Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành- Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.61 KB, 8 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước
đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua
cơ quan đại diện là Quốc hội và HĐND các cấp, trong đó HĐND được xác
định là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. HĐND có quyền quyết
định các vấn đề quan trọng ở địa phương đồng thời thực hiện chức năng
giám sát đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan cùng cấp khác; giám sát
việc thực hiện Nghị quyết của hội đồng nhân dân và hoạt động của các tổ
chức, công dân ở địa phương. Việc thực hiện chức năng giám sát của HĐND
có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện vai trò của cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, cơ quan đại biểu của nhân địa phương góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở địa phương,
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân địa phương.Vì vậy việc nghiên cứu về
“ Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật
hiện hành- Thực trạng và giải pháp” sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về vấn đề này.
I – Tổ chức và hoạt động của HĐND
HĐND của các địa phương do nhân dân địa phương bầu ra theo nguyên tắc
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nhiệm kỳ mỗi khóa của HĐND
là 5 năm kể từ kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa đó đến kỳ họp thứ nhất của
HĐND khóa sau.
Để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được Hiến pháp và luật quy định,
HĐND được tổ chức và hoạt động bằng những hình thức sau đây:
1. Các kỳ họp của HĐND:
1
Kì họp HĐND diễn ra 2 kì/năm, được triệu tập bởi thường trực HĐND. Kì
họp là hoạt động quan trọng và thường xuyên nhất của HĐND, là nơi thể hiện
tập trung nhất quyền lực Nhân dân và là nơi thảo luận, quyết định những vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền của HĐND. Kì họp làm việc tập thể và quyết định
theo đa số (hơn 50%) trừ việc bãi nhiệm, miễn nhiệm đại biểu giữ chức trách do
Hội đồng bầu ra là cần 2/3 số người tán thành. HĐND họp công khai, khi cần


thiết hội đồng nhân dân quyết định họp kín theo đề nghị của chủ tọa cuộc họp
hoặc của chủ tịch UBND cùng cấp.
2. Thường trực HĐND:
Thường trực HĐND không phải là cơ quan thường trực của HĐND nhưng có
vai trò quan trọng trong việc điều hòa, phối hợp hoạt động giữa các ban của
HĐND và các đại biểu HĐND. Thường trực HĐND có cả ở 3 cấp là xã, huyện,
tỉnh.
Thường trực HĐND có nhiệm vụ triệu tập và chủ tọa các kì họp của HĐND,
giám sát việc thực hiện Hiến pháp và luật tại địa phương, trình HĐND về việc bỏ
phiếu bất tín nhiệm với người giữ trọng trách do HĐND bầu ra, tổ chức tiếp dân,
giữ mối quan hệ với Ban thường vụ Mặt trận tổ quốc Việt Nam, điều hòa hoạt
động của các ban thuộc HĐND và tập hợp các chất vấn của đại biểu trình
HĐND,...
3. Các ban của HĐND:
Các ban của HĐND: được thành lập ở 2 cấp là tỉnh và huyện. Còn ở cấp xã
không có ban nào. Các ban bao gồm trưởng ban và các thành viên do Hội đồng
nhân dân bầu ra và phải là thành viên của HĐND. Các ban có nhiệm vụ giúp
thường trực HĐND chuẩn bị kì họp, thẩm tra các báo cáo do hội đồ nhân dân
hay thường trực HĐND giao cho, giúp thường trực HĐND giám sát hoạt động
2
của cơ quan nhà nước, tổ chức chức kinh tế, xã hội và các lực lượng vũ trang
Nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐNDcùng cấp.
4. Hoạt động của các đại biểu HĐND:
Các đại biểu HĐND là những người đại diện cho Nhân dân địa phương thực
hiện quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí nguyện vọng của dân và chịu trách
nhiệm trước Nhân dân.
Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham gia đầy đủ các kì họp, liên hệ chặt chẽ với
Nhân dân để tập hợp, tiếp thu ý kiến, nguyện vọng của dân đồng thời báo cáo
trước dân về vấn đề dân bức xúc, tuyên truyền cho dân về Hiến pháp và pháp

luật.
Để đảm bảo cho hoạt động của đại biểu HĐND thì ủy ban nhân dân các cấp,
các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cán bộ, công chức nhà nước trong bộ máy chính
quyền ở địa phương, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách
nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các đại biểu hội đồng nhân dân
như cung cấp dữ liệu, thông tin, bảo đảm nơi tiếp xúc với cử tri, các phương tiện
đi lại.
Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
giúp đỡ đại biểu HĐND cùng cấp làm nhiệm vụ đại biểu, tạo điều kiện cho đại
biểu tiếp xúc với cử tri, thu nhập ý kiến, nguyện vọng và kiến nghị của nhân dân
với HĐND.
II - Thực trạng về tổ chức và hoạt động của HĐND
1. Những thành tựu trong hoạt động của HĐND ở nước ta qua các nhiệm kỳ:
3
Thực hiện vai trò đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Những
năm qua, thông qua các hoạt động góp được nhiều ý kiến, nguyện vọng, kiến
nghị để phản ánh và giúp đại biểu HĐND quyết định tại các kỳ họp HĐND.
Quyền làm chủ của nhân dân cũng được thực hiện bằng hình thức dân chủ. Nhân
dân tham gia ý kiến trực tiếp vào những vấn đề quan trọng ở địa phương trước
khi HĐND xem xét, quyết định. Các kiến nghị của nhân dân được tổng hợp, báo
cáo trước HĐND, chuyển đến các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giải quyết.
Những vấn đề HĐND quyết định hầu hết là phù hợp với lòng dân, xuất phát
từ ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, có ý nghĩa thiết thực của địa
phương. Ví dụ như: HĐND ra nghị quyết chuyên đề về việc cưới, việc tang,
chống mại dâm, ma túy, về an toàn giao thông, về giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo của công dân,... các nghị quyết này có hiệu qủa rõ rệt trong đời sống xã hội
của địa phương, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và thực hiện tốt.
Khi nhận được yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tham gia
đóng góp ý kiến vào các dự án luật, pháp luật, tùy theo yêu cầu, nội dung, phạm
vi, đối tượng. Thường trực HĐND phối hợp cùng các cơ quan đã triển khai thực

hiện nghiêm túc và đạt kết quả tốt( Luật hôn nhân gia đình, luật phòng chống ma
túy, Bộ luật hình sự, Luật giao thông đường bộ, nghị quyết sửa đổi, bố sung một
số điều của Hiến pháp 1992, Luật bảo hiểm xã hội,...). Ý kiến đóng góp của nhân
dân được tổng hợp đầy đủ, kịp thời gửi về Văn phòng Quốc hội đúng thời gian
quy định.
Về hoạt động của các đại biểu HĐND: Tình hình hoạt động của đại biểu
HĐND các cấp đã có nhiều biến chuyển tích cực. Hầu hết đều có tinh thần trách
nhiệm cao, luôn giữ gìn phẩm chất, đạo đức, luôn phấn đáu hoạt động tốt hơn
nhiệm vụ của người đại biểu nhân dân. Các đại biểu đã tham gia đầy đủ các kỳ
4
họp, đạt tỷ lệ từ 85%- 95% tổng số đại biểu. Trung bình các kỳ họp có khoảng từ
10 đến 20 các ý kiến phát biểu. Cấp huyện từ 9 đến 14, cấp xã từ 5 đến 7 ý kiến.
Khoảng 70%- 80% đại biểu thực hiện tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp. Các đại
biểu đã thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ của mình như tiếp dân, tiếp xúc cử tri và
tham dự đầy đủ các kỳ họp của hội đồng nhân dân, nghiên cứu, chuyển đến các cơ
quan có thẩm quyền giải quyết, đôn đốc việc giải quyết thư khiếu nại, tố cáo của
công dân.
2. Một số hạn chế về hoạt động của hội đồng nhân dân ở nước ta qua các nhiệm
kỳ:
Về cơ cấu tổ chức thì HĐND chưa giải quyết được một cách căn bản mối
quan hệ giữa cơ cấu và chất lượng đại biểu, giữa tính đại diện và khả năng thực
hiện nhiệm vụ, trách nhiệm và mối liên hệ giữa đại biểu đối với cử tri. Tỷ lệ đại
biểu ở các cơ quan hành chính vẫn khá cao, tỷ lệ đại biểu nữ, đại biểu trẻ tuổi ở
một số địa phương đạt thấp. Đại biểu hầu hết là kiêm nhiệm, số lượng không
tương xứng với chức năng, nhiệm vụ. HĐND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của ủy
ban nhân dân cấp trên, chưa tạo thành 1 hệ thống dọc, không có sự chỉ đạo thống
nhất từ trung ương tới cơ sở.
Việc bố trí, sắp xếp đội ngũ đại biểu chuyên trách nhất là các chức danh lãnh
đạo HĐND ở các địa phương chưa có sự thống nhất. Một số tỉnh bố trí Chủ tịch
HĐND là Uỷ viên thường vụ, Phó Chủ tịch HĐND là Uỷ viên Ban chấp hành.

Hầu hết các Uỷ viên thường trực không tham gia cấp ủy cùng cấp. Công tác quy
hoạch cán bộ HĐND của các cấp uỷ mới chỉ dừng lại đối với chức danh Chủ
tịch, Phó Chủ tịch, chưa có quy hoạch đối với chức danh Uỷ viên thường trực và
lãnh đạo các ban.
5

×