Tải bản đầy đủ (.docx) (131 trang)

Biện pháp quản lý công tác sinh viên theo phương thức đào tạo học chế tín chỉ ở khoa du lịch – đại học huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.82 KB, 131 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ MẠNH HÙNG

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC SINH VIÊN THEO PHƯƠNG THỨC ĐÀO
TẠO TÍN CHỈ Ở KHOA DU LỊCH - ĐẠI HỌC HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THEO HƯỚNG NGHIÊN CỨU (không có)

Thừa Thiên Huế, năm 2017

1


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ MẠNH HÙNG

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC SINH VIÊN THEO PHƯƠNG THỨC ĐÀO
TẠO TÍN CHỈ Ở KHOA DU LỊCH - ĐẠI HỌC HUẾ

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60140114

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THEO HƯỚNG NGHIÊN CỨU (không có)



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN XUẤN BÁCH

Thừa Thiên Huế, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
2


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận
văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử
dụng và chưa từng công bố trong bất kỳ một công trình
nào khác.
Tác giả

Lê Mạnh Hùng

3


Lời Cảm Ơn
Với tình cảm chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Ban Giám hiệu, Khoa Tâm lý - Giáo dục, Phòng Đào tạo Sau đại học
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế;
- Khoa Du lịch - Đại học Huế;
- PGS. TS Trần Xuân Bách - người hướng dẫn khoa học, đã tận tình giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn;
- Quý thầy, cô giáo tham gia quản lý, giảng dạy đã tư vấn và giúp đỡ trong
quá trình học tập và nghiên cứu;

- Qúy thầy, cô giáo và cán bộ quản lý Khoa Du lịch - Đại học Huế;
- Gia đình cùng bạn bè, đồng nghiệp, các bạn sinh viên Khoa Du lịch - Đại
học Huế đã tận tình giúp đỡ, đóng góp ý kiến, cung cấp thông tin, tài liệu cho tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu, tạo mọi điều kiện thuận lợi về mặt tinh thần
cũng như vật chất để tôi hoàn thành bản luận văn này;
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng do khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế
nên luận văn không thể tránh khỏi những sai sót. Kính mong được sự cảm thông và
góp ý của Hội đồng chấm luận văn, quý thầy, cô, các bạn đồng nghiệp để nội dung
nghiên cứu của đề tài này có giá trị thực tiễn và hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Thừa Thiên Huế, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Lê Mạnh Hùng

iii

4


MỤC LỤC

5


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG

BIỂU ĐỒ


6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGD&ĐT:

Bộ giáo dục và đào tạo

KDL – ĐHH:

Khoa Du lịch – Đại học Huế

CTSV:

Công tác sinh viên

CVHT:

Cố vấn học tập

CBQL:

Cán bộ quản lý

CB:

Cán bộ

GV:


Giảng viên

BCS:

Ban cán sự

HCTC:

Học chế tín chỉ

HĐTH:

Hoạt động tự học

HSSV:

Học sinh sinh viên

QLCTSV:

Quản lý công tác sinh viên

QLGD:

Quản lý giáo dục

QLĐT:

Quản lý đào tạo


NXB:

Nhà xuất bản

7


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhận thức đúng đắn vai trò, vị thế của giáo dục và đào tạo đối với sự
phát triễn kinh tế, xã hội. Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VIII năm 1996 đã
định hướng chiến lược phát triễn giáo dục – đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Chiến lược phát triễn kinh tế, xã hội giai
doạn 2011 – 2020 của thủ tướng chính phủ cũng đã định hướng “ Phát triễn và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một
đột phá chiến lược.”
Giáo dục ở bất kì thời đại và đất nước nào cũng có vị trí rất quan trọng
trong sự phát triển của xã hội, trong những năm gần đây xu thế xã hội phát
triển mạnh mẽ nhiều mặt đã đặt cho giáo dục nói chung và giáo dục Đại học
nói riêng đòi hỏi phải đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, có thể thích
nghi tốt với thị trường lao động thời hội nhập. Tính cấp bách không chỉ được
toàn ngành giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) quan tâm mà còn thể hiện trong
đường lối chính sách phát triển giáo dục của Đảng và nhà nước. Giáo dục Đại
học có một sứ mệnh rất to lớn là đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao
phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
Định hướng phát triển giáo dục trong những năm gần đây của Đảng ta là:
Nâng cao chất lượng toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học.
Đồng thời chú trọng bồi dưỡng cho người học phát huy khả năng tư duy độc
lập, sáng tạo, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tự hoàn thiện
bản thân. Tự học, tự đào tạo là một hoạt động cơ học cho người học đồng

