Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP lý về QUẢN lý và sử DỤNG vốn của CÔNG TY NHÀ nƣớc ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.25 KB, 75 trang )

B Ộ TƢ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU HIỀN

NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ
VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÔNG TY NHÀ NƢỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

NGƢ ỜI HƢ ỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS TRẦN ĐÌNH HẢO

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬ T HỌC

HÀ NỘI - 2006


DANH MỤC CÁ C TỪ VIẾT TẮT CỦA LUẬN V ĂN
1. CNXH

: Chủ nghĩa xã hội.

2. CTNN


: Công ty nhà nước.

3. DN

: Doanh nghiệp.

4. DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước.

5. ĐDCSH

: Đại diện chủ sở hữu.

6. GĐ

: Giám đốc.

7. HĐQT

: Hội đồng quản trị.

8. QĐ

: Quyết định.

9. TT

: Thông tư.


10. TCTĐT & KD

: Tổng công ty đầu tư và kinh doanh.

11. UBND

: Uỷ ban nhân dân.

12. VĐL

: Vốn điều lệ.


MỤC LỤC
Trang
LỜI NOI DẦU

......................................................................................... 1
Chƣơng 1

NHỮNG VẤN DỀ DIỀU CHỈNH PH ÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VÀ
SỬ DỤNG VỐN CỦA CÔ NG TY NH À NƢỚC.
1.1.

Khái quát chung về Công ty nhà nước và vốn của Công ty nhà nước. 6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm Công ty nhà nước. ................................. 6
1.1.2. Khái niệm vốn của Công ty nhà nước. ........................................ 9
1.1.3. Đặc điểm vốn của Công ty nhà nước. ......................................... 11

1.2.


Sự điều chỉnh của pháp luật đối với quá trình quản lý và sử dụng vốn
của Công ty nhà nước. ........................................................................ 15
1.2.1. Sự cần thiết và những yêu cầu đối với sự điều chỉnh bằng pháp
luật quá trình quản lý và sử dụng vốn của Công ty nhà nước. ..... 15
1.2.2. Những nội dung điều chỉnh pháp luật đối với việc quản lý, sử dụng
vốn của Công ty nhà nước. ......................................................... 18
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PH ÁP LUẬT HIỆN H ÀNH VỀ QUẢN LÝ, SỬ
DỤNG VỐ N CỦA CÔ NG TY NH À NƢỚC.

2.1.
2.2.

Vấn đề quản lý vốn của Công ty nhà nước. ........................................ 22
Sử dụng vốn của Công ty nhà nước. ................................................... 28
2.2.1 Quyết định chiến lược sử dụng vốn; tăng, giảm vốn điều lệ ......... 29
2.2.2. Đầu tư vốn ra ngoài Công ty nhà nước........................................ 31
2.2.3. Huy động vốn. ............................................................................ 33
2.2.4. Bảo toàn và phát triển vốn. ......................................................... 36
2.2.5. Trích lập và sử dụng các quỹ; thực hiện kế hoạch tài chính, báo
cáo tài chính, chế độ kế toán, thống kê, kiểm toán. ..................... 38


Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG HOAN THIỆN CAC QUY DỊNH CỦA PHAP LUẬT
VỀ QUẢN LÝ VA SỬ DỤNG VỐN CỦA CONG TY NHA NƢỚC.
3.1.

Những yêu cầu khách quan đặt ra đối với việc hoàn thiện các quy định

của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn của Cô ng ty nhà nước. ............ 43

3.2.

Những định hướng chung trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quản lý, sử dụng vốn của Công ty nhà nước. ...................................... 45

3.3.

Những nội dung cơ bản và giải pháp cụ thể. ....................................... 47
3.3.1. Vấn đề sở hữu trong Công ty nhà nước. ...................................... 47
3.3.2. Vấn đề quản lý vốn tron g Công ty nhà nước. .............................. 51
3.3.3. Vấn đề huy động vốn trong Công ty nhà nước. ........................... 58
3.3.4. Vấn đề tỷ lệ vốn vay/ vốn điều lệ. ............................................... 61
3.3.5. Sự phân biệt về mặt pháp lý khái niệm vốn và tài sản trong Công ty
nhà nước. .................................................................................... 63

KẾT LUẬN. ........................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KH ẢO. ............................................. 69


1

Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Vốn của doanh nghiệp nói chung là cơ sở vật chất cho hoạt động của
doanh nghiệp (DN), phản ánh khả năng tài chính của DN. Để tiến hành hoạt
động kinh doanh, bất kỳ một DN kinh doanh nào cũng cần có vốn . Có thể nói,
mọi sự tồn tại và độ tin cậy của một DN trước các đối tác của nó chủ yếu phụ
thuộc vào năng lực vốn và tư cách pháp lý của DN - những yếu tố được các

đối tác của DN đó quan tâm đến nhiều nhất. Nhìn chung, vốn là yếu tố ảnh
hưởng khá quyết định đến hình thức và tính chất của DN.
Thông thường, vốn của DN được hình thành từ nguồn đóng góp của
các chủ sở hữu DN hay từ các nguồn khác mà DN huy động được. Nhưng vấn
đề quan trọng được đặt ra là quản lý và sử dụng vốn đó như thế nào để đem
lại hiệu quả, đảm bảo nhu cầu và mục tiêu phát triển của DN, đáp ứng yêu cầu
của các nhà đầu tư. Vấn đề này luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của
mọi DN kinh doanh, trong đó có Công ty nhà nước (CTNN). Khi Luật DNNN
năm 2003 (sau đây gọi tắt là Luật DNNN 2003) ra đời thay thế cho Luật
DNNN năm 1995 (sau đây gọi tắt là Luật DNNN 1995), mặc dù DNNN được
mở rộng với nhiều loại hình khác nhau (CTNN, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn), nhưng CTNN vẫn là loại hình DNNN thuần nhất, tiếp
tục đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Việc xem xét các khía
cạnh pháp lý về quản lý và sử dụng vốn của các CTNN có ý nghĩa quan trọng
đối với việc xác lập cơ chế tài chính thích hợp, tạo quá trình quản lý và sử
dụng hiệu quả vốn của CTNN trong các loại hình DNNN khác nhau.
Đáp ứng yêu cầu tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả DNNN được đề ra trong Nghị quyết lần thứ 3 - Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX, Luật DNNN 2003 đã được ban hành thay thế cho Luật
DNNN 1995, đã có một số thay đổi qua n trọng về DNNN nói chung, đặc biệt


2

là những thay đổi về vốn của CTNN: có sự phân biệt rõ ràng giữa vốn của
CTNN với vốn của Nhà nước đầu tư vào CTNN; việc phân chia lợi nhuận của
CTNN được tiến hành theo nguyên tắc mức vốn đầu tư: mức vốn đầu tư của
Nhà nước và mức vốn do CTNN huy động được; quy định nghĩa vụ của chủ
sở hữu Nhà nước trong việc tổ chức đầu tư đủ vốn điều lệ cho CTNN. Nhưng
quá trình thực hiện Luật DNNN 2003 trong thực tế cũng nảy sinh một số vấn đề

từ các quy định về vốn của CTNN. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của CTNN, làm cho CTNN chưa phát
huy hết vai trò và sứ mệnh của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam hi ện
hành về quản lý và sử dụng vốn của CTNN, phân tích thực trạng pháp luật và
những vấn đề pháp lý nảy sinh từ việc áp dụng pháp luật điều chỉnh vốn của
CTNN, từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp lý
có liên quan đến quá trình quản lý và sử dụng vốn của CTNN là điều rất quan
trọng và cần thiết. Với mong muốn đó, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài:
“Những khía cạnh pháp lý về quản lý và sử dụng vốn của Công ty nhà nước ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Khi Luật DNNN 2003 ra đời thay thế cho Luật DNNN 1995, CTNN
vẫn là một loại hình DNNN truyền thống, tồn tại bên cạnh những loại hình
DNNN m ới xuất hiện như: công ty cổ phần Nhà nước, công ty TNHH Nhà
nước một thành viên, công ty TNHH Nhà nước có từ 2 thành viên trở lên. Do
vậy, CTNN đã là đối tượng của nhiều Luận văn Thạc sỹ Luật học như: “ Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển tổng CTNN sang hoạt động theo mô
hình công ty mẹ- công ty con” của tác giả Lê Đình Vinh; “Hoàn thiện pháp
luật về tổng CTNN ở Việt Nam hiện nay ” của tác giả Nguyễn Thị Kim


3

Thoa… ; hay bài viết, bài nghiên cứu : “Sắp xếp, đổi mới Tổng CTNN ” của
GS-TSKH Vũ Huy Từ (Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2/2004)…
Vốn là mối quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh doa nh, nhất là các
DN đối vốn. Có rất nhiều ý kiến, quan điểm về vấn đề này đã được công bố,

phát biểu, như: “Cấu trúc vốn của công ty cổ phần - các giải pháp nhằm hoàn
thiện Luật doanh nghiệp 1999 dưới góc độ cấu trúc vốn ” của tác giả Hoàng
Thị Giang (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2005); “ Quyền tự chủ về vốn
và tài sản của DNNN ” của PTS Nguyễn Như Phát (Tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 3/1999) ; “Cấu trúc vốn của công ty” của PGS- TS Lê Hồng Hạnh
(Tạp chí Luật học số 3/1996); “Cơ chế kiểm soát thông qua vốn trong mô
hình công ty mẹ- công ty con tiếp cận từ thực tiễn Bộ Công nghiệp ” (Luận văn
Thạc sỹ Luật học) của tác giả Nguyễn M ạnh Hùng…
Nhưng khi gắn kết vấn đề vốn vào một chủ thể cụ thể là CTNN thì đây lại
là vấn đề còn hết sức mới mẻ, bởi cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách chi tiết và tập trung quá trình quản lý và sử dụng vốn của
CTNN nhằm mục đích đưa ra những khuyến nghị hoàn thiện pháp luật, trên cơ
sở đó tạo điều kiện cho CTNN hoạt động có hiệu quả, góp phần thực hiện mục
tiêu đổi mới, cải cách và nâng cao hiệu quả của kinh tế Nhà nước.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí M inh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm,
chiến lược của Đảng và Nhà nước ta về quản lý, phát triển kinh tế cũng như
chủ trương, chính sách về việc cải cách các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế Nhà nước và xây dưng pháp luật về vấn đề này.
Trong quá trình thực hiện đề tài, để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiê n
cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành


4

như: phương pháp phân tích luật học, phương pháp so sánh đối chiếu, phương
pháp chứng minh, tổng hợp, phương pháp trích dẫn.

4. M ục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:

M ục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích làm sáng tỏ các khía
cạnh pháp lý về quản lý và sử dụng vốn của CTNN theo pháp luật hiện hành
và các vấn đề pháp lý nảy sinh từ việc áp dụng pháp luật điều chỉnh vốn của
CTNN, từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằ m góp phần hoàn thiện các
quy định pháp lý liên quan đến vấn đề này.
Với mục đích đó, đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những lý luận cơ bản về vốn của CTNN;
- Nghiên cứu làm sáng tỏ thực trạng pháp luật về quá trình quản lý và
sử dụng vốn của CTNN;
- Phân tích và chỉ ra tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện và
nâng cao vai trò của CTNN trong điều kiện hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý và sử
dụng vốn của CTNN.

5. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Vốn của CTNN bao gồm nhiều khía cạnh, vấn đề: quá trình đầu tư hình
thành vốn, tăng giảm bổ sung vốn, phân chia lợi nhuận theo vốn, chuyển
nhượng vốn, thay đổi cơ cấu vốn khi chuyển đổi, sắp xếp lại CTNN, gắn chặt
với sự vận hành,quản lý và sử dụng vốn của CTNN.
Trong khuôn khổ Luận văn Cao học Luật, em sẽ đi vào phân tích thực
trạng của pháp luật hiện hành về quản lý và sử dụng vốn trong quá trình hoạt
động của CTNN, đồng thời đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.

6. Những đóng góp m ới của Luận văn:


5

Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối tổng hợp về thực trạng các

quy định của pháp luật hiện hành về quản lý và sử dụng vốn của CTNN. Vì
vậy Luận văn đặt ra mục tiêu là sẽ phải có những đóng góp mới sau:
- Thứ nhất, Luật DNNN 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã
quy định các vấn đề pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng vốn của CTNN
nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tập trung, tổng hợp
về vấn đề này. Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các
quy định của pháp luật hiện hành về quản lý và sử dụng vốn của CTNN sẽ tạo
ra một cái nhìn tổng quan và đầy đủ thực trạng pháp luật về vốn trong quá
trình hoạt động của CTNN;
- Thứ hai, qua quá trình nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện
hành về quản lý và sử dụng vốn của CTNN, Luận văn còn đưa ra một số đề
xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật điều chỉnh vấn đề
quản lý và sử dụng vốn của CTNN, góp phần tạo nền tảng pháp lý vững chắc
cho CTNN hoạt động có hiệu quả, phát huy vai trò và hiệu quả của nó trong
điều kiện Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của Luận văn:
Để nghiên cứu, làm sáng tỏ đề tài này, ngoài phần mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của L uận văn được chia thành 3
chương:
Chương I: Những vấn đề điều chỉnh pháp luật về quản lý và sử dụng
vốn của Công ty nhà nước.
Chương II: Thực trạng pháp luật hiện hành về quản lý và sử dụng vốn
của Công ty nhà nước.
Chương III: Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quản lý và sử dụng vốn của Công ty nhà nước.


6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ Đ IỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÔNG TY NHÀ NƢỚC.
1.1. Khái quát chung về Công ty nhà nƣớc và vốn của Công ty
nhà nƣớc:
1.1.1. Khái niệm Công ty nhà n ước và đặc điểm Công ty nhà nước:
Công ty nhà nước không phải là loại DNNN m ới xuất hiện trong Luật
DNNN 2003 và cũng không phải là loại hình DNNN duy nhất trong nền kinh
tế Việt Nam hiện nay.
Điều 1 Luật DNNN 2003 định nghĩa: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ
chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ (VĐL) hoặc có cổ phần,
vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức CTNN, công ty cổ phần, công
ty TNHH”. Định nghĩa này chứa đựng sự thay đổi cơ bản trong nhận thức đối
với DNNN. Không còn dựa trên tiê u chí sở hữu tuyệt đối, thành lập và quản
lý để xác định DNNN như Luật DNNN 1995, Luật DNNN 2003 - bằng cách
dựa trên tiêu chí quyền kiểm soát để xác định DN có thuộc hay không thuộc
Nhà nước- đã đa dạng hoá các hình thức pháp lý của DNNN. Theo quan niệm
mới này, một DNNN có thể là một CTNN, một công ty cổ phần, một công ty
TNHH Nhà nước một thành viên, công ty TNHH Nhà nước có 2 thành viên
trở lên, một DN có cổ phần vốn góp chi phối của Nhà nước. Như vậy, CTNN
chỉ là một trong những hình thức pháp lý của DN NN, và được hiểu là: “DN
do Nhà nước sở hữu toàn bộ VĐL, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt
động theo quy định của Luật DNNN. CTNN được tổ chức dưới hình thức
CTNN độc lập, Tổng CTNN” (khoản 1 Điều 3 Luật DNNN 2003).
Như vậy, về cơ bản, theo Luật DNN N 2003, CTNN chỉ là sự thay đổi
về tên gọi, còn bản chất pháp lý thì chúng tương ứng với DNNN độc lập và


7


Tổng công ty theo Luật DNNN 1995. “Sở dĩ có sự duy trì hình thức này là vì
trong bất kỳ quốc gia nào, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN như ở nước ta, Nhà nước vẫn cần duy trì những DNNN thuần
tuý, tức là những DNNN mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn”

[7,tr.91]

.

Là một hình thức pháp lý của DNNN, CTNN mang các đặc điểm chung
của một DNNN như: là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập , là tổ chức có
tư cách pháp nhân, là đối tượng quản lý trực tiếp của Nhà nước

[13,tr.56-57]

.

Ngoài ra, CTNN còn được xác định bởi các dấu hiệu pháp lý sau:
Thứ nhất, CT NN là một DN, đó “là tổ chức kinh tế có tên riêng , có
tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định , được đăng ký kinh doanh th eo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” (Điều 4
Luật DN). Như vậy, giống như các chủ thể kinh doanh và các loại hình DN
khác trên thương trường, CTNN là một tổ chức kinh tế lấy hoạt động sản xuất
kinh doanh làm chủ yếu và hoạt động này có tính chất liên tục trong suốt quá
trình tồn tại của CTNN theo đúng lĩnh vực, ngành nghề đã đăng ký. Cũng cần
lưu ý rằng, Luật DNNN 2003 không còn dựa trên tiêu chí mục tiêu hoạt động
để phân thành DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích mà
đã “bỏ loại hình DN công ích, tất cả các thành phần kinh tế đều có thể đấu
thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích; những sản phẩm, dịch vụ công ích
không thể đấu thầu thì Nhà nước mới đặt hàng, giao kế hoạch ”


[18,tr.48]

. Do

vậy, hiện nay, theo pháp luật hiện hành, các loại hình DNNN nói chung và
CTNN nói riêng tồn tại và hoạt động như một DN thực thụ, đúng với bản chất
của một tổ chức kinh tế trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, đối với CTNN tham gia cung cấp sản ph ẩm, dịch vụ công
ích, do hoạt động chủ yếu theo đơn đặt hàng hoặc nhiệm vụ, kế hoạch Nhà
nước giao, nên “CTNN sử dụng số tiền do Nhà nước thanh toán và/hoặc do
người được hưởng sản phẩm, dịch vụ công ích thanh toán để bù đắp chi phí.


8

Trường hợp, số tiền được thanh toán thấp hơn chi phí thực tế hợp lý thì được
ngân sách Nhà nước cấp bù chênh lệch theo số lượng hoặc khối lượng thực tế
và đánh giá dự toán” (Điều 3 Quy chế quản lý tài chính của CTNN và quản lý
vốn Nhà nước đầu tư vào DN khác ban hành kèm theo N ghị định
199/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ) (sau đây gọi tắt là Quy chế
tài chính). Hơn nữa, CTNN hoạt động công ích là để phục vụ lợi ích chung
của xã hội, để cung ứng sản phẩm, dịch vụ công, thiết yếu đối với đời sống,
kinh tế, xã hội của đất n ước, cộng đồng dân cư của một khu vực lãnh thổ hoặc
đảm bảo an ninh, quốc phòng mà việc sản xuất, cung cấp theo cơ chế thị
trường thì khó có khả năng bù đắp chi phí đối với DN sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ này. Do quá trình quản lý và sử dụng vốn có sự khác biệt như
vậy nên CTNN tham gia cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích không nằm
trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này.
Thứ hai, CTNN do Nhà nước sở hữu toàn bộ VĐL, thành lập và tổ

chức quản lý. Đây là đặc điểm đặc trưng điển hình riêng có của CT NN so với
các loại hình DNNN khác cũng như các loại công ty trong nền kinh tế. Nếu
như trong các công ty cổ phần Nhà nước, công ty TNHH Nhà nước có 2 thành
viên trở lên, DN có cổ phần vốn góp chi phối của Nhà nước, vốn của công ty
do nhiều chủ thể khác nhau tham gia đóng góp (trong đó có Nhà nước) và ở
đó tồn tại “các hình thức sở hữu khác nhau hoàn toàn bình đẳng với nhau trên
nguyên tắc của nền dân chủ cổ phần”

[8,tr.35]

thì trong CTNN, Nhà nước là chủ

thể duy nhất đầu tư toàn bộ vốn để thành lập nên CTNN , và do vậy, CTNN
hoàn toàn chỉ thuộc về một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước mà thôi. Đây là
tiền đề vật chất tạo cho Nhà nước quyền quyết định tuyệt đối đối với việc tổ
chức, quản lý và kiểm soát quá trình ra quyết định của công ty.
Thứ ba, CTNN được thành lập, tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động
theo quy định của Luật DNNN. Công ty cổ phần Nhà nước, công ty TNHH


9

Nhà nước m ột thành viên, công ty TNHH Nhà nước có 2 thành viên trở lên, DN có
cổ phần vốn góp chi phối của Nhà nước cũng là các hình thức pháp l ý khác nhau
của DNNN, nhưng lại được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
DN- tuỳ theo từng loại hình DN tương ứng. CTNN được Luật DNNN 2003 tập
trung điều chỉnh một cách khá hoàn chỉnh từ thành lập, tổ chức quản lý và hoạt
động, chuyển đổi sở hữu cho đến tổ chức lại, giải thể, trong khi các loại hình
DNNN nêu trên về cơ bản chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật DNNN về m ột vấn đề,
đó là mối quan hệ giữa chủ sở hữu Nhà nước với người đại diện vốn Nhà nước tại

các DN đó.
Về tổ chức quản lý, CTNN có thể hoạt động theo mô hình có hoặc không có
hội đồng quản trị (HĐQT). Các CTNN có HĐQT bao gồm Tổng công ty do N hà
nước quyết định đầu tư và thành lập, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn N hà
nước, CTNN độc lập có quy mô vốn lớn giữ quyền chi phối DN khác. Sự khác nhau
này trong mô hình tổ chức quản lý CTNN sẽ dẫn tới một số điểm không giống nhau
trong các quy định của pháp luật về quá trình quản lý và sử dụng vốn của CTNN
không có HĐQT và CTNN có HĐQT.
Về hình thức tồn tại, CTNN được tổ chức dưới hình thức CTNN độc lập và
Tổng CTNN. ở đây, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn Cao học Luật đã
được xác định, tác giả không đi sâu phân tích khái niệm và đặc điểm cũng như phân
biệt sự khác nhau giữa CTNN độc lập và Tổng CTNN, bởi đối tượng nghiên cứ u
chính của luận văn là CTNN - một khái niệm bao hàm cả 2 loại hình nêu trên. Do
vậy, việc phân tích khái niệm và đặc điểm của CTNN là bước khởi đầu làm sáng tỏ
về mặt lý luận đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn này.

1.1.2. Khái niệm vốn của Công ty nhà nước:
Vốn là vấn đề cơ bản, quan trọng đầu tiên trong chế độ tài chính
DN. M ột DN muốn tiến hành bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh
nào cũng cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện


10

tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước tiế p theo của quá trình
kinh doanh.
Vốn sản xuất kinh doanh của một DN bao gồm vốn đầu tư ban đầu
và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Vốn đầu tư ban đầu dưới hình thức vốn góp (hay còn được gọi là
vốn chủ sở hữu) là điều kiện tiền đề để thành lập D N, biểu hiện khả năng

tài chính của chủ đầu tư DN. Khác với các DN khác trong nền kinh tế
(phần vốn góp là toàn bộ vốn đầu tư của tất cả các thành viên, của chủ
đầu tư khi thành lập DN và được bổ sung thêm bằng lợi nhuận đạt được
qua sản xuất kinh doanh củ a DN hoặc bổ sung từ các loại quỹ của DN),
VĐL của CTNN bao gồm nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước cấp, sau đó
được bổ sung bằng lợi nhuận thu được từ quá trình sản xuất kinh doanh
được chia tương ứng với phần vốn đầu tư của Nhà nước vào CTNN và
các loại quỹ của công ty. Đối với những CTNN được thành lập và hoạt
động trong các ngành, nghề mà pháp luật quy định mức vốn pháp định
thì CTNN chỉ được đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành,
nghề đó khi đáp ứng đủ mức vốn mà pháp luật đã yêu cầu.
N hưng trong quá trình hoạt động, với xu hướng ngày càng mở

rộng quy mô và phạm vi sản xuất kinh doanh, DN có thể cần một lượng
vốn lớn để đáp ứng các nhu cầu đó. Nhiều cách thức huy động vốn đã
được pháp luật ghi nhận để thu hút được ngày càng nhiều vốn phục vụ
cho nhu cầu của các DN nói chung và CTNN nói riêng như huy động
vốn vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại, công ty tài
chính; vay của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước qua các hợp
đồng tín dụng, qua phát hành trái phiếu DN…


11

M ỗi loại vốn có vai trò, ý nghĩa khác nhau đối với hoạt động của DN.
Do vậy cần có cơ chế hợp lý để khai thác có hiệu quả các lợi ích mà từng
nguồn vốn có thể mang lại, góp phần cơ bản trong việc tạo ra kết quả cao nhất
với chi phí thấp nhất cho DN.
1.1.3. Đặc điểm vốn của Công ty nhà nước:
- Quyền sở hữu đối với vốn, tài sản trong Công ty nhà nước:

Về nguyên tắc, khi một pháp nhân ra đời và hoạt động trên thương
trường thì cần phải có một lượng vốn (tài sản) nhất định và tài sản đó phải
tách bạch, độc lập với khối tài sản của các tổ chức, cá nhân khác, từ đó giới
hạn (và đảm bảo) phạm vi trách nhiệm về tài sản của pháp nhân trong các
giao dịch mà pháp nhân đó tham gia, đồng thời tránh được sự can thiệp trực
tiếp của người đầu tư vốn đối với hoạt động kinh doanh của DN.
CTNN là một DN, là một pháp nhân trong nền kinh tế, do vậy cũng
phải tuân thủ nguyên tắc trên như là một quy luật chung đối với bất kỳ DN
nào tham gia kinh doanh trên thương trường. Dù là loại DNNN đặc biệt với
đặc điểm đặc trưng “do Nhà nước đầu tư toàn bộ VĐL”, nhưng vấn đề sở hữu
vốn, tài sản trong CTNN cũng cần được làm sáng tỏ để đảm bảo cho CTNN là
một chủ thể kinh doanh đúng nghĩa, có được sự tự chủ trong các hoạt động
của mình.
Pháp luật ghi nhận CTNN có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt đối với vốn và tài sản trong CTNN. Với các quy định đó,
CTNN sẽ có được sự chủ động trong việc sử dụng vốn, tài sản trong các hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, bước đầu tạo được niềm tin đối với các
bạn hàng về khả năng tài chính trong các giao dịch mà nó tham gia.
Hầu hết các hoạt động của CTNN đều liên quan đến việc sử dụng, lưu
chuyển vốn. Nếu không có được quyền sở hữu thực sự đối với vốn, tài sản
như các DN khác trong nền kinh tế, CTNN khó lòng có thể tồn tại và phát


12

triển được trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi quyền tự chủ để cạnh
tranh bình đẳng. Cho dù CTNN do Nhà nước đầu tư vốn thành lập nên nhưng
không vì thế mà Nhà nước vẫn giữ lại cho mình quyền sở hữu đối với số vốn,
tài sản đã đầu tư đó. Khi chuyển giao vốn, Nhà nước cần phải “sang tên, đổi
chủ”., chuyển quyền sở hữu vốn cho CTNN, nghĩa là chuyển từ chủ sở hữu

đối với vốn, tài sản đã đầu tư thành chủ sở hữu CTNN. Vấn đề chủ yếu lúc
này là, bằng pháp luật, Nhà nước tạo ra một cơ chế quản lý thích hợp để kiểm
soát đối với nguồn vốn đó, không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động
thường ngày để đảm bảo sự tự chủ cho CTNN, chỉ cần kiểm soát gián tiếp mà
vẫn đảm bảo hiệu quả từ nguồn vốn đã đầu tư.
Khi trở thành chủ sở hữu đối với vốn, tài sản trong công ty, CTNN sẽ
hoàn toàn tự chủ kinh doanh theo pháp luật, tự chịu lỗ lãi, nộp thuế theo quy
định, có trách nhiệm bảo toàn và tăng giá trị tài sản trước người bỏ vốn là Nhà
nước. Còn Nhà nước- dựa trên việc đầu tư vốn và trở thành chủ sở hữu
CTNN- có các quyền hợp pháp như: quyền bổ nhiệm miễ n nhiệm người quản
lý, quyền thu lợi từ số vốn đã đầu tư, quyền ra những quyết sách quan trọng;
khi CTNN phá sản, người bỏ vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi
phần vốn của mình đã đầu tư vào công ty.
- Về cơ cấu vốn của Công ty nhà nước:
Nhìn từ góc độ hình thành, vốn trong CTNN bao gồm vốn Nhà nước
đầu tư, vốn do công ty tự huy động và vốn tự tích luỹ được bổ sung vào ngân
sách. Nhưng nếu xét về phương thức vận hành, vốn kinh doanh của CTNN
được chia thành vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định gắn liền với hình thức biểu hiện vật chất của nó là tài sản
cố định. Với bản chất là lượng giá trị ứng trước vào tài sản cố định hiện có và
các dự án đầu tư dài hạn của DN, vốn cố định được xem là nền tảng cho hoạt


13

động sản xuất kinh doanh của DN, đảm b ảo khả năng duy trì, phát triển và
nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh cho DN.
Vốn lưu động trong DN là loại vốn gắn liền với các chu kỳ, quy trình
sản xuất kinh doanh của DN. Được biểu hiện dưới hình thức tài sản lưu động,
loại vốn này luôn phải được huy động kịp thời để đảm bảo cho quá trình sản

xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và thuận lợi, đáp ứng các nhu cầu
trong từng chu kỳ sản xuất.
Việc phân chia thành các loại vốn khác nhau xuất phát từ mục đích tạo
ra quy chế điều chỉnh cho phù hợp, qua đó tạo điều kiện để khai thác tối đa lợi
ích của từng loại vốn xuất phát từ những đặc điểm, chức năng vốn có của
chúng. Do vậy, khi điều chỉnh vấn đề này, nếu pháp luật chỉ liệt kê, kể tên các
loại vốn mà không dựa trên một tiêu chí cụ thể nào để xác định thì không
những sẽ sinh ra những thiếu sót mà còn tạo ra một cơ cấu vốn phức tạp, gây
ra sự lúng túng, khó xác định cho những người sử dụng vốn, có thể gây ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của DN. M ột khi được xây dựng
trên cơ sở đơn giản hoá sự phân chia các loại vốn bằng cách đưa ra các tiêu
chí khách quan và khoa học, căn cứ vào chức năng và ứng dụng của từng loại
vốn, quy chế điều chỉnh việc quản lý và sử dụng vốn của DN sẽ phát huy hiệu
quả cao hơn, đảm bảo tính phù hợp trong thực tế.
Việc gọi tên và xác định vốn và tài sản cũng phải được lưu ý để tránh
sự trùng lặp không đáng có trong quy chế điều chỉnh chúng. Dựa trên những
khái niệm chính xác và khoa học để đưa ra những quy định phù hợp sẽ góp
phần nâng cao hiệu lực của pháp luật vào đời sống.
M ột vấn đề được đặt ra không chỉ đối với bản thân CTNN mà đối với
cả các quy định của pháp luật là tỷ lệ giữa phần vốn vay, vốn huy động với
phần vốn góp (VĐL) của DN.


14

Phần vốn góp ban đầu có thể coi là điều kiện tiền đề để thành lập DN,
phản ánh mức độ tự chủ về tài chính của DN. Nhưng trong quá trình sản xuất
kinh doanh, cùng với việc mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, DN cần
một lượng vốn khá lớn để phục vụ cho nhu cầu của mình. Sử dụng vốn huy
động vào kinh doanh càng lớn, DN tranh thủ được các khoản nợ vay, làm tăng

mức lợi nhuận thu được và vừa có thể chia sẻ rủi ro trong kinh doanh.
Việc cân nhắc xác định quy mô và tỷ lệ các loại vốn này là một trong
những nội dung của quyền kinh doanh của bản thân DN chứ không phải là
quyền quản lý từ phía chủ sở hữu. Lợi ích và mục tiêu của chủ sở hữu Nhà
nước về cơ bản được quán triệt thông qua nguyên tắc bảo toàn và phát triển
vốn, qua quyết định thành lập công ty cũng như quyền kiểm soát ở tầm vĩ mô
đối với CTNN. Do vậy, trong quá trình hoạt động, tuỳ thuộc vào tình hình
thực tế của công ty về điều kiện tài chính và các nhu cầu nảy sinh trong từng
giai đoạn, từng chu kỳ kinh doanh, bản thân CTNN sẽ là chủ thể quyết định
quy mô và tỷ lệ các loại vốn sao cho đạt được hiệu quả cao nhất.
- Về quản lý việc sử dụng vốn trong Công ty nhà nước:
“Khi chuyển sang cơ chế thị trường, sự tác động đến hoạt động của
CTNN không phải do ý chí chủ quan của Nhà nước hay bản thân CTNN mà
do quy luật của nền kinh tế thị trường chi phối như quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh… Để tồn tại trong cơ chế thị trường, CTNN cần phải được
chủ động trong việc sử dụng vốn và tài sản thuộc quyền quản lý của mình để
kinh doanh”

[12,tr.77]

.

Là một chủ thể kinh doanh độc lập, CTNN được chủ động sử dụng các
nguồn vốn, quỹ trong quá trình hoạt động của mình, phục vụ kịp thời các nhu
cầu trong kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn, phát triển vốn và tự hoàn trả.
Với các quyền hạn đó, CTNN sẽ có được sự tự chủ và thuận lợi trong sản
xuất kinh doanh.


15


Thông thường, tổ chức điều hành CTNN được thực hiện thông qua các cơ
quan thuộc cơ cấu quản lý nội bộ của công ty, bao gồm: HĐQT, Ban giám đốc
(GĐ) trong CTNN không có HĐQT (hay còn gọi là Ban lãnh đạo công ty). Với các
quyền hạn và nghĩa vụ mà pháp luật và Điều lệ CTNN quy định, các cơ quan quản
lý này chịu trách nhiệm cuối cùng trước người đầu tư trong quản lý và sử dụng vốn.
Trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, nắm rõ nhất các điều kiện,
tình hình tài chính cũng như nhu cầu của CTNN, Ban lãnh đạo công ty là chủ thể
thích hợp để nhà đầu tư Nhà nước giao toàn quyền quản lý việc sử dụng vốn vào
quá trình kinh doanh. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với chế độ quản trị của một
DN kinh doanh thông thường.
Giao quyền quản lý việc sử dụng vốn trong CTNN cho Ban lãnh đạo CTNN
đi đôi với nhiệm vụ bảo toàn, phát triển vốn và tự hoàn trả vốn vay; gắn kết quyền
lợi được hưởng với trách nhiệm phải gánh chịu sẽ là cách quản lý việc sử dụng vốn
thích hợp nhất đối với CTNN. Với cách làm này, CTNN vẫn được đảm bảo quyền
tự chủ trong việc sử dụng vốn, góp phần nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của
CTNN.
Nhà nước chỉ tham gia vào hoạt động của CTNN với tư cách của nhà đầu tư
vốn, với các quyền năng cơ bản trong việc quyết định bổ nhiệm và miễn nhiệm các
chức danh lãnh đạo, giám sát và đánh giá hiệ u quả hoạt động của công ty và các
chức danh quản lý chủ chốt… chứ không can thiệp vào các hoạt động hàng ngày có
liên quan trực tiếp đến việc sử dụng vốn của CTNN.

1.2. Sự điều chỉnh bằng pháp luật về quản lý và sử dụng vốn của
Công ty nhà nƣớc.
1.2.1. Sự cần thiết và những yêu cầu đối với sự điều chỉnh bằng pháp
luật về quản lý và sử dụng vốn của Công ty nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các quan hệ tài chính DN nói chung,
các quan hệ quản lý và sử dụng vốn của CTNN nói riêng phải được điều



16

chỉnh bằng pháp luật. Đó là đòi hỏi tự thân của các quan hệ quản lý, sử dụng
vốn cũng như của Nhà nước, bởi vì:
Với tư cách là tổ chức quyền lực công, Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý các hoạt động của toàn xã hội trong các lĩnh vực khác nhau, trong đó
có các hoạt động đầu tư kinh doanh, hoạt động tài chính của các DN. Để xác
lập, củng cố và thực hiện sự quản lý của mình, Nhà nước đã sử dụng nhiều
công cụ khác nhau, trong đó pháp luật là công cụ hàng đầu và quan trọng
nhất. M ang tính quy phạm phổ biến, tín h chính xác chặt chẽ về mặt hình thức,
tính bắt buộc chung, tính được đảm bảo bằng Nhà nước… , pháp luật được sử
dụng để tạo ra khuôn mẫu hành vi, những cách xử sự cần thiết của các chủ
thể, đảm bảo cho các hoạt động kinh tế, tài chính của các chủ thể đi th eo “quỹ
đạo” chung do Nhà nước đặt ra. Và “thực tiễn cũng đã khẳng định rằng, sự
quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế chỉ có thể được thực hiện và phát
huy đầy đủ nhất, có hiệu quả nhất khi được xác lập dưới hình thức pháp luật
nhất định và được đảm bảo thực hiện bởi cơ chế pháp luật thích hợp. ở đây
pháp luật được Nhà nước sử dụng như công cụ hiệu nghiệm và không thể thay
thế được trong việc quản lý nền kinh tế”

[13,tr.6]

.

CTNN là DN kinh doanh, tồn tại và phát triển cùng với các chủ thể
kinh doanh khác trong nền kinh tế. Các hoạt động tài chính, hoạt động quản lý
sử dụng vốn của các DN này hoà nhập với chu trình kinh tế của nền kinh tế
thị trường. Với mục đích tối đa hoá lợi nhuận, khát vọng lợi nhuận một mặt sẽ
tạo ra động lực thúc đẩy các DN cạnh tranh, tăng trưởng kinh tế; mặt khác, để

đạt được lợi nhuận tối đa, các DN cũng có thể bất chấp những lợi ích chung,
lợi ích của người khác để đạt mục tiêu của mình. Để hạn chế những mặt tiêu
cực, phát huy những mặt tích cực đó, Nhà nước phải sử dụng pháp luật để
điều chỉnh các hoạt động của DN, trong đó có việc quản lý và sử dụng vốn.
Dùng pháp luật làm công cụ điều chỉnh các hoạt động tài chính DN, Nhà


17

nước sẽ tạo ra được môi trường kinh doanh bình đẳng, trong đó các chủ thể
kinh doanh, các DN đều được hoạt động tự do, tự chủ và cạnh tranh lành
mạnh trong khuôn khổ pháp luật.
Để thực hiện vai trò là “bộ phận nòng cốt của thành phần kinh tế công”
[7,tr.101]

, có vị trí trọng yếu của kinh tế Nhà nước, CTNN phải thực sự kinh

doanh có hiệu quả, “phải chi phối được sự phát triển trong các lĩnh vực kinh
tế có ý nghĩa đối với sự phát triển ổn định của đất nước”

[7,tr.102]

. Pháp luật- với

các quy định của mình sẽ tạo ra những tiền đề pháp lý vững chắc cho CTNN
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách thuận tiện và đạt hiệu
quả kinh tế cao.
“Pháp luật không tạo ra các quan hệ kinh tế mà trên cơ sở nhận thức
một cách đầy đủ thực tiễn đời sống kinh tế, thông qua việc xác lập trật tự
chung, pháp luật tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế phát triển phù hợp với

quy luật vốn có của nó và phù hợp với lợi ích tiến bộ của xã hội. Vì vậy, để
đóng vai trò thúc đẩy của nền kinh tế thị trường Việt Nam, pháp luật kinh tế
nước ta phải phản ánh đầy đủ đặc điểm và yêu cầu của nó”

[13,tr.9]

.

Là loại hình DN thuộc 100% sở hữu Nhà nước nhưng CTNN cũng là
một thực thể kinh doanh tồn tại cùng các chủ thể kinh doanh khác trong nền
kinh tế, do vậy, thông qua các quy định của pháp luật, Nhà nước phải tạo ra
cơ chế tài chính, cơ chế quản lý và sử dụng vốn thích hợp để CTNN hoạt
động và cạnh tranh cùng các loại hình DN khác. Chẳng hạn, giải quyết hợp lý
vấn đề sở hữu trong CTNN với một cơ chế đại diện chủ sở hữu (ĐDCSH)
thích hợp, pháp luật sẽ đóng vai trò rất lớn trong việc tạo ra sự tự chủ thực sự
để phát huy tính năng động, tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh cho CTNN
trong cơ chế thị trường.
Pháp luật là cơ sở pháp lý cho các CTNN hình thành, hoạt động ổn
định và hoàn thành mục tiêu mà nhà đầu tư Nhà nước đặt ra, nhưng không


18

phải vì thế mà Nhà nước- thông qua pháp luật- được phép can thiệp quá sâu,
quá chi tiết vào các hoạt động của DN. Pháp luật chỉ đóng vai trò là công cụ
tạo lập cơ chế quản lý vĩ mô, “trong đó chủ yếu tập trung vào việc tạo lập môi
trường và hành lang pháp lý thông thoáng, đúng hướng để uốn nắn nền kinh
tế thị trường đi đúng quỹ đạo, không chệch hướng, chứ không làm méo mó,
sai lệch cơ chế thị trường. Điều quan trọng trong quản lý là tạo được môi
trường cạnh tranh lành mạnh theo tinh thần làm cho mọi thành phần kinh tế,

mọi công dân đều được quyền bình đẳng, tự chủ sản xuất kinh doanh theo
pháp luật hiện hành”

[15,tr.25]

. M ảng pháp luật điều chỉnh quá trình quản lý và sử

dụng vốn của CTNN cũng cần đảm bảo những yêu cầu này, để vừa đảm bảo
định hướng trong quản lý vĩ mô của Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu
mà Nhà nước đặt ra khi đầu tư vốn vào kinh doanh trong nền kinh tế, đồng
thời tạo khung pháp luật cho CTNN - một chủ thể kinh doanh có thể tồn tại và
phát triển trong sân chơi chung của nền kinh tế quốc gia và hội nhập quốc tế.

1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về quản lý và sử dụng vốn của
Công ty nhà nước.
Phạm vi điều chỉnh của pháp luật đối với CTNN bao gồm cả quá trình
thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động cho đến giải thể, phá sản công ty, trong
đó có việc đặt ra những quy định điều chỉnh về quản lý và sử dụn g vốn của
CTNN nhằm đạt đến những mục tiêu trong phát triển kinh tế xã hội cũng như
các mục tiêu trong quản lý của Nhà nước.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, CTNN được thành
lập, tồn tại và hoạt động theo mô hình công ty, cùng cạnh tranh và phát triển
cùng với các chủ thể kinh doanh khác trên thương trường. Bộ phận pháp luật
quy định về quản lý và sử dụng vốn của CTNN - cũng như ở các loại hình
công ty, DN khác- nhìn chung đều đưa ra những nguyên tắc, những định
hướng chung về các hoạt độn g cơ bản của chủ thể đó như: dùng vốn để đầu tư


19


kinh doanh như thế nào? huy động vốn ra sao? Tạo lập các quỹ, phân phối lợi
nhuận, trả lương cho người lao động, hoàn thành nghĩa vụ thuế đối với Nhà
nước… , trên cơ sở đó, các DN sẽ lựa chọn cách thức, cách l àm cụ thể trong
quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy, nội dung điều chỉnh của
pháp luật về quản lý sử dụng vốn đối với các DN nói chung và CTNN nói
riêng trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ phải bao gồm:
Thứ nhất, các quy phạm chuẩn mực điều chỉnh các quan hệ quản lý, sử
dụng vốn của DN do pháp luật quy định, thể hiện ý chí của Nhà nước nhằm
đảm bảo trật tự công cộng và lợi ích công cộng cũng như nghĩa vụ tài chính
của DN đối với Nhà nước.
Thứ hai, các quy chế nội bộ cũng như Điều lệ của DN th ể hiện ý chí
của chủ sở hữu trong khuôn khổ pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ quản
lý, sử dụng vốn nội bộ, vì lợi ích của chính DN và các nhà đầu tư…
CTNN là loại hình DN do Nhà nước đầu tư toàn bộ VĐL. Đặc điểm
này dẫn tới sự mở rộng về phạm vi điều c hỉnh trong nội dung của pháp luật
về quản lý và sử dụng vốn của CTNN. Với các DN kinh doanh thông thường,
pháp luật thường điều chỉnh những quan hệ liên quan đến thực hiện quyền lực
công của Nhà nước, chẳng hạn như quan hệ giữa DN với Nhà nước phát sinh
trong quá trình DN nộp thuế vào ngân sách nhà nước, quan hệ phát sinh trong
quá trình DN lập và sử dụng một số quỹ bắt buộc đảm bảo cho DN hoạt động
bình thường, đảm bảo lợi ích chung của các tổ chức, cá nhân… Còn đối với
CTNN, do tồn tại mối quan hệ giữa ch ủ sở hữu Nhà nước với DN mà mảng
pháp luật điều chỉnh hoạt động của CTNN - ngoài những quy phạm pháp luật
điều chỉnh với tính chất của luật công như đã nêu trên - còn có các quy định về
thực hiện quyền của chủ sở hữu (xét về phương diện tài chính) trong CTNN .
Xét theo phương diện quyền của chủ sở hữu DN và quyền sở hữu, quản
lý, sử dụng vốn và tài sản trong CTNN thì nội dung điều chỉnh pháp luật về


20


quản lý và sử dụng vốn của CTNN bao hàm rất nhiều vấn đề, trong đó có các
quy định về tổ chức thực hiện các quyề n của chủ sở hữu Nhà nước trong
CTNN. Các quy định đó bao gồm: chủ sở hữu Nhà nước có quyền gì? ai là
người được giao thực hiện các quyền của chủ sở hữu Nhà nước? các quyền
của chủ sở hữu Nhà nước được thực hiện như thế nào? việc giám sát thực hiện
quyền của chủ sở hữu ra sao? Nội dung quyền chủ sở hữu cũng chi phối rất
nhiều các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn của bản thân
CTNN.
Như vậy, hoạt động quản lý và sử dụng vốn trong CTNN chịu sự điều
chỉnh của pháp luật ở nhiều phạm vi và nội dun g khác nhau: các quy định
mang tính chất mệnh lệnh được áp dụng đối với các quan hệ liên quan đến
thực hiện quyền lực công; các quy phạm mang tính chất định hướng, tuỳ nghi,
khuyến nghị hoặc thay thế để CTNN tuỳ từng trường hợp cụ thể mà lựa chọn
áp dụng sao cho thích hợp đối với các quan hệ thuộc quyền kinh doanh của
CTNN. Ngoài ra còn có các quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa DN với
Nhà nước trong đó Nhà nước tham gia với tư cách là nhà đầu tư, là chủ sở
hữu chứ không phải với tư cách là chủ thể của qu yền lực công.
Sự tham gia điều chỉnh của pháp luật đối với việc quản lý và sử dụng
vốn của CTNN, dù bao hàm ở nhiều nội dung khác nhau, nhưng nếu như các
quy định đó được xây dựng trên cơ sở thực tế của hoạt động quản lý, sử dụng
vốn, xuất phát từ các yêu cầu khách quan của thực tế điều chỉnh thì sẽ tạo ra
được môi trường pháp lý ổn định, hợp lý cho CTNN hoạt động và phát triển.
Đồng thời, với đặc tính luôn thay đổi, năng động của các quan hệ quản lý và
sử dụng vốn, pháp luật điều chỉnh về vấn đề này cũng p hải luôn được xem xét
để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đáp ứng nhu cầu mà các quan hệ quản lý và
sử dụng vốn của CTNN đặt ra.


21


Với xu thế công ty hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ, pháp luật điều
chỉnh hoạt động của các DNNN đang diễn ra thời kỳ “quá độ” từ hệ thống
pháp luật chuyên biệt (Luật DNNN và các văn bản hướng dẫn thi hành) sang
hoạt động theo mảng pháp luật chung về công ty, tạo mặt bằng pháp lý bình
đẳng cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế được cạnh tranh lành mạnh.
Với tính cách là một chủ thể kinh doanh, CTNN cần được tạo mọi điều kiện
để hoạt động đúng nghĩa với một chủ thể thực sự của thị trường. M uốn vậy,
mảng pháp luật điều chỉnh quá trình quản lý và sử dụng vốn của CTNN phải
có những quy định phù hợp, thực sự là nền tảng cơ bản cho CTNN ra đời,
hoạt động và phát triển mạnh mẽ. Trong quá trình “quá độ” và “chuyển đổi”,
chúng ta cũng cần nhận biết những vấn đề còn tồn tại, yếu kém để đề ra cách
thức đổi mới; có tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài, tiếp thu có chọn lọc
những điểm tích cực của pháp luật các nước về vấn đề này để nghiên cứu ứng
dụng vào điều kiện Việt Nam, từ đó lựa chọn được cách làm thích hợp nhất
cho quá trình quản lý và sử dụng vốn trong CTNN, tạo điều kiện cho CTNN
hoàn thành vai trò, vị trí chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có sự quản lý Nhà nước ở Việt Nam.


×