Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học chương sóng ánh sáng vật lý lớp 12 trung học phổ thông với sự hỗ trợ của website dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÝ THANH XUÂN VŨ

TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA
HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “SÓNG ÁNH
SÁNG”
VẬT LÝ 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA WEBSITE DẠY HỌC

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Vật lý
Mã số: 60140111

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THEO ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ CÔNG TRIÊM

1

1


Thừa Thiên Huế, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các


đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kì
một công trình nào khác.
Họ và tên tác giả

Lý Thanh Xuân Vũ

2

2


3

3


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn, tôi luôn nhận
được sự giúp đỡ tận tình quý báu của Quý thầy cô giáo, bạn bè và gia đình. Tôi xin
bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến:


Ban Giám Hiệu Truờng Ðại học Sư phạm Huế, Phòng Đào tạo Sau đại

học, Khoa Vật lí trường Đại học Sư Phạm Huế, Quý thầy đã tận tình giảng dạy
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp;


Ban Giám Hiệu Truờng Ðại học An Giang, Phòng Đào tạo, Quý thầy đã


tận tình giảng dạy và tạo điều kiện tốt trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp;


Ban Giám hiệu, Quý thầy cô giáo tổ Vật lí Trường THPT Nguyễn Hữu

Cảnh, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình
thực nghiệm sư phạm;


PGS.TS. Lê Công Triêm, người hướng dẫn khoa học, đã tận tình giúp đỡ,

động viên tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn;


Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè thân hữu đã

dành tình cảm, động viên và giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận
văn này.
Huế, tháng 8 năm 2017

4

4


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa..............................................................................................................i
Lời cam đoan............................................................................................................. ii

Lời cảm ơn...............................................................................................................iii

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

6

Viết tắt
CNTT
GTAS
GTAS
GV
HĐNT
HS
PPDH

QPLT
THPT
TN
TNg
TSAS

Viết đầy đủ
Công nghệ thông tin
Giao thoa ánh sáng
Giao thoa ánh sáng
Giáo viên
Hoạt động nhận thức
Học sinh
Phương pháp dạy học
Quang phổ liên tục
Trung học phổ thông
Thí nghiệm
Thực nghiệm
Tán sắc ánh sáng


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ, HÌNH VẼ
Trang
BẢNG

7


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Xã hội của thế kỷ XXI là một xã hội “Dựa vào tri thức” biết vận dụng tri
thức vào thực tiễn cuộc sống một cách có hiệu quả. Sự phát triển của xã hội luôn đặt
ra cho nền giáo dục của mỗi quốc gia trên thế giới nhiệm vụ là phải luôn thay đổi
mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu cho tương lai. Cùng với xu thế phát triển chung của các nền giáo dục trên
thế giới, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta được Đảng và Nhà nước quan
tâm và đã nêu rõ trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá
X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: “Đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện” và trong Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020:
“Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo
hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của
người học” [3], [8].
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI đã khẳng định: đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế [25].
Đổi mới phương pháp dạy học sao cho trong dạy học phải đảm bảo được sự
phát triển năng lực sáng tạo của HS, bồi dưỡng tư duy khoa học, năng lực tự lực tìm
kiếm kiến thức nhằm chiếm lĩnh tri thức, năng lực giải quyết vấn đề để thích ứng
được với cuộc sống và sự phát triển của khoa học.
Tuy nhiên, thực trạng giáo dục phổ thông hiện nay vẫn còn đề cao việc giảng
dạy kiến thức, coi nhẹ năng lực hoạt động của HS. Nội dung chương trình còn nặng
về lý thuyết, PPDH chủ yếu vẫn còn truyền thụ một chiều, chưa chú trọng giáo dục
kỹ năng sống, phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của HS [8]. Việc tạo điều
kiện để học sinh tự học chưa được GV quan tâm nhiều, trong khi đó đó là một trong
những định hướng quan trọng của việc đổi mới PPDH [17]. Từ đó, HS mới phát

8



huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự
học … Điều 9, Luật Giáo dục quy định: “Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, …” [27]. Và trong Chiến
lược phát triển giáo dục 2011-2020: “Phát triển các chương trình giáo dục thường
xuyên, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông nhằm mở rộng các hình thức
học tập đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của mọi người, giúp mọi người hoàn thiện
nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ
phù hợp với yêu cầu công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống” [8].
Hiện nay sự phát triển của công nghệ thông tin nói chung, Internet nói riêng
đã mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Trong dạy học
vật lí, với sự hỗ trợ của website dạy học, giáo viên có thể tổ chức quá trình dạy học
theo hướng tích cực hóa HĐNT của HS, từ đó nâng cao chất lượng dạy học. Tuy
nhiên, ở các trường phổ thông việc sử dụng website để hỗ trợ cho quá trình dạy học
chưa thật sự đạt được kết quả mong muốn mới chỉ được dùng nhằm hỗ trợ cho công
tác giảng dạy của GV và công tác quản lý của nhà trường, còn về việc sử dụng
website để hỗ trợ việc học tập và đặc biệt là hỗ trợ việc tích cực hóa HĐNT cho HS
chưa được chú trọng phát triển.
Trong chương trình vật lý lớp 12 THPT, phần sóng có nội dung trọng tâm, cơ
bản. Tuy nhiên, kiến thức phần này khó và trừu tượng đối với HS, đặt biệt là
chương "Sóng ánh sáng". Các thí nghiệm về hiện tượng tán sắc ánh sáng, giao thoa
ánh sáng cũng như các tia không nhìn thấy khó thành công... Vì vậy, trong dạy học
chương này, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc giúp HS hiểu rõ bản chất
của sóng ánh sáng và các ứng dụng của các kiến thức này phải luôn được cập nhật
liên tục theo tốc độ phát triển của các nghiên cứu khoa học, nhưng những điều này
lại có thể tìm thấy một cách dễ dàng và phong phú nhờ vào website dạy học trên
internet.. Chính vì vậy, việc tổ chức dạy học theo hướng rèn tích cực hóa HĐNT với
sự hỗ trợ của website sẽ giúp HS nắm vững kiến thức hơn, tích cực học tập hơn, để
từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học chương "Sóng ánh sáng" nói riêng, vật
lý lớp 12 nói chung.

Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên, tôi tiến hành nghiên cứu thử

9


nghiệm đề tài: “Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học
chương Sóng ánh sáng Vật lý lớp 12 trung học phổ thông với sự hỗ trợ của
website dạy học”.
2. Mục tiêu của đề tài
Xây dựng và sử dụng được website hỗ trợ việc tích cực hóa hoạt động nhận
thức của học sinh trong dạy học chương Sóng ánh sáng Vật lý 12 trung học phổ thông.
3. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và sử dụng được website hỗ trợ cho quá trình dạy học thì sẽ
góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh qua đó chất lượng dạy học
môn Vật lý sẽ được nâng cao.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu lý luận dạy học về tích cực hóa hoạt động nhận thức cho học
sinh trong dạy học vật lý THPT.
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng Website trong dạy học.
+ Hệ thống hóa những tính năng của Website dạy học có thể hỗ trợ cho quá
trình dạy học.
+ Thiết kế Website dạy học hỗ trợ trong quá trình dạy học Vật lí.
+ Nghiên cứu nội dung, chương trình SGK vật lí 12. Tìm hiểu những thuận
lợi, khó khăn trong việc tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh trong dạy học
chương Sóng ánh sáng Vật lý 12 THPT.
+ Thiết kế một số giáo án trong chương Sóng ánh sáng Vật lí 12 THPT với
sự hỗ trợ của Website dạy học.
+ Thực nghiệm sư phạm tại trường trung học phổ thông Nguyễn Hữu Cảnh,
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang để đánh giá tính khả thi của phương án đề xuất.
5. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động dạy học chương "Sóng ánh sáng" Vật lí 12 THPT với sự hỗ trợ
của website dạy học.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trong chương Sóng ánh sáng Vật lí 12 THPT
và thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh tỉnh An Giang.

10


7. Lịch sử nghiên cứu
Hiện nay việc nghiên cứu để tổ chức hoạt động nhận thức cho HS trong dạy
học đạt hiệu quả đang là một vấn đề rất quan trọng. Nó quyết định hiệu quả của việc
đổi mới phương pháp dạy học mà trọng tâm là lấy người học làm trung tâm. Thực tế
khẳng định tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh với sự hỗ trợ của máy vi tính,
của thí nghiệm, của phiếu học tập,...đã mang lại những hiệu quả nhất định trong
việc nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt hiện nay việc thiết kế, khai thác và sử
dụng các trang Web, các Website nhằm hỗ trợ cho quá trình dạy học đang được chú
trọng. Ngoài các trang Web hỗ trợ dạy học Vật lý của Bộ giáo dục và đào tạo, của
các trường đại học, cao đẳng hiện nay đã có một số giáo viên của các trường phổ
thông cũng đã thiết kế các trang Website vận dụng vào quá trình dạy học như:
Website của Trương Hữu Phong, website của Lê Nhất Trưởng Tuấn, ... Bên cạnh đó
cũng đã có nhiều luận văn thạc sĩ đề cập đến việc thiết kế và sử dụng Website dạy
học để phục vụ cho quá trình dạy và học Vật lí như: "Thiết kế Website hỗ trợ dạy
học phần cơ sở Tĩnh điện" của tác giả Nguyễn Thị Nhị [24], "Thiết kế Website hỗ
trợ dạy học phần Vật lý hạt nhân" của Lê Ngọc Đào [11], "Thiết kế Website hỗ trợ
dạy học chương Động lực học chất điểm" của tác giả Hồ Đắc Vinh [40], "Thiết kế
tài liệu điện tử hỗ trợ dạy học phần nhiệt vật lí 10 trung học phổ thông" của tác giả
Phan Nhật Khánh [22],.... các công trình nghiên cứu này đã đề xuất được một định
hướng mới trong việc hỗ trợ dạy học Vật lý bằng cách thiết kế các website dạy học.
Ngày nay, ngoài các công trình nghiên cứu trong nước mà hiệu quả đã được

thực tế khẳng định, trên thế giới đã có rất nhiều trang Web tích hợp rất nhiều các nội
dung phong phú hỗ trợ cho tốt cho quá trình dạy học vật lí như:
/>

/> />http:/newton.physics.wwu.edu:8082/jstewart/scied/science.html
http//www.phycisclassroom.com,

