Tải bản đầy đủ (.docx) (150 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH vụ KHÁM BỆNH CHO NGƯỜI có bảo HIỂM y tế tại BỆNH VIỆN đa KHOA HOÀNG VIẾT THẮNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 150 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN ĐỨC THƯỞNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ KHÁM BỆNH
CHO NGƯỜI CÓ BẢO HIỂM Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN
ĐA KHOA HOÀNG VIẾT THẮNG

Chuyên ngành : QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số

:

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TÀI PHÚC

Thừa Thiên Huế, 2017

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự
giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đã được ghi trong lời cảm ơn. Các thông
tin, tài liệu trình bày trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
TP Huế, tháng 07 năm 2017


Tác giả Luận văn

Nguyễn Đức Thưởng

2


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Nâng cao chất lượng dịch vụ khám
bệnh cho người có bảo hiểm y tế tại bệnh viện đa khóa Hoàng Viết Thắng” Tôi
đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện của các cá nhân và
tập thể. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành về sự giúp đỡ đó.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn Ban Giám hiệu Nhà trường, Phòng Đào tạo sau
đại học và các thầy, cô giáo Trường Đại học Kinh tế Huế đã tạo mọi điều kiện,
giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học tập và nghiên cứu.
Có được kết quả này, tôi vô cùng biết ơn và bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc
đối với PGS.TS.Nguyễn Tài Phúc, người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tôi
trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phòng Giám định Bảo hiểm y tế
- BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế, Bệnh viện Đa Khoa Hoàng Viết Thắng. Tôi cũng
xin cảm ơn Ban Giám đốc, cán bộ nhân viên bệnh viện đã hướng dẫn và giải
đáp những vấn đề thuộc chuyên môn để tôi có điều kiện thu thập thông tin, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia
đình đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
TP Huế, tháng 7 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Đức Thưởng


3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

1
2
3
4
5

Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm xã hội
Bệnh viện đa khoa
Bệnh nhân
Bệnh viện tư nhân

BHYT
BHXH
BVĐK
BN
BVTN


6

Bệnh viện trung ương

BVTW

7

Chất lượng dich vụ

CLDV

8

Cán bộ công nhân viên

CBCNV

9

Doanh nghiệp

DN

10

Đại học y dược

ĐHYD


11

Khám chữa bệnh

KCB

12

Chăm sóc sức khỏe

CSSK

4


MỤC LỤC

5


DANH MỤC CÁC BẢNG

6


DANH MỤC CÁC HÌNH

7



PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Con người ai cũng muốn có một cuộc sống khoẻ mạnh, ấm no, hạnh phúc.
Nhưng những rủi ro bất ngờ về sức khoẻ như ốm đau, bệnh tật luôn có thể xảy ra.
Bệnh tật đã dồn nhiều người vào những thảm cảnh đáng lo ngại. Các chi phí khám
và chữa bệnh này không được xác định trước, mang tính đột xuất. Vì vậy cho dù lớn
hay nhỏ đều gây khó khăn cho ngân quỹ mỗi gia đình, cá nhân, đặc biệt đối với
những người có thu nhập thấp. Đồng thời bệnh tật cũng kéo theo sự mất mát về thu
nhập do người bệnh không có sức khoẻ để làm việc. Từ đó đã đe doạ đến cơ sở kinh
tế và sự tồn tại trước hết của bản thân những người lao động, sau đó đến các thành
viên trong gia đình và ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội.
Để khắc phục những khó khăn cũng như chủ động về tài chính khi rủi ro bất
ngờ về sức khỏe xảy ra, người ta đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như tự tích
luỹ, bán tài sản, kêu gọi sự hỗ trợ của người thân, đi vay… Tuy nhiên, những biện
pháp đó không thể áp dụng trong trường hợp rủi ro kéo dài về thời gian và lặp đi lăp
lại. Khi đó, người ta phải cần đến bảo hiểm y tế. Vì thế, cuối thế kỷ XIX, Bảo hiểm
Y tế (BHYT) ra đời nhằm giúp đỡ mọi người lao động và gia đình khi gặp rủi ro về
sức khoẻ. BHYT sẽ đảm bảo chi trả toàn bộ hoặc từng phần (tuỳ theo điều kiện kinh
tế xã hội của từng nước) những chi phí KCB "khổng lồ", giúp cho người bệnh vượt
qua cơn hoạn nạn về bệnh tật, sớm phục hồi sức khoẻ cũng như ổn định cuộc sống
gia đình, từ đó ổn định đời sống, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Theo quyết định phê duyệt đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn
dân giai đoạn 2012 - 2015 và 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua, mục
tiêu đến năm 2020 có trên 90% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Theo Báo cáo của
Bộ Y tế và BHXH Việt Nam về kết quả triển khai Đề án thực hiện lộ trình tiến tới
BHYT toàn dân, tính đến ngày 31/5/2016, cả nước đã có 70,95 triệu người tham gia
BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ 77% dân số. Riêng tỉnh Thừa Thiên Huế tỷ lệ bao phủ trên
93% dân số toàn tỉnh.
8



