Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

NHỮNG vấn đề PHÁP lý về tổ CHỨC lại DOANH NGHIỆP NHÀ nước (QUA THỰC TIỄN tại TỈNH BÌNH ĐỊNH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.98 KB, 74 trang )

BỘ TƯ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI THỊ LONG

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
VỀ TỔ CHỨC LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
(QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH)

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN : PGS.TS TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI NĂM 2006


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VAN
AFTA

: Thị trường thương mại tự do Đông Nam á (Asean Free Trade Area)

APEC


: Tổ chức hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương.
(Asia - Paccific Economic Cooperation)
: Hiệp hội các nước Đông Nam á (Association of South East Nations)
: Công nghiệp hoá.
: Doanh nghiệp.
: Doanh nghiệp Nhà nước
: Hiện đại hoá
: Số thứ tự
: Trách nhiệm hữu hạn
: Uỷ ban nhân dân
: Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)

ASEAN
CNH
DN
DNNN
HĐH
STT
TNHH
UBND
WTO


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC LẠI DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC ................................................................................. 4
1.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của DNNN ........................ 4

1.1.1. Những ưu điểm và thành công của việc tổ chức và hoạt động

của doanh nghiệp Nhà nước ...................................................................... 4
1.1.2. Những khiếm khuyết và nhược điểm của việc tổ chức và hoạt
động của DNNN..................................................................................... 6

1.2. Những hình thức tổ chức lại DNNN....................................... 10
1.2.1 Khái niệm tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước.......................... 10
1.2.2 Những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước ............. 12

1.3. Tính cấp thiết và mục đích của việc tổ chức lại DNNN .... 21
1.4. Khái quát về hệ thống văn bản pháp luật về tổ chức lại
DNNN ..................................................................................................... 24
1.4.1. Tổng quan về hệ thống văn bản pháp luật về tổ chức lại
DNNN trước đây ........................................................................................ 24
1.4.2. Những quy định về tổ chức lại DNNN hiện nay ....................... 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH
BÌNH ĐỊNH)............................................................................................... 34
2.1. Khái quát về các DNNN tại tỉnh bình định .......................... 34
2.2. Sáp nhập, hợp nhất, chia tách công ty nhà nước ............... 36

2.2.1. Thực trạng pháp luật về sáp nhập, hợp nhất, chia, tách công ty
nhà nước ............................................................................................... 36
2.2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách công ty nhà nước ở tỉnh Bình Định .............................. 38
2.2.3. Số lượng DNNN ở tỉnh Bình Định đã áp dụng các hình
thức sáp nhập, hợp nhất, tách công ty nhà nước ......................... 39
2.2.4. Những kết quả đạt được cũng như những nhược điểm, bất
cập cần giải quyết trong quá trình sáp nhập, hợp nhất, tách
công ty nhà nước tại tỉnh Bình Định .............................................. 40
2.3. Chuyển công ty nhà nước thành công ty TNHH nhà nước

1 thành viên hoặc công ty TNHH nhà nước có 2 thành viên trở
lên ............................................................................................................ 41
2.3.1. Thực trạng pháp luật về chuyển đổi công ty nhà nuớc
thành công ty TNHH 1 thành viên và công ty TNHH có 2 thành
viên trở lên .......................................................................................... 41
2.3.2. Thực trạng thi hành pháp luật về hình thức chuyển công
ty nhà nước thành công ty TNHH nhà nước 1 thành viên hoặc


công ty TNHH nhà nước có 2 thành viên trở lên ở tỉnh Bình
Định ..................................................................................................... 43
2.3.3.Số lượng DNNN trên địa bàn tỉnh đã áp dụng hình thức
chuyển công ty nhà nước thành công ty TNHH nhà nước 1 thành
viên hoặc 2 thành viên trở lên ......................................................... 44
2.3.4. Những kết quả đạt được của việc chuyển công ty công ty
nhà nước thành công ty TNHH nhà nước 1 thành viên và những
nhược điểm cần giải quyết ............................................................... 46
2.4. Chuyển Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và
thành lập thành Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và
thành lập ............................................................................................... 47
2.4.1. Những quy định pháp luật về hình thức chuyển tổng công
ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập thành tổng công
ty do các công ty tự đầu tư và thành lập........................................ 47
2.4.2. Thực trạng áp dụng hình thức chuyển tổng công ty do Nhà
nước quyết định đầu tư và thành lập thành tổng công ty do các
công ty tự dầu tư và thành lập tại tỉnh Bình Định ....................... 51
2.5. Nhận xét đánh giá chung về thực trạng thi hành pháp luật
về tổ chức lại DNNN ........................................................................... 53
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VA GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC LẠI DNNN ................................................. 57


