chấp
nếu có sẽ không được Tòa án thụ lý giải quyết tại thời điểm đó.

Như vậy, để một hợp đồng có hiệu lực thì bản thân hợp đồng đó phải tuân thủ
các điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng, cẩc điều kiện đó tùy theo tính chất,
đặc điểm của các hợp đồng mà sẽ có sự khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại thì có
ba điều kiện cơ bản để một hợp đồng khi đáp ứng các điều kiện đó sẽ có hiệu lực
theo luật định tá điều kiện về mặt chủ thể; điều kiện về mặt nội dung và điều kiện
về mặt hình thức
Hiệu lực của hợp đồng: Theo Điều 401 của BLDS 2015, hợp đồng được giao
kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật liên quan có quy định khác. Như vậy, từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực,
các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ
có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của
14


pháp luật. Và quy định này là nhẳm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của các bên,
đồng thời rõ ràng hơn trong việc thay đổi nội dung hợp đồng (tức là phải có sự
thỏa thuận giữa các bên).

C. KẾT LUẬN
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng,
xác định được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là xác định được thời điểm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau, và đặc biệt là khi giải quyết các tranh
chấp về tài sản trong hợp đồng mà quy ra thành tiền thì xác định giá trị của tài sản
đó theo thời giá thị trường tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực. Đồng thời hiệu lực
của hợp đồng cũng là một trong những căn cứ để xem xét về tính hợp lệ và thời
hiệu khởi kiện trong vụ án dân sự (ví dụ: khi hợp đồng được giao kết nhưng chưa
có hiệu lực thì các tranh chấp nếu có sẽ không được Tòa án thụ lý giải quyết tại
thời điểm đó).
Để một hợp đồng có hiệu lực thì bản thân hợp đồng đó phải tuân thủ các điều
kiện có hiệu lực của một hợp đồng dân sự, các điều kiện đó tùy theo tính chất, đặc

điểm của các hợp đồng mà sẽ có sự khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại thì có ba
điều kiện cơ bản để một hợp đồng khi đáp ứng các điều kiện đó sẽ có hiệu lực theo
luật định là điều kiện về mặt chủ thể; điều kiện về mặt nội dung và điều kiện về
mặt hình thức.

15


Mục lục
A. MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
B. NỘI DUNG...........................................................................................................2
I. KHÁI QUÁT CHUNG.......................................................................................2
1. Khái niệm hợp đồng dân sự theo quy định của Bộ Luật Dân Sự năm 2005 và
hợp đồng Bộ Luật Dân Sự năm 2015..................................................................3
2. Đặc điểm của hợp đồng...................................................................................4
3. Phân loại hợp đồng..........................................................................................5
4. Quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng............................................8
II. HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2015- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.............................10
1. Hiệu lực của hợp đồng theo quy định Bộ Luật Dân Sự năm 2015...............10
2. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.................................................................12
C. KẾT LUẬN.........................................................................................................15

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dâ sự năm 2005
2. Bộ luật dân sự năm 2015
3. />%8Bnh_h%E1%BB%A3p_%C4%91%E1%BB%93ng_(Lu%E1%BA

%ADt_d%C3%A2n_s%E1%BB%B1_Vi%E1%BB%87t_Nam)
4. 123. Docx
5. Báo Thanh Niên

17



×