Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận kinh tế, năng suất lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.36 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Số trang
Mở đầu:

…………………………………………………………..2

Nội dung:……………………………………………………………..3
I. Lý luận về năng suất lao động: …………………………………….3
II. Các nhân tố tác động đến NSLĐ:………………………………….3
2.1 Nguồn nhân lực:………………………………………………………..4
2.2 Khoa học công nghệ:…………………………………………………..4
2.3 Sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất :……………………………..5
2.4 Hiệu quả của tư liệu sản xuất:………………………………………….6
2.5 Các nhân tố khác:………………………………………………………7
III.Thực trạng………………………………………………………............7
IV. Những giải pháp:………………………………………………………13
Kết luận: …………………………………………………………………...19
Danh mục tài liệu tham khảo:………………………………………………20


2

Mở đầu
Cùng với sự phát triển của xã hội, quá trình sản xuất không ngừng biến
đổi, năng suất lao động ngày càng được nâng cao. Đặc biệt trong điều kiện hiện
nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, xu hướng quốc tế hoá,
toàn cầu hoá cùng với tính chất khốc liệt của cạnh tranh thì vấn đề tăng năng
suất lao động trở thành vấn đề sống còn của một doanh nghiệp nói riêng và của
đất nước nói chung. Tuy nhiên tại nước ta, trong một thời gian khá dài, vấn đề
năng suất lao động không được quan tâm đúng mức, nhất là đối với các doanh
nghiệp nhà nước, dẫn tới hiệu quả sản xuất thấp. Do yêu cầu của công cuộc công


nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập nền kinh tế đất nước vào nền kinh tế thế
giới. Hiện nay các doanh nghiệp đã quan tâm tới việc khuyến khích tăng năng
suất lao động. Để đạt được mục đích tăng năng suất lao động, các nhà quản lý
cần phải nhận thức đúng đắn các yếu tố tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, một
số nhà quản lý chưa khai thác hết các khả năng tiềm tàng giúp tăng năng suất lao
động nên năng suất lao động tăng rất chậm và không ổn định. Xuất phát từ thực
tiễn đó, trong quá trình học tập môn Xã hội học kinh tế, tôi xin chọn đề tài:
“Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động và giải pháp nhằm
nâng cao năng suất lao động” .


3

Nội dung
I. LÝ LUẬN VỀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG .
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động , nó được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng
thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm .
Năng suất lao động là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động sống, đặc trưng
bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu
đầu vào (lao động làm việc). Đây là một chỉ tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực
sản xuất của một đơn vị hay cả nền kinh tế - xã hội.
Năng suất lao động xã hội càng tăng , thời gian cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá càng giảm , lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít . Ngược lại
năng suất lao động xã hội càng giảm , thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hóa
càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều .
Có 3 loại năng suất lao động : năng suất cá nhân , năng suất quy trình và
năng suất mô hình . Các doanh nghiệp thường chỉ chú ý đến năng suất cá nhân .
Hiện nay, ở Việt Nam, do sự nghiệp giáo dục phát triển, kiến thức về văn
hoá của người lao động nói chung tương đối khá, truyền thống lao động cần cù,

nên các vấn đề kĩ thuật, công nghệ mới, tổ chức sản xuất, quản lí đổi mới mang
ý nghĩa nổi bật trong quá trình tăng NSLĐ.
II.CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG .
Năng suất lao động tùy thuộc vào nhiều nhân tố :
• Trình độ khéo léo của người lao động .
• Sự phát triển khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ khoa học .
• Sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất : Trình độ quản lý và phân công
lao dộng xã hội .
• Hiệu quả của tư liệu sản xuất .
• Các nhân tố khác : điều kiện tự nhiên ...


4
2.1 Nguồn nhân lực .
Nguồn nhân lực là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất. Nguồn
nhân lực của một quốc gia được xây dựng từ lực lưọng lao động. Lực lượng lao
động đông là điều kiện tạo ra nguồn nhân lực cho sự phát triển. Tuy nhiên,
không phải có lực lương lao động dồi dào là có nguồn nhân lực phát triển mạnh.
Nguồn lực con người được hiểu là tổng hoà trong thể thống nhất giữa hữu
cơ, giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng
động xã hội của con người. Quá trình thống nhất đó được thể hiện ở quá trình
biến nguồn lực con người thành vốn con người. Con người trong quá trình sản
xuất vừa phát triển cao về trí tuệ, khoẻ mạnh về thể chất, giàu có về tinh thần,
trong sáng về đạo đức.
Đảng đã khẳng định : “ Con người là vốn quý nhất , chăm lo hạnh phúc
con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta , coi việc nâng cao dân
trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt nam là nhân tố
quyết định thắng lợi công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa .”
Nguồn nhân lực là yếu tố nội lực , là bộ phận năng động và sáng tạo nhất
trong quá trình sản xuất .