Song song với đó, hiện nay chất lượng khám chữa bệnh cho người tham gia
BHYT là vấn đề hiện đang được xã hội dành sự quan tâm và bàn luận khá nhiều.
Nhận xét về chất lượng khám chữa bệnh BHYT, phần lớn đều cho rằng chất lượng
khám chưa đáp ứng được yêu cầu, thủ tục còn rườm rà rắc rối, gây nhiễu sách cho
người đi khám bệnh. Chính vì vậy, có một bộ phận không nhỏ người dân có tham
gia đóng tiền BHYT nhưng vẫn tìm đến các hình thức khám chữa bệnh dịch vụ
tự nguyện với niềm tin rằng họ sẽ được phục vụ tốt hơn.
Trước thực tế đó. Sau khi thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC được
ban hành (hơn 1.800 dịch vụ y tế do BHYT thanh toán được tăng giá, với mức tăng
từ 2 đến 7 lần) và áp dụng cho bệnh viện tư nhân từ ngày 1/3/2016 và bệnh viện
công lập 1/7/2016. Hiện nay hầu hết các bệnh viện, nhất là các bệnh viện tư nhân
đều hướng đến mục tiêu xem bệnh nhân BHYT là khách hàng tiềm năng. Đây là đối
tượng mang lại “công ăn việc làm” và lương thưởng cho cán bộ nhân viên bệnh
viện. Do vậy, công tác chăm sóc người bệnh có thẻ BHYT là công việc cần thiết mà
các bệnh viện phải làm. Thỏa mãn nhu cầu và mong đợi của người bệnh, tức là phục
vụ người bệnh theo cách mà họ mong muốn được phục vụ. Không phân biệt đối xử
giữa bệnh nhân BHYT và bệnh nhân bỏ tiền làm dịch vụ. Bên cạnh đó, việc cạnh
tranh với các bệnh viện tư nhân, phòng khám tư nhân khác trên cùng địa bàn cũng
khá gay gắt. Để giải quyết vấn đề này, bệnh viện cần phải quan tâm hơn nữa, nâng
cao chất lượng khám chữa bệnh BHYT. Xem người bệnh có thẻ BHYT là khách
hàng quan trọng và thường xuyên. Cần có một hệ thống quản trị khách hàng BHYT
hoàn thiện và phù hợp với đặc điểm riêng của mình, từ đó có thể thiết lập, duy trì,
tạo đà cho sự mở rộng và phát triển một cách bền vững.
Từ một phòng khám tư nhân, nhạy bén để theo đuổi mô hình dịch vụ y tế
toàn diện hơn. Sau 10 năm hoạt động, phòng khám đa khoa Hoàng Viết Thắng đã
vươn vai trở thành Bệnh viện Đa khoa Hoàng Viết Thắng với hơn 25.000 thẻ BHYT
đăng ký ban đầu. Với slogan “Tất cả vì người bệnh” đã được tối ưu hóa trong ứng
xử giữa nhân viên với bệnh nhân. Điều đó cho thấy bệnh viện đã rất chú trọng đến
việc tạo dựng một hình ảnh thân thiện, một mối quan hệ bền vững với các khách


9


hàng và đang từng bước hoàn thiện dịch vụ chăm sóc nhằm mục đích thu hút và giữ
chân khách hàng BHYT về phía mình. Tuy vậy, quá trình thực hiện còn có một số
hạn chế. Nhận thức được vấn đề này, tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao chất
lượng dịch vụ khám bệnh cho người có bảo hiểm y tế tại bệnh viện đa khoa
Hoàng Viết Thắng” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung.
Đánh giá thực trạng và nghiên cứu tiến hành kiểm định thang đo chất lượng
dịch vụ thông qua sự đánh giá của khách hàng. Mục tiêu nhằm đánh giá độ tin cậy
và tính giá trị của thang đo SERVPERF có điều chỉnh để áp dụng tại bệnh viện. Qua
đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ khám bệnh cho người có thẻ
Bảo hiểm y tế, khi đến khám bệnh tại Bệnh viện đa khoa Hoàng Viết Thắng
2.2. Mục tiêu cụ thể.
+ Góp phần hệ thống hóa cơ sở khoa học về chất lượng dịch vụ khám bệnh
cho người bệnh có thẻ BHYT.
+ Đánh giá thực trạng chất lượng dịch vụ khám bệnh cho người bệnh
tham gia BHYT tại bệnh viện Hoàng Viết Thắng.
+ Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ khám bệnh cho
người có thẻ BHYT.
+ Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ khám bệnh cho người có
thẻ BHYT tại địa bàn nghiên cứu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề liên quan đến chất lượng dịch vụ khám bệnh cho người có
thẻ BHYT là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian:
Đề tài được nghiên cứu tại:
+ Bệnh viện đa khoa Hoàng Viết Thắng
+ Một số cơ sở KCB cùng phân hạng trên địa bàn Thành Phố Huế.
10


- Về thời gian
+ Thông tin sử dụng để nghiên cứu được thu thập trong giai
đoạn 2014 - 2016.
+ Đề xuất giải pháp cho giai đoạn 2017 - 2020.
- Về nội dung
+ Chỉ nghiên cứu các vấn đề chất lượng dịch vụ, phục vụ khám bệnh
cho người có thẻ BHYT thuộc lĩnh vực BHYT của Nhà nước, không đề cập đến
BHYT thuộc các công ty bảo hiểm Nhân thọ và Phi Nhân thọ.
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Dữ liệu thứ cấp:
Luận văn sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các sở ban
ngành liên quan như: Website Bộ Y tế, BHXH Việt Nam, Sở Y tế tỉnh Thừa
Thiên Huế. Các sách, báo, tạp chí chuyên ngành, các công trình nghiên cứu đã
được công bố. Các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh do các bộ phận
chức năng của bệnh viện đa khoa Hoàng Viết Thắng cung cấp.
4.2. Dữ liệu sơ cấp:
Thu thập ý kiến, dùng phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp, quan sát… những
khách hàng có thẻ BHYT đã và đang khám bệnh tại Bệnh viện đa khoa Hoàng Viết
Thắng.
Ước tính tổng số mẫu nghiên cứu là 300 mẫu tương ứng với 300 khách
hàng.
4.3. Phương pháp xử lý số liệu
Thông tin thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 22.0 và AMOS 22.0

Thang đo được xây dựng dựa trên phương pháp đánh giá với hệ số tin cậy
Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố EFA, tiến hành phân tích nhân tố khẳng định
CFA và sử dụng mô hình SEM để kiểm định sự phù hợp của mô hình lý thuyết đã
xây dựng.

11


PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KHÁM BỆNH BẢO HIỂM Y TẾ
1.1. Cơ sở lý luận về dịch vụ khám bệnh bảo hiểm y tế
1.1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm y tế
1.1.1.1 Khái niệm.
Là một bộ phận cấu thành của pháp luật về an sinh xã hội, Bảo hiểm y tế
(BHYT) là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và
là một trong 9 nội dung của BHXH được quy định tại Công ước 102 ngày
28.6.1952 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về các tiêu chuẩn tối thiểu cho các
loại trợ cấp BHXH.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, khái niệm BHYT vẫn có tính độc lập tương đối so
với khái niệm BHXH, đặc biệt là ở góc độ luật thực định, tính độc lập càng thể hiện
rõ. Theo khoản 1, điều 2 Luật Bảo hiểm Y tế số 25/2008/QH12 ngày 14/11/2008 do
Quốc hội ban hành: Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh
vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực
hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật này.
Khái niệm về BHYT được trình bày trong cuốn " Từ điển Bách khoa Việt
Nam I xuất bản năm 1995" - Nhà xuất bản từ điển Bách khoa - trang 151 như sau:
"Bảo hiểm y tế là loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự
đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh
và chữa bệnh cho nhân dân".

1.1.1.2. Phân loại bảo hiểm y tế.
Việt Nam tồn tại hai loại hình bảo hiểm y tế: bảo hiểm y tế bắt buộc và bảo
hiểm y tế tự nguyện.
- BHYT bắt buộc là loại hình BHYT chỉ áp dụng đối với một nhóm đối tượng
nhất định.

12


+ Người làm việc theo HĐLĐ (hoặc hợp đồng làm việc) không xác định thời
hạn, HĐLĐ xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất
định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng;
+ Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng
(thực hiện từ 01/01/2018);
+ Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng
tiền lương;
+ Người sử dụng lao động tham gia BHXH, BHTN, BHYT bắt buộc bao
gồm: cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ
hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ.
- BHYT tự nguyện là loại hình BHYT thứ hai đang được thực hiện ở nước ta.
Ngoài các đối tượng phải mua bảo hiểm y tế bắt buộc thì hầu hết mọi người
đều có thể mua bảo hiểm y tế tự nguyện, và thông thường đối tượng chính của bảo
hiểm y tế tự nguyện là dưới hình thức bảo hiểm y tế hộ gia đình:
+ Toàn bộ những người có tên trong sổ hộ khẩu (trừ đối tượng quy định theo
Luật Bảo hiểm y tế thuộc đối tượng đã tham gia Bảo hiểm y tế theo các nhóm khác
và người đã khai báo tạm vắng).
+ Toàn bộ những người có tên trong sổ tạm trú (trừ đối tượng quy định theo
LuậtBảo hiểm y tếthuộc đối tượng đã tham gia Bảo hiểm y tế theo các nhóm khác).

Mức đóng bảo hiểm y tế hộ gia đình sẽ được chia cấp theo số đối tượng trong
gia đình tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.
Và để trả lời cho câu hỏi mua bảo hiểm y tế tự nguyện bao nhiêu tiền năm
2016 chúng ta hãy xét trường hợp của gia đình ông B dưới đây để hiểu rõ hơn.
Ví dụ: Gia đình ông B có 05 người có tên trong sổ hộ khẩu, trong đó có 01
người hưởng lương hưu, 01 người là công chức; ngoài ra, có 01 người ở địa phương
khác đến đăng ký tạm trú.
13


Chính vì thế, gia đình ông B có 2 người thuộc diện đóng bảo hiểm y tế
bắt buộc. Do vậy, số người tham giaBảo hiểm y tếtheo hộ gia đình ông B là 4
người, gồm:
+ 3 thành viên trong gia đình không thuộc diện đóng bảo hiểm y tế bắt buộc
+ 1 người tạm trú tại gia đình, chưa tham gia bảo hiểm y tế ở bất kì nhóm
nào khác).
- Nguyên tắc:Khi tham gia, bắt buộc phải tham gia đối với 100% thành viên
hộ gia đình.
- Mức đóng:4,5% mức lương cơ sở/tháng (hiện nay là 621.000 đồng/năm).
Giảm trừ mức đóng của các thành viên trong cùng hộ như sau:
+ Người thứ nhất: Đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở;
+ Người thứ 2: Đóng bằng 70% mức đóng của người thứ nhất;434,7
+ Người thứ 3: Đóng bằng 60% mức đóng của người thứ nhất;372,6
+ Người thứ 4: Đóng bằng 50% mức đóng của người thứ nhất;
+ Người thứ 5 trở đi: Đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.
Theo ví dụ trên đây, thì gia đình ông B sẽ phải đóng tổng cộng (621.000 +
434.700 + 372.600 + 310.500 = 1.738.800 đồng /năm)
BHYT tự nguyện gồm nhiều loại hình khác nhau: bảo hiểm KCB nội trú, bảo
hiểm KCB ngoại trú, bảo hiểm bổ sung cho loại hình BHYT bắt buộc; BHYT cộng
đồng, BHYT hộ gia đình và các loại hình BHYT khác.

1.1.1.3. Bản chất của bảo hiểm y tế.
Từ những khái quát trên, cùng với những thực tế đã diễn ra trong lịch sử phát
triển BHXH, BHYT trên thế giới hơn 100 năm và trong nước hơn 10 năm nay,
chúng ta có thể phân tích đầy đủ hơn về bản chất của BHYT.


Bảo hiểm y tế trước hết là một nội dung của bảo hiểm xã hội - một trong
những bộ phận quan trọng của hệ thống bảo đảm xã hội hay còn gọi là hệ thống an
sinh xã hội ( được quy định tại Công ước 102 của Tổ chức Lao động quốc tế ILO)
Thực chất, bảo hiểm y tế mang tính chất của bảo hiểm xã hội, là một hình
thức bảo hiểm sức khỏe của con người được các nước quan tâm phát triển mạnh mẽ.
14


Tuy nhiên, Việt Nam triển khai bảo hiểm y tế độc lập với bảo hiểm xã hội. Vì vậy,
bảo hiểm y tế Việt Nam được tách ra với tên gọi riêng, không thuộc khái niệm bảo
hiểm xã hội, mặc dù đó là hình thức bảo hiểm mang tính xã hội và phi lợi nhuận.


BHYT là một tổ chức cộng đồng đoàn kết tương trợ lẫn nhau
Ở các nước công nghiệp phát triển người ta định nghĩa BHYT trước hết là
một tổ chức cộng đồng đoàn kết tương trợ lẫn nhau, nó có nhiệm vụ gìn giữ sức
khỏe, khôi phục lại sức khỏe hoặc cải thiện tình trạng sức khỏe của người tham gia
BHYT. Như vậy, trong hoạt động BHYT thì tính cộng đồng đoàn kết cùng chia sẻ
rủi ro rất cao; nó là nền tảng cho lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe; nó điều tiết
mạnh mẽ giữa người khoẻ mạnh với người ốm yếu, giữa thanh niên với người già
cả và giữa người có thu nhập cao với những người có thu nhập thấp. Sự đoàn kết
tương trợ lẫn nhau trong BHYT là sự đảm bảo cho từng người dựa trên cơ sở của sự
đoàn kết không điều kiện, của sự hợp tác cùng chung lòng, chung sức và gắn kết
chặt chẽ với nhau. Theo định nghĩa BHYT nêu trên, thì sự đoàn kết tương trợ vừa

mang một ý nghĩa tự giác, vừa mang ý nghĩa cùng chịu trách nhiệm và vừa có sự
thống nhất về quan điểm chung. Người ta còn cho rằng: Đoàn kết tương trợ là nền
tảng xã hội cho sự phát triển của mỗi chế độ xã hội loài người và nó mang lại một
gương mặt nhân đạo mới cho chế độ xã hội đó. Tính nhân đạo của hoạt động đoàn
kết tương trợ sẽ đánh dấu bước tiến bộ của thể chế xã hội. Đây cũng chính là bản
chất nhân văn của hoạt động BHYT mà chúng ta thường đề cập đến. Tuy nhiên
đoàn kết tương trợ không chỉ là quyền được nhận mà còn phải là nghĩa vụ đóng
góp. Sự công bằng và bình đẳng của một chế độ xã hội được gắn bó với sự đoàn kết
được thể hiện ở chỗ: ai muốn đạt được sự bền chặt về đoàn kết thì cần thực hiện
nhiều hơn sự công bằng. Điều đó chỉ có thể được tạo ra thông qua sự điều chỉnh
trong thực tế, vì "sự công bằng" là yếu tố động, nó chỉ đạt được tại một thời điểm,
còn lại đều là sự không công bằng. Đây là một trong những yếu tố tác động đến sự
phát triển xã hội. Do vậy, cần phải có sự tích cực điều chỉnh thực tế một cách
thường xuyên nhằm đảm bảo mối quan hệ tương thích giữa nghĩa vụ và quyền lợi
trong hoạt động của BHYT.
15


BHYT sẽ bảo đảm cho những người tham gia BHYT và các thành viên gia
đình của họ những khả năng để đề phòng, ngăn ngừa bệnh tật; phát hiện sớm bệnh
tật; chữa trị và khôi phục lại sức khoẻ sau bệnh tật. Do các chế độ BHXH về khám
chữa bệnh, chế độ thai sản và chế độ ốm đau (chi trả tiền thay thế tiền lương trong
những ngày ốm đau không làm việc được) đều có cùng phương thức hoạt động và
các nguyên tắc cơ bản chung, cho nên tùy theo đặc điểm lịch sử, tập quán của từng
nước mà BHYT có thể bao gồm cả chế độ khám chữa bệnh, chế độ thai sản và chế
độ ốm đau hoặc được tách ra theo từng chế độ riêng biệt. Điều đó liên quan đến
phạm vi đối tượng tham gia BHXH, đến mức đóng góp và các chế độ được hưởng.
1.1.1.4. Đặc điểm của bảo hiểm y tế
Trên cơ sở khái niệm BHYT nói trên, có thể thấy bên cạnh những tính chất
chung của một chế độ an sinh xã hội, BHYT còn có một số đặc điểm sau:

