Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Hệ thống tỷ giá hối đoái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.87 KB, 7 trang )

HỆ THỐNG TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI
Tỷ giá hối đoái (còn được gọi là tỷ giá trao đổi ngoại tệ, tỷ giá Forex, tỷ giá FX hoặc
Agio) giữa hai tiền tệ là tỷ giá mà tại đó một đồng tiền này sẽ được trao đổi cho một
đồng tiền khác. Nó cũng được coi là giá cả đồng tiền của một quốc gia được biểu
hiện bởi một tiền tệ khác.
Chế độ tỷ giá thả nổi hay còn gọi là chế độ tỷ giá linh hoạt là một chế độ trong đó
giá trị của một đồng tiền được phép dao động trên thị trường ngoại hối. Đồng tiền sử
dụng chế độ tỷ giá thả nổi được gọi là một đồng tiền thả nổi.
Nói chung, các nhà kinh tế đều cho rằng, trong phần lớn trường hợp, chế độ tỷ giá
thả nổi tốt hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá thả nổi nhạy với thị trường ngoại
hối. Điều này cho phép làm dịu tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh nước
ngoài. Thêm vào đó, nó không bóp méo các hoạt động kinh tế.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai chế độ
thả nổi và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tốt hơn, nhưng
trong thực tế không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn
định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các
biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái cố định tương đối khó khăn và tốn
kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở nên vô hiệu lực. Chính
vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ
can thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường. (Xem bài riêng về
Chính sách can thiệp tỷ giá hối đoái)
Tỷ giá hối đoái cố định là loại tỷ giá được giữ cố định trong một thời gian dài với
biên độ dao động hẹp hoặc thay thế nội tệ bằng ngoại tệ. Thông thường, tỷ giá hối
đoái cố định là do Ngân hàng nhà nước can thiệp vào thị trường ngoại tệ để thực hiện
các hoạt động mua hay bán lượng dư cung hay cầu ngoại tệ với mức tỷ giá hối đoái
cố định mới công bố.
Tỷ giá hối đoái cố định, đôi khi còn được gọi là tỷ giá hối đoái neo, là một kiểu chế
độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một
đồng tiền khác hay với một rổ các đồng tiền khác, hay với một thước đo giá trị khác,
như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo tăng hoặc giảm, thì giá trị của đồng tiền


neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định gọi là
đồng tiền cố định. Tỷ giá hối đoái cố định là một lựa chọn chế độ tỷ giá ngược hoàn
toàn với tỷ giá hối đoái thả nổi.
Thông qua tỷ giá hối đoái có thể đánh giá được khái quát đời sống kinh tế, xã hội của
quốc gia, và là công cụ đo lường giá trị giữa các đồng tiền. Với mỗi chế độ tỷ giá sẽ
có những điểm mạnh, yếu khác nhau, tuỳ vào kinh tế và định hướng của mỗi quốc
gia để lựa chọn. Đối với, tỷ giá hối đoái cố định có 4 điểm đặc trưng cơ bản như sau:


- Nhà nước sẽ duy trì tỷ giá hối đoái ở mức độ cố định bằng cách nếu cung trên thị
trường nhỏ hơn cầu ở mức tỷ giá cố định đó thì nhà nước sẽ đảm bảo cung cấp một
lượng ngoại tệ bằng đúng lượng dư cầu. Ngược lại, cung trên thị trường lớn hơn cầu
ở mức tỷ giá cố định thì nhà nước đảm bảo mua hết số dư cung ngoại tệ. Và ngân
hàng nhà nước sẽ thực hiện hoạt động mua bán lượng dư cung hay dư cầu đó với tư
cách là người mua bán cuối cùng, người điều phối.
- Không làm thay đổi tỷ giá trên thị trường, đầu cơ không tồn tại, không gây bất ổn
đối với nền kinh tế giúp tránh được tình trạng phá giá và tạo một môi trường kinh
doanh ổn định cho thương mại và đầu tư quốc tế.
- Xuất nhập khẩu không bị ảnh hưởng bởi đồng tiền ngoại tệ được neo giữ giúp ổn
định tỷ giá từ đó giúp ổn định kinh tế vĩ mô từ đó các hoạt động kinh doanh và đầu tư
nước ngoài được thúc đẩy
- Khi áp dụng chế độ tỷ giá này sẽ làm cho chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa và nhà
nước cam kết cung cấp một lượng ngoại tệ đủ lớn để duy trì tỷ giá.
Tuy nhiên, trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, nếu đồng nội tệ định giá quá thấp thì
sức ép về tăng giá sẽ làm cho dự trữ ngoại tệ sụt giảm. Nếu đồng nội địa được định
giá quá cao, sức ép giảm giá sẽ khiến cho dự trữ ngoại tệ tăng.
Một quốc gia thi hành chế độ tỷ giá cố định tức là neo đồng tiền của mình vào vàng,
vào một đồng tiền nào đó hoặc một nhóm các đồng tiền. Sự duy trì chế độ tỷ giá cố
định hết sức khó khăn, nó đôi khi đòi hỏi tiềm lực rất lớn từ phía chính phủ và
NHNN.

Khi đồng nội tệ bị định giá thấp, NHTN phải mua nội tệ và bán ngoại tệ. Việc làm
này dẫn đến sự thu hẹp mức cung nội tệ và tăng cung ngoại tệ từ đó ổn định được tỷ
giá nhưng sẽ dẫn đến mất dự trữ ngoại hối. Tương tự như vậy, khi có dấu hiệu làm
tăng giá nội tệ, chính phủ sẽ bán đồng nội tệ để thu ngoại tệ và kết quả sẽ là ổn định
được tỷ giá.
Trong chế độ tỷ giá cố định thuộc hệ thống Bretton woods, người ta coi tỷ giá chỉ
được thay đổi khi một nước bị mất cân bằng cơ bản, nghĩa là cán cân thanh toán bị
thiếu hụt hay thặng dư dai dẳng. Để duy trì tỷ giá cố định khi mà các nước bị thiếu
hụt cán cân thanh toán và bị mất dự trữ quốc tế thì IMF sẽ cho vay dự trữ quốc tế do
các nước thành viên khác đóng góp.
Kết quả là IMF có quyền quyết định các điều kiện cho vay với các nước đi vay, có
thể khuyến khích các nước bị thiếu hụt theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt, những
chính sách sẽ làm cho đồng tiền của nước đó vững mạnh lên hoặc sẽ thủ tiêu được sự
thiếu hụt của cán cân thanh toán. Nếu những khoản cho vay đó không ngăn chặn
được sự sụt giảm của đồng tiền, thì nước đi vay thiếu hụt được phép phá giá đồng
tiền nước mình bằng cách ấn định một tỷ giá mới thấp hơn.


Mặc dù việc thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ hạn chế khả năng của chính
phủ trong vận hành một chính sách tiền tệ nội địa độc lập nhằm duy trì ổn định kinh
tế trong nước, song trong thực tế, nhiều chính phủ vẫn thích chế độ tỷ giá hối đoái cố
định bởi nó tạo ra sự ổn định. Trong lịch sử, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đã
từng tồn tại hệ thống Bretton Woods cho phép Tây Âu và Nhật Bản có được tỷ giá cố
định so với dollar Mỹ cho đến tận năm 1970. Gần đây, Trung Quốc, Hong Kong và
Malaysia đã rất thành công trong việc duy trì tỷ giá hối đoái cố định để giữ ổn định
kinh tế trong nước. Đồng euro hiện nay cũng có thể được xem là một chế độ tỷ giá
hối đoái cố định giữa các quốc gia châu Âu tham gia.
Nhiều quan điểm cho rằng tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên che mất những
thông tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Đó là vì đồng tiền không
còn thể hiện giá trị thị trường thực của chúng. Sự che đậy thông tin này tạo ra tính