2.2 Khoa học công nghệ .
Khoa học là các tri thức về các hiện tượng, sự vật, qui luật của tự nhiên,
xã hội và tư duy. Khoa học là hệ thống tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và
được thực tiễn chứng minh, phản ánh những qui luật khách quan của thế giới
bên ngoài cũng như hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả
năng cải tạo hiện thực.
Công nghệ là tập hợp các phương pháp, qui trình, kỹ năng, bí quyết, công
cụ, phương tiện dùng để biến các nguồn lực thành sản phẩm. Công nghệ là tổng
thể nói chung các phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái, tính
chất, hình dáng nguyên vật liệu hay bán thành phẩm sử dụng trong quá trình sản
xuất để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.


5
Khoa học công nghệ tập trung vào đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, bảo vệ môi
trường và bảo đảm an ninh quốc phòng; coi trọng phát triển và ứng dụng công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động
hóa.
Khoa học công nghệ là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng và phát triển
kinh tế . Khoa học công nghệ được coi là “ chiếc đũa thần màu nhiệm ” để tăng
năng suất lao động , phát triển lực lượng sản xuất .
Sau cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, rất nhiều thành tựu mới ra đời.
Đặc biệt, việc đưa máy móc vào sản xuất hàng hoá là một bước ngoặt lớn. Rồi
công cụ lao động bằng tay dần dần được thay thế bằng máy móc. Máy móc dần
được tự động hoá, các tư liệu lao động cũng thay đổi ngày càng tiên tiến theo
hướng giảm chi phí sản xuất nhưng chất lượng thì ngày càng tốt hơn. Việc cập
nhập và áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ vào hoạt động sản xuất như việc
trang bị máy móc thiết bị hiện đại phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ làm cho
năng suất ngày càng tăng cao.

2.3 Sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất : Trình độ quản lý và phân công lao
động xã hội .
Một đội ngũ cán bộ biết cách quản lý và tổ chức theo cơ chế thích hợp
như: cách thức kết hợp các bộ phận sản xuất với người lao động, người lao động
với công cụ lao động, sử dụng thời gian lao động phù hợp, tổ chức quá trình
công nghệ, quá trình sản xuất, cách tổ chức và phục vụ tại nơi làm việc... Khi
những nhân tố đó hợp lý sẽ làm cho người lao động thoải mái và đồng nghĩa với
đó là năng suất lao động sẽ tăng. Ngược lại, khi người quản lý chưa được rèn
luyện tư duy khoa học một cách nghiêm túc, không có sự hiểu biết rộng rãi về
sản xuất, không nắm được nghệ thuật quản lý sản xuất thì khó tránh khỏi bị mất
phương hướng, bị rơi vào thế bị động, bối rối. Lúc đó, các vấn đề sẽ không được
giải quyết dẫn tới sản xuất bị trì trệ, năng suất lao động bị giảm sút.


6
Phân công lao động gắn liền với chuyên môn hoá sản xuất - kinh doanh,
nên mang ý nghĩa tích cực, tiến bộ, và là biểu hiện trình độ phát triển kinh tế - xã
hội. Các loại phân công lao động xã hội : phân công lao động chung là phân chia
nền kinh tế thành các loại sản xuất khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp,
vận tải...; phân công lao động riêng (phân công lao động đặc thù) là phân chia
sản xuất thành những ngành và phân ngành như công nghiệp khai thác, công
nghiệp chế biến, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi...; phân công lao động cá
biệt là phân công trong nội bộ xí nghiệp. Điều kiện của sự phân công lao động
xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đến lượt nó, phân công lao
động xã hội lại là nhân tố phát triển của lực lượng sản xuất.
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển, việc ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất đòi hỏi lực lượng sản xuất phải thay đổi cho phù hợp. Điều đó
có nghĩa là phải có sự phân công lao động một cách hợp lý, giảm lao động giản
đơn, lao động cơ bắp mà phải thông qua lao động trí óc. Sự thay đổi về tư liệu
sản xuất làm cho lực lượng sản xuất phải phù hợp tương ứng mới có hiệu quả

cao. Quá trình phân công lao động phù hợp sẽ làm cho việc sản xuất có hiệu quả
hơn, năng suất lao động tăng cao hơn.
Trình độ quản lý và phân công lao động có tác động không nhỏ tới năng
suất lao động. Các nhà sản xuất biết quản lý phù hợp thì năng suất của người lao
động sẽ tăng, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận.
2.4 Hiệu quả của tư liệu sản xuất .
Tư liệu sản xuất là bất kì công cụ nào giúp người lao động biến nguyên
liệu thành vật thể hữu dụng. Bao gồm tư liệu hữu hình (máy móc, xưởng,..) và
tư liệu vô hình (sáng kiến, kiến thức,...). Hay tư liệu sản xuất bao gồm công cụ
lao động và đối tượng lao động. Người lao động dùng công cụ lao động tác động
vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm hàng hoá.
Sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất sẽ góp phần nâng cao năng suất lao
động , cải thiện nền kinh tế .


7
2.5 Các nhân tố khác : Tâm lý , điều kiện tự nhiên…
Trong quá trình làm việc, mục đích của người lao động là sản xuất ra các
sản phẩm để nuôi sống mình và gia đình. Khi người lao động có động lực thúc
đẩy thì công việc họ làm sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Ngoài ra, khi người lao động
được tạo cơ hội làm việc mình yêu thích họ sẽ làm hết sức mình. Các nhà quản
lý cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động với công việc,
đánh giá đúng mức đóng góp của họ. Bên cạnh đó, các nhà sản xuất nên cho
người lao động tham gia đóng góp ý kiến trong quá trình sản xuất, giúp đỡ họ để
họ phát huy năng lực của mình một cách tối đa. Như vậy người lao động sẽ thấy
được vai trò của mình trong công ty, họ thấy được sự đóng góp của mình, thành
công của công ty.
Ngày nay, môi trường làm việc cũng ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất
của người lao động. Đặc biệt là môi trường làm việc. Khi môi trường xung
quanh an toàn, không bị ô nhiễm thì người lao động có thể an tâm làm việc. Họ

có thể tập trung để sản xuất. Ngoài ra còn một số yếu tố như âm thanh, quần áo
cũng ảnh hưởng tới năng suất của người lao động. Khi họ gặp được những điều
kiện thuận lợi thì họ sẽ làm việc hiệu quả hơn. Năng suất lao động sẽ tăng lên.
Ngựơc lại, trong những điều kiện bất lợi, những vấn đề làm cho người lao động
bị căng thẳng, áp lực sẽ làm giảm đáng kể hiệu quả làm việc của họ.
III.THỰC TRẠNG NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG SUẤT LAO
ĐỘNG Ở NƯỚC TA .
Ta chỉ xét đến những nhân tố chính , tác động trực tiếp đến năng suất lao
động .
3.1 Nguồn nhân lực .
Chưa lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trở thành vấn
đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay. Đất nước đang bước vào
một thời kỳ phát triển mới, những cơ hội và thách thức chưa từng có. Nhưng
thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất những cơ hội


8
đang đến, thậm chí, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức, kéo dài sự tụt
hậu...
Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam” của UNDP – Hà
Nội xuất bản tháng 9-2007 cho biết: “Qua phỏng vấn, các chủ doanh nghiệp
Việt Nam đều cho rằng (a) họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc
– học nghề, đại học, sau đại học - mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình; (b)
họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu của trong nước,
vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung yếu và lạc hậu; khả năng nghiên cứu
thấp; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất yếu về ngoại ngữ,
năng lực tổ chức và quản lý thấp…”
Tình hình chung nguồn nhân lực của nước ta hiện nay là: Sau 30 năm
công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước trong lĩnh vực nông
nghiệp; tỷ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên triệu dân, tỷ lệ

số trường đại học trên triệu dân; tỷ lệ tốt nghiệp đại học trên triệu dân, tỷ lệ có
học vị tiến sỹ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức thu
nhập bình quân theo đầu người tương đương như Thái Lan, nhưng chất lượng
đang có nhiều vấn đề.
Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới
63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì
hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học,
trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự
án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng 2/3
số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công
tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng khoảng ¼ của
Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sỹ của ta hàng năm
nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi…
Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung
bình – một ưu thế lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13


9
trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ
chuyên môn rất thấp so với tất các nước trong nhóm ASEAN 6 và Trung Quốc;
số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cao rất ít so với dân số cũng như so với
quy mô nền kinh tế. “So với thế giới thì nước ta có tỷ lệ giữa thầy và thợ cao
hơn nhiều lần, tuy nhiên nguồn nhân lực cấp cao lại ở mức khan hiếm. Chúng ta
đang trong tình trạng lao động dư về lượng và yếu về chất”, Tiến sỹ Hồ Đức
Hùng, Giám đốc Viện Nghiên cứu phát triển ĐH Kinh tế TPHCM, nhận định.
Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt
Nam về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất
cân đối nghiêm trọng:
- Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp
và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10;

- Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là
100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người
của TQ khoảng gấp đôi của nước ta…
Kết quả chung là: Nhìn nhận theo góc độ đánh giá nguồn nhân lực, chất lượng
con người Việt Nam thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN6 và Trung
Quốc, có nhiều ưu thế không được nuôi dưỡng và phát huy đúng hướng. Có phải
như thế không? – xin được xem xét.
Những nguyên nhân chính:
Không quan tâm và không kế thừa, phát huy những thành tựu giáo dục
của nước ta đã tích lũy được trước đổi mới cũng như những thành tựu của thế
giới, không khai thác lợi thế nước đi sau, thậm chí ít nhiều hoang tưởng, duy ý
chí hoặc nhân danh phát huy sáng tạo đi tìm một con đường riêng, nhưng thực
tế là lạc lõng (ví dụ: định thay bản chữ cái ABC, abc bằng bảng E,e; tình trạng
bất cập của chương trình chuẩn, giáo án chuẩn; kế hoạch đào tạo 20.000 tiến sỹ;
một số chương trình nghiên cứu Kx; sáng tác ra học vị phó giáo sư; việc ồ ạt


10
xây dựng trường đại học tại nhiều tỉnh - trong khi đó bằng đại học của nước ta
không được quốc tế công nhận…)
Tiêu cực và chủ nghĩa cơ hội đã bóp méo những ý tưởng, những mong
muốn tốt đẹp dành cho phát triển con người và nguồn nhân lực; làm sai lệch
hướng vận dụng mọi nguồn lực.
Không lường đúng những khó khăn, mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là
khả năng cho phép của nguồn lực và một bên là đòi hỏi của phát triển; không
lường đúng những mặt phức tạp và những khó khăn rất đa dạng, sâu xa của lĩnh
vực thiết yếu bậc nhất và rất nhạy cảm này trong đời sống quốc gia, không nhận
thức đúng những yếu kém lớn về năng lực tổ chức và quản lý của bộ máy nhà
nước. Duy ý chí và bệnh thành tích đầu độc trầm trọng thêm tình trạng này.
Tri thức, tầm nhìn và đạo đức nghề nghiệp của nhiều chuyên gia, nhà khoa

học, lãnh đạo và quản lý lĩnh vực phát triển giáo dục và nguồn lực con người,
dưới tầm so với đòi hỏi của nhiệm vụ.
3.2 Khoa học công nghệ .
Để đánh giá sự phát triển KH&CN của một quốc gia, cần phải sử dụng
các chỉ tiêu đã quen thuộc trên thế giới. Về kết quả KH&CN, đó là số công trình
khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế và số sáng chế đăng ký ở các cơ quan
có uy tín trên thế giới (Cục Sáng chế Mỹ,...). Về chỉ tiêu thứ nhất, ta ở sau Thái
Lan hơn 20 năm; về chỉ tiêu thứ hai, ta chưa có gì để so sánh!
Mặc dù, hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhất là trong 10 năm trở lại đây, Đảng và
Nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng đẩy mạnh hoạt động khoa học và phát triển
công nghệ của đất nước, nhưng trên thực tế, hoạt động này vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, nước ta có khoảng 2 triệu công nhân kỹ thuật, trên 2.250.000
người có trình độ đại học và cao đẳng, trên 18.000 thạc sỹ và 16.000 tiến sỹ và
tiến sỹ khoa học, trong đó có 610 tiến sỹ khoa học. Bình quân có 193 cán bộ
khoa học công nghệ trên 10.000 dân. Theo Báo cáo Phát triển con người năm


11
2004 của UNDP, ở Việt Nam đang có khoảng 50.000 người làm việc trực tiếp
trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Trong số này có
hơn 37.000 người (72% có trình độ đại học trở lên) làm việc trong các tổ chức
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của Nhà nước, với 68,9% làm việc
theo chế độ biên chế và 31,1% làm việc theo chế độ hợp đồng. Tuy nhiên, tháp
nhân lực khoa học và công nghệ này của nước ta còn rất hẹp, nếu so sánh với
một nước công nghiệp phát triển như Cộng hòa Liên bang Đức với 82 triệu dân
và 1,6 triệu tiến sỹ.
Năm 2006, tổng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
đã tăng lên gần 5.890 tỉ đồng, đạt 2% chi ngân sách nhà nước. Do môi trường
kinh doanh có tính cạnh tranh chưa cao nên các hoạt động khoa học và công