- BHYT có đối tượng tham gia rộng rãi, bao gồm mọi thành viên trong xã hội
không phân biệt giới tính, tuổi tác, khu vực làm việc, hình thức quan hệ lao động…
- BHYT không nhằm bù đắp cho thu nhập cho người hưởng bảo hiểm (như
chế độ BHXH ốm đau, tai nạn lao động…) mà nhằm chăm sóc sức khỏe cho họ khi
bị bệnh tật, ốm đau… trên cơ sở quan hệ BHYT mà họ tham gia.
- BHYT là chi phí ngắn hạn, không xác định trước, không phụ thuộc vào thời
gian đóng, mức đóng mà phụ thuộc vào mức độ bệnh tật và khả năng cung ứng các
dịch vụ y tế.
1.1.1.5. Chức năng của BHYT trong đời sống kinh tế xã hội.
- Góp phần chi trả chi phí khám chữa bệnh cho người tham gia
Khi lâm bệnh, người bệnh buộc phải đến các cơ sở y tế để được khám chữa
bệnh (KCB). Cũng từ bệnh tật, nhất là những bệnh tật kinh niên, bệnh mãn tính
hoặc bệnh hiểm nghèo đã dẫn đến các khoản chi phí KCB cực kỳ lớn. Có những
người bệnh phải được sử dụng các công nghệ kỹ thuật cao trong việc chẩn đoán và
chữa trị bệnh, phải sử dụng các loại thuốc đắt tiền và phải lưu trú dài ngày tại bệnh
viện. Những khoản chi phí này không phải ai cũng có thể tự lo liệu được. Bệnh tật
đã dồn con người vào những thảm cảnh đáng lo ngại. Đối với những người bệnh do
16


hoàn cảnh nghèo túng thì phải vay mượn để chữa trị bệnh tật và sau đó trả nợ và có
nhiều người cũng không thể vay mượn để tiếp tục được chữa trị. Những người có
điều kiện kinh tế khá giả hơn hoặc cận nghèo thì sau những đợt bệnh tật cũng có thể
bị đẩy vào tình cảnh nghèo khó. Đồng thời, với bệnh tật cũng kéo theo sự mất mát
về thu nhập do người bệnh không có sức khoẻ để làm việc. Từ đó đã đe doạ đến cơ
sở kinh tế và sự tồn tại trước hết của bản thân những người lao động, sau đó đến các
thành viên, những người ăn theo trong gia đình người bệnh và sau đó ảnh hưởng
đến sự ổn định xã hội. Do vậy, người ta phải cần đến BHYT. BHYT sẽ đảm bảo chi
trả toàn bộ hoặc từng phần (tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội của từng nước) những
chi phí KCB "khổng lồ" nói trên, giúp cho người bệnh vượt qua cơn hoạn nạn về

bệnh tật, sớm phục hồi sức khoẻ cũng như ổn định cuộc sống gia đình.
- Tăng cường công tác phòng bệnh
BHYT tổ chức những đợt khám bệnh định kỳ cho những người tham gia, góp
phần bảo vệ sức khoẻ người tham gia, giúp họ luôn luôn nắm vững tình hình sức
khỏe của mình, sớm phát hiện bệnh tật để điều trị kịp thời, tránh để lại nhiều di tật.
- Tạo tâm lý an tâm trong cuộc sống, kích thích nâng cao năng suất lao động
cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Ngày nay khi đời sống xã hội ngày càng được nâng cao thì người ta càng có
nhu cầu được đảm bảo an toàn cho sức khoẻ. Trong khi đó, môi trường xã hội đang
dần xuất hiện những rủi ro mới, những rủi ro về bệnh tật, dịch bệnh ngày càng
nhiều và trở nên nghiêm trong. Trước tình hình như vậy, BHYT chính là một giải
pháp hữu hiệu, góp phần tích cực tạo ra tâm lý an tâm trong cuộc sống cho con
người.
- BHYT góp phần phân phối lại thu nhập xã hội.
Phân phối lại là chức năng chung của mọi hình thức bảo hiểm. Trên cơ sở
mức đóng bảo hiểm theo thu nhập mà BHYT xác định chức năng phân phối lại thu
nhập giữa họ. Để thực hiện hình thức bảo hiểm này, người tham gia bảo hiểm phải
đóng một tỷ lệ nhỏ trong tương quan với thu nhập vào một quỹ chung ( gọi là quỹ
BHYT). Về nguyên tắc, nguồn này để đảm bảo thu nhập cho mọi người tham gia
17


bảo hiểm. Song, thực tế chỉ một số ít người gặp rủi ro về bệnh tật thực sự được quỹ
chi trả. Thông qua đó, BHYT đã thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập giữa
những người may mắn, ít gặp rủi ro cho những người không may bị rủi ro trong
cuộc sống, giữa những người khỏe mạnh với những người bị ốm đau, bệnh tật, giữa
những người trẻ, thế hệ trẻ với những người già thuộc thế hệ trước... Như vậy, thu
nhập của người tham gia BHYT được phân phối lại và quỹ BHYT là dòng chảy liên
tục của sự góp vào và sự chi trả để phân phối lại thu nhập giữa những người tham
gia bảo hiểm.

1.1.2. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm y tế.
Bảo hiểm y tế (BHYT) là một chính sách xã hội mang ý nghĩa nhân đạo, có
tính chia sẻ cộng đồng được Đảng, Nhà nước ta hết sức coi trọng. Sau hơn 17 năm
hoạt động, BHYT đã từng bước phát triển, đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
ngoài mục đích là chia sẻ rủi ro sức khoẻ, BHYT còn góp phần thực hiện mục tiêu
công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội.
Những nội dung cơ bản của BHYT được quy định khá đầy đủ trong Luật
BHYT được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2009.
Luật này đã thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và an sinh xã hội về công
bằng và phát triển trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân thành pháp
luật của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cơ bản và đầy đủ nhất trong thực hiện chính
sách BHYT.
1.1.2.1. Nguyên tắc bảo hiểm y tế.
- Thứ nhất: Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế.
Phương thức đoàn kết, tương trợ, chia sẻ rủi ro phải được thực hiện bằng sự
điều tiết nhằm cân bằng mang tính xã hội. Việc lập ra quỹ BHYT và từng bước mở
rộng phạm vi đối tượng tham gia mà từng bước mở rộng phạm vi cân bằng, chia xẻ
rủi ro trong cộng đồng những người tham gia BHYT. Về mặt kỹ thuật bảo hiểm thì
nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro chính là quá trình phân phối lại giữa
những người khoẻ mạnh với người ốm đau, người trẻ với người già... Vì vậy, đối
tượng tham gia bảo hiểm phải không ngừng được mở rộng trong suốt quá trình phát
18


triển và được định hướng cho nhiều nhóm đối tượng lao động khác nhau (ví dụ
không phân biệt giữa người lao động có thu nhập cao với người có thu nhập thấp,
giữa người đi làm việc với người thất nghiệp hoặc người đã nghỉ hưu, giữa gia đình
có thu nhập cao, không con cái với gia đình đông con) mới có ý nghĩa trong việc
điều tiết trong cộng đồng xã hội.
Nguyên tắc cộng đồng chia xẻ rủi ro với ý tưởng nhân văn cao cả của nó đã

loại trừ mục tiêu lợi nhuận thương mại của cộng đồng những người tham gia
BHYT. Do vậy, hoạt động BHYT không có khoản thu lợi nhuận và đương nhiên
cũng không vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, tỷ lệ đóng góp chỉ được nâng lên theo
đòi hỏi quyền lợi chung của quá trình thực hiện BHYT. Tức là tỷ lệ đóng góp
BHYT chỉ được nâng lên theo nhu cầu chữa trị bệnh tật, nhu cầu nâng cao chất
lượng KCB và ứng dụng những thành tựu khoa học tiến tiến vào công tác KCB của
cả cộng đồng.
- Thứ hai: Tự do lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh.
Khi tham gia BHYT về nguyên tắc nếu ốm đau người ta có quyền được
hưởng dịch vụ chăm sóc y tế có chất lượng trên cơ sở sự thỏa mãn các nhu cầu cá
nhân (thuận tiện nơi sinh sống, làm việc, độ tin cậy và uy tín của cơ sở KCB…).
Tuy nhiên hiện nay số lượng đơn vị KCB BHYT khá hạn chế (chủ yếu là các cơ sở
KCB của nhà nước) nên vấn đề quyền tự do chọn lựa của người tham gia chưa
thực sự đảm bảo. Mặt khác, việc thực hiện quyền trên cũng cần được cân nhắc hài
hòa với yếu tố công bằng xã hội, yêu cầu của hoạt động quản lý của hệ thống cơ
quan BHXH.
- Thứ ba: Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
Điều 61 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) có quy định:
"công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe…" Với tư cách là một
quyền cơ bản của công dân, việc chăm sóc sức khỏe phải gắn liền với sự bền vững,
công bằng và hiệu quả. Tuy nhiên, để dung hòa và thực hiện được các yếu tố nói
trên là một việc làm lâu dài và tùy theo đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể
trong từng thời kỳ. Kinh nghiệm ở nhiều nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy,
19


để thực hiện được vấn đề trên cần phải dựa trên cơ sở của hệ thống BHYT theo
nguyên tắc BHYT toàn dân. Đó là: phải đảm bảo xã hội hóa hoạt động y tế, tăng
cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, phát triển các thiết chế để
cộng đồng tham gia vào việc cung ứng dịch vụ và tài chính chăm sóc sức khỏe, Nhà

nước chỉ cung cấp tài chính cho các đối tượng đặc biệt; đảm bảo phát triển chính
sách y tế với mục đích ASXH, không loại trừ đối tượng nào.
- Thứ tư: Mức đóng theo thu nhập, mức hưởng theo bệnh lý.
Mục đích chủ yếu của BHYT là đảm bảo chăm sóc chu đáo, ân cần khi người
hưởng BHYT không may ốm đau, bệnh tật. Do vậy, về mặt nguyên tắc- mức đóng
bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền
lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành chính (sau đây
gọi chung là mức lương tối thiểu). Mức hưởng bảo hiểm y tế theo mức độ bệnh tật,
nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế.
Vì vậy, tuỳ theo mức thu nhập khác nhau mà người tham gia BHYT có mức
đóng khác nhau vào quỹ nhưng họ được đảm bảo sự bình đẳng trong thanh toán chi
phí, tuỳ theo mức độ bệnh lý. Quỹ BHYT đã có sự điều tiết, hỗ trợ giữa người có
rủi ro cao và thu nhập thấp và người thu nhập cao, rủi ro thấp theo nguyên tắc tương
trợ, lấy số đông bù số ít. Tuy nhiên, trong thực tế việc đảm bảo nguyên tắc này phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội, phương thức tổ chức, thực hiện
BHYT (đối tượng tham gia, cân đối quỹ, nội dung dịch vụ...)
- Thứ năm: Đảm bảo mối quan hệ hài hoà quyền hạn, trách nhiệm giữa ba
bên: người tham gia BHYT - cơ quan BHXH - cơ sở khám chữa bệnh.
Quan hệ BHYT vừa là một loại hình dịch vụ bảo hiểm vừa là loại hình dịch
vụ y tế, trong đó chính người bán dịch vụ là người quyết định việc mua bán chứ
không phải do người mua quyết định, đồng thời nó mang tính xã hội và cộng đồng
sâu sắc. Trong quan hệ BHYT, mỗi chủ thể có những quyền hạn và trách nhiệm cụ
thể, song giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Người tham gia BHYT là
đối tượng được thụ hưởng các lợi ích, cơ quan BHXH và cơ sở KCB là người cung
ứng những điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo các nhu cầu cho người được BHYT .
20


Tuy nhiên, đây là những cơ quan độc lập về mặt quản lý, tổ chức, chuyên môn...Và
dù BHYT không mang tính thương mại nhưng cũng không thể không tính đến yêu

tố lợi ích của các bên trong quan hệ BHYT.
1.1.2.2. Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế (phạm vi bảo hiểm)
Trong quá trình phát triển của bảo hiểm y tế ở Việt Nam, đối tượng tham gia
đã ngày càng mở rộng. Từ chỗ chỉ bảo hiểm cho người lao động làm thuê (người có
quan hệ lao động), rồi đến BHYT cho người lao động tự do, cho người lao động
trong nông nghiệp..., BHYT đã bao phủ đối tượng tham gia rộng lớn, trong mọi
thành phần kinh tế. Theo quy định của luật Bảo hiểm y tế, đối tượng tham gia
BHYT bao gồm:
- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về
lao động; người lao động là người quản lý doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền
công theo quy định của pháp luật về tiền lương, tiền công; cán bộ, công chức, viên
chức theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là người lao động).
- Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn, kỹ thuật
đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân.
- Người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng.
- Người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng do bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp.
- Người đã thôi hưởng trợ cấp mất sức lao động đang hưởng trợ cấp hằng
tháng từ ngân sách nhà nước.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã
hội hằng tháng.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp từ ngân sách
nhà nước hằng tháng.
- Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.
- Người có công với cách mạng.
- Cựu chiến binh theo quy định của pháp luật về cựu chiến binh.

21



- Người trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước theo quy định
của Chính phủ.
- Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đương nhiệm.
- Người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng theo quy định
của pháp luật.
- Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn.
- Thân nhân của người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật
về ưu đãi người có công với cách mạng.
- Thân nhân của các đối tượng sau đây theo quy định của pháp luật về sĩ quan
Quân đội nhân dân, nghĩa vụ quân sự, Công an nhân dân và cơ yếu:
- Trẻ em dưới 6 tuổi.
- Người đã hiến bộ phận cơ thể người theo quy định của pháp luật về hiến,
lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác.
- Người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được cấp học bổng từ ngân
sách của Nhà nước Việt Nam.
- Người thuộc hộ gia đình cận nghèo.
- Học sinh, sinh viên.
- Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm
nghiệp.
- Thân nhân của người lao động quy định tại khoản 1 Điều này mà người lao
động có trách nhiệm nuôi dưỡng và sống trong cùng hộ gia đình.
- Xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể.
- Các đối tượng khác theo quy định của Chính phủ (điều 1, Nghị định
62/2009/NĐ-CP)
1.1.2.3. Thẻ bảo hiểm y tế
A) Quy định thẻ bảo hiểm y tế
- Thẻ bảo hiểm y tế được cấp cho người tham gia bảo hiểm y tế và làm căn
cứ để được hưởng các quyền lợi về bảo hiểm y tế theo quy định của Luật này.