nghĩa với việc nâng cao chất lượng đào tạo đây cũng được coi là nhiệm vụ
trọng tâm trong công tác quản lý của nhà trường, nhằm đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng cho nhu cầu của xã hội.
Nghị quyết Trung ương 2 (Khóa VIII) thể hiện quan điểm coi trọng việc
cải tiến phương pháp giáo dục và đào tạo. Trong đó vấn đề tự học, tự nghiên
8


cứu được đặc biệt chú ý “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện cho người học lối tư duy
sáng tạo. Từng bước áp dụng các phương pháp, phương tiện hiện đại vào quá
trình dạy học. Đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của người
học, đặc biệt là sinh viên đại học”.
Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam từ 2011 – 2020 đã đề cập
đến vấn đề đào tạo con người Việt Nam: “… Đào tạo con người Việt Nam có
tính tư duy độc lập, phê phán và sáng tạo, có khả năng thích ứng hợp tác và
năng lực giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm với cá nhân và cộng đồng.
Có năng lực nghề nghiệp và năng lực học tập suốt đời, có sức khỏe, bản lĩnh,
trung thực, dám nghĩ, dám làm có ý thức làm chủ và tinh thần trách nhiệm công
dân, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội….”.
Trên thế giới giáo dục xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo và tổ chức
sao cho người học tìm ra cho mình phương pháp học phù hợp nhất với bản
thân. Đồng thời các trường Đại học phải nhanh chóng thích nghi và đáp ứng
được những nhu cầu, khả năng của bản thân và thực tiễn cuộc sống.
Vào những năm đầu thế kỷ 20 hệ thống đào tạo tín chỉ sử dụng rộng rãi,
hầu như áp dụng vào tất cả các trường Đại học trên đất nước Mỹ. Sau đó một
loạt các nước lần lượt áp dụng theo mô hình toàn bộ hoặc một bộ phận các
trường đại học của mình: Ở các nước, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái
Lan, Ấn Độ.....
Vào năm 1999, 29 Bộ trưởng các nước Châu Âu đã ký tuyên ngôn

Boglona nhằm hình thành Không gian giáo dục đại học Châu Âu (Europea
Higher Education Area) thống nhất vào năm 2010, một trong các nội dung
quan trọng của tuyên ngôn đó là: Triển khai áp dụng học chế tín chỉ (Europen
Credit Transfer System – ECTS) trong toàn hệ thống giáo dục Đại học để tạo
thuận lợi cho việc cơ động hóa, liên thông hoạt động học tập của sinh viên
trong khu vục Châu Âu và các nước trên thế giới.
9


Đối với nền Giáo dục Việt Nam trước những năm 1975, một số trường
Đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại Miền Nam đã được áp dụng học chế tín
chỉ vào quản lý: Như Viện Đại học Thủ Đức, viện Đại học Cần Thơ. Đến năm
2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo thống nhất triển khai áp dụng hệ thống tín chỉ
vào tất cả các trường Đại học hệ chính quy trên cả nước.
Khoa Du lịch – Đại học Huế áp dụng học chế tín chỉ từ năm 2013 cho
khóa học đầu tiên. Bước đầu áp dụng phương pháp mới đã tạo ra không ít khó
khăn trong việc quản lý công tác học sinh sinh viên. Nhưng qua 5 năm đã
thực hiện, với sự nổ lực vượt bậc của ban giám hiệu nhà trường hoạt động
công tác sinh viên đã dần đi vào ổn định.
Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn và những yêu cầu cấp thiết của việc
đổi mới giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới, đồng thời với việc đổi mới đó nó
đã nảy sinh ra hoạt động bổ trợ cần phải thay thay đổi theo. Trong đó, hoạt động
quản lý công tác sinh viên là một trong những nhân tố then chốt quyết định đến sự
phát triển của giáo dục và đào tạo khi áp dụng học chế tín chỉ. Với những lý do
nêu trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp quản lý công tác sinh viên theo
phương thức đào tạo học chế tín chỉ ở Khoa Du lịch – Đại học Huế”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát và đánh giá thực trạng quản lý
công tác quản lý sinh viên Khoa Du lịch - Đại học Huế, đề xuất các biện pháp
quản lý nhằm nâng cao chất lượng quản lý công tác sinh viên, góp phần nâng

cao chất lượng đào tạo theo học chế tín chỉ của nhà trường.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý công tác sinh viên Khoa Du lịch - Đại học Huế.
3.2. Đối tương nghiên cứu
Các biện pháp quản lý công tác sinh viên theo phương thức đào tạo học
chế tín chỉ ở Khoa Du lịch – Đại học Huế.
10


4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Quản lý công tác sinh viên ở Khoa Du lịch – Đại học Huế theo phương
thức đào tạo học chế tín chỉ có những thuận lợi và khó khăn.Vì vậy nếu xác
lập và áp dụng đồng bộ các biện pháp quản lý một cách hợp lý, khoa học. Từ
đó đề xuất được các biện pháp hợp lý thì có thể nâng cao chất lượng quản
sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề quản lý công tác sinh viên trong học
chế tín chỉ ở trường đại học.
5.2. Khảo sát, điều tra, đánh giá thực trạng quản lý công tác sinh viên trong
học chế tín chỉ tại Khoa du lịch – Đại học Huế.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý công tác trong học chế tín chỉ ở Khoa du
lịch - Đại học Huế.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, phân loại tài liệu, các văn bản liên quan…nhằm
xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng phương pháp điều tra giáo dục, phỏng vấn, trò chuyện và lấy ý
kiến chuyên gia, phương pháp tổng kết kinh nghiệm… nhằm khảo sát, đánh

giá thực trạng và xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý số liệu kết quả điều tra.
7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Biện pháp quản lý công tác sinh viên theo phương thức đào tạo học chế
tín chỉ ở Khoa Du lịch – Đại học Huế.

11


8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
- Phần 1: Mở đầu
- Phần 2: Nội dung nghiên cứu: gồm 03 chương
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác sinh viên trong học chế
tín chỉ ở trường đại học.
- Chương 2: Thực trạng quản lý công tác sinh viên theo phương thức
đào tạo học chế tín chỉ ở Khoa du lịch – Đại học Huế.
- Chương 3: Các biện pháp quản lý công tác sinh viên theo phương
thức đào tạo học chế tín chỉ ở Khoa Du lịch – Đại học Huế.
- Kết luận và khuyến nghị
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC SINH VIÊN
THEO PHƯƠNG THỨC ĐÀO TẠO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC

1.1. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc UNESCO đưa ra
“Bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI” – học để biết, học để làm việc; học để
tự khẳng định mình; học để biết cách chung sống với người khác. Đồng thời,
UNESCO cũng đã khẳng định một nguyên tắc cơ bản của giáo dục là: “Giáo
dục phải gắn liền với sự phát triển của mỗi cá thể: Tâm lý và thể xác; trí tuệ
và tình cảm; thái độ đạo đức, trách nhiệm cá nhân và các giá trị tinh thần. Mọi
tồn tại của con người phải được giúp đỡ để phát triển độc lập, có đầu óc phê
phán và có ý kiến của riêng mình, tự quyết định suy nghĩ và hành động, thực
hiện suy nghĩ và hành động trong các hoàn cảnh khác nhau”.
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục
trong sự phát triển của mình. Vì vậy, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
đã có nhiều công trình đề cập đến các vấn đề QLGD nói chung và QLCTSV
nói riêng.
Gần đây một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành QLGD và một số công
trình nghiên cứu trên tạp chí Giáo dục đã có những nghiên cứu xung quanh
vấn đề QLCTSV:
- Lưu Văn Kim, Nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục học sinh, sinh viên;
- Nguyễn Phấn Lý, Những biện pháp tăng cường quản lý học sinh ở
Trường trung học cảnh sát nhân dân I;
- Trần Quyết Chiến : Biện pháp quản lý công tác sinh viên trong học
chế tín chỉ ở trường đại học Ngoại Ngữ - Đại học Huế 2011.

13


- Nguyễn Văn Sơn, Các biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức
cho sinh viên của Trường Đại học sư phạm Đồng Tháp 2007;
- Nguyễn Vũ Khánh Mỹ, Biện pháp QLHĐTH của SV nội trú Đại học
Huế, 2010;

Tác giả những nghiên cứu này đã tiếp cận với những góc độ khác nhau
trên đối tượng là SV các trường Đại học.
Một số nghiên cứu khác đã đề cập sâu hơn đến các vấn đề QLCTSV ở
các trường đại học, cao đẳng:
- Nguyễn Chí Thanh, Biện pháp quản lý công tác sinh viên ở Trường
Cao đẳng kinh tế kế hoạch Đà Nẵng, 2009;
- Phạm Đình Lượng, Quản lý sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội phù hợp với yêu cầu đào tạo theo tín chỉ.
Qua những công trình nghiên cứu nêu trên, chúng tôi nhận thấy các tác
giả đã tiếp cận đến những góc độ khác nhau hoặc nhiều góc độ trên đối tượng
sinh viên ở các Trường Đại học, Cao đẳng. Tuy vậy, đa số các công trình tiến
hành nghiên cứu khi Bộ GD&ĐT đang áp dụng hình thức đào tạo theo niên
chế. Một vài công trình mới đây đã đề cập đến quản lý SV trong HCTC
nhưng mới dừng lại ở mức độ “điều chỉnh cho phù hợp” chứ chưa được
nghiên cứu đâu để tim ra cốt lõi của vấn đề. Từ góc độ đó, chúng tôi đã chọn
đề tài này với hy vọng đóng góp những nghiên cứu của mình nhằm nâng cao
chất lượng GD&ĐT của Nhà trường nơi chúng tôi đang công tác.
1.2. NHỮNG KHÁI NIỆM CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Quản lý
Thuật ngữ “Quản lý” (từ Hán Việt) gồm hai quá trình tương thích
nhau. Quá trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”.
Quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống vào thế “phát
triển”. Nếu chỉ “quản” thì tổ chức dễ trì trệ, nếu chỉ “lý” thì tổ chức phát
triển không bền vững. Do đó trong “quản” phải có “lý” và ngược lại để làm
14


cho hệ thống ở trạng thái cân bằng động, vận động phù hợp, thích ứng và có
hiệu quả trong môi trường tương tác giữa các nhân tố bên trong và các nhân
tố bên ngoài tổ chức [2].
Như chúng ta đều biết, khoa học quản lý đã xuất hiện cùng với sự phát

triển của xã hội loài người. Nó là phạm trù tồn tại khách quan, được ra đời
một cách tất yếu do nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi tổ chức, mọi quốc
gia, mọi thời đại. Lao động quản lý là một lĩnh vực lao động trí tuệ và thực
tiễn phức tạp nhất của con người nhằm điều khiển lao động, thúc đẩy xã hội
phát triển; khoa học quản lý gắn liền với tiến trình phát triển của xã hội loài
người, mang tính lịch sử, giai cấp và dân tộc. QL là một khoa học sử dụng trí
thức của nhiều ngành khoa học xã hội, đồng thời QL còn là một nghệ thuật
đòi hỏi sự hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao độ để đạt được mục đích. Vì vậy,
người ta có thể hiểu khái niệm QL theo nhiều cách khác nhau phụ thuộc vào
cái nhìn chủ quan và tính mục đích hoạt động. Chúng ta có thể điểm qua một
số khái niệm sau:
Quản lý là chức năng được sinh ta từ tính chất xã hội hóa lao động. Nó
có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua hoạt
động của con người và thông qua quản lý. “Tất cả mọi lao động trực tiếp hay
lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần
đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những
chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác
với sự vận động của những khí quan độc lập của nó.
“Quản lý là biết được chính xác điều mình muốn người khác làm và sau
đó biết được họ làm việc đó có tốt hay không, có rẻ nhất không”.
Xuất phát từ các loại hình QL “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu
của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ
chức, chỉ đạo và kiểm tra”.

15


“Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có mục đích của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý để đạt được mục đích của tổ chức”.
Từ cách tiếp cận trên, chúng ta thấy khái niệm QL bao hàm một số ý

nghĩa chung, đó là:
- QL là quá trình hoạt động có mục đích để điều khiển lao động.
- Có sự tương tác giữa chủ thể QL, và khách thể QL.
- Có liên quan tới môi trường xác định.
Như vậy, có thể khái quát như sau: QL là một hoạt động nhằm thực
hiện những tác động hướng đích của chủ thể QL nhằm sử dụng có hiệu quả
những tiềm năng, các cơ hội của tổ chức nhằm đạt đến mục tiêu của tổ chức
đặt ra trong môi trường luôn luôn thay đổi.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và của
từng quốc gia nói riêng, giáo dục luôn là nhu cầu cơ bản và có tính phổ quát.
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến lợi ích,
nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế - xã hội đồng
thời có tác dụng mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của quốc gia. Do đó, vấn
đề QLGD luôn được các nước quan tâm cho dù là nước lớn hay nhỏ, giàu hay
nghèo, phát triển hay đang phát triển.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt của loài người, vì vậy
QLGD được hình thành là một tất yếu khách quan từ QL xã hội.
“Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành phối
hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu xã hội”.
“Quản lý giáo dục (nói riêng quản lý trường học) là quá trình tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý giáo dục tới các
hoạt động giáo dục trong xã hội nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường
lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà
16


trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học,
giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên trạng

thái mới về chất”.
Ở góc độ cấp vĩ mô, “Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự
giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ
thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ
sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu
phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội”.
Ở cấp độ vĩ mô, “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác
động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật)
của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh,
cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực
hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường”.
Như vậy, QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể QL đến khách thể
QL nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong
muốn một cách hiệu quả nhất. QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ
trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một thiết chế hiện thực hóa sứ mệnh của nền giáo dục
trong đời sống kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế công nghiệp, nhà trường
không chỉ là thiết chế sư phạm đơn thuần. Những hoạt động diễn ra trong nhà
trường có mục tiêu cao nhất là hình thành “nhân cách – sức lao động”, phục
vụ phát triển cộng đồng làm tăng nguồn vốn người (human capital), vốn tổ
chức (organization capital) và vốn xã hội (social capital).
QL nhà trường về mặt bản chất là QL con người. Điều đó tạo cho các
chủ thể (người dạy và người học) trong nhà trường có sự liên kết chặt chẽ
không những chỉ bởi cơ chế hoạt động của những quy luật khách quan của
17


một tổ chức xã hội – nhà trường, mà còn bởi hoạt động chủ quan, hoạt động

QL của bản thân người dạy và người học. Trong nhà trường, người dạy và
người học vừa là đối tượng, vừa là chủ thể QL. Với tư cách là đối tượng QL,
họ là đối tượng tác động của chủ thể QL (hiệu trưởng). Với tư cách là một chủ
thể QL họ tham gia chủ động, tích cực vào hoạt động QL chung và biến nhà
trường thành hệ tự QL.
“Quản lý nhà trường ở Việt Nam là thực hiện đường lối giáo dục của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm, đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý
giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với thế hệ trẻ và với
từng học sinh”.
“Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan QL giáo dục khác,
cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng
GD&ĐT trong nhà trường”.
“Quản lý trường học là một chuỗi tác động hợp lý (có mục đích, có hệ
thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức sư phạm của chủ thể quản lý đến tập
thể giáo viên, học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài trường
nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của
nhà trường làm cho quá trình này vận hành một cách tối ưu tới việc hình
thành mục đích dự kiến”.
Tóm lại QL nhà trường là một quá trình tác động có ý thức (tác động
thông qua các chức năng QL theo các nguyên tắc định hướng vào mục tiêu
giáo dục, bằng các biện pháp QL hợp với các đối tượng QL…) của bộ máy
QL nhà trường lên các khách thể QL.
1.2.4. Đào tạo
Có nhiều cách diễn đạt khái niệm đào tạo khác nhau tùy theo quan
điểm tiếp cận của các nhà khoa học:
“Đào tạo là hoạt động chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những
kinh nghiệm, những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên
18



môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm
thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng,
bảo vệ đất nước”.
Đào tạo là hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát
triển có hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ… để hoàn thiện nhân cách
cho mỗi cá nhân để tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có
năng suất và hiệu quả.
Từ nội hàm của khái niệm đào tạo theo các định nghĩa nêu trên, thì đào
tạo là hoạt động mang tính phối hợp giữa các chủ thể dạy học (người dạy và
người học), là hoạt động truyền đạt và lĩnh hội tri thức một cách có hệ thống
với sự hỗ trợ của các phương tiện cần thiết. Nói cách khác, đào tạo là hoạt
động thống nhất hữu cơ giữa hai mặt dạy và học trong một cơ sở giáo dục, mà
trong đó tính chất, phạm vi, cấp độ, cấu trúc, quy trình của hoạt động được
quy định một cách chặt chẽ, cụ thể về mục tiêu, chương trình, nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức, cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, đánh giá
kết quả đào tạo, cũng như về thời gian và đối tượng đào tạo cụ thể.
Theo nghĩa rộng, hoạt động đào tạo là hoạt động giáo dục để đạt tới
mục tiêu giáo dục của cơ sở đào tạo. Hoạt đông này được cấu trúc bởi các
thành tố như mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo, chủ
thể đào tạo và đối tượng đào tạo, các điều kiện đào tạo, kết quả đào tạo và
công tác QL đào tạo.
Cụ thể hơn, hoạt động đào tạo được hiểu là việc tiến hành có tuần tự
các khâu từ xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình, giáo trình và tài liệu
học tập, lực lượng đào tạo (bao gồm người học, người dạy và người QL),
chuẩn bị các điều kiện cho hoạt động đào tạo (tài chính, cơ sở vật chất và thiết
bị dạy học), các mối quan hệ trong môi trường đào tạo, phương thức để đánh
giá chất lượng và hiệu quả đào tạo. Trên cơ sở đó có thể tiến hành các khâu
tuyển sinh, tổ chức dạy và học nhằm giúp người học có được các chuẩn về
19



kiến thức, kỹ năng và thái độ phù hợp với mục tiêu đào tạo, đánh giá mức độ
đạt chuẩn của người học và công nhận kết quả đào tạo.
1.2.5. Tín chỉ
“Tín chỉ được sử dụng để tính khối lượng học tập của SV. Một tín chỉ
được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết: 30 – 45 tiết thực hành, thí nghiệm
hoặc thảo luận; 45 – 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 – 60 giờ làm tiểu luận, bài
tập lớn hoặc đồ án, khóa luận tốt nghiệp”.
“Tín chỉ là khối lượng học tập gồm 1 tiết học lý thuyết (50 phút) hoặc 3
tiết thí nghiệm, thực hành, thực địa kèm theo 2 giờ làm việc ngoài lớp trong 1
tuần và kéo dài trong một học kỳ (15 – 18 tuần)”.
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu:
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một
người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm: 1) thời gian lên
lớp; 2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác
đã được quy định ở thời khóa biểu; 3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên
cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài…; đối với các môn học lý
thuyết một tín chỉ là một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị bài) trong một tuần
và kéo dài trong một học kỳ 15 tuần; đối với các môn học ở phòng thực hành
hay phòng thí nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1 giờ chuẩn bị); đối
với các môn tự học, ít nhất là 3 giờ làm việc trong một tuần.
1.2.6. Sinh viên
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng Latinh “discipulus” có
nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm, khai thác trí thức.
Nó được dùng tương đương với từ “student” trong tiếng Anh, từ “etudiant(e)”
trong tiếng Pháp thường để chỉ những người đang theo học ở bậc đại học,
được phân biệt với học sinh đang học ở trường phổ thông.
Theo quan điểm của X.L.Rubinstein – nhà tâm lý học, triết học Nga:
“Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt được đào tạo trong các
20



trường đại học, cao đẳng để chuẩn bị cho hoạt động lao động, sản xuất vật
cho xã hội”. Nhóm SV rất cơ động, được tổ chức theo một mục đích xã hội
nhất định nhằm chuẩn bị thực hiện vai trò xã hội với trình độ nghề nghiệp cao
trong xã hội. SV là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ trí thức được đào tạo thành
người lao động có tay nghề cao, tham gia các hoạt động tích cực.
Bộ GD&ĐT quy định: “Những người đang học trong hệ đại học và cao
đẳng gọi là SV”.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài này chỉ nghiên cứu đối tượng là SV
chính quy, nên có thể thu hẹp nội hàm của khái niệm “sinh viên” như sau:
- Đó là những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông.
- Họ đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh đại học và đỗ vào trường.
- Họ thuộc nhóm thanh niên nam, nữ có tuổi đời tập trung từ 17 đến 25.
- Họ chưa thuộc nhóm có nghề nghiệp ổn định, do đó còn lệ thuộc vào
gia đình về kinh tế.
- Họ là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên xuất thân từ các
tầng lớp xã hội khác nhau trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp
chuyên môn để bước vào một nhóm xã hội mới là tầng lớp trí thức trẻ
1.3. CÔNG TÁC SINH VIÊN TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ
1.3.1. Đặc điểm của đào tạo theo học chế tín chỉ
“Hoạt động đào tạo cở bậc đại học là hoạt động giáo dục nghề nghiệp
để đạt được mục tiêu của một trường đại học – hình thành, phát triển nhân
cách của SV, đào tạo họ trở thành những cử nhân khoa học tương lai, đáp ứng
năm mục tiêu của giáo dục đại học”.
Hoạt động đào tạo đại học là hoạt động cơ bản nhất và quan trọng
nhất của quá trình đào tạo đại học. Nó là một hoạt động giáo dục nghề
nghiệp đặc thù và tồn tại như một hệ thống. Hoạt động này có cấu trúc bao
gồm: sứ mạng và mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, người dạy và
người học, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, kết quả dạy học,

21


trang thiết bị - cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, tài chính và tổ chức QLĐT.
Hoạt động này đã diễn ra trong môi trường xã hội – chính trị và môi trường
khoa học, kỹ thuật nhất định.
Sau mươi năm đổi mới và 5 năm thực hiện “Chiến lược phát triển giáo
dục 1001 – 2010”, giáo dục đại học nước ta đã phát triển rõ rệt về quy mô, đa
dạng hóa về loại hình và các hình thức đào tạo, bước đầu điều chỉnh cơ cấu hệ
thống, cải tiến chương trình, quy trình đào tạo và huy động được nhiều nguồn
lực xã hội. Chất lượng giáo dục đại học ở một số ngành, lĩnh vực, cơ sở giáo
dục đại học có những chuyến biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. Đội ngũ CB có trình độ đại học và trên đại học mà tuyệt
đại đa số được đào tạo tại các cơ sở giáo dục trong nước đã góp phần quan
trọng vào công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, những thành tựu nói trên của giáo dục đại học chưa vững
chắc, chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chưa đáp ứng được những đòi hỏi
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu học tập của
nhân dân và yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoan mới. Những yếu kém,
bất cập về cơ chế QL, cơ cấu hệ thống, cơ cấu ngành nghề, mạng lưới cơ sở
giáo dục đại học, quy trình đào tạo, phương pháp dạy và học, đội ngũ giảng
viên và CB QLGD, hiệu quả sử dụng nguồn lực và những tiêu cực trong thi
cử, cấp bằng và một số hoạt động giáo dục khác cần sớm được khắc phục.
Để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới,
giáo dục đại học nước ta cần phải đổi mới một cách mạnh mẽ, cơ bản và toàn
diện. Tại phiên họp Chính phủ tháng 7 năm 2005, Chính phủ đã quyết định về
“Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam” với nhiều nội dung mới, trong đó
có nhiệm vụ cần làm ngay và phải hoàn thành trong vòng từ 3 đến 5 năm tới
là: Chuyển các cơ sở giáo dục đại học đang đào tạo theo niên chế sang đào tạo
theo HCTC, xây dựng quy trình đào tạo mềm dẻo và liên thông.


22


Ngày 15/08/2007 Bộ GD&ĐT đã ban hành Quy chế đào tạo đại học và
cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ áp dụng phương pháp đối với tất
cả các đơn vị đào tạo đại học, cao đẳng trong toàn quốc.
HCTC là cách diễn tả một chương trình giáo dục bằng cách gắn các tín
chỉ vào các phần cấu thành chương trình ấy. Việc xác định tín chỉ trong hệ
thống giáo dục đại học có thể dựa trên những tham số khác nhau, chẳng hạn
như khối lượng công việc của sinh viên, kết quả học tập và số giờ tiếp xúc
giữa GV và SV.
HCTC là một hình thức đào tạo được hầu hết các nước tiên tiến trên thế
giới áp dụng vì nó phân chia kiến thức đào tạo thành những đơn vị học tập mà
SV có thể tự sắp xếp để tích lũy được ở những thời gian và không gian khác
nhau. Tủy điều kiện của mỗi người, người học có thể học nhanh hơn hay
muộn hơn so với tiến độ bình thường, có thể thay đổi chuyên ngành học ngay
giữa tiến trình học tập mà không phải học lại từ đầu. HCTC còn tạo ra một
“ngôn ngữ chung” giữa các trường đại học, tạo điều kiện cho việc chuyển đổi
SV giữa các trường trong nước và trên thế giới, rất thuận lợi trong các chương
trình đào tạo liên kết.
Đào tạo theo HCTC là phương thức đào tạo sử dụng tín chỉ để lượng
hóa hoạt động học tập của SV trong quá trình đánh giá. Bản chất của phương
thức này là cá thể hóa quá trình đào tạo, trao quyền chủ động cho SV, tạo điều
kiện cho SV tự quyết định về tiến độ học tập và tốc độ tích lũy tín chỉ.
Đào tạo theo HCTC là phương thức đào tạo đặt người học vào vị trí
trung tâm của quá trình dạy – học, tạo cho họ thói quen tự học, tự khám phá
kiến thức, có kỹ năng giải quyết vấn đề, tự chủ động thời gian hoàn thành một
môn học, một chương trình cử nhân hay thạc sĩ. Hơn nữa, trong phương thức
đào tạo theo HCTC, hầu như bất kỳ môn học nào cũng bao gồm ít nhất hai

trong ba hình thức tổ chức dạy – học: bài giảng của giảng viên; thực tập, thực
hành của SV dưới sự hướng dẫn của giảng viên; và tự học, tự nghiên cứu của
23


SV. Ba yếu tố trên có mối liên hệ hữu cơ với nhau, hỗ trợ cho nhau giúp
người học nắm kiến thức và tái tạo kiến thức một cách hiệu quả hơn. Sẽ
không có phương pháp dạy – học theo tín chỉ nếu không xác định lại vai trò
của người dạy và người học. Vì vậy, khi chuyển sang đào tạo theo tín HCTC,
cả người dạy và người học đều phải thay đổi vai trò, vị trí và nhiệm vụ của
mình so với phương thức đào tạo truyền thống trước đây.
* Quyền lợi của sinh viên
Được nhận vào học đúng ngành nghề đã đăng ký dự tuyển nếu đủ các
điều kiện trúng tuyển theo quy định của Bộ GD&ĐT và nhà trường.
Được nhà trường tôn trọng và đối xử bình đẳng; được cung cấp đầy đủ
thông tin về việc học tập, rèn luyện theo quy định của nhà trường; được nhà
trường phổ biến nội quy, quy chế về học tập, thực tập, thi tốt nghiệp, rèn
luyện, về chế độ chính sách của nhà nước có liên quan đến SV.
Được tạo điều kiện trong học tập và rèn luyện, bao gồm:
- Được sử dụng thư viện, các trang thiết bị và phương tiện phục vụ các
hoạt động học tập, thí nghiệm, nghiên cứu khoa học, văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao.
- Được tham gia nghiên cứu khoa học, thi SV giỏi, thi Olympic các
môn học, thi sáng tạo tài năng trẻ.
- Được chăm lo, bảo vệ sức khỏe theo chế độ hiện hành của nhà nước.
- Được đăng ký dự tuyển đi học ở nước ngoài, học chuyển tiếp ở các
trình độ đào tạo cao hơn theo quy định hiện hành của Bộ GD&ĐT.
- Được tào điều kiện hoạt động trong tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Hội SV Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt
Nam; tham gia các tổ chức tự quản của SV, các hoạt động xã hội có liên quan

ở trong và ngoài nhà trường theo quy định của pháp luật; các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thể thao lành mạnh, phù hợp với mục tiêu đào tạo của nhà
trường.
24


- Được nghỉ học tạm thời, tạm ngừng học, học theo tiến độ chậm, tiến độ
nhanh, học cùng lúc hai chương trình, chuyển trường theo quy định của quy
chế về đào tạo của Bộ GD&ĐT; được nghỉ hè, nghỉ Tết, nghỉ lễ theo quy định.
- Được hưởng các chế độ, chính sách ưu tiên theo quy định của Nhà
nước; được xét nhận học bổng do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài
trợ; được miễn giảm phí khi sử dụng các dịch vụ công cộng về giao thông,
giải trí, tham quan viện bảo tàng, di tích lịch sử, công trình văn hóa theo quy
định của Nhà nước.
- Được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị
với nhà trường các giải pháp góp phần xây dựng nhà trường; được đề đạt
nguyện vọng và khiếu nại lên Hiệu trưởng giải quyết các vấn đề có liên quan
đến quyền, lợi ích chính đáng của SV.
- Được xét tiếp nhận vào ký túc xá theo quy định của trường. Việc ưu
tiên khi sắp xếp vào ở ký túc xá theo quy định tại quy chế công tác SV nội trú
của Bộ GD&ĐT.
- SV đủ điều kiện công nhận tốt nghiệp được nhà trường cấp bằng tốt
nghiệp, bảng điểm học tập và rèn luyện, hồ sơ SV, các giấy tờ có liên quan
khác và giải quyết các thủ tục hành chính.
- Được hưởng chính sách ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng vào
các cơ quan Nhà nước nếu tốt nghiệp loại giỏi, rèn luyện tốt và được hưởng
các chính sách ưu tiên khác theo quy định về tuyển dụng CB, công chức,
viên chức.
* Nghĩa vụ của sinh viên
Chấp hành chủ trường, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

và các quy chế, nội quy, điều lệ nhà trường.
Tôn trọng nhà giáo, CB và nhân viên của nhà trường; đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau trong quá trình học tập và rèn luyện; thực hiện tốt nếp sống
văn minh.
25


×