nghệ chưa trở thành một công cụ và động lực thúc đẩy sản xuất của các doanh
nghiệp ở Việt Nam. Nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm đến 60% tổng
đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ, trong đó 2/3 dành cho sự nghiệp
khoa học và 1/3 dành cho xây dựng cơ bản. ở các nước, số đầu tư của doanh
nghiệp cho khoa học và công nghệ chiếm trên 60%, còn đầu tư của nhà nước chỉ
chiếm 30%.
Về đầu tư của các doanh nghiệp, kinh phí đầu tư cho khoa học và công
nghệ tại 28 tổng công ty 90 - 91, từ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp này
chiếm tỷ lệ 60% tổng số vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ của các doanh
nghiệp toàn quốc. Tỷ lệ đầu tư nghiên cứu phát triển/đầu tư đổi mới thiết bị công
nghệ là 6%/94%. Tỷ lệ chi cho nghiên cứu phát triển của các tổng công ty dao
động trong khoảng từ 0,05% - 0,1% trên tổng doanh thu (các nước là 5 - 6%).
Như vậy, tỷ lệ này còn rất thấp để các tổng công ty 90 - 91 có thể cạnh tranh trên
thị trường trong nước và quốc tế.
Tình hình phát triển công nghệ ở Việt Nam có thể đánh giá thông qua giá
trị nhập khẩu máy móc, trang thiết bị công nghệ trong thời gian gần đây. Trong 5
năm giai đoạn 2001 - 2005, nước ta đã nhập khẩu 35.997 triệu USD máy móc,


12
thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu. Năm
2006, con số này là 9.597 triệu USD, chiếm 21,8 % tổng kim ngạch nhập khẩu
của Việt Nam.
Chính vì tốc độ nhập khẩu công nghệ còn chậm nên hiện nay mặt bằng
công nghệ trong các ngành sản xuất kinh doanh của nước ta còn ở mức thấp do
công nghiệp hóa chưa hoàn toàn gắn với hiện đại hóa. Số ngành, lĩnh vực có
công nghệ tiên tiến, hiện đại còn ít. Các ngành sử dụng công nghệ cao mới đang
bắt đầu hình thành.
Đến nay, nước ta sử dụng công nghệ trung bình là phổ biến, tỷ lệ nhóm
ngành công nghệ cao của Việt Nam hiện nay mới đạt khoảng 20%, trong khi đó

của Xin-ga-po là 73%, Ma-lai-xi-a là 51% và Thái Lan là 31% (theo tiêu chí, để
đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là trên 60%). Tốc độ đổi mới
công nghệ của cả nước đạt khoảng 10% (nếu tính riêng 3 vùng kinh tế trọng
điểm là nơi tập trung công nghệ cao nhất cả nước cũng chỉ đạt khoảng 12%), so
với tốc độ đổi mới công nghệ của các nước tiên tiến trên thế giới thì đó là mức
còn rất thấp.Trong công nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp tự động hóa chỉ chiếm
khoảng 1,9%, bán tự động là 19,6%, cơ khí hóa 26,6%, bán cơ khí hóa 35,7%,
thủ công 16,2%.
Việc chưa chú trọng tiếp nhận công nghệ và sự phát triển chậm của lĩnh
vực công nghiệp chế tạo của Việt Nam đã biểu hiện qua năng lực cạnh tranh
công nghệ yếu kém. Theo báo cáo phát triển công nghiệp 2002 - 2003 của Tổ
chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đánh giá về sự phát triển
công nghiệp và năng lực cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm
chế tạo của 87 nền kinh tế đang phát triển, trong đó có 14 nền kinh tế châu á thì
Việt Nam vẫn chưa nằm trong danh sách này. Theo xếp hạng của Diễn đàn kinh
tế thế giới (WEF) năm 2004, năng lực cạnh tranh tổng hợp của nền kinh tế nước
ta chỉ đứng thứ 77/104 nền kinh tế, chỉ số về chuyển giao công nghệ được xếp
thứ 66 là nhờ tỷ lệ vốn FDI vào nước ta ở mức cao so với các nước trong khu


13
vực. Chỉ số xếp hạng về công nghệ chỉ đứng thứ 92 do tỷ lệ nhập khẩu máy
móc, thiết bị trên tổng kim ngạch nhập khẩu mới ở mức thấp. Chỉ số về mức độ
sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài của Việt Nam chỉ đứng thứ 99
trong số 104 nền kinh tế được xếp hạng.
Các số liệu trên cho thấy Việt Nam cần phải sớm khắc phục tình trạng yếu
kém về chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo
định hướng xuất khẩu, khắc phục sự mất cân đối giữa sử dụng bằng sáng chế
công nghệ nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước với tiếp nhận công nghệ
qua các doanh nghiệp FDI và khắc phục sự liên kết yếu kém giữa đào tạo,