3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức lại DNNN
.................................................................................................................. 57

3.1.1. Hoàn thiện những quy định pháp luật về sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách công ty nhà nước ................................................... 57
3.1.2. Hoàn thiện những quy định pháp luật về hình thức chuyển
công ty nhà nước thành công ty TNHH nhà nước 1 thành viên
hoặc công ty TNHH nhà nước có 2 thành viên trở lên ............... 59
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về chuyển tổng công ty do Nhà
nước quyết định đầu tư và thành lập thành tổng công ty do các
công ty tự đầu tư và thành lập ......................................................... 62
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về khoán kinh doanh và cho thuê
công ty nhà nước ............................................................................... 63
3.2. Những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ
chức lại DNNN ..................................................................................... 64
3.3. Những đề xuất cụ thể nhằm đẩy mạnh việc thi hành pháp
luật về tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Bình Định . 65
KẾT LUẬN ................................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 69


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc giải quyết đề tài
Trong đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta nhấn mạnh các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước

định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN cần phải giữ vai trò then
chốt, đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương
về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật . .
Trong nhiều năm qua, tuy chiếm tỷ lệ lớn về vốn sản suất, lực lượng
lao động, tổng thu ngân sách, nhưng DNNN vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém
trong cơ chế quản lý, trong khả năng cạnh tranh, trong hiệu quả kinh tế. Do
vậy, Nhà nước ta đã dề ra và thực hiện chủ trương tổ chức lại DNNN. Việc
làm đó đã đem lại những thành công nhất định. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn
những vướng mắc cần được tháo gỡ.
Trong tổng số DNNN, thì số DNNN ở địa phương chiếm một tỷ lệ khá
lớn, nhưng tiến độ thực hiện chương trình tổ chức lại còn chậm, vì vậy phải
đẩy nhanh quá trình để các DNNN đóng trên địa bàn các tỉnh thực sự trở
thành “đầu tàu” trong công cuộc phát triển kinh tế ở địa phương. Để tiếp tục
đẩy mạnh tiến độ tổ chức lại, khung pháp lý cho việc tổ chức lại DNNN cần
phải được hoàn thiện phù hợp với quy mô, tính chất của từng loại hình doanh
nghiệp. Bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, pháp luật về tổ chức
lại DNNN còn bộc lộ những hạn chế, bất cập cần sớm được khắc phục và
hoàn thiện.
Việc nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về tổ chức lại
DNNN là vấn đề thời sự thu hút sự quan tâm của nhiều người. Mặc khác, bản
thân được sinh ra và lớn lên tại tỉnh Bình Định, nên tôi muốn đề xuất một số
kiến nghị về chính sách của tỉnh Bình Định đối với việc tổ chức lại DNNN,
nhằm góp phần xây dựng phát triển kinh tế của tỉnh. Do vậy, tôi đã chọn vấn
đề “Những vấn đề pháp lý về tổ chức lại DNNN (qua thực tiễn tại tỉnh Bình
Định)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây đã có một số nhà khoa học nghiên cứu vấn đề tổ chức lại
DNNN ở nhiều góc độ khác nhau. Thí dụ, nghiên cứu tổng thể các hình thức
tổ chức lại DNNN. Cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu vấn đề
này dưới góc độ xem xét thực trạng thi hành pháp luật về tổ chức lại DNNN ở

một địa phương cụ thể. Điểm mới của đề tài này là đánh giá một cách tổng thể


2

hệ thống pháp luật hiện hành về tổ chức lại DNNN, tìm hiểu thực trạng thi
hành pháp luật về vấn đề này ở tỉnh Bình Định, từ đó đưa ra những phương
hưóng và giải pháp thích hợp cho việc thực hiện có hiệu quả quá trình này
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài này, ở khía cạnh tổng thể, xem xét pháp luật hiện hành về tổ
chức lại DNNN. Những quy định của pháp luật có những ưu điểm nào cần
phát huy và những nhược điểm nào cần khắc phục. Đề tài phân tích, đánh giá
quá trình tổ chức lại DNNN và chú trọng nghiên cứu những khía cạnh pháp lý
liên quan đến quá trình tổ chức lại DNNN.
Ngoài ra, để làm rõ vấn đề trên, đề tài cũng đề cập cụ thể thực tiễn áp
dụng pháp luật ở tỉnh Bình Định nhằm đưa ra một số kiến nghị, giải pháp cụ
thể cho quá trình tổ chức lại DNNN ở tỉnh Bình Định cũng như cho các địa
phương khác
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng
quan điểm duy vật và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lê nin làm
phương pháp luận để làm rõ các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đối chiếu, so sánh, phương
pháp lịch sử, thống kê.. .
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở chủ trương lớn của Nhà nước về tổ chức lại DNNN trong
thời gian qua, mục đích của luận văn là tìm hiểu, đánh giá thực trạng pháp
luật hiện hành điều chỉnh quá trình tổ chức lại DNNN nói chung và DNNN ở
tỉnh Bình Định nói riêng. Tác giả luận văn cũng nêu ra những thành công, ưu

điểm cũng như những khiếm khuyết và nhược điểm của pháp luật về tổ chức
lại DNNN và đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật,
góp phần làm cho quá trình tổ chức lại DNNN đem lại hiệu quả cao hơn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trước hết, đây là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống dưới góc
độ pháp lý về tổ chức lại DNNN và liên hệ cụ thể việc thi hành pháp luật về
tổ chức lại DNNN ở tỉnh Bình Định.
Từ sự phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về tổ chức lại DNNN,
luận văn đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp
luật, góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới, tổ chức, sắp xếp và nâng cao hiệu
quả hoạt động của DNNN trong thời gian tới.


3

Ngoài ra, luận văn còn tổng kết, đánh giá việc thực hiện những quy
định này tại tỉnh Bình Định và đề xuất những kiến nghị cụ thể góp phần thúc
đẩy công cuộc xây dựng kinh tế của tỉnh.
7. Cơ cấu của luận văn:
Luận văn có Lời nói đầu, 3 chương, phần Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo. Ba chương của luận văn là:
Chương 1: Những vấn đề pháp lý về tổ chức lại DNNN.
Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật về tổ chức lại DNNN(qua
thực tiễn tại tỉnh Bình Định).
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức
lại DNNN


4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC LẠI DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VA HOẠT DỘNG CỦA DNNN
1.1.1. Những ưu điểm và thành công của việc tổ chức và hoạt động
của doanh nghiệp Nhà nước
Hệ thống DNNN ở Việt Nam được hình thành cùng với sự ra đời của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà bằng con đường quốc hữu hoá các
doanh nghiệp tư nhân và thành lập mới. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1945 1954, số lượng DNNN vẫn còn hạn chế. Sự tăng nhanh về số lượng DNNN
diễn ra từ sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất. Số
lượng DNNN tăng vọt bởi ngoài những DNNN đã có ở miền Bắc thì hàng
loạt các DNNN được hình thành ở Miền Nam do sự tiếp quản từ chính quyền
cũ và từ việc quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân. Kết quả thống kê cho
thấy: đến năm 1993, số DNNN là hơn 12.000 [8, tr.100]. Tuy số lượng
DNNN nhiều, nhưng trong hoạt động đã nảy sinh nhiều bất cập, nên hiệu quả
kinh tế chưa cao. Vì vậy, hơn 10 năm qua, Nhà nước ta đã thực hiện chính
sách sắp xếp, tổ chức lại để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Đến nay
số lượng DNNN đã giảm đáng kể, còn khoảng 2.980 doanh nghiệp 100% vốn
Nhà nước (công ty nhà nước)[ 9, tr.52]
Với tiềm lực vật chất to lớn dựa trên nền tảng sở hữu toàn dân mà Nhà
nước là đại diện chủ sở hữu, DNNN đã có đầy đủ tiền đề để phát triển. Những
năm qua cùng với các bộ phận khác của kinh tế nhà nước, DNNN đã thực
hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và thu được những thành tựu
quan trọng.
Có thể nhận định rằng, trong những bước thăng trầm của nền kinh tế
đất nước, các DNNN bước đầu đã thực hiện được chức năng của mình, giữ
vững vị trí chủ đạo trong các thành phần kinh tế và đảm bảo sự vận hành của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, các DNNN cũng góp phần đáng
kể vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, tạo một khối lượng không
nhỏ việc làm và góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội khác.

Thực tiễn ở Việt Nam, trong quá trình tổ chức và hoạt động, DNNN đã
có những đóng góp quan trọng sau đây :
Thứ nhất, cùng với các bộ phận khác của kinh tế Nhà nước, các DNNN
đã hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Các DNNN đã tạo điều kiện thuận lợi để khai thông và tận dụng mọi
nguồn lực của tất cả các thành phần kinh tế khác nhau, đóng góp vào sự tăng


5

trưởng chung của nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định
hướng, mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn.
DNNN đã và đang nắm giữ các khâu then chốt trong nền kinh tế. Trên
thực tế, các DNNN đã chiếm lĩnh và chi phối một số ngành, lĩnh vực quan trọng
như các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất
quan trọng (như luyện kim, năng lượng, cơ khí, chế tạo máy, hoá chất cơ bản,
phân bón, khai khoáng có trữ lượng lớn, quý hiếm; sản xuất một số vật liệu xây
dựng và phụ kiện quan trọng, linh kiện điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học . . . ). Các DNNN chiếm hầu hết các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng có thời gian thu hồi vốn lâu, các lĩnh vực ít hiệu quả kinh tế, cung ứng hàng
hoá, dịch vụ công cộng thiết yếu cho xã hội như đường sắt, vận tải biển, hàng
không, sân bay, cảng biển, mạng lưới điện quốc gia, bưu chính viễn thông, giao
thông-công chính, hệ thống thuỷ lợi lớn . . .Các DNNN nắm giữ phần lớn hệ
thống tài chính ngân hàng, thông tin-liên lạc . . .Vì vậy, nếu khu vực DNNN suy
yếu, không giữ được vai trò chủ đạo, định hướng, hỗ trợ các thành phần kinh tế
khác thì các thành phần khác không thể phát huy tác dụng của nó và việc xây
dựng nền kinh tế theo định hướng XHCN sẽ gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn.
Thứ hai, DNNN là lực lượng vật chất và là công cụ sắc bén để Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong những năm qua,
nhất là thời kỳ sau đổi mới.

Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế, tài chính, thuế để đặt ra các
chỉ tiêu kinh tế - xã hội . . . DNNN là những chủ thể đi đầu trong việc thực hiện
những chính sách đó. Khu vực kinh tế nhà nước luôn nắm giữ tỷ lệ lớn vốn đầu
tư trong tổng đầu tư xã hội, sự biến động của khu vực kinh tế nhà nước sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân nói chung và đến từng thành phần kinh
tế nói riêng.
Thứ ba, các DNNN tham gia trực tiếp vào việc khắc phục những mặt trái
điều chỉnh các khuyết tật của cơ chế thị trường, là lực lượng đi đầu trong việc
giải quyết các vấn đề xã hội.
Trong nhiều lĩnh vực hoạt động cần thiết cho sự vận hành, phát triển kinh
tế -xã hội nhưng có tỷ lệ sinh lợi thấp, lại đầu tư vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn
lâu như cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cung ứng các dịch vụ, hàng hoá thiết yếu cho
cộng đồng, các công trình phúc lợi, bảo vệ môi trường, những lĩnh vực phát triển
mới, rủi ro cao . . . phần lớn đều do các DNNN đảm nhận và thực hiện, các
doanh nghiệp dân doanh gần như không muốn đầu tư vào.
Đất nước ta phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại,
mới bước vào xây dựng đất nước nhưng phải giải quyết nhiều vấn đề xã hội,
nhất là vấn đề đền ơn, đáp nghĩa, chính sách cho người có công với đất nước.
Đồng thời, trong nền kinh tế thị trường, các vấn đề xã hội khó có thể được giải
quyết bởi các đơn vị ngoài khu vực Nhà nước. Thực tế nhiều năm qua DNNN đã


6

đóng góp thường xuyên một tỷ lệ không nhỏ vào ngân sách Nhà nước (hơn 40%
ngân sách và chiếm tỷ trọng tới 38% GDP của toàn bộ nền kinh tế [10, tr.18],
góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, phát triển kinh tế các vùng
núi, vùng sâu, vùng xa. ở những vùng này, hệ số đầu tư cao nhưng hiệu quả đầu
tư thấp, rủi ro cao nhưng lại có ý nghĩa lớn đối với chiến lược phát triển kinh tế,
an ninh, quốc phòng của đất nước

Thứ tư, DNNN đã trở thành lực lượng xung kích thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo nền tảng phát triển vững chắc cho xã hội
mới
Mặc dù Nhà nước ta đã xác định CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân,
của các thành phần kinh tế, song với sự đầu tư của Nhà nước, sự sắp xếp và đổi
mới hoạt động DNNN, sự nhanh chóng thích ứng của DNNN trong cơ chế thị
trường từ sau đổi mới, các DNNN đã có đủ lực để gánh vác trách nhiệm nặng nề
do quá trình CNH, HĐH đặt ra. DNNN là “ đầu tàu “ trong các ngành kinh tế
mũi nhọn, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, ứng dụng công nghệ cao . . . để tạo ra sự tăng
trưởng bền vững cho nền kinh tế, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò chủ đạo của
mình.
Bên cạnh chức năng kinh doanh, DNNN còn là lực lượng nòng cốt tạo cơ
sở vững chắc cho xã hội, là lực lượng kinh tế chủ yếu để Nhà nước dẫn dắt, mở
đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Các DNNN đã có những
đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước, đảm bảo sự gia tăng cho nguồn lực kinh
tế của Nhà nước
DNNN giải quyết việc làm cho hơn 3 triệu lao động, chiếm khoảng 10%
tổng số việc làm và tích cực thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước.
Tóm lại, các DNNN trong thời gian qua đã đạt được những thành tích
đáng kể, không những khẳng định được vị trí, vai trò chủ đạo định hướng XHCN
trong công cuộc cải cách nền kinh tế đất nước theo hình thức đa thành phần kinh
tế, đa loại hình sở hữu, mà còn giữ vai trò trọng tâm trong sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, so với yêu cầu,
nhiệm vụ và trọng trách mà Nhà nước giao cho thì hiện tại các DNNN vẫn còn
nhiều tồn tại, yếu kém cần được tháo gỡ, khắc phục.
1.1.2. Những khiếm khuyết và nhược điểm của việc tổ chức và hoạt
động của DNNN
Bên cạnh những thành quả đã đạt được trong thời gian qua, thực trạng
tổ chức và hoạt động của DNNN vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập so với yêu cầu
phát triển các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập mạnh mẽ với nền

kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều nàybiểu hiện ở các mặt
sau đây:


7

Thứ nhất, qua hơn 10 năm tiến hành quá trình sắp xếp, đổi mới nhưng
số lượng DNNN vẫn còn quá lớn, trong khi vốn của doanh nghiệp lại quá nhỏ
Đến cuối năm 2002, vẫn còn 4.298 DNNN (năm 2000 có 5.655 doanh
nghiệp). Năm 2004 là năm sắp xếp lại DNNN đạt mức cao nhất, thực hiện
được gần 1.000 doanh nghiệp. Đến hