Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

VI PHẠM PHÁP LUẬT, một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.1 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI XUÂN PHÁI

VI PHẠM PHÁP LUẬT, MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS. THÁI VĨNH THẮNG

HÀ NỘI - 2002


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ............................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài ..................................... 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 3
5. Những đóng góp mới của luận văn ............................................................... 3
6. Bố cục luận văn …………………………………………………………….3
CHƢƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT .. 4
1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật .................................................................... 4


1.1.1. Hành vi ................................................................................................... 4
1.1.2. Hành vi pháp luật ................................................................................... 6
1.1.3. Vi phạm pháp luật …………………………………………………….. 9
1.2. Cơ chế của hành vi vi phạm pháp luật ……………….…………….........23
1.2.1. Các yếu tố bên trong ………………………………………………......23
1.2.1.1. Yếu tố sinh lý ………………………………………………………. 23
1.2.1.2. Yếu tố tâm lý – ý thức ……………………………………………….24
1.2.2. Các biểu hiện bên ngoài ………………………………………………..25
1.2.2.1 Sự tác động chủ động đến các quan hệ xã hội ………………………..25
1.2.2.2. Sự tác động thụ động đến các quan hệ xã hội……………………….. 26
1.2.3. Mối quan hệ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài của hành vi vi
phạm pháp luật ……………………………………………………………….. 27
1.3. Cấu thành của vi phạm pháp luật …………………………………………28
1.3.1. Cấu thành cơ bản ……………………………………………………….28
1.3.1.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật ……………………………….28
1.3.1.2. Khách thể của vi phạm ......................................................................... 33


1.3.1.3. Mặt chủ quan ………………………………………………………….35
1.3.1.4 Chủ thể của vi phạm pháp luật ……………………………………… . 40
1.3.2. Một số cách xác định bổ sung về cấu thành của vi phạm pháp luật ……… 42
1.3.2.1. Cấu thành tăng nặng …………………………………………………. 42
1.3.2.2. Cấu thành giảm nhẹ ………………………………………………….. 43
1.3.3. Ý nghĩa của việc xác định cấu thành vi phạm pháp luật ………………. 45
1.4. Những nhân tố ảnh hƣởng đến hành vi vi phạm pháp luật ………………. 45
1.4.1. Cơ sở kinh tế - kỹ thuật …………………………………………………46
1.4.2. Các điều kiện xã hội …………………………………………………… 47
1.4.3. Vấn đề đạo đức và truyền thống lịch sử ……………………………….. 49
1.4.4. Một số nhân tố khác …………………………………………………… 49
CHƢƠNG II : TÌNH HÌNH VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ CÔNG TÁC ĐẤU

TRANH PHÒNG CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY …………………………………………………………………… 51
2.1. Một số nhận xét về tình hình vi phạm pháp luật ở Việt Nam trong thời gian
gần đây ……………………………………………………………………… ...51
2.1.1.Vi phạm pháp luật có nhiều biến động với xu hƣớng gia tăng không đều 51
2.1.2. . Phƣơng pháp, thủ đoạn vi phạm pháp luật ngày càng tinh vi và xảo quyệt
với quy mô và phạm vi rộng ………………………………………………….. 56
2.1.3. Hậu quả của vi phạm pháp luật ngày càng lớn ………………………… 59
2.1.4. Cơ cấu của vi phạm pháp luật có nhiều thay đổi, trong đó xuất hiện một số
hành vi mới và có xu hƣớng lan rộng ………………………………………… 62
2.2. Nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật ở Việt Nam……………... 65
2.2.1. Nguyên nhân khách quan………………………………………………. 65
2.2.1.1. Nhóm nguyên nhân về kinh tế ………………………………………. .65
2.2.1.2. Nhóm nguyên nhân về xã hội ………………………………………... 67
2.2.1.3. Nhóm nguyên nhân từ bên ngoài mang đến cùng xu hƣớng hội nhập
quốc tế ……………………………………………………………………….. 67
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan ………………………………………………... 69


2.2.2.1. Sự chƣa hoàn thiện của hệ thống pháp luật ………………………… 70
2.2.2.2 Hoạt động phòng, chống và kiểm soát tình hình vi phạm luật còn thiếu
hạn chế ……………………………………………………………………….. 71
2.2.2.3. Công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật chƣa đƣợc chú
trọng đúng mức khi ý thức pháp luật trong dân chúng còn nhiều hạn chế ….....72
2.3 Công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay.. 74
2.3.1 Ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng và chống phạm
pháp luật ……………………………………………………………………... 74
2.3.2 Các hoạt động cụ thể của công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp
luật ở Việt Nam thời gian qua ………………………………………………. 75
2.3.2.1 Trên phƣơng tiện xây dựng pháp luật ………………………………… 75

2.3.2.2 Trong hoạt động xử lý vi phạm ……………………………………… 76
2.4 Phƣơng hƣớng và giải pháp đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật ở Việt
Nam trong thời gian tới …………………………………..……………………79
2.4.1 Dự báo tinh hình vi phạm pháp luật trong thời gian tới

……………… 79

2.4.2. Một số ý kiến về công tác phòng chống vi phạm pháp luật …………… 87
2.4.2.1. Phải có chính sách xã hội hóa thực sự đối với công tác phòng chống vi
phạm pháp luật ……………………………………………………………….. 87
2.4.2.2. Phải không ngừng tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa …..………..89
2.4.2.3 Phối hợp các biện pháp kinh tế với các biện pháp xã hội trong phòng
ngừa vi phạm pháp luật…………………………………..…………………….92
2.4.2.4 Việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào công tác
đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật cần đƣợc chú trọng hƣn nữa …….. 94
2.4.2.5 Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong việc đấu tranh phòng, chống vi phạm
pháp luật nhất là đối với tội phạm ……………………………………………. 95
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 99


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Từ khi xã hội loài ngƣời đƣợc hình thành, các hoạt động chung của nhân
loại đã đƣợc quản lý bởi các quy phạm xã hội nhất định. Khi xã hội xuất hiện
giai cấp thì cách thức quản lý và điều chỉnh các hoạt động xã hội cũng thay đổi.
Sự hình thành Nhà nƣớc và sự ra đời của pháp luật đáp ứng cho sự thay đổi này.
Nhà nƣớc ban hành ra pháp luật nhằm hƣớng xã hội theo trật tự mà giai cấp thống
trị mong muốn. Nhƣng mục đích đó không bao giờ đƣợc thực hiện một cách triệt

để và cho đến tận ngày nay điều đó vẫn còn tiếp tục biểu hiện ngay trong xã hội
văn minh vì có những lực lƣợng hay bộ phận dân cƣ chống lại Nhà nƣớc, chống lại
pháp luật và xã hội hoặc vì lý do nào đó mà họ đã vi phạm pháp luật.
Trong xã hội tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng, hiện tƣợng vi phạm
pháp luật vần tiếp tục xảy ra một cách phổ biến và đáng lo ngại, nhất là trong
những năm gần đây khi chúng ta đổi mới cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế quản
lý kinh tế. Những biến đổi xã hội tiêu cực do sự tác động của mặt trái củ nền
kinh tế thị trƣờng đã ảnh hƣởng nặng nề tới mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh” mà chúng ta đang quyết tâm phấn đấu và
xây dựng, trong đó vi phạm pháp luật nổi lên nhƣ một hiện tƣợng tiêu cực đặc
biệt với những hậu quả nặng nề. Các thống kê xã hội học và các báo cáo của các
cơ quan bào vệ pháp luật gần đây đã cho thấy tình trạng đáng báo động của hiện
tƣợng này, buộc các nhà quản lý và bất kỳ ngƣời nào có trách nhiệm đều phải
quan tâm, lo lắng. Nhận diện hiện tƣợng xã hội đặc biệt này một cách đúng đắn
trở thành một yêu cầu cấp thiết phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật trong thời gian sắp tới một cách có hiệu quả nhằm xây dựng một
xã hội nhƣ mục tiêu mà tất cả những ngƣời tiến bộ đều mong muốn đã nêu trên
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ lý do đó, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay có một ý nghĩa hết sức to lớn và
cũng là một yêu cầu cấp thiết đối với việc xây dựng một nhà nƣớc pháp quyền


2
“của dân, do dân và vì dân” mà ở đó pháp luật giữ vai trò thống trị, mọi ngƣời
sống và làm việc theo Hiến pháp pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là một vấn đề hết sức phức tạp, xảy ra ở mọi xã hội có pháp luật và
Nhà nƣớc nên nó đƣợc rất nhều các nhà quản lý cũng nhƣ các nhà luật học quan
tâm. Cho đến nay ở Việt Nam, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vi

phạm pháp luật nhƣng chủ yếu đi theo từng mảng hay từng lĩnh vực cụ thể. Ví
dụ, trong lĩnh vực hình sự, việc nghiên cứu tội phạm đƣợc đặc biệt chú ý nhƣ
các công trình nghiên cứu về vấn đề lỗi của PGS- TS Nguyễn Ngọc Hòa, vấn đề
đồng phạm của TS Lê Thị Sơn, TS Trần Văn Độ ... và nhiều đề tài luận văn tốt
nghiệp cử nhân luật, cao học luật và tiến sĩ luật học khác nghiên cứu từng tội
hoặc nhóm tội phạm cụ thể. Vi phạm pháp luật xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực
đƣợc pháp luật điều chỉnh và hầu nhƣ ở lĩnh vực nào cũng có những chƣơng
trình, những vấn đề tài nghiên cứu về vi phạm pháp luật ở lĩnh vực ở lĩnh vực đó
nhƣ hành chính, dân sự, lao động, kinh tế, môi trƣờng. Trong số các công trình
nghiên cứu đó thì các công trình nghiên cứu về tội phạm và tội phạm học là
phong phú, toàn diện và triệt để hơn cả. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
trên đây chủ yếu đi theo xu hƣớng luật chuyên ngành thực định tình hình vi
phạm pháp luật xảy ra trên thực tế, còn việc nghiên cứu các yếu tố có liên quan
đến vi phạm pháp luật nhƣ vấn đề cơ sở để vi phạm hóa đối với một số hành vi
xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật, những yếu tố ảnh hƣởng đến tình
hình vi phạm pháp luật ...thì rất ít đƣợc quan tâm hoặc chủ yếu quan tâm ở một
vài khía cạnh hẹp và trính khái quát không cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài này nhằm góp phần nhỏ bé cho việc nghiên cứu tình hình vi phạm pháp
luật thêm phong phú và đa dạng hơn.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Có thể nói, vi phạm pháp luật là một vấn đề hết sức phức tạp, chính vì thế
mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích và khẳng định một số vấn đề
có tính chất lý luận trong đó bổ sung một số ý kiến của cá nhân trong quá trình
nghiên cứu để có thể trao đổi một số vấn đề lý luận liên quan đến thực tiễn. Từ
mục đích đó, luận văn tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:


3
a. Vi phạm pháp luật với một số quan điểm từ trƣớc đến nay.
b. Cơ chế của vi phạm pháp luật

c. Cấu thành của vi phạm pháp luật
d. Những nhân tố ảnh hƣởng đến vi phạm pháp luật
e. Đặc điểm của tình hình vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay
f. Tình hình kiểm soát vi phạm pháp luật ở Việt Nam trong thời gian gần đây;
g. Xu hƣớng của tình hình vi phạm và một số giải pháp phòng, chống vi
phạm pháp luật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc áp dụng trong luận văn.
Ngoài việc xuất phát từ cơ sở phƣơng pháp luận của phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác – Lê-nin, tác giả đã sử dụng nhiều
phƣơng pháp cụ thể khác nhƣ: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội học,
phỏng vấn, lịch sử... theo yêu cầu của từng vấn đề.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Với tƣ cách là một luận văn tốt nghiệp của chƣơng trình cao học luật, đề
tài nghiên cứu: “Vi phạm pháp luật - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam” đã góp phần khẳng định một số quan điểm lý luận về vi phạm pháp luật
nhƣ vấn đề lỗi của cá nhân, lỗi của tổ chức... đồng thời đƣa ra quan điểm riêng
về tiêu chí để dự báo tình hình vi phạm pháp luật và mạnh dạn dự báo xu hƣớng
của tình hình vi phạm pháp luật ở một số lĩnh vực theo những tiêu chí trên.
Ngoài ra, qua việc nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật của Việt Nam trong
thời gian gần đây, luận văn đã có một số ý kiến nêu lên những kiến nghị và giải
pháp cho công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong thời gian tới.
6. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn đƣợc chia thành hao chƣơng:
1. Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật
2. Chƣơng II: Tình hình vi phạm pháp luật và công tác đấu tranh phòng,
chống vi phạm pháp luật ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


4

CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
1.1.1. Hành vi
Con ngƣời, trong quá trình tồn tại và phát triển đã có nhiều hoạt động tác
động vào thế giới tự nhiên và khai thác những lợi ích vật chất để duy trì sự tồn
tại của mình và của giống nòi. Trong quá trình đó, con ngƣời lại có quan hệ với
nhau. Khi đó ngôn ngữ bắt đầu hình thành cùng với tƣ duy- con ngƣời trở thành
chủ thể có ý thức và hoạt động của con ngƣời dần đƣợc ý thức điều khiển. Với
tƣ cách đó, loài ngƣời đã tách mình ra khỏi thế giới tự nhiên để trở thành chủ thể
có tính độc lập và có khả năng làm chủ bản thân. Các hoạt động của con ngƣời
nhƣ vậy (bao gồm cả hành động và không hành động) đƣợc gọi là hành vi. Các
hành vi ấy có thể chỉ là hành vi mang tính cá nhân nhƣng cũng có khi mang tính
xã hội, có ảnh hƣởng đến đời sống chung của cộng đồng. Lợi ích của cá cộng
đồng và của mỗi cá nhân đƣợc duy trì và đảm bảo nhờ sự phù hợp, thống nhất
trong các hoạt động. Cũng có không ít những hành vi lệch chuẩn. Nhƣng muốn
biết đƣợc đâu là chuẩn đâu là không chuẩn thì phải xác định đƣợc có hành vi
hay không. Vì vậy phải có cơ sở để xác định hành vi. Cơ sở đó chính là các xử
sự đƣợc thể hiện ra bên ngoài của con ngƣời có sự kiểm soát của ý thức.
Tuy nhiên, hành vi cũng đƣợc xem xét dƣới nhiều góc độ khác nhau túy
theo quan điểm tiếp cận. Hành vi đƣợc các nhà sinh vật học xem xét với tƣ cách
là cách sống và hoạt động trong một môi trƣờng nhất định dựa trên sự cần thiết
thích nghi tối thiểu của cơ thể đối với môi trƣờng, hành vi của con ngƣời bị bó
hẹp trong các hoạt động thích nghi với môi trƣờng để đảm bảo sự tồn tại cảu cá
thể ngƣời trong môi trƣờng đó. Chuẩn mực để đánh giá hành vi chính là mức
độ thích nghi của cơ thể đối với môi trƣờng. Các nhà tâm lý học lại cho rằng
hành vi của con ngƣời bao giờ cũng có mục đích, con ngƣời không phải là cá thể
thích nghi thụ động...



5
Hành vi là tiêu chí quan trọng có bản để đánh giá con ngƣời. Nó bị chi
phối bởi nhiều nguyên tắc, nguyên lý, nhiều quan hệ. Về mặt tâm lý cũng nhƣ
mặt tự nhiên, cái sinh học của con ngƣời là nơi phát sinh và chứa đựng rất nhiều
nhu cầu; những nhu cầu đó bị ức chế bởi khả năng xã hội trong việc thỏa mãn
chúng. Thông thƣờng, nhu cầu cá nhân cao hơn và vƣợt ra ngoài khuôn khổ xã
hội. Đó là cái hạt nhân phát ra mọi quyết định trong việc ứng xử của con ngƣời
trƣớc sự tác động của ngoại cảnh. Nó là trung tâm điều tiết phẩm hạnh của con
ngƣời sao cho phù hợp với các quy luật của đời sống xã hội mà con ngƣời đã
nhận thức đƣợc và qua đó đặt ra những quy tắc ứng xử tƣơng ứng. Việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội thực chất là việc điều chỉnh hành vi con ngƣời. Có
hàng loạt các yếu tố tác động, ảnh hƣởng rất sớm đến hành vi nhƣ đạo đức,
phong tục, tập quán, lễ nghi tôn giáo... trong cuộc sống, trong đó có yếu tố ảnh
hƣởng rất lớn đến hành vi của con ngƣời theo những hƣớng nhất định là pháp
luật. Chịu sự tác động của các quy phạm pháp luật, các hành vi của con ngƣời
trở thành hành vi pháp lý.Con ngƣời, một năm là sản phẩm của lịch sử (của hoàn
cảnh tự nhiên và xã hội), mặt khác, là chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử đó.
Nhƣ vậy con ngƣời cũng chính là chủ thể sáng tạo ra các quy phạm, trong đó có
các quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật cũng do con ngƣời xây dựng
nên, đó là những quy tắc đƣợc ra theo yêu cầu của quản lý xã hội một cách
chung nhất. Trong các hành vi của con ngƣời có hành vi hợp lý. Hành vi đƣợc
coi là hợp lý khi nó phù hợp với hoàn cảnh khách quan, với quy luật của sự vận
động. Các nhà quản lý bao giờ cũng muốn trật tự xã hội diễn ra bởi các hành vi
hợp lý nhƣng điều đó không phải bao giờ cũng xảy ra vì ngƣời ta có thể nhận
thức đƣợc nhƣng cũng có thể không nhận thức đƣợc các quy luật đó. Vì vậy mà
ở mức độ tƣơng đối,nhà quản lý muốn các hành vi xã hội xảy ra theo ý chí của
mình. Theo đó có hành vi hợp pháp và không hợp pháp. Hành vi là hợp pháp
hay không hợp pháp đƣợc xác định bởi các quy phạm pháp luật và cũng chính vì
vậy, sự xác định này còn phụ thuộc vào nhà làm luật.



6

1.1.2 Hành vi pháp luật
Hành vi pháp lý là hoạt động có ý thức của con ngƣời diễn ra trong môi
trƣờng có sự điều chỉnh của pháp luật. Những hoạt động đó có thể mang tính
tích cực hay tiêu cực của cá nhân hay tổ chức về mặt xã hội đƣợc xác định trƣớc
bằng các quy phạm pháp luật. Vì vậy, trong mọi trƣờng hợp các hành vi pháp
luật chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc là hành vi bất hợp pháp.
1.1.2.1 Hành vi hợp pháp.
Hằng ngày, trong đời sống xã hội, các hoạt động của con ngƣời diễn ra rất
đa dạng, theo nhiều xu hƣớng, động thái, tính chất khác nhau, có mối quan hệ
với nhau. Các hoạt động sống của con ngƣời nói chung và có tính phổ biến là
các hành vi phù hợp với yêu cầu của cuộc sống, nhờ đó mà trật xã hội đƣợc duy
trì, lợi ích của cá nhân, của cộng đồng đƣợc bảo đảm. Xuất phát từ điều này mà
các nhà cầm quyền trong bất kỳ một Nhà nƣớc nào cũng đều đƣa ra những
chuẩn mực cho cuộc sống dƣới những hình thức pháp lý nhất định. Khi xây
dựng các quy phạm pháp luật, các nhà làm luật đã xác định một “khung pháp
lý” chỉ ra hoàn cảnh, tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống, đồng thời cũng
chỉ ra cách ứng xử tƣơng ứng cho con ngƣời vào hoàn cảnh đó. Đó có thể là việc
quy định về quyền, có thể là quy định về nghĩa vụ. Hành vi pháp lý bị các quy
phạm pháp luật điều chỉnh là hành vi khách quan do đòi hỏi của pháp luật.
Nói chung, việc xác định một hành vi hợp pháp phải có căn cứ vào quy
định của pháp luật. Một hành vi đƣợc coi là hợp pháp khi hành vi đó phù hợp
với pháp luật. Cụ thể hơn nữa thì hành vi đó có thể là sự thực hiện một quyền –
một xử sự đƣợc phép trong giời hạn mà quy phạm đã xác định (sử dụng pháp
luật). Hành vi đó có thể là một hành động tích cực của con ngƣời nhằm đáp ứng
một yêu cầu nào đó của Nhà nƣớc hay của chủ thể khác có quyền (thì hành pháp
luật), hành vi đó cũng có thể là sự kiềm chế không thực hiện điều mà pháp luật
cấm (tuân thủ pháp luật). Nhƣ vậy, quy phạm pháp luật là căn cứ thực hiện và

lập trƣờng đánh giá thống nhất về hành vi. Phần lớn những hành vi loại này


7
mang tính tích cực, có lợi cho xã hội. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi có lợi
cho xã hội đều là hành vi hợp pháp.
Có quan điểm cho rằng: “hành vi hợp pháp là hành vi có ích cho xã hội
phù hợp với những quy định của pháp luật, là việc sử dụng (hoặc không sử dụng
khi pháp luật cho phép) các quyền chủ thể, là việc thực hiện các nghĩa vụ pháp
lý của các chủ thể quan hệ pháp luật”1. Tuy nhiên, hành vi phù hợp với pháp luật
chƣa chắc đã phù hợp với thực tế hay đòi hỏi của cuộc sống. Trên thực tế, không
phải bao giờ sự quy định của pháp luật cũng là hợp lý. Đó là khi những quy
phạm pháp luật đƣợc xây dựng không tuân theo đòi hỏi khách quan của cuộc
sống. Có thể thấy một điều rõ ràng là đời sống xã hội thì luôn luôn biến đổi,
trong khi đó, pháp luật lại có tính khuôn mẫu ổn định, có xu hƣớng đi sâu và
phản ánh sự phát triển của đời sống xã hội. Hơn thế nữa, pháp luật ra đời còn ít
nhiều bị chi phối bởi ý chí của những nhà làm luật. Nếu họ công tâm, vì lợi ích
chung và có trình độ để nhận thức các quy luật của đời sống xã hội thì pháp luật
xứng đáng là chuẩn mực để làm khuôn mẫu cho các vi xã hội. Trong trƣờng hợp
ngƣợc lại, vì nhận thức chủ quan của nhà làm luật có khoảng cách với đời sống
xã hội do lợi ích ích kỷ hoặc do trình độ hạn chế không phản ánh đƣợc nhu cầu
và sự vận động khách quan của cuộc sống thì pháp luật có thể lại trở thành một
lực cản đối với sự tiến bộ xã hội. Khi đó những hành vi hợp pháp biết đâu lại là
có hại cho xã hội. Nói cách khác, đó là pháp luật không phù hợp. Trong trường
hợp này, hành vi hợp pháp có thể mang lại những kết quả không tốt, vì vậy mà
pháp luật không còn xứng đáng là chuẩn mực cho xã hội nữa. Đã có không ít
những văn bản pháp luật ra đời đã trở thành lực cản cho sự phát triển của xã hội,
nhất ra đời trở thành lực cản cho sự phát triển của xã hội, nhất là khi đó là văn
bản pháp luật có giá trị cao, vì các văn bản có giá trị thấp hơn đƣợc ban hành
theo đó cũng có sự bất hợp lý tƣơng ứng. Những hành vi đƣợc thực hiện theo

yêu cầu của những quy định nhƣ vậy là hành vi hợp pháp không hợp lý.

Học viện Chính trị quốc gia, (1998), Lý luận về Nhà nƣớc và Pháp luật, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội , tra.370
1


8
Trong một số trƣờng hợp, pháp luật quy định hợp lý (phù hợp với đòi hỏi
của quá trình vận động của tiến bộ xã hội) nhƣng có thể có một khoảng cách với
cuộc sống, chẳng hạn nói lại có sự khác biệt với những quy phạm đạo đức hay
tôn giáo...Hành vi khi đó là hợp pháp nhƣng không hợp tình và không dễ gì
đƣợc xã hội chấp nhận. Không phải nói ở đâu xa, ngay trong bộ luật hình sự
năm 1985 của Việt Nam khi quy định về hành vi không tố giác tội phạm, nếu
ngƣời thực hiện tội phạm là thân nhân hay bạn bè...của ngƣời đi tố cáo thi hành
vì tố cáo của ngƣời đó mặc dù là phù hợp pháp luật nhƣng chắc chắn không dễ
gì tránh đƣợc búa rìu dƣ luận. Hành vi này, ngƣời sự điều chỉnh của pháp luật nó
còn chịu sự điều chỉnh rất sâu sắc của đạo đức. Chuyện này đã từng xảy không ít
trong thực tế và vì vậy, hành vi đó lại bị lên án bởi dƣ luận xã hội. Có lẽ chính vì
thế mà trong Bộ luật hình sự của nƣớc ta đƣợc sửa đổi vào năm 1999, hành vi tố
cáo chỉ đặt ra cho một số tội có liên quan đến an ninh quốc gia.
Với những phân tích trên ta thấy, việc đánh giá các quy định của pháp luật
về hành vi hợp pháp phải có nhiều tiêu chí hay căn cứ khác nhau. Nếu việc quy
định của pháp luật thuần túy chỉ xuất phát từ ý chí chủ quan của nhà làm luật thì nó
khó có điều kiện đƣợc thực hiện hóa thành hành vi xã hội tích cực của con ngƣời.
1.1.2.2 Hành vui bất hợp pháp
Ngƣợc lại với hành vi hợp pháp là hành vi bất hợp pháp, do vậy khi muốn
nhận thức một hành vi có phải là bất hợp pháp hay không cũng phải căn cứ vào
sự quy định của pháp luật đƣợc thể hiện trong các quy phạm pháp luật. Một
hành vi đƣợc coi là bất hợp pháp khi nó là xử sự không đúng với yêu cầu của

pháp luật (phần này sẽ đƣợc phân tích kỹ ở dấu hiệu trái pháp luật của hành vi vi
phạm dƣới đây). Điều cần xác định đầu tiên ở đây là dấu hiệu hành vi. Phải có
hành vi có tính xác định của con ngƣời thì những biểu hiện khác mới có thể xem
xét đƣợc. Tuy nhiên, hành vi không phải bao giờ cũng là yếu tố đƣợc xem xét có
phải vi phạm pháp luật hay không. Lịch sử tồn tại của pháp luật trong thời kỳ
chiếm hữu nô lệ và phong kiến đã chứng minh điều đó. Ví dụ một trƣờng hợp
vào khoảng cuối thế kỷ V, đầu thế kỷ IV – TCN, Denis – một ông vua độc tài sứ


9
Cyracuse (Italia) đã cho rằng “điều nó chiêm bao ban đêm chính là cái nó đã
nghĩ lúc ban ngày”, nên đã giết chàng thanh niên Marsyas vì anh đã chiêm bao
thấy mình cắt cổ vua. Trong trƣờng hợp này hành vi đã không đƣợc xét tới khi
xác định một ngƣời phạm tội vì chiêm bao hay suy nghĩ đều không phải là hành
vi. Nó không có mối liên hệ nào với bên ngoài, với thế giới khách quan, nó
không phải là đối tƣợng điều chỉnh của pháp luật. Ngày nay, điều này đã bị thay
đổi theo sự tiến bộ xã hội.
Trong số những hành vi bất hợp pháp, không phải hành vi nào cũng là
hành vi vi phạm pháp luật. Một hành vi bất hợp pháp cần phải có thêm một số
dấu hiệu khác để có thể trở thành hành vi vi phạm pháp luật. Ta sẽ làm rõ điều
này qua sự phân tích các dấu hiệu cụ thể của vi phạm pháp luật cùng với khái
niệm vi phạm pháp luật.
1.1.3. Vi phạm pháp luật
Trong khoa học pháp lý, khái niệm vi phạm pháp luật đƣợc nhắc tới rất
nhiều ở các ngành luật. Ví dụ, khái niệm vi phạm pháp luật hành chính lần đầu
tiên đƣợc định nghĩa trong pháp lệch xử phạt vi phạm hành chính ngày
30/1101989: “Vi phạm pháp luật hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nƣớc mà
không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính” hoặc đƣợc định nghĩa gián tiếp trong điều 1, khoản 2 Pháp lệnh xử

lý vi phạm hành chính ngày 6/7/1995: “Xử lý vi phạm hành chính đƣợc áp dụng
đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý
nhà nƣớc mà chƣa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Trong Bộ luật hình sự, vi phạm pháp luật
hình sự bị coi là tội phạm và đƣợc định nghĩa “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ trính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích


10
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa”. Nói chung, theo các cách xác định về vi phạm pháp luật
trên, vi phạm luôn luôn có các dấu hiệu trái pháp luật của hành vi, có dấu hiệu
lỗi (cố ý hoặc vô ý) nhƣng chƣa có một cách nhìn khái quát về vi phạm pháp
luật, thậm chí chƣa có cả sự khái quát cho khái niệm vi phạm pháp luật với các
chủ thể là cá nhân hay tổ chức ngay trong một khoa học pháp lý cụ thể (ví dụ,
khái niệm về vi phạm hành chính). Điều này sẽ đƣợc phân tích để làm rõ trong nội
dung khái niệm vi phạm pháp luật ở phần dấu hiệu của vi phạm tiếp sau. Đó là.
1.1.3.1. Dấu hiệu trái pháp luật của hành vi.
Có thể nói rằng đây là dấu hiệu đặc biệt quan trọng của vi phạm pháp luật.
Những dấu hiệu khác chỉ có thể nhận biết đƣợc thông qua dấu hiệu này. Nói
chung trong các quan điểm hiện đại, không có quan điểm nào phủ nhận dấu hiệu
hành vi. Hành vi ở đây có thể là hành động, có thể là không hành động. Hành
động là xử sự của con ngƣời thông qua các thao tác, hoạt động cụ thể tác động
vào thế giới khách quan làm biến đổi nó với những mức độ nhất định mà theo
tiếng Hán, đó là các “tác vi”. Còn hành vi thể hiện dƣới dạng không hành động
là xử sự của con ngƣời không thực hiện một việc gì đó, và còn đƣợc gọi là “bất
tác vi”. Hành vi bằng hành động thì luôn có tính xác định cụ thể, ngƣợc lại hành

vi không hành động rất khó xác định vì chỉ có thể xác định đƣợc nếu nó nằm
trong mối quan hệ nào đó đƣợc pháp luật xác định. Nếu không nhƣ vậy, nó có
thể chỉ là suy nghĩ hay tình cảm của con ngƣời. Theo C.Mác thì “ngoài hành vi
của mình ra, tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải
là đối tƣợng của nó”. Dƣới cách nhìn của nhà làm luật thì hành vi trái pháp luật
phải là xử sự gây tác hại đến sự tồn tại và phát triển bình thường của trật tự xã
hội. Hành vi gây tác hại đó có thể là sự thực hiện những hành động mà pháp luật
cấm. Loại hành vi này tác động lên thế giới khách quan, trực tiếp làm biến đổi
chúng, gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ theo ý
chí của nhà làm luật. Hành vi gây hai dƣới dạng không hành động không trực
tiếp gây ra thiệt hại. Nó đƣợc hiểu là sự trốn tránh thực hiện một nghĩa vụ nhất


11
định vì vậy mà đã không ngăn chặn được thiệt hại xảy ra hoặc một lợi ích chung
đã không được thực hiện.
Một vấn đề nữa cần xác định ở đây là hành vi đƣợc hiểu nhƣ thế nào trong
hoạt động của tổ chức. Thông thƣờng khi ngƣời ta nói tới hành vi là nói tới hoạt
động của cá nhân. Thực chất hoạt động của tổ chức phải thông qua tổng hợp các
hoạt động của cá nhân. Nếu đã xác định vấn đề nhƣ vậy thì khi hành vi đƣợc
hiểu là xử sự có sự kiểm soát của ý thức và ý chí thì liệu có thể luôn luôn có sự
thống nhất ý chí hay giữa các cá nhân trong tổ chức hay không khi các quyết
định về hoạt động của tổ chức đƣợc thông qua theo nguyên tắc đa số. Trong
trƣờng hợp này, thiểu số những ngƣời không nhất trí thì trách nhiệm của họ sẽ
đƣợc xác định nhƣ thế nào khi quyết định trên là trái pháp luật? Các tổ chức do
con ngƣời thành lập nên, khi đó nó trở thành một thực thể độc lập với chủ thể đã
thành lập ra nó. Khi đã nói đến tổ chức ngƣời ta phải nói tới hoạt động của nó,
nó đƣợc sinh ra vì mục đích gì, ai sẽ là ngƣời đại diện, là ngƣời chịu trách nhiệm
cho tổ chức và trƣớc tổ chức...Nhƣ vậy, việc xác định hành vi của tổ chức hay
của cá nhân phải xem cơ chế của hành vi.

Nói với hành vi vi phạm pháp luật là ta nói tới thái độ tiêu cực của các
chủ thể có năng lực trƣớc pháp luật. Tuy nhiên, không phải cứ thực hiện hành vi
trái pháp luật là mang lại hậu quả xấu cho xã hội. Trong thực tế, có rất nhiều
hành vi trái pháp luật không những mang lại hậu quả xấu mà có khi nó còn có
tính tích cực, là một biểu hiện của tiến bộ xã hội, thể hiện tính năng động của
những chủ thể thực hiện nó. Không khó khăn gì lắm để lấy ví dụ về những
trƣờng hợp này. Đó là những giám đốc năng động thời kỳ bao cấp đã dám “vƣợt
rào” để làm lợi cho doanh nghiệp, cho đơn vị của mình, mặc dù không có hại
cho xã hội. Khi pháp luật không còn phù hợp với thực tế nữa thì nó trở thành rào
cản cho sự phát triển của xã hội, tiêu chuẩn để đánh giá tính hợp pháp của hành
vi sẽ không còn tính pháp lý nữa. Cùng với sự xác định hành vi nào là hợp pháp
không phù hợp với thực tế thì sự xác định hành vi nào là trái pháp luật một cách
bất hợp lý đều dẫn đến sự phản ứng tiêu cực của xã hội. Tất nhiên, điều này


12
không mang tính phổ biến mặc dù nó thƣờng xảy ra ở những giai đoạn có tính
chất giao thời. Hành vi kiểu “vƣợt rào” trên đây đƣợc coi là hành vi dũng cảm,
thậm chí còn đáng khuyến khích vì nó buộc nhà làm luật trở nên linh hoạt hơn
đáp ứng nhu cầu điều chỉnh của xã hội ngày càng phát triển.
Những phân tích trên đây mới chủ yếu nói tới hành vi trái pháp luật –
những hành vi thực hiện pháp luật không đúng hoặc không thực hiện pháp luật
nhƣng chúng ta không thể quên một điều là muốn xác định đƣợc điều đó thì phải
có pháp luật và muốn có pháp luật thì phải có hoạt động xây dựng pháp luật.
Hoạt động này, trong nhiều trƣờng hợp vừa là hoạt động xây dựng pháp luật vừa
là hoạt động thực hiện pháp luật. Thế nhƣng không phải bảo giờ hoạt động này
cũng có tính hợp pháp. Nhiều khi các cơ quan nhà nƣớc đã ban hành những văn
bản trái với những văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, nhất là trái với Hiến
pháp và các đạo luật. Tất nhiên, hoạt động này phải là hoạt động của cơ quan có
thẩm quyền và các văn bản pháp luật phải có tính thứ bậc theo quy định của

pháp luật. Chính vì đƣợc pháp luật quy định nên cũng đã có không ít các văn
bản đƣợc ban hành trái pháp luật. Vì là các văn bản tạo ra những khuôn mẫu cho
hành vi nên nó kéo theo sự trái pháp luật của hàng loạt các hành vi “hợp pháp”
kiểu này. Việc ban hành văn bản trái pháp luật xảy ra có thể là trái thẩm quyền
(có thể là vƣợt cấp, có thể là không đúng hình thức) nhƣng cũng có thể là trái
với nội dung quy định của các văn bản có hiệu lực cho xã hội nhƣng nó tiếp tay
cho hàng loạt các hành vi trái pháp luật một cách “hợp pháp” nói trên.
Hiện nay, sự phát triển của xã hội ngày càng dòi hỏi nhiều hơn sự tham
gia của các tổ chức. Các tổ chức đƣợc hình thành bằng rất nhiều cách thức khác
nhau. Có thể đó là sự kết hợp của nhiều thành viên tự nguyện thành lập ra vì một
mục đích nào đó, cũng có thể tổ chức đó đƣợc Nhà nƣớc thành lập vì những mục
đích khác nhau, chính vì thế mà hoạt động của chúng cũng có sự khác nhau. Có
tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, có tổ chức hoạt động trên lĩnh vực
quản lý, có tổ chức hoạt động trên lĩnh vực công ích...nên tính chất, phạm vi,
thẩm quyền có thể khác nhau. Cũng chính vì lẽ đó mà hoạt động của chúng cũng


13
tồn tại ở các dạng khác nhau. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự giống nhau ở
chỗ, các hoạt động của chúng là sự kết hợp của nhều cá nhân với những vị trí và
vai trò khác nhau. Đặc điểm nói chung của loại chủ thể này là hoạt động theo
nội quy, quy chế của riêng chúng, từ đó hoạt động trái pháp luật của chúng có
thể phát sinh ngay từ việc xây dựng nội quy quy chế. Mặc dù các tổ chức hoạt
động trên cơ sở của chế độ tự quản nhƣng phải theo nguyên tắc “đƣợc làm tất cả
những gì mà pháp luật không cấm”. Thực ra, nguyên tắc này chỉ đƣợc đặt ra cho
các tổ chức kinh tế, xã hội chứ không phải đặt ra cho các cơ quan nhà nƣớc. Nhƣ
vậy, hoạt động trái pháp luật của tổ chức có thể là đã làm những cái mà pháp
luật cấm, nhƣng chỉ nhƣ vậy thì chƣa hết. Trong thực tế thì các tổ chức có thể
không làm cái mà nhà nƣớc bắt buộc phải làm. Có thể lấy một ví dụ về trƣờng
hợp này nhƣ việc một tổ chức kinh tế đã không thực hiện các biện pháp ngăn

chặn tình trạng ô nhiễm môi trƣờng do hoạt động của mình gây ra.
1.1.3.2. Dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể.
Sau khi đã xem xét dấu hiệu trái pháp luật của hành vi, phải xác định dấu
hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể. Nhƣ đã phân tích ở phần hành vi
trên đây, ta thấy hành vi phải là xử sự của con ngƣời có sự kiểm soát của lý trí
và ý chí. Lý trí và ý chí chỉ có thể xác định ở những chủ thể có ý thức. Lý trí là
khả năng nhận thức sự vận động của thế giới khách quan, còn ý chí là khả năng
điều khiển và kiểm soát hành vi trên cơ sở của sự nhận thức đó. Năng lực trách
nhiệm pháp lý của các chủ thể đƣợc Nhà nƣớc quy định dựa trên khả năng đánh
giá và kiểm soát hành vi xã hội của con ngƣời trong những điều kiện cụ thể nhất
định nhƣ lứa tuổi, học vấn...Mỗi chủ thể lại có khả năng nhận thức, năng lực
kiểm soát và điều khiển hành vi ở mức độ khác nhau. Chính vì vậy, cần phải
phân hóa khả năng đó giữa các chủ thể. Mỗi cá nhân là một thực thể thống nhất
của cái sinh vật và cái xã hội – một phần tử đơn nhất của cộng đồng xã hội, một
hiện tƣợng có tính lịch sử, có nhân cách – một bản sắc độc đáo của con ngƣời.
Khoa học tự nhiên hiện đại và sự phát triển của khoa học nhân văn trong thời đại
ngay nay đã chứng minh rằng sự tồn tại hiện thực của mỗi con ngƣời cụ thể nói


14
riêng và là của cả xã hội nói chung quy định bởi nhiều quy luật. Quy luật sinh
học tạo thành phƣơng tiện sinh học của con ngƣời, ví dụ, quy luật về sự phù hợp
giữa cơ thể với môi trƣờng, quy luật về biến dị và di truyền; quy luật tâm lý – ý
thức hình thành và hoạt động trên nền tảng sinh học của con ngƣời, nhƣ các quy
luật hình thành tƣ tƣởng, tình cảm, khát vọng, mục tiêu, lý tƣởng, niềm tin và ý
chí...;các quy luật xã hội quy định mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời
nhƣ quy luật của sự phù hợp giữa kiến trúc thƣợng tầng với cơ sở hạ tầng, quy
luật về đấu tranh giai cấp...Trong mỗi xã hội, con ngƣời có khả năng riêng biệt,
cao thấp ở những trình độ nhất định. Nhu cầu của mỗi cá nhân thƣờng xuyên có
sự mâu thuẫn với khả năng đã thúc đẩy con ngƣời hoạt động và đấu tranh với

chính mình, với xã hội. Sự đấu tranh này có thể là tích cực, có thể là tiêu cực. vì
vậy, một chủ thể có khả năng nhận thức cao hơn, có thể điều khiển hành vi một
cách hữu hiệu hơn thì điều kiện cho họ thực hiện sự đấu tranh có tính tích cực
cũng cao hơn. Ngƣợc lại, những chủ thể mà khả năng nhận thức hạn chế thì khả
năng điều khiển hành vi cũng thấp hơn. thậm chí có những chủ thể không có
những khả năng này. Nhƣ đã phân tích ở trên, con ngƣời là một thực thể thống
nhất của “cái sinh vật” và “cái xã hội”, trong đó “cái sinh vật” của con ngƣời
mang tính bản năng nhƣ đói thì ăn, khát thì uống...còn “cái xã hội” thì vô cùng
phong phú và liên tục mở rộng. Nó liên quan đến trình độ phát triển của đời
sống xã hội. Theo đó, con ngƣời ngày càng đƣợc tự do hơn vì làm chủ đƣợc bản
thân, làm chủ xã hội, tự nhiên và cũng chính vì thế mà Nhà nƣớc cũng phải vận
động theo xu hƣớng tiến bộ đó bằng cách thừa nhận ngày càng rộng rãi quyền và
tự do của con ngƣời. Điều đó đòi hỏi khả năng nhận tức về tự do cũng cao hơn
theo trình độ phát triển của xã hội để có khả năng kiểm soát hành vi một cách
tƣơng ứng. Ngay ở mỗi con ngƣời, ở từng giai đoạn phát triển của mình, khả
năng đó cũng khác nhau do độ tuổi, kết quả tiếp thu tri thức của các thế hệ trƣớc,
sự đúc rút kinh nghiệm sống và còn phụ thuộc vào cả môi trƣờng xã hội. Vì vậy
mà không thể có một tiêu chuẩn chung cho mọi chủ thể trong xã hội và cho mọi
quan hệ xã hội. Tính chất phức tạp hay giản đơn của từng loại quan hệ xã hội sẽ


15
đòi hỏi những năng lực nhận thức và ứng xử tƣơng ứng. Đối với mỗi cá nhân,
năng lực đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣng nó phụ thuộc trực tiếp vào độ
tuổi và trạng thái thần kinh (sức khỏe tâm thần) của con ngƣời. Trong Bộ luật
Dân sự của nƣớc ta đƣợc ban hành năm 1995, năng lực chủ thể xác định cho cá
nhân bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Nếu nhƣ năng lực pháp
luật là cái mọi ngƣời có nhƣ nhau (xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng) thì năng
lực hành vi là cái để phân biệt về khả năng thực hiện năng lực đó, khả năng gánh
chịu trách nhiệm về hậu quả do việc thực hiện năng lực đó trong thực tế. Cụ thể,

trong bộ luật này, năng lực hành vi đƣợc xác định theo độ tuổi tƣơng ứng với
các mức độ :từ 0 đến chƣa đủ 6 tuổi thì chƣa có năng lực hành vi, từ đủ 6 tuổi
đến chƣa đủ 15 tuổi có năng lực hành vi để tham gia vào những quan hệ dân sự
giản đơn có giá trị nhỏ để phục vụ cho nhu cầu tối thiểu, từ đủ 15 đến chƣa đủ
18 tuổi đƣợc tham gia nhiều hơn vào các quan hệ dân sự thông thƣờng nếu có tài
sản để đảm bảo trừ trƣờng hợp cần có sự đồng ý của cha mẹ... từ 18 tuổi trở lên
thì đƣợc tham gia vào mọi quan hệ dân sự. Cùng với độ tuổi, nhƣ đã nói ở trên,
sức khỏe tâm thần là yếu tố không thể thiếu để con ngƣời có thể nhận thức thế
giới một cách bình thƣờng. Nhƣ vậy, pháp luật đã phải tính đến khả năng gánh
chịu hậu quả do hành vi của chủ thể thực hiện.
Ngay trong một loại quan hệ pháp luật thì thời điểm này cũng khác thời
điểm khác do quan điểm của nhà làm luật tƣơng ứng với trình độ phát triển xã
hội. Chẳng hạn, Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 của
nƣớc ta là một ví dụ. Theo bộ luật hình sự 1985 thì những ngƣời từ đủ 14 tuổi
đến chƣa đủ 16 tuổi thì chỉ chịu trách nhiệm về tội nghiêm trọng với lỗi cố ý,
còn những ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về hình sự về mọi
hành vi phạm tội. Trong khi đó Bộ luật năm 1999, do tính chất của các hành vi
cần phải đƣợc phân hóa chính xác hơn, nên dộ tuổi từ đủ 14 đến 16 phải chịu
trách nhiệm về tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý và tội đặc biệt nghiêm
trọng...Thực ra việc quy định đó đã xuất phát từ khả năng về nhận thức và điều
khiển hành vi một cách rõ ràng hơn và cũng từ đó mà khả năng gánh chịu về hậu


16
quả cũng đƣợc xác định chính xác cho chủ thể thực hiện hành vi. Tuy nhiên,
pháp luật lại phải có chức năng mô hình hóa, do vậy mà nó không thể quy định
chi tiết cho từng cá nhân cụ thể mà chỉ có thể quy định tƣơng ứng với từng loại
chủ thể. Việc quy định này cơ ƣu điểm là mang tính quy phạm phổ biến, khái
quát nhƣng khi xem xét vào các trƣờng hợp cụ thể thì nhiều khhi nó không hợp
lý lắm. Không phải bao giờ một ngƣời có đủ 16 tuổi cũng “khôn hơn” một ngƣời

14 tuổi hoặc không phải bao giờ những ngƣời có đủ 18 tuổi cũng “khôn” nhƣ
nhau. Môi trƣờng sống, chế độ giáo dục, quan hệ xã hội, quan hệ gia đình... sẽ
trực tiếp “dạy khôn” ngƣời ta ở các mức độ khác nhau. Một điều đặc biệt nữa là
thể trạng sức khỏe tâm thần của mỗi con ngƣời cụ thể. Ngay trong một con
ngƣời đang ở trong trạng thái tâm thần bình thƣờng, cũng có khi minh mẫn sáng
suốt, cũng có khi căng thẳng, mất bình tĩnh và do vậy mà có thể đã không nhận
thức một cách bình thƣờng và không dễ dàng có thẻ kiemr soát đƣợc hành vi của
chúng mình. Ngoài ra, do diễn biến của tình hình sức khỏe hoặc những sự kiện
bất thƣờng xảy ra trong cuộc sống mà những khả năng nêu trên của con ngƣời bị
thay đổi (có thể là tốt lên có thể là xấu đi, thậm chí có thể còn bị mất). Những
trạng thái này có thể xảy ra trƣớc, trong hoặc sau khi thực hiện các hoạt động có
dấu hiệu trái pháp luật. Trƣờng hợp này, ta dùng thuật ngữ “hoạt động” thay thế
cho thuật ngữ “hành vi” sẽ chính xác hơn vì hành vi phải là xử sự có sự kiểm
soát của ý chí và lý trí của những ngƣời có ý thức cùng thới thể trạng tâm thần
bình thƣờng.
Trong nhiều trƣờng hợp, ngƣời có năng lực hành vi thông thƣờng nhƣng
vẫn thực hiện hành vi trái pháp luật mà không ý thức đƣợc việc mình làm là hợp
pháp hay bất hợp pháp. Điều đó không phải do trạng thái sức khỏe tâm thần của
ngƣời thực hiện hành vi. Họ vẫn khẳng định xử sự của họ là đúng. Rõ ràng, kinh
nghiệm sống, kiến thức đƣợc trang bị hằng ngày của ngƣời ta là chƣa đủ để đáp
ứng yêu cầu của pháp luật, của cuộc sống. Ngay trong hoạt động của nhân viên
nhà nƣớc những ngƣời luôn đƣợc coi là ngƣời có năng lực hành vi trong hoạt
động của mình nhƣng hoạt động của những ngƣời này không pải luôn luôn


17
đúng.Thực tế đã chứng minh điều này mà cụ thể là những trƣờng hợp làm sai do
non kém về trình độ nghiệp vụ chứ chƣa nói tới việc họ làm sai.Cái khó của nhà
làm luật là chỉ có thể xác định cụ thể lứa tuổi hay thể trạng sức khỏe tâm thần
của con ngƣời ở trạng thái chung nhất mà thực tế lại vô cùng phong phú , đa

dạng và phức tạp .
Bên cạnh hành vi đƣợc xác định trên cơ sở của lứa tuổi và sức khỏe tâm
thần thì pháp luật còn xác định bổ sung về khả năng chịu trách nhiệm pháp lý
đối với các chủ thể bằng tài sản. Ví dụ trong trƣờng hợp những ngƣời đã có đủ
15 đến chƣa đủ 18 tuổi thì có thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật
dân sự một cách độc lập nếu có tài sản để đảm bảo nhƣ quy định của Bộ luật dân
sự của nƣớc ta.
Những phân tích trên đây chủ yếu mới dừng lại ở năng lực của cá nhân chứ chƣa
nói tới năng lực của pháp nhân hay tổ chức. Xuất phát từ đặc điểm của từng loại
chủ thể mà pháp luật quy định cho chúng có địa vị pháp lý khác nhau. Các chủ
thể là tổ chức có tƣ cách độc lập với ngƣời thành lập ra nó. Sự thừa nhận, sự cho
phép thành lập hoặc đƣợc Nhà nƣớc thành lập đã cho thấy sự có mặt của các tổ
chức là cần thiết, có tính khách quan khi chúng tham gia vào cào hoạt động có
ích cho xã hội. Muốn một tố chức có hoạt động có ích thì tổ chức ấy phải cần
phải có những bảo đảm về mặt pháp lý và thực tế . Chính những đảm bảo này sẽ
là sự thể hiện cụ thể nhất, trực tiếp nhất về năng lực của tổ chức. Năng lực trách
nhiệm pháp lý của tổ chức đƣợc thực hiện thông qua những ngƣời đại diện hợp
pháp cho tổ chức. Những ngƣời đại diện hợp pháp cho tổ chức. Những ngƣời đại
diện hợp pháp cho tổ chứckhi hoạt động nhân danh tổ chức. Đó là những ngƣời
đƣợc coi nhƣ đã nhận đƣợc sự uỷ quyền của tập thể. Thực ra, sự quyết định của
tổ chức là quyết định của tập thể, trong đó mỗi cá nhân có một phần trách nhiệm
gắn với những lợi ích mà họ có thể có đƣợc do những quyết định ấy. Họ sẽ là
ngƣời phải chấp nhận tình trạng “đƣợc ăn, thua chịu” sau khi đã tham gia vào tổ
chức và đã thực hiện sự uỷ quyền cho ngƣời đại diện (thƣờng đƣợc thể hiện
trong các nghị quyết của tổ chức nhƣ đại hội cổ đông, bầu ra những ngƣời lãnh


18
đạo). Trong trƣờng hợp những quyết định cảu tổ chức đƣợc ban hành bởi những
ngƣời đại diện cho tổ chức vƣợt thẩm quyền mà tổ chức đã uỷ quyền thì cá nhân

này sẽ phải là ngƣời chịu trách nhiệm về phần vƣợt quá đó. Thực chất năng lực
trách nhiệm pháp lý của chủ thể là tổ chức đƣợc xác định là khả năng gánh chịu
hậu quả pháp lý từ hoạt động của tổ chức. Nhƣng điều đó không có nghĩa là
trách nhiệm đƣợc chia đều cho các chủ thể tham gia vào tổ chức. Chính vì vậy,
cần có sự phân hoá trách nhiệm cho cá nhân khi tham gia hoạt động của tổ chức.
Tất nhiên, phải có cơ chế cho việc phân hoá này. Ví dụ trong trƣờng hợp bồi
thƣờng thiệt hại do một thànhv iên hoặc của nhóm thành viên trong tổ chức gây
ra khi hoạt động nhân danh tổ chức, ngƣời ta không thể đi đòi bồi thƣờng ở từng
cá nhân mà tổ chức phải đứng ra chịu trách nhiệm bồi thƣờng thay, sau đó tổ
chức có quyền yêu cầu các cá nhân phải bồi thƣờng ngƣợc lại cho mình. Nhƣ
vậy, năng lực trách nhiệm của tổ chức thực chất suy cho cùng cũng là sự xác
định cho cá nhân, đƣợc thực hiện thông qua các cá nhân và cuối cùng cá nhân
vẫn là ngƣời gánh chịu. Điều này liên quan rất chặt chẽ với vấn đề lỗi sẽ đƣợc
xác định ở nội dung sau.
1.1.3.3. Dấu hiệu lỗi.
Nếu nhƣ trong dấu hiệu trái pháp luật của hành vi xác định sự tác động,
ảnh hƣởng của hành vi lên các quan hệ xã hội,dấu hiệu năng lực trách nhiệm
pháp lý xác định khả năng nhận thức và khả năng kiểm soát hành vi của chủ thể
để gánh chịu hậu quả của hành vi thì dấu hiệu lỗi là sự xác định thái độ, mức độ
tiêu cực cảu chủ thể khi thựuc hiện hành vi.
Trong các công trình nghiên cứu, các văn bản pháp luật hay trong giáo
trình giảng dạy pháp luật ở bậc đại học… hầu hết lỗi đều đƣợc xác định là thái
độ hoặc trạng thái tâm lý của củ thể đối với hành vi và hậu quả của nó. Có thể
thấy hàng loạt các ví dụ về khái niệm này. Chẳng hạn: “lỗi là trạng thái tâm lý
của chủ thể đối với hành vi, cũng nhƣ hậu quả do hành vi đó gây ra”2 hay “Lỗi
là trạng thái tâm lý của ngƣời vi phạm, biểu hiện thái độ của ngƣời đó đối với

2

Giáo trình Lý luận Nhà nƣớc và pháp luật, Truờng đại học Luật Hà Nội, 2002, Hà Nội, tr.494



19
hành vi vi phạm pháp luật của mình”3 hoặc “Lỗi là trạng thái tâm lý của ngƣời
thực hiện hành vi trái pháp luật gây nguy hiểm cho xã hội” 4; cũng có khi trực
tiếp đồng nhất lỗi trong tội phạm với lỗi nói chung là: “… thái độ tâm lý của
ngƣời phạm tội với hành vi phạm tội mà ngƣời đó thực hiện và đối với hậu quả
của hành vi đó”5.
Nói chung, theo những cách hiểu trên đây thì lỗi đều đƣợc hiểu là hoạt
động tâm lý bên trong của các chủ thể vi phạm pháp luật. Nó thuộc mặt chủ
quan của vi phạm pháp luật. Có thể nói đây là một khái niệm hết sức phức tạp.
điều phức tạp đầu tiên mà nó cho thấy là lỗi mà một hoạt động tâm lý bên trong
của chủ thể và vì vậy nó không thể cân, đong, đo, đếm đƣợc, do đó nó là một
khái niệm rất trừu tƣợng và khó khái quát. Thứ hai, các khái niệm trên hầu nhƣ
mới nói tới lỗi với tƣ cách là hoạt động tâm lý của cá nhân (hoặc con ngƣời cụ
thể) chứ chƣa nói tới loại chủ thể là tổ chức. Thực ra nếu nói lỗi là hoạt động
tâm lý bên trong của con ngƣời thì liệu có thể nói tổ chức có lỗi đƣợc hay
không? Nhƣ ở phần trên đã phân tích thì hoạt động của tổ chức là hoạt động
phức tạp do sự kết hợp của nhiều ngƣời, trong khi đó thì mỗi cá nhân là một
thực thể độc lập, có nhân cách, có suy nghĩ, tình cảm và nhu cầu khác nhau. Mặt
khác, các tổ chức do con ngƣời thành lập ra nhƣng bản thân tổ chức cũng là một
chủ thể có tƣ cách riêng, độc lập với những ngƣời đã thành lập ra nó. Chính vì
những lý do trên mà buộc chúng ta phải xem lại hoặc là khái niệm lỗi hoặc là
phải xác định tƣ cách của chủ thể là cá nhân hay tổ chức trong vi phạm pháp
luật, nếu không thì không thể có khái niệm vi phạm pháp luật nói chung cho cả
cá nhân và cho cả tổ chức. Mâu thuẫn này đã xảy ra trong thực tế. Nếu nhƣ luật
hình sự khẳng định tội phạm chỉ có thể là các cá nhân thì vấn đề sẽ trở nên đơn
giản, nhƣng không phải chỉ có pháp luật hình sự đièu chỉnh các quan hệ xã hội
mà có rất nhiều ngành luật tham gia điều chỉnh và vì vậy cùng khôgn chỉ có khái
niệm tội phạm mà còn có nhiều khái niệm khái niệm vi phạm pháp luật khác tuỳ

3

Giáo trình luật hành chính Việt Nam, trƣờng đại học luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân, 2000, tr.129
Chủ biên PGS-TS Trần Ngọc Đƣờng, Giáo trình lý luận chung về Nhà nƣớc và pháp luật, Nxb Chính trị quốc
gia, 1998, tr.373.
5
Nguyễn Duy Lãm, sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb giáo dục, 1996,tr.212.
4


20
theo sự quy định của từng ngành luật hoặc tuỳ từng quan niệm. Chẳng hạn có
quan điểm khẳng định rằng: “… lỗi luôn là của cá nhân. Vì vậy, tổ chức không
thể có lỗi dƣới góc độ pháp lý đƣợc … trong cấu thành vi phạm hành chính của
tổ chức, do không thể xác định đƣợc lỗi của nó nên ở đây yếu tổ chủ quan
không có ý nghĩa gì cả. Chỉ cần tổ chức đó có biểu hiện xâm hại đến các khách
thể trong lĩnh vực quản lý nhà nƣớc, trái pháp luật hành chính là xem nhƣ đủ cơ
sở để coi là chủ thể của vi phạm hành chính”6.
Nhƣ vậy, vấn đề đặt ra ở đây là lỗi có luôn luôn là dấu hiệu bắt buộc trong
tất cả các vi phạm pháp luật mà không hoặc là phải xem xét lại khái niệm lỗi.
Nhƣ ta đã xem xét ở trên thì lỗi là trạng thái (hay thái độ) tâm lý của chủ thể đối
với hành vi và hậu quả của hành vi, trong khi đó thì hoạt động của một tổ chức
nhất định nhất định phải có sự kết hợp của nhiều ngƣời còn mỗi ngƣời lại có
hoạt động tâm lý riêng, có cáh đánh giá khác nhau về tính hợp pháp của hành vi,
về hậu quả của hành vi đó. Nói cách khác, thì mỗi cá nhân sẽ có một trạng thái
tâm lý độc lập. Nếu muốn xác định lỗi cho chủ thể là tổ chức thì phải xem lỗi
của từng cá nhân ở trong tổ chức và thực tế thì không có lỗi chung của tổ chức
đƣợc. đây là cơ sở quan trọng để xác định trách nhiệm cuối cùng cho chủ thể vi
phạm. Chính vì mỗi con ngƣời là một thực thể độc lập trong một tập thể nhƣng
lại đƣợc phân công trách nhiệm cụ thể với chức năng, nhiệm thẩm quyền theo sự

phân công hay uỷ quyền của tập thể, của tổ chức, do vậy mà những ngƣời hoạt
động nhân danh tổ chức và vì lợi ích của tổ chức mà có lỗi thì đƣơng nhiên lỗi
đó sẽ bị coi là lỗi của tổ chức và chính tổ chức phải chịu trách nhiệm về lỗi đó.
Sự liên quan của các cá nhân trong tổ chức chính là do sự uỷ quyền nay. Thực
ra, lỗi của tổ chức ở đây đƣợc xét một cách “kéo dài” từ thời điểm mà tổ chức
phân công hay uỷ quyền cho các cá nhân chịu trách nhiệm. Tại thời điểm mà các
cá nhân nhận đƣợc trách nhiệm thì chính cá nhân đã đƣợc tự do ý chí, họ có
quyền nhận hay không nhận trách nhiệm đó. Theo sự uỷ quyền thì cá nhân
ngƣời nhận đƣợc sự uỷ quyền gần nhƣ đƣơng nhiên phải có một lợi ích gì ở đó.

6

Trƣờng đại học luật Hà Nội, giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, 2000, tr.123,133.


21
Mặt khác, nếu cá nhân ngƣời đƣợc uỷ quyền có hành vi thực hiện một cách trái
pháp luật nhƣng trong phạm vi đƣợc uỷ quyền thì hành vi của cá nhân đó chính
là hành vi của tổ chức , tổ chức trong trƣờng hợp đó đã có sự lựa chọn, đƣợc “tự
do ý chí” và có khả năng “kiểm soát” hành vi của ngƣời mà mình đã uỷ quyền
tại thời điểm uỷ quyền. Việc xác định lỗi ở đây đã không còn trực tiếp là việc
xác định lỗi trong trƣờng hợp cụ thể xảy ra khi diễn ra hoạt động trái pháp luật
của cá nhân nữa và không chỉ còn là trạng thái tâm lý nữa. Trong trƣờng hợp
này, quan điểm cho rằng trong vi phạm pháp luật của tổ chức thì không cần xác
định lỗi đƣợc coi là hợp lý, vì rằng trong những trƣờng hợp đó tổ chức đƣơng
nhiên bị coi là có lỗi.
Bên cạnh đó, hành vi vi phạm đƣợc thấy trong tổ chức có thể tồn tại dƣới
một dạng khác. Đó là trƣờng hợp cá nhân ngƣời đƣợc tổ chức uỷ quyền đã nhân
danh tổ chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhƣng hành vi đó lại nằm
ngoài hoặc vƣợt quá phạm vi đƣợc uỷ quyền bởi tổ chức. Trong trƣờng hợp này,

tổ chức đã không xác định trƣớc đƣợc hành vi có thể xảy ra ở ngƣời đƣợc uỷ
quyền vào lúc tổ chức tiến hành uỷ quyền cho ngƣời đó. Khi đó, phải xác định
hai trƣờng hợp:
- Tổ chức có biết và có thể kiểm soát đƣợc hành vi của cá nhân ngƣời
đƣợc uỷ quyền.
- Tổ chức không biết và cũng không thể kiểm soát đƣợc hành vi của ngƣời
đƣợc uỷ quyền.
Trong truờng hợp thứ nhất, tổ chức vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm
cùng với cá nhân vi phạm, vì nếu không có danh nghĩa của tổ chức thì cá nhân
đó không thể thực hiện đƣợc hành vi vi phạm. Trong điều kiện đó, tổ chức có
thể chấm dứt sự uỷ quyền hoặc ngăn chặn ngƣời đã lợi dụng danh nghĩa của tổ
chức để thực hiện hành vi vi phạm. Khi đó, tổ chức vẫn có sự tự do ý chí và
đƣợc lựa chọn một trong hai cách xử sự đã nếu trên. Nói cách khác, tổ chức vẫn
bị xác định là chủ thể có lỗi trong trƣờng hợp này. Nếu xác định nhƣ vậy thì rất
có thể xảy ra truờng hợp bán hoặc cho thuê tƣ cách pháp nhân nhƣ đã từng xảy


×