nghiên cứu và sản xuất.
Hiện nay, mặc dù vốn đầu tư của Nhà nước đang chiếm tỷ lệ rất cao,
nhưng các ngành công nghiệp nước ta còn chưa tập trung thích đáng vào việc
nhanh chóng phát triển và làm chủ các công nghệ nguồn, công nghệ chế tạo định
hướng xuất khẩu, có xu hướng để các nhà đầu tư nước ngoài "phát triển giúp"
các ngành công nghiệp nói trên. Điều này dẫn đến nguy cơ "công nghiệp hóa mà
không nắm giữ được những bí quyết công nghệ chiến lược và mũi nhọn" như
tình trạng của nhiều nước Đông - Nam Á hiện nay. Tỷ lệ nhập khẩu máy móc,
thiết bị sản xuất công nghiệp trên tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nền kinh tế
nước ta cũng chỉ đạt mức thấp so với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong giai đoạn trình độ công nghiệp hóa tương tự, tỷ lệ này của Nhật Bản và
Hàn Quốc vào khoảng 40%.
IV. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Ở
NƯỚC TA .
4.1 Phát triển nguồn nhân lực:
Phát triển nguồn nhân lực về thực chất là ngày càng phải làm tốt hơn việc
giải phóng con người. Đòi hỏi này đặt ra hai yêu cầu cùng một lúc: Phải tập
trung trí tuệ và nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, mặt khác phải đồng


14
thời thường xuyên cải thiện và đổi mới môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, gìn giữ môi trường tự nhiên của quốc gia.
Vấn đề lớn nhất đặt ra cho nước ta không phải là cái nghèo, mà là ý chí
phấn đấu với tất cả trí tuệ và nguồn lực có trong tay – điều này bao gồm cả ý chí
xây dựng một thế chế chính trị và đời sống kinh tế - xã hội – văn hóa hướng vào
phát huy những giá trị chân chính của con người, trước hết là tự do và nghị lực
sáng tạo của nó; kế thừa những thành tựu của văn minh nhân loại.
Phát triển nguồn nhân lực hiển nhiên đòi hỏi phải đồng thời đổi mới triệt
để toàn xã hội hướng thiện - theo những giá trị chân chính – ví dụ, để có một

môi trường xã hội trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức; pháp luật được coi làm
chuẩn mực; xã hội trở thành xã hội học tập.
Giáo dục đào tạo giữ vị trí quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực.
Giáo dục và đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động nâng cao trí tuệ, hiểu biết và
khả năng vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sãn xuất của con
người. Giáo dục, đào tạo giúp chúng ta tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề, các
chuyên gia công nghệ, những nhà quản lý giỏi... Trình độ học vấn, tri thức khoa
học, kỹ thuật công nghệ và sự hiểu biết về xã hội, con người là phương tiện hữu
hiệu giúp người lao đông khắc phục được những hạn chế, thiếu sót và các tập
quán xấu, phát huy những truyền thống tốt đẹp trong sản xuất. Tri thức, hiểu biết
có vai trò to lớn cải tạo người lao động. Nó giúp cho người lao động sáng tạo
hơn, sản xuất hiệu quả và năng suất lao động ngày càng tăng .
Bên cạnh việc đào tạo giáo dục, các nhà quản lý phải thường xuyên chăm
lo cho công nhân. Phải có những chế độ khen thưởng hợp lý. Luôn luôn tạo điều
kiện cho công nhân làm việc. Khuyến khích ngưới lao động tăng khả năng sáng
tạo của mình trong sản xuất, tạo những động lực thúc đẩy công nhân làm việc...
Xây dựng môi trường đảm bảo các điều kiện phát huy yếu tố con người. Luôn
luôn quan tâm đúng mức tới lợi ích và nhu cầu của người lao động. Thực hiện
công bằng, dân chủ. Một điều không kém phần quan trọng là phải có chế độ


15
chăm sóc y tế, sức khoẻ thường xuyên cho công nhân. Song song với việc trích
lập quỹ bảo hiểm y tế thì các nhà quản lý nên tổ chức những đợt khám định kỳ
hàng tháng cho công nhân, người lao động.
4.2. Phát triển khoa học công nghệ:
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, cần tăng
cường trình độ khoa học và công nghệ theo hai hướng: tăng cường trình độ công
nghệ trong từng ngành sản xuất và chuyển dịch cơ cấu sản xuất sang những
ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao - cũng chính là những ngành có

giá trị gia tăng lớn.
Sự tiến bộ công nghệ của nền kinh tế đất nước được thực hiện bằng cách
kết hợp đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ ở nước ngoài và tự phát triển, sáng tạo
công nghệ tiên tiến trên nền tảng các công nghệ nhập khẩu. Trong thời kỳ đầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với một nước đang trong quá
trình phát triển như Việt Nam thì nhập khẩu công nghệ tiên tiến ở nước ngoài là
phương pháp vừa tiết kiệm thời gian, vừa tiết kiệm chi phí nếu lựa chọn hiệu
quả được những công nghệ có mức độ tiên tiến thích hợp với giá thành hạ trong
quá trình nhập khẩu. Điều này được gọi là lợi thế đi sau của các nước đang phát
triển do không bắt buộc phải trải qua hành trình tiến bộ công nghệ như các nước
phát triển.
Vấn đề nhập công nghệ tiên tiến đòi hỏi chi phí đầu tư lớn trong khi khả
năng nguồn vốn của nền kinh tế còn hạn hẹp. Vì vậy, quá trình nhập khẩu và
nâng cao trình độ công nghệ chỉ có thể được đẩy mạnh bằng chiến lược phát
triển thị trường vốn trong nước và khai thông, kết nối với thị trường vốn quốc tế,
đặc biệt là thị trường chứng khoán. Đây cũng chính là bí quyết công nghiệp hóa,
hiện đại hóa rút ngắn của Hàn Quốc, Đài Loan trước kia và của Trung Quốc hiện
nay. Đồng thời với quá trình trên, chúng ta phải nhanh chóng thúc đẩy việc tiếp
thu và phát triển khả năng tự chế tạo, tiến tới sáng tạo công nghệ. Khả năng sáng
tạo công nghệ là con đường duy nhất để Việt Nam cũng như các nước đang phát


16
triển đuổi kịp và vượt trình độ của các nước công nghiệp phát triển, nhờ vậy mới
có thể giảm bớt những khoản chi phí tốn kém cho việc nhập khẩu những công
nghệ tiên tiến. Khả năng sáng tạo công nghệ dựa trên cơ sở óc sáng tạo và trình
độ quản lý hoạt động nghiên cứu và trình độ nghiên cứu khoa học tự nhiên và
công nghệ ứng dụng. Nó phụ thuộc vào tiềm năng trí tuệ của dân tộc và đòi hỏi
một chính sách đầu tư lâu dài liên tục và đúng phương hướng vào khoa học và
công nghệ của đất nước.

Như tất cả các nước đang phát triển có nguồn lực còn hạn chế, nước ta
phải vượt qua khó khăn trong quá trình đầu tư hiện đại hóa công nghệ, là tích
lũy và sử dụng tối ưu nguồn vốn. Trong thời kỳ đầu, chúng ta đã tập trung vốn
vào các ngành kinh tế với công nghệ chưa phải tiên tiến và đòi hỏi nguồn vốn
thấp để phát huy lợi thế so sánh động so với các nước phát triển hơn. Tuy nhiên,
để vượt qua trạng thái dừng của nền kinh tế có trình độ công nghệ thấp, trong
thời kỳ tới chúng ta phải có chiến lược nâng cao trình độ khoa học và công nghệ
để tối ưu hóa chất lượng sản phẩm và hiệu quả của nền kinh tế. Đây chính là mô
hình phát triển "xuất khẩu tịnh tiến" bằng động lực khoa học và công nghệ.
Việc nâng dần trình độ khoa học và công nghệ của nền kinh tế phải được
thực hiện đồng thời bằng hai quá trình:
Thứ nhất, nâng dần trình độ công nghệ của các ngành sản xuất đã có để
phá vỡ trạng thái dừng của các ngành này, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng
sản lượng và thu nhập lao động.
Thứ hai, chuyển dịch dần cơ cấu sản xuất sang các ngành có trình độ khoa
học và công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn.
Quá trình thứ nhất diễn ra một cách tự nhiên sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài nước trong cùng một ngành. Còn quá trình thứ hai đòi hỏi
phải có một sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong chính sách ưu
đãi phát triển ngành sản xuất, giáo dục và đào tạo cũng như nghiên cứu khoa học
và công nghệ, đi trước một bước tương ứng với quá trình đột phá và dịch chuyển


17
của nền kinh tế lên trình độ công nghệ cao hơn. Trong mỗi thời kỳ phát triển,
ngành sản xuất chủ yếu đang nắm giữ lợi thế so sánh của nền kinh tế có nhiệm
vụ xuất khẩu và tích lũy vốn, trong khi đó ngành sản xuất mũi nhọn được bảo hộ
tương đối trong chiến lược nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Những
ngành mũi nhọn này có nhiệm vụ đột phá về công nghệ của nền sản xuất trong
nước, và đến khi đã trưởng thành chúng phải đứng vững trong cuộc cạnh tranh

quốc tế, đặt nền tảng cho việc mở rộng cơ cấu xuất khẩu ở trình độ công nghệ
cao hơn và chuyển thành ngành sản xuất chủ yếu. Lúc đó lại xuất hiện những
ngành mũi nhọn mới có nhiệm vụ tiếp tục nâng cao hơn nữa trình độ công nghệ
của nền sản xuất trong nước, tạo thành quá trình "xuất khẩu tịnh tiến" liên tục
với các sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng khoa học và công nghệ ngày càng cao
hơn. Vì vậy, việc lựa chọn đầu tư ngành mũi nhọn và phát triển khoa học và
công nghệ phù hợp có ý nghĩa chiến lược trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và tạo điều kiện cho quá trình tăng trưởng cao liên tục của nền kinh tế
đất nước.
Dưới tác động của khoa học và công nghệ, hơn 20 năm qua kinh tế tri
thức hình thành và phát triển mạnh mẽ ở các nước công nghiệp phát triển và
đang lan toả nhanh chóng đến các nước đang phát triển. Cả nhân loại đang
chuyển từ nền kinh tế công nông nghiệp sang nền kinh tế trí tuệ. Sự phân công
lao động xã hội từ chủ yếu dựa vào sự phát triển của công nghiệp cơ khí sang sự
phát triển của tri thức. Thực tế, nền kinh tế tri thức phát triển đến đâu thì lao
động trí tuệ thay thế dần lao động cơ bắp đến đó. Xu thế toàn bộ nguồn nhân
lực, đặc biệt công nhân trí thức hoá đang tác động mạnh mẽ đến mọi quá trình
phát triển. Kinh tế tri thức mới hình thành và phát triển đã làm thay đổi định
hướng phát triển kinh tế từ chỉ vì lợi nhuận chuyển sang định hướng phát triển
đồng thuận giữa kinh tế - xã hội - môi trường. Tác động về mặt xã hội thể hiện
sự xoá bỏ dần khoảng cách giữa lao động chân tay và lao động trí óc, xoá bỏ dần
lao động sản xuất trực tiếp với lao động lãnh đạo quản lý đội ngũ công nhân


18
đang vươn lên trở thành giai cấp vô sản trí thức hay công nhân trí thức hoá, làm
mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn.
4.3.Tăng vai trò quản lý của nhà nước:
Nhà nước đóng vai trò then chốt trong việc đưa ra những chính sách hợp
lý để phát triển sản xuất. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cải tạo quan hệ sản

xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất. Việc đó đòi hỏi tới việc giải quyết
đúng đắn vấn đề sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm sao
cho phù hợp. Trong điều kiện cuợc cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ
hiện đại, trí tuệ đang thể hiện là nguồn lực lớn nhất tạo ra của cải hàng hoá.
Chúng ta cần thay đổi cách nghĩ, cách làm, cần phải tả lương xứng đáng cho
những người có năng lực sản xuất, lao động với hàm lượng tri thức cao hơn
người khác.
Để có môi trường làm việc công bằng, nhà nước phải làm sao để xây
dựng và phát triển được nền dân chủ theo lập trường giai cấp công nhân, để xây
dựng được hệ thống chính sách đúng đắn, phù hợp, đảm bảo cho mọi người
quyền tự do dân chủ, công bằng và bình đẳng trước mọi cơ may phát triển, làm
giàu và thể hiện tài năng.
Phân công lại lao động xã hội sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển từng
ngành, từng nghề, từng vùng. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy vai trò tự
chủ trong quá trình kinh doanh của từng ngành, từng doanh nghiệp, từng loại
hình sản phẩm. Nhà nước đóng vai trò quản lý, điều hành nền kinh tế ở tầm vĩ
mô, cần nâng cao năng lực tổ chức, quản lý và đưa ra những quyết định chính
xác, hợp lý.


19

Kết luận
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nền
kinh tế đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế để hình thành một cơ
cấu kinh tế hợp lý. Trong những năm gần đây, chính sách mở cửa và hội nhập
của Nhà nước đã mở ra một lối đi mới, tạo bước ngoặt cho nền kinh tế Việt
Nam. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có điều kiện hoạt động và
phát triển, đồng thời cũng là thách thức trong sự cạnh tranh gay gắt để khẳng
định vị thế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những chính sách chiến lược đúng

đắn kịp thời thì mới đem lại hiệu quả lao động bền vững. Phát huy các yếu tố
tăng năng suất lao động là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, là việc
làm nhanh nhạy và đem lại hiệu quả cao nhất cho các doanh nghiệp; khai thác
các yếu tố sẵn có và tập trung trọng tâm đào tạo nguồn lực con người là chiến
lược cấp bách để tăng năng suất lao động trong giai đoạn hiện nay.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Lê Xuân Bá- Nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế- Viện nghiên cứu kinh tế TW.
2. PGS.TS Trần Xuân Cầu, PGS.TS Mai Quốc Chánh- Giáo trình kinh tế nguồn
nhân lực-2007- NXB Đại học Kinh tế Quốc dân
3. PGS.TS Tăng Văn Khiên- Năng suất lao động Việt Nam giai đoạn 2001-2005.
Tạp chí Cộng sản số 18 năm 2007
4. Tạp chí lao động và xã hội tháng 10/2006
5. Nội dung bài giảng môn Xã hội học kinh tế của TS Hoàng Thanh Xuân



×