11


http//www.colorado.edu/phycis/2000/index.html,
http//www.mix.belkemeyley.edu/phycis/phycis.html
http//www.hk-phy.org/jack,...
Các Website trên truy cập rất đơn giản, cung cấp kiến thức đa dạng và phong
phú về các lĩnh vực vật lí học như: các hình vẽ , đồ thị, hình ảnh động, các video
clips..., nhưng muốn tham khảo được cần phải có kiến thức nhất định về ngoại ngữ.
Tuy nhiên hiện nay ở nước ta đa số giáo viên và học sinh chưa có đủ khả năng để
tham khảo các trang Web này.
Các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định: Dạy học với sự hỗ trợ của
Website đã góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức cho học sinh và giải quyết
tốt các nhiệm vụ cơ bản của quá trình dạy học như truyền thụ tri thức, phát triển tư
duy, rèn luyện kỹ năng thực hành, ôn tập, tự kiểm tra đánh giá,...
Tuy nhiên ngoài các công trình nghiên cứu trên thì chưa có một công trình
nghiên cứu nào đề cập một cách đầy đủ về cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tích
cực hóa hoạt động nhận thức cho học sinh trong dạy học với sự hỗ trợ của Website
trong chương Sóng ánh sáng vật lí 12 THPT.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
+ Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các Chỉ thị của Bộ GD-ĐT.
+ Nghiên cứu sách, báo, tạp chí chuyên ngành.

+ Nghiên cứu cơ sở lí luận về các phương pháp dạy học Vật lí.
+ Nghiên cứu các luận văn có liên quan đến đề tài.
+ Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách bài tập, tài liệu tham khảo
Vật lý lớp 12.
8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Trao đổi với giáo viên về việc sử dụng CNTT trong DH vật lí (cụ thể là các
website dạy học).
+ Phỏng vấn học sinh về các tiết dạy có sử dụng CNTT.
+ Nghiên cứu một số Website DH, một số bài giảng điện tử đã có trên mạng.
+ Nghiên cứu thiết kế Website.

12


8.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Tiến hành giảng dạy một số tiết trong chương Sóng ánh sáng Vật lí 12
THPT với sự hỗ trợ của Website dạy học tại trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh, tỉnh
An Giang.
+ Kiểm tra đánh giá chất lượng học tập của HS sau khi đã tổ chức dạy học có
với sự hỗ trợ của website dạy học.
8.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để trình bày, so sánh kết quả thực
nghiệm sư phạm và kiểm định giả thuyết thống kê kết quả học tập của hai nhóm đối
chứng và thực nghiệm.
9. Cấu trúc luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận về tích cực hóa hoạt động nhận thức cho học sinh
trong dạy học Vật lý với sự hỗ trợ của Website dạy học.
Chương 2. Nghiên cứu thiết kế và sử dụng website hỗ trợ dạy học chương

Sóng ánh sáng Vật lí 12 THPT nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

13


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ
VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA WEBSITE DẠY HỌC
1.1. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học vật lý
1.1.1. Hoạt động nhận thức vật lý của học sinh
Trong quá trình phát triển của lịch sử, loài người không ngừng nhận thức và
cải tạo thế giới khách quan. Nhận thức là một hoạt động, một mặt cơ bản của đời
sống tâm lý con người nhằm phản ánh bản chất của những sự vật, hiện tượng của
hiện thực khách quan vào ý thức của con người.
Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau và có những mức
độ phản ánh khác nhau. Theo quan điểm Mác - Xít, bất cứ hoạt động nhận thức nào
cũng tuân theo cơ chế chung: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và tư
duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân
lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Theo Thái Duy Tuyên, hoạt động nhận thức là hoạt động tích cực phản ảnh
hiện thực khách quan vào chủ thể để thích ứng với nó hoặc cải tạo nó [37]. Hoạt
động nhận thức đi từ cái chưa biết đến biết, từ thuộc tính bên ngoài đến thuộc tính
bên trong và cuối cùng đi vào thực tiễn.
Như vậy hoạt động nhận thức là sự phản ảnh các hiện tượng thực tiễn nhưng

là sự phản ánh tích cực và có chọn lọc. Nó vừa mang tính kế thừa kiến thức của
nhân loại vừa mang tính sáng tạo của cá nhân.
Đối với học sinh, hoạt động chủ yếu của các em là học tập. Thông qua hoạt
động này, các em chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng lực trí tuệ
cũng như quan điểm đạo đức, thái độ. Trong hoạt động học tập nói chung cũng như
trong học tập Vật lí nói riêng, học sinh cũng tìm ra cái mới - đó là các khái niệm,
định luật Vật lí.... Nhưng cái mới này không làm phong phú thêm cho kho tàng kiến
thức của nhân loại mà cho chính bản thân mình, cái mới đó đã được loài người tích
luỹ, đặc biệt là giáo viên đã biết. Việc khám phá ra cái mới của học sinh cũng chỉ
14


diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn trên lớp, với những dụng cụ sơ sài, đơn
giản trong điều kiện trang thiết bị của trường phổ thông. Đặc biệt sự khám phá này
diễn ra dưới sự chỉ đạo và giúp đỡ của giáo viên. Do vậy hoạt động nhận thức của
học sinh diễn ra một cách tương đối thuận lợi, không quanh co gập ghềnh như hoạt
động của nhà khoa học. Cũng chính vì vậy thường dễ dẫn đến một sai lầm của giáo
viên là chỉ thông báo cho học sinh cái mới mà không tổ chức cho học sinh tự khám
phá để tìm ra cái mới đó.
Vì vậy, để kích thích hứng thú học tập môn Vật lý cho học sinh, giáo viên
phải có sự định hướng, dẫn dắt các em từng bước chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng
kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. Do đó, trong dạy học giáo viên có thể thực hiện
các biện pháp cụ thể như sau:


Cần xây dựng tình huống có vấn đề



Xây dựng cấu trúc nội dung bài học hợp lý, khoa học




Tạo điều kiện cho học sinh “tự khám phá, trao đổi, tranh luận” về những

kiến thức đã có sẵn trong sách vở, tài liệu, có động viên, khuyến khích kịp thời.


Tạo điều kiện cho học sinh làm quen với các phương pháp nhận thức vật

lý như phương pháp thực nghiệm, phương pháp mô hình, phương pháp giải quyết
vấn đề…
Vì vậy, việc tạo điều kiện cho học sinh hoạt động là rất cần thiết, trong đó
đặc biệt chú ý đến vai trò của người dạy với tư cách là người truyền thụ kiến thức,
định hướng hoạt động nhận thức của học sinh.
1.1.2. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức
1.1.2.1. Tính tích cực
Thái Duy Tuyên cho rằng tính tích cực là khái niệm biểu thị sự nỗ lực của
chủ thể khi tương tác với đối tượng. Sự nỗ lực đó diễn ra trên nhiều lĩnh vực: sinh
lý, tâm lý và xã hội. Nó cũng là khái niệm biểu thị cường độ vận động của chủ thể
khi thực hiện một nhiệm vụ, giải quyết vấn đề nào đấy [38].
Theo I.F.Kharlamop: Tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể, nghĩa
là của người hành động chỉ đề cập trong quá trình nhận thức, thuộc mục đích trước
mắt [21].
Như vậy, tính tích cực là biểu hiển của sự nỗ lực của cá nhân bằng thái độ,
15


tình cảm, ý chí…trong quá trình tác động đến đối tượng nhằm thu được kết quả cao
trong hoạt động nhận thức và cải tạo đối tượng đó.

1.1.2.2. Tính tích cực nhận thức
Là khái niệm biểu thị sự nỗ lực của chủ thể trong quá trình học tập và nghiên
cứu, được biểu hiện ở sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý nhằm giải
quyết những nhiệm vụ nhận thức, góp phần làm cho nhân cách của chủ thể được
phát triển. Tuy nhiên, tính tích cực có hai mặt: mặt tự phát và mặt tự giác. Mặt tự
phát của tính tích cực là những yếu tố tiềm ẩn bên trong, bẩm sinh, thể hiện ở tính
tò mò, hiếu kỳ, hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà ở học sinh đều có,
trong mức độ khác nhau. Mặt tự giác của tính tích cực là trạng thái tâm lý, tính tích
cực có mục đích và đối tượng rõ rệt, thể hiện ở óc quan sát, tính phán đoán trong tư
duy, trí tò mò khoa học [38]. Tính tích cực nhận thức và tích cực học tập của học
sinh có liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng không đồng nhất nhau. Có thể xem tính
tích cực như là một điều kiện, đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách
trong quá trình giáo dục
Như vậy tính tích cực tự giá có những dấu hiệu sau:


HS rất năng động: Luôn hoạt động và hoàn thành những công việc được

giao (thể hiện ở nhịp độ, cường độ học tập cao).


Học sinh rất tập trung: Sự chú ý của học sinh hướng đến đối tượng nhận

thức (đặc biệt là biểu hiện bề ngoài của sự chú ý: nét mặt, cử chỉ...). Tuy nhiên cũng
cần lưu ý rằng, nhiều khi có sự chú ý giả vờ. Có trường hợp tính tích cực bề ngoài
không kèm theo tính tích cực thực chất (tự phát).
1.1.2.3. Các biểu hiện của tính tích cực nhận thức
Tính tích cực nhận thức của học sinh được biểu hiện ở những dạng hoạt động
như: học tập, lao động, vui chơi giải trí...trong đó học tập là hoạt động chủ đạo của
học sinh. Tính tích cực học tập thực chất là tính tích cực nhận thức nó được biểu

hiện ở những dấu hiệu sau đây:


Học sinh hăng hái tham gia đóng góp xây dựng bài, luôn phát biểu ý kiến

của mình trước các câu hỏi thầy và học sinh trong lớp đặt ra và hoàn thành những
nhiệm vụ được giao.

16




Thường xuyên đưa ra những thắc mắc, đòi hỏi giáo viên phải giải thích chi

tiết những nội dung mà các em chưa hiểu hay chưa hiểu sâu.


Chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kĩ năng đã có để nhận thức

các vấn đề mới


Có thái độ học tập nghiêm túc, luôn chú ý vào vấn đề đang học, không nản

lòng khi đối mặt với những tình huống khó khăn.
Trong hoạt động học tập nói chung, trong dạy học Vật lí nói riêng, tính tích
cực hoạt động nhận thức của học sinh thường thể hiện ở:



Hoạt động trí tuệ: tập trung suy nghĩ để trả lời câu hỏi nêu ra, kiên trì tìm

cho được lời giải hay của một bài toán khó.


Hoạt động chân tay: say sưa lắp ráp tiến hành thí nghiệm.
Như vậy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh thể hiện ở

những hoạt động trí tuệ là tập trung suy nghĩ để trả lời câu hỏi nếu ra, kiên trì tìm
cho được lời giải hay của một bài toán khó cũng như hoạt động chân tay là say sưa
lắp ráp tiến hành thí nghiệm. Trong học tập hai hình thức biểu hiện này thường đi
kèm nhau tuy có lúc biểu hiện riêng lẻ.
1.1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh
Tích cực nhận thức của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc điểm
của trí tuệ, năng lực cá nhân về các vấn đề nghiên cứu; tình hình sức khỏe và trạng
thái tâm lý; giá trị về đạo đức, thẩm mĩ, lòng yêu khoa học…Ngoài ra tính tích cực
còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài như gia đình, nhà trường và xã hội.
Cụ thể là:


Chất lượng của quá trình dạy học, bao gồm mục tiêu, nội dung, phương

pháp, phương tiện, các hình thức dạy học, kiểm tra, đánh giá, quan hệ thầy trò, nề
nếp nhà trường,…ảnh hưởng lớn đến tính tích cực nhận thức của học sinh.


Các định hướng của xã hội; Các đặc điểm di truyền, không khí và truyền

thống gia đình có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với kết quả học tập của các em.
Từ những yếu tố trên, có thể thấy tính tích cực hoạt động nhận thức của học

sinh chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố. Trong đó, người giáo viên đóng vai trò rất
quan trọng vì là người trực tiếp tác động và điều chỉnh các hoạt động nhận thức của

17


học sinh. Vì vậy, có thể nói tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh phụ
thuộc rất lớn vào thầy, cô. Giáo viên có thể phát huy hay làm hạn chế tính tích cực
hoạt động nhận thức của học sinh.
1.1.3. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học
1.1.3.1. Khái niệm về tích cực hóa trong dạy học vật lý
Theo Thái Duy Tuyên, tích cực hóa là một tập hợp các hoạt động của thầy
giáo và của các nhà giáo dục nói chung, nhằm biến người học từ thụ động thành chủ
động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu
quả học tập [38].
Trong QTDH muốn tích cực hoá HĐNT của HS, người dạy có nhiệm vụ tổ
chức, điều khiển đưa HS vào trạng thái tích cực, chủ động trong các hoạt động học
tập, làm cho các em có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ học tập của mình, có thái
độ học tập tốt, từ đó quyết tâm hoàn thành tốt nhất các bài toán nhận thức trong quá
trình học tập. Trong QTDH người GV chỉ tạo nên những điều kiện cần thiết để kích thích
hoạt động học tập của HS, còn việc nắm vững kiến thức thì diễn ra tuỳ theo mức độ biểu
lộ tính tích cực trí tuệ và lòng ham hiểu biết, tư chất trí tuệ của mỗi em [28].
Như vậy, nếu tính tích cực liên quan đến sự nổ lực hoạt động của học sinh thì tính
tích cực hóa là việc làm của người thầy. Tích tích cực hóa hoạt động nhận thức của học
sinh là làm cho học sinh từ không chú tâm, lười biếng đến chỗ tích cực, say mê học tập.
Đây là công việc rất khó khăn, đòi hỏi người thầy từ bỏ vai trò thông báo kiến thức mới
cho học sinh sang vai trò định hướng, đạo diễn, phải khơi dậy lòng ham học của học
sinh bằng các tác động sư phạm với mục đích cuối cùng là giúp học sinh tự mình khám
phá ra kiến thức cùng với cách tìm ra kiến thức mới.
Tóm lại: Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh phổ thông có

thể phân biệt theo 3 cấp độ sau:
− Sao chép, bắt chước: Kinh nghiệm hoạt động bản thân học sinh được tích

luỹ dần thông qua việc tích cực bắt chước hoạt động của giáo viên và bạn bè. Trong
hoạt động bắt chước cũng có sự gắng sức của thần kinh và cơ bắp.
− Tìm tòi, thực hiện: Học sinh tìm cách độc lập suy nghĩ để giải quyết các

18


bài tập nêu ra, mò mẫm những cách giải khác nhau và từ đó tìm ra lời giải hợp lý
nhất cho vấn đề nêu ra.
− Sáng tạo: Học sinh nghĩ ra cách giải mới, độc đáo hoặc cấu tạo những bài

tập mới cũng như cố gắng tự lắp đặt những thí nghiệm để chứng minh cho bài học.
Lẽ đương nhiên là mức độ sáng tạo của học sinh có hạn nhưng đó là mầm mống để
phát triển tính sáng tạo về sau.
1.1.3.2. Sự cần thiết của việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
Đổi mới phương pháp giáo dục là một trong các nhiệm vụ có tính thời sự của
ngành giáo dục. Để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao
của xã hội, nhà trường càng phải đào tạo những con người biết tự học, tự tìm kiếm
tri thức cho bản thân, nghĩa là dạy học cần phải chuyển từ việc truyền thụ kiến thức
sang việc hình thành năng lực hoạt động tự lực cho học sinh.
Vật lí là một bộ môn thực nghiệm, nên việc đổi mới PPDH còn do yêu cầu
riêng của nó. Cần thay đổi cách truyền thụ một chiều, vì là khoa học thực nghiệm
nên sự hiểu biết về vật lí không chỉ đơn thuần là nắm được các công thức, khái
niệm, sự suy diễn lôgíc mà còn có sự trải nghiệm nhất định. Do đó đổi mới PPDH
vật lí phổ thông cần hướng tới việc tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến
thức thông qua hoạt động thực nghiệm, thông qua giải quyết các vấn đề thực tế.
Xuất phát từ yêu cầu chung của ngành, yêu cầu riêng của bộ môn, muốn thực

hiện được yêu cầu đổi mới PPDH trong quá trình dạy học cần thiết có sự tác động
bên ngoài vào nhận thức, tình cảm, ý chí của học sinh để tạo điều kiện phát huy tính
tích cực hoạt động nhận thức của học sinh. Sự tác động của các yếu tố bên ngoài phải
kích thích vào tính tích cực bên trong của học sinh, vì khi chịu tác động này học sinh
có thể có thái độ tích cực đối với quá trình nhận thức, làm cho kết quả học tập được
nâng cao. Ngược lại, tác động bên ngoài có thể gây tác động tiêu cực đến quá trình
nhận thức, phương hại đến kết quả học tập của các em. Thái độ tích cực hay tiêu cực
này phụ thuộc vào tâm trạng chủ quan của học sinh, giáo viên với vai trò điều khiển
cần tìm phương pháp thích hợp hình thành ở học sinh tâm trạng tích cực đối với học
tập của học sinh. Thái độ tích cực trong HĐNT của học sinh phải xuất phát từ nhu

19


cầu nhận thức [23].
Như vậy, trong quá trình dạy học, để phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận
thức của học sinh thì quá trình dạy học đó phải diễn biến sao cho:


Học sinh được đặt ở vị trí chủ thể, tự giác, tích cực, sáng tạo trong hoạt động

nhận thức của bản thân. Giáo viên tự từ bỏ vị trí của chủ thể nhưng lại là người đạo diễn,
định hướng trong hoạt động dạy học.


Quá trình dạy học phải dựa trên sự nghiên cứu những quan niệm, kiến thức sẵn

có của học sinh, khai thác những thuận lợi đồng thời nghiên cứu kỹ những trở ngại có
khả năng xuất hiện trong quá trình dạy học.



Mục đích dạy học không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tri thức, kỹ năng, kỹ xảo

mà còn phải dạy cho học sinh cách học, cách tự học, tự hoạt động nhận thức nhằm đáp
ứng các nhu cầu của bản thân và xã hội.
Đây là một những mục tiêu mà nhà trường hiện nay đang hướng tới.
1.1.4. Các biện pháp phát huy tính tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
Tích cực hoá HĐNT của HS có liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó yếu tố
động cơ và hứng thú học tập, năng lực, ý chí cá nhân, không khí dạy học trong
lớp… đóng một vai trò quan trọng. Các yếu tố này liên quan chặt chẽ với nhau và
có ảnh hưởng quyết định đối với việc tích cực hoá HĐNT của HS trong học tập.
Trong những yếu tố đó có nhiều yếu tố là kết quả của một quá trình hình thành lâu
dài và thường xuyên, không phải là kết quả của một giờ học mà là kết quả của cả
một giai đoạn, là kết quả của sự phối hợp của nhiều người, nhiều lĩnh vực và cả xã
hội [15].
Như vậy để có thể tiến hành tích cực hoá HĐNT của HS trong quá trình học tập
chúng ta phải chú ý đến một số biện pháp, chẳng hạn như: tạo ra và duy trì không khí
dạy học trong lớp, xây dựng động cơ, tạo hứng thú học tập cho HS, giải phóng sự lo sợ
ở HS… Bởi chúng ta không thể tích cực hoá trong khi HS vẫn mang tâm lý lo sợ, khi
các em không có động cơ và hứng thú học tập và đặc biệt thiếu không khí dạy học. Do
đó với vai trò của mình thầy giáo phải là người góp phần quan trọng trong việc tạo ra
những điều kiện tốt nhất để cho HS học tập, rèn luyện và phát triển. Sau đây là một số

20


biện pháp cụ thể:

21



1.1.4.1. Tạo ra và duy trì không khí dạy học
Tạo ra và duy trì không khí dạy học trong lớp nhằm tạo ra một môi trường
thuận lợi cho sự học tập và phát triển của HS. Trong môi trường đó HS dễ dàng bộc
lộ những hiểu biết của mình và sẵn sàng tham gia tích cực vào quá trình dạy học, vì
khi đó tâm lý của học sinh rất thoải mái.
1.1.4.2. Khởi động tư duy, gây hứng thú học tập cho HS
Trước mỗi giờ học tư duy HS thường ở trạng thái nghỉ ngơi. Do đó, trước hết
thầy giáo phải tích cực hoá nhận thức HS ngay từ khâu đề xuất vấn đề học tập nhằm
vạch ra trước mắt HS lí do của việc học và giúp các em xác định được nhiệm vụ học
tập của mình. Đây là bước khởi động tư duy là nhằm đưa HS vào trạng thái sẵn
sàng học tập, lôi kéo HS vào không khí học tập.
Khởi động tư duy mới chỉ là bước mở đầu, điều quan trọng hơn là phải tạo ra
và duy trì hứng thú học tập trong suốt cả giờ học. HS càng hứng thú học tập bao
nhiêu thì việc thu nhận kiến thức của các em càng chủ động tích cực và chắc chắn
bấy nhiêu. Muốn vậy cần phải chú ý tới việc tạo ra các tình huống có vấn đề nhằm
gây sự xung đột tâm lý ở HS. Điều này cũng rất cần thiết và cũng rất khó khăn, nó
đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực và năng lực sư phạm của người thầy giáo. Ngoài ra cũng
cần chú ý đến lôgic của bài giảng. Một bài giảng phải gồm những mắt xích nối với
nhau chặt chẽ, phần trước là tiên đề cho việc nghiên cứu phần sau, phần sau bổ sung
làm rõ hơn phần trước. Có như vậy thì nhịp độ hoạt động, hứng thú học tập và quá
trình nhận thức của HS mới tiến triển theo một mạch liên tục không bị ngắt quãng.
Như vậy khởi động tư duy và gây hứng thú học tập cho học sinh nhằm đưa học
sinh vào trạng thái sẵn sàng học tập, lôi kéo học sinh vào không khí học tập tốt hơn
1.1.4.3. Khai thác và phối hợp các phương pháp dạy học
Khai thác và phối hợp các phương pháp dạy học một cách có hiệu quả, đặc
biệt chú trọng đến các phương pháp dạy học tích cực như: phương pháp nêu vấn đề;
phương pháp triển khai hệ thống câu hỏi; phương pháp thực nghiệm...có như vậy mới
khuyến khích, phát huy được tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong học tập.
Nội dung học tập phải có cái mới nhưng không quá xa lạ với học sinh mà

phải có sự kế thừa kiến thức cũ, kiến thức phải gần gũi với thực tế cuộc sống.

22


Tăng cường sử dụng thí nghiệm, phương tiện trực quan, phương tiện nghe
nhìn trong quá trình dạy học
Gắn nội dung bài học với thực tiễn, giúp cho HS thấy được ý nghĩa của việc
học Vật lý nhằm kích thích sự say mê, lý thú và yêu thích môn học.
Đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS
Tổ chức dạy học với sự hỗ trợ của đa phương tiện nhằm hình thành kiến thức
cho HS qua nhiều kênh thông tin khác nhau.
Tổ chức các hoạt động ngoại khóa nhằm mở rộng, củng cố và vận dụng kiến
thức vào trong thực tiễn cuộc sống.
1.1.5. Ý nghĩa của việc tích cực hóa hoạt động nhận thức
Tích cực hoá HĐNT của HS là một trong những nhiệm vụ của thầy giáo
trong nhà trường và cũng là biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học. Quá trình
tích cực hoá HĐNT của HS sẽ góp phần làm cho mối quan hệ giữa dạy và học, giữa
thầy và trò ngày càng gắn bó và hiệu quả hơn. Tích cực hoá vừa là biện pháp để
thực hiện nhiệm vụ dạy học vừa góp phần rèn luyện cho HS những phẩm chất của
người lao động mới: tự chủ, năng động và sáng tạo. Đó là một trong những mục tiêu
mà nhà trường phải hướng tới.
Tích cực hoá HĐNT của HS là biện pháp nhằm khuyến khích HS bộc lộ quan
niệm, phát huy tiềm năng vốn có của bộ não để tham gia tích cực vào quá trình tự
khám phá và tìm tòi kiến thức cho bản thân. Vì thế việc tích cực hoá HĐNT của HS có
một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát huy tính tự lực, sáng tạo, tích cực
tham gia tìm kiếm tri thức mới và củng cố những kiến thức thu nhận được trong dạy
học vật lí ở trường phổ thông.
1.2. Website hỗ trợ dạy học Vật lý và việc tích cực hoá hoạt động học tập của
học sinh

1.2.1. Website dạy học
WWW (World Wide Web) là một tập hợp các công cụ tiện ích và các siêu giao
diện (Meta Interface) giúp người sử dụng tạo ra các “siêu văn bản” (HyperText), và
cung cấp cho những người sử dụng khác trên Internet, được gọi tắt là công nghệ Web.
Công nghệ Web cho phép truy cập và xử lý các trang dữ liệu đa phương tiện

23


(Hypermedia) trên Internet. Web sử dụng một ngôn ngữ có tên là HTML (HyperText
Markup Language) để xây dựng các trang thông tin đa phương tiện như thế. HTML
cho phép đọc và liên kết các kiểu dữ liệu khác nhau trên cùng một trang, nhóm trang
thông tin tại các “Site”. Hiện nay, WWW là dịch vụ thông tin hấp dẫn nhất trên Internet
dựa trên kỹ thuật trình bày thông tin “Siêu văn bản”.
Nhờ kỹ thuật trình diễn thông tin có tên gọi là “Siêu văn bản” (HyperText)
và được xây dựng bằng ngôn ngữ có tên là HTML (HyperText Markup Language)
mà Website đã trở thành một phương tiện hữu hiệu để tìm kiếm, trao đổi thông tin
và giao lưu trên mạng Internet. Với khả năng ấy, có thể xây dựng các Website hỗ trợ
cho việc DH hay còn gọi là Website hỗ trợ dạy học.
Website hỗ trợ dạy học là một phương tiện DH (dưới dạng phần mềm trên
máy tính) được tạo ra bởi các siêu văn bản. Các siêu văn bản chứa đựng tài liệu
dưới dạng điện tử như: SGK, SGV, BGĐT, kiến thức cơ bản, ôn tập, kiểm tra, ảnh
tĩnh, ảnh động, video,… Các tài liệu này được trình bày trên các siêu văn bản dưới
dạng các công cụ tiện ích và các siêu giao diện (trình diễn các thông tin Multimedia:
văn bản, âm thanh, hình tĩnh, hình động…). Website hỗ trợ dạy học sẽ hỗ trợ cho
GV, HS, các nhà quản lí trong các hoạt động DH, tham khảo, đào tạo, quản lí,…
Website hỗ trợ dạy học còn là một phương tiện hữu hiệu để phổ biến kiến thức,
cung cấp thông tin cho nhiều đối tượng khác nhau trên mạng máy tính.
Website hỗ trợ dạy học Vật lí là một phương tiện hỗ trợ DH Vật lí. Đó là một
tập hợp các siêu văn bản chứa đựng các TLĐT hỗ trợ cho việc DH Vật lí dưới dạng

các công cụ tiện ích và siêu giao diện. TLĐT trong Website mang nội dung thông tin
hỗ trợ cho các hoạt động DH Vật lí như: hình thành, củng cố, ôn tập, kiểm tra tri
thức Vật lí, rèn luyện kỹ năng, phát triển tư duy vật lí, giáo dục lòng say mê nghiên
cứu khoa học.
Website hỗ trợ dạy học Vật lí bao gồm: các trang Web chứa đựng những nội
dung thông tin khác nhau hỗ trợ cho các khâu trong QTDH Vật lí như: trang Web
hình thành tri thức vật lí, kĩ năng nhận thức mới; trang Web hỗ trợ ôn tập, kiểm tra,
đánh giá tri thức; trang Web cung cấp những kiến thức vật lí cơ bản, kiến thức vật lí
nâng cao; trang Web cung cấp những kiến thức vật lí liên quan đến đời sống; …

24


TLĐT trong Website hỗ trợ dạy học Vật lí bao gồm: BGĐT, phần mềm mô
phỏng, minh họa các hiện tượng vật lí, hình ảnh, video vật lí, các định luật, hệ thống
bài tập, câu hỏi trắc nghiệm, phần mềm trắc nghiệm… Những hiệu ứng trình diễn
và các liên kết sẽ kết nối những nội dung trên một cách logic và hệ thống nhằm giúp
người sử dụng dễ dàng thực hiện các hoạt động một cách hiệu quả.
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng Website dạy học
Việc ứng dụng CNTT trong giáo dục tại Việt Nam trong nhiều năm qua đã có
nhiều tiến bộ. Các giáo viên phổ thông đã quen dần với "làn sóng thứ nhất": trào
lưu sử dụng chương trình PowerPoint để tạo các bài thuyết trình để giảng dạy, thực
hiện tiết dạy mẫu, thi giáo viên giỏi... Và giờ đây cộng đồng giáo viên đang bắt đầu
tham gia vào "làn sóng thứ hai": tạo Website hoặc Blog để phục vụ cho công tác
giảng dạy của mình. Từ đây nhiều bất cập của Website đã dần dần thể hiện rõ, như
chưa xác định rõ đối tượng mà Website hướng đến, chưa chuẩn bị tốt các tư liệu
giáo dục phục vụ công tác giảng dạy, Website mắc nhiều lỗi thiết kế và thiếu tương
tác. Vì vậy, khi hoạt động các Website này sẽ kém hiệu quả. Đứng trên phương diện
dạy học, để xây dựng một Website dạy học đáp ứng được yêu cầu khắc phục các
nhược điểm trên, ta cần dựa vào một số nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Để xây dựng một Website giáo dục hỗ trợ đắc lực cho công tác giảng dạy
của mình, giáo viên cần nắm rõ môn học mình giảng dạy, hiểu được những vấn đề
nào gây khó khăn cho người học, và tập trung đưa thêm nhiều tài liệu học tập giải
thích cho vấn đề, hiện tượng mà mình không có nhiều thời gian giảng dạy trên lớp.
Đồng thời nên xây dựng các bài giảng, tài nguyên giáo dục bám sát chương trình
mình đang dạy và có thêm các liên kết dẫn đến các trang Web bên ngoài có cung
cấp thêm thông tin về đề tài đó.
- Khi tạo trang Web, giáo viên cần có định hướng về trang Web của mình
xuất phát từ những ý tưởng sư phạm đã được xác lập từ đầu và phải lấy tính hiệu
quả làm tiêu chí cho việc triển khai ứng dụng nó (về nội dung, kết cấu các thư mục
cần có) sao cho phù hợp với đặc điểm môn học, mục đích sử dụng của bản thân và
có thể duy trì, phát triển trang Web lâu dài. Điều này cần tính toán, cân nhắc kỹ
lưỡng và nên có một thời gian nhất định cho công việc chuẩn bị những điều kiện
hình thành trang Web.

25


×