không chắc chắn, kích thích các kẻ đầu cơ "tấn công" các đồng tiền cố định và nhiều
nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối khi cố gắng bảo vệ đồng tiền của mình chứ
không chịu để nó mất giá. Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là một
trường hợp như vậy.
o Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định:
Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì nó mang lại một môi trường ổn định, thuận
lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh.
Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô.
Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những xung đột về mục tiêu
chính sách và những biến động về tỷ giá.
o Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định:
- Thường chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốc từ bên ngoài hoặc từ thi trường
hàng hoá trong nước, bởi khi đó mức chênh lệch thực tế quá lớn về giá trị giữa nội tệ
và ngoại tệ sẽ dẫn đến phá vỡ mức cân bằng tỷ giá.
- Chế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến cho
NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lượng tiền cung ứng.
Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm phát" không
mong muốn.
Chế độ tỷ giá cố định theo thoả ước Bretton Woods (1946 - 1971)
Nhằm ổn định lại sự phát triển thương mại quốc tế và thiết lập một trật tự thế giới
mới sau thế chiến thứ hai, Mỹ, Anh và 42 nước đồng minh đã họp hội nghị tại
Bretton Woods (Mỹ) tháng 7/1944 để bàn bạc xây dựng hệ thống tiền tệ và thanh
toán chung. Hội nghị được đánh giá là hội nghị thành công nhất thế kỷ. Tại đây 56
nước ký tên hiệp định chấp nhận thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế


giới (WB) và một chế độ tỷ giá hối đoái mới. Theo chế độ này, các nước cam kết duy
trì giá trị đồng tiền của mình theo đồng USD hoặc theo nội dung vàng trong phạm vi
biến động không quá ± 1% tỷ giá đăng ký chính thức tại quỹ. Nếu các nước tự thay
đổi tỷ giá mà không được sự đồng ý của IMF thì sẽ bị phạt cấm vận. NHTW các

nước phải can thiệp vào thị trường tiền tệ nước mình để giữ cho tỷ giá nước mình
không thay đổi bằng cách mua bán đồng USD. Điều này cũng có nghĩa là các nước
phải cùng nhau bảo vệ giá trị cho đồng USD. Đổi lại, Mỹ cam kết ổn định giá vàng ở
mức 35USD/ounce vàng ( biến động giá cả không quá 24 cent/ounce). USD là đồng
tiền chủ chốt số 1 với tiêu chuẩn giá cả 1USD = 0,88714 gram vàng.
Ví dụ: Trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng: 1USD = 5,55 FRF thì NHTW Pháp phải
duy trì tỷ giá ở mức 1USD = 5,4945 FRF (5,55*99%) đến 1USD = 5,6055 FRF
(5,5*101%).
Trong thời kỳ đầu cứ 1USD giấy phát hành ra đã có từ 4 đến 8 USD vàng bảo đảm.
Lượng vàng đảm bảo đồ sộ như vậy nên cả thế giới tư bản chỉ lo có vàng để đổi lấy
USD mà mua hàng Mỹ chứ không quan tâm đến việc USD có đổi lấy vàng được
không. Chính vì vậy, các nước có xu hướng chuyển đổi từ dự trữ vàng sang dự trữ
USD để tiết kiệm chi phí. USD đã trở thành tài sản dự trữ quốc tế của các nước vì
Mỹ cam kết với các NHTW rằng sẽ chuyển đổi không hạn chế USD ra vàng. Các
nước ngày càng mở rộng thương mại với Mỹ, gia tăng dự trữ USD của họ, khiến cho
sức hút USD ra ngoài ngày càng tăng. Tổng khối lượng USD trên toàn thế giới vào
cuối năm 1944là 28,5 tỷ USD, thì đến cuối năm 1968 đã lên đến gần 100 tỷ USD.
Trong 25 năm độc quyền phát hành tiền tệ, Mỹ đã lợi dụng đồng USD để thu hút của
cải các nơi trên thế giới về tay mình. Hàng trăm tỷ USD được thả lang thang đi khắp
các nước mà không có gì bảo đảm, gây ra lạm phát USD. Chế độ Bretton Woods
ngày càng bộc lộ những hạn chế mà bản thân nó không tự khắc phục được:
Dự trữ không tương xứng: Do quy mô thương mại quốc tế ngày càng tăng gắn liền
với những dòng vận động tiền tệ lớn, đòi hỏi các NHTW phải mua và bán khối lượng
lớn đồng USD để duy trì tỷ giá hối đoái đã thoả thuận. Về dài hạn, một số ngân hàng
nhận thấy dự trữ USD và vàng của mình không đủ đáp ứng nhu cầu trên.
Các cuộc khủng hoảng có nguyên nhân đầu cơ: Khi có sự thay đổi về mức giá cả
tương đối giữa các đổng tiền làm cho một số đồng tiền được đánh giá quá cao hoặc
quá thấp. Vì tỷ giá là luôn cố định, việc các nhà đầu cơ mua, bán lượng tiền lớn khiến
cho NHTW phải chi tiêu những lượng ngoại tệ lớn để cố gắng duy trì tỷ giá đã định
theo thoả ước cho đến khi nó được thay đổi.

Sức ép từ tương quan thực tế giữa các đồng tiền: Sự tăng trưởng khác nhau về xuất
nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất chênh lệch giữa các nước và hàng loạt các
nhân tố tác động khác đã làm cho có sự thay đổi tương đối về giá trị tương đối giữa
các đồng tiền xét về dài hạn. Vì vậy, một số nước đã xin thay đổi lại tỷ giá, gây sức
ép cho tỷ giá cố định.


Vào những năm 60, bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, khoa học kỹ thuật phát
triển làm cho các nước phục hồi kinh tế, thế giới chia làm 3 cực: Mỹ, Nhật và Tây
Âu. Do đó, các nước đã xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ và Mỹ trở thành nước nhập
siêu. Về phía mình, hàng hoá Mỹ không còn sức hấp dẫn như trước làm cho cán cân
thương mại Mỹ thường xuyên thâm hụt, dự trữ vàng ngày càng giảm, nợ nước ngoài
tăng, USD mất giá nghiêm trọng. Thêm vào đó Mỹ sa lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt
Nam và một số nước khác khiến chính phủ Mỹ chi tiêu ngày càng nhiều tiền. Các
nước khủng hoảng lòng tin với USD, đã chuyển đổi USD dự trữ ra vàng, làm cho dự
trữ vàng của Mỹ giảm sút nhanh chóng. Trước những diễn biến phức tạp của tình
hình trong nước và thế giới, tổng thống Mỹ Nixon sau 2 lần tuyên bố phá giá: Lần
1(tháng8/1971) 1USD = 0,81gram vàng ròng và 42 USD = 1ounce vàng, lần 2 (tháng
3/1973) 1USD = 0,7369 gram vàng ròng và 45 USD = 1 ounce vàng. Đồng USD bị
phá giá (-10%) thì chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ.
Nhận xét tỉ giá thả nổi, ưu nhược điểm:
Tỷ giá hối đoái chính là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai quốc giá với nhau
theo tiêu chuẩn nào đó.
Hiện nay trên thị trường có 2 loại tỷ giá là: tỷ giá hối đoái cố định và tỷ giá hối đoái
thả nổi. Với bài viết hôm nay chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích điểm mạnh, điểm yếu
của tỷ giá hối đoái thả nổi.
Ưu và nhược điểm các chế độ trong tỷ giá hối đoái thả nổi
Tỷ giá hối đoái thả nổi được chia thành hai chế độ là tỷ giá thả nổi hoàn toàn và tỷ
giá thả nổi có quản lý. Để có cái nhìn khách quan về chế độ Bài viết sau đây sẽ phân
tích rõ từng chế độ một cách khách quan:

 Tỷ giá thả nổi hoàn toàn
Còn được gọi là tỷ giá linh hoạt bị chi phối bởi cung cầu ngoại tệ và chính phủ không
can thiệp vào điều tiết tỷ giá này. Giá trị đồng nội tệ đối với đồng ngoại tệ được xác
định tại điểm mà cung cầu bằng nhau. Khi nhập khẩu tăng sẽ làm giảm cung ngoại tệ,
đồng tiền ngoại tệ tăng giá theo và ngược lại.
Chính phủ tham gia thị trường ngoại hối với tư cách là một thành viên bình thường,
nghĩa là chính phủ có thể mua vào hay bán ra một đồng tiền nhất định để phục vụ cho
mục đích hoạt động của chính phủ chứ không nhằm mục đích can thiệp ảnh hưởng
lên tỷ giá hay để cố định tỷ giá.
o Ưu điểm
- Giá cả diễn biến theo tín hiệu thị trường giúp người đầu tư thay đổi nguồn lực từ
nơi có hiệu quả thấp về nơi có hiệu quả cao


- Làm cán cân thanh toán cân bằng: nếu cán cân vãng lai thâm hụt làm nội tệ giảm
giá. Tỷ giá thả nổi sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu cao hơn nhập khẩu làm cho cán cân
thanh toán trở nên cân bằng
- Quốc gia sẽ được bảo vệ trước các tình trạng lạm phát, thất nghiệp của quốc gia
khác
o Nhược điểm
- Tỷ giá biến động không ngừng khó khăn cho việc hoạch định chính sách kinh tế và
các khoản đầu tư
- Tỷ giá bị ảnh hưởng bởi dự báo trong tương lai, nếu nhà nước dự báo không sát sẽ
làm ảnh hưởng đến chính sách kinh tế vĩ mô
Theo đánh giá thì tỷ giá thả nổi thật sự là một chế độ vạn năng giúp phát triển của
nền kinh tế. Tuy nhiên, thả nổi tỷ giá càng tăng thì kinh tế càng kém ổn định. Vì, biến
động của tỷ giá chịu tác động của nhiều nhân tố như: xã hội , kinh tế, chính trị, tâm
lý,…
 Tỷ giá thả nổi có quản lý
Đây là chế độ chính phủ tự do lựa chọn các cách kiểm soát ổn định tỷ giá mà không

mất đi tính độc lập về tiền tệ. Dưới hình thức này tỷ giá được xét nằm giữa hai chế độ
thả nổi và cố định
Tỷ giá thả nổi có quản lý nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định
Khi NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối để tác động đến tỷ giá hối đoái, hệ
thống tỷ giá này được gọi là hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý.
Sau khi hệ thống Bretton woods bị sụp đổ, năm 1973 hầu hết các đồng tiền đều thả
nổi nhưng thả nổi không hoàn toàn. Nhiều quốc gia kể cả Mỹ, Chính phủ đều phải
can thiệp vào thị trường ngoại hối để tác động đến tỷ giá tiền tệ của nước mình.
Từ thỏa hiệp Jamaica năm 1976, các nước phương tây đã công khai chấp nhận hệ
thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, vì cả hệ thống tỷ giá hối đoái cố định cứng
nhắc và hệ thống tỷ giá thả nổi tự do đều có những tác động không tốt đến nền kinh
tế trong nước và đến sự chuyển dịch tài nguyên, chuyển dịch ngoại tệ trên bình diện
quốc tế.
o Ưu điểm
- Giúp cho nền kinh tế quốc gia hòa nhập với sự vận động chung của nền kinh tế thế
giới
- Là điều kiện giúp tiền tệ cạnh tranh bình đẳng
- Kiểm soát và điều chỉnh lỗi sau của thị trường khi cần thiết


- Tiết kiệm ngoại tệ
o Nhược điểm
- Chính phủ chỉ can thiệp sửa lỗi sai thị trường nếu can thiệp tuỳ tiện rất khó để hội
nhập với quốc gia khác
- Tỷ giá biến động cao ảnh hưởng đến quá trình đầu tư nước ngoài
- Mức biến động tỷ giá khó xác định trước trong chế độ tỷ giá này có thể gây ra
những quy định vĩ mô sai lầm ảnh hưởng đến mức tăng trưởng kinh tế.
Như vậy vấn đề đặt ra là chính phủ cần có những biện pháp thích hợp để duy trì một
tỷ giá hối đoái thích hợp, nhằm duy trì xuất khẩu, thu về nhiều ngoại tệ và nhập khẩu
vật tư, máy móc, nguyên vật liệu cần thiết để phục vụ cho nền kinh tế trong nước, đ

Tóm lại, chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, chế độ tỷ giá cố định hay chế độ tỷ giá thả
nổi có điều tiết cũng đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Việc lựa chọn chế độ tỷ
giá nào phụ thuộc vào từng quốc gia với những điều kiện, mục tiêu kinh tế và thị
trường cụ thể khác nhau. Phát huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế của
mỗi cơ chế để vận dụng thích hợp với mỗi bối cảnh kinh tế chính trị và xã hội khác
nhau là nội dung ưu tiên trong điều hành chính sách tài kinh tế vĩ mô của Nhà
nước.ồng thời góp phần vào việc điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế.



×