22


- Mỗi người chỉ được cấp một thẻ bảo hiểm y tế.
- Thời điểm thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng được quy định như sau:
+ Đối với người tham gia bảo hiểm y tế theo quy định tại khoản 3 Điều 50
của Luật này đóng bảo hiểm y tế liên tục kể từ lần thứ hai trở đi hoặc người tham
gia bảo hiểm y tế quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì thẻ bảo hiểm y tế
có giá trị sử dụng kể từ ngày đóng bảo hiểm y tế;
+ Đối với người tham gia bảo hiểm y tế theo quy định tại khoản 3 Điều 50
của Luật này đóng bảo hiểm y tế lần đầu hoặc đóng bảo hiểm y tế không liên tục thì
thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng sau 30 ngày, kể từ ngày đóng bảo hiểm y tế;
riêng đối với quyền lợi về dịch vụ kỹ thuật cao thì thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử
dụng sau 180 ngày, kể từ ngày đóng bảo hiểm y tế;
+ Đối với trẻ em dưới 6 tuổi thì thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng đến ngày
trẻ đủ 72 tháng tuổi.
- Thẻ bảo hiểm y tế không có giá trị sử dụng trong các trường hợp sau đây:
+ Thẻ đã hết thời hạn sử dụng;
+ Thẻ bị sửa chữa, tẩy xoá;
+ Người có tên trong thẻ không tiếp tục tham gia bảo hiểm y tế.
- Tổ chức bảo hiểm y tế quy định mẫu thẻ bảo hiểm y tế, quản lý thẻ bảo
hiểm y tế thống nhất trong cả nước và chậm nhất đến ngày 01 tháng 01 năm 2014
phải tổ chức thực hiện việc phát hành thẻ bảo hiểm y tế có ảnh của người tham gia
bảo hiểm y tế.
B) Cấp thẻ bảo hiểm y tế
- Hồ sơ cấp thẻ bảo hiểm y tế bao gồm:
+ Văn bản đăng ký tham gia bảo hiểm y tế của cơ quan, tổ chức có trách
nhiệm đóng bảo hiểm y tế quy định tại khoản 1 Điều 13 của Luật này;
+ Danh sách người tham gia bảo hiểm y tế do cơ quan, tổ chức có trách

nhiệm đóng bảo hiểm y tế quy định tại khoản 1 Điều 13 của Luật này hoặc người
đại diện của người tự nguyện tham gia bảo hiểm y tế lập;
+ Tờ khai của cá nhân, hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế.
23


- Hồ sơ cấp thẻ bảo hiểm y tế đối với trẻ em dưới 6 tuổi bao gồm:
+ Bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh. Trường hợp trẻ em
chưa có bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh thì phải có giấy xác
nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của cha, mẹ hoặc người
giám hộ;
+ Danh sách hoặc giấy đề nghị cấp thẻ bảo hiểm y tế của Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi trẻ em cư trú.
- Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức bảo hiểm y tế phải cấp thẻ bảo hiểm y tế cho
người tham gia bảo hiểm y tế.
C) Cấp lại thẻ bảo hiểm y tế
- Thẻ bảo hiểm y tế được cấp lại trong trường hợp bị mất.
- Người bị mất thẻ bảo hiểm y tế phải có đơn đề nghị cấp lại thẻ.
- Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị cấp lại
thẻ, tổ chức bảo hiểm y tế phải cấp lại thẻ cho người tham gia bảo hiểm y tế. Trong
thời gian chờ cấp lại thẻ, người có thẻ vẫn được hưởng quyền lợi của người tham
gia bảo hiểm y tế.
- Người được cấp lại thẻ bảo hiểm y tế phải nộp phí. Bộ trưởng Bộ Tài chính
quy định mức phí cấp lại thẻ bảo hiểm y tế.
D) Đổi thẻ bảo hiểm y tế
- Thẻ bảo hiểm y tế được đổi trong trường hợp sau đây:
+ Rách, nát hoặc hỏng;
+ Thay đổi nơi đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu;
+ Thông tin ghi trong thẻ không đúng.

- Hồ sơ đổi thẻ bảo hiểm y tế bao gồm:
+ Đơn đề nghị đổi thẻ của người tham gia bảo hiểm y tế;
+Thẻ bảo hiểm y tế.
- Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ quy định tại
khoản 2 Điều này, tổ chức bảo hiểm y tế phải đổi thẻ cho người tham gia bảo hiểm
24


y tế. Trong thời gian chờ đổi thẻ, người có thẻ vẫn được hưởng quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm y tế.
- Người được đổi thẻ bảo hiểm y tế do thẻ bị rách, nát hoặc hỏng phải nộp
phí. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức phí đổi thẻ bảo hiểm y tế.
E) Thu hồi, tạm giữ thẻ bảo hiểm y tế
- Thẻ bảo hiểm y tế bị thu hồi trong trường hợp sau đây:
+ Gian lận trong việc cấp thẻ bảo hiểm y tế;
+ Người có tên trong thẻ bảo hiểm y tế không tiếp tục tham gia bảo hiểm y tế.
- Thẻ bảo hiểm y tế bị tạm giữ trong trường hợp người đi khám bệnh, chữa
bệnh sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của người khác. Người có thẻ bảo hiểm y tế bị tạm
giữ có trách nhiệm đến nhận lại thẻ và nộp phạt theo quy định của pháp luật
1.1.2.4. Phạm vi hưởng, mức hưởng và mức thanh toán
A) Phạm vi hưởng
- Người tham gia bảo hiểm y tế được quỹ bảo hiểm y tế chi trả các chi phí
sau đây:
+ Khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ, sinh con;
+ Khám bệnh để sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh;
+ Vận chuyển người bệnh từ tuyến huyện lên tuyến trên đối với một số đối
tượng trong trường hợp cấp cứu hoặc khi đang điều trị nội trú phải chuyển tuyến
chuyên môn kỹ thuật.
- Sử dụng các thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế, dịch vụ kỹ thuật y tế theo
danh mục của Bộ Y tế ban hành.

B) Mức hưởng BHYT
- Người tham gia BHYT đi khám bệnh, chữa bệnh có trình thẻ, giấy tờ tùy
thân có ảnh hợp lệ đúng quy định: Đúng nơi đăng ký KCB ban đầu ghi trên thẻ,
KCB trong trường hợp cấp cứu, KCB có giấy chuyển tuyến, giấy hẹn tái khám)
được quỹ BHYT thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi được
hưởng BHYT với mức hưởng như sau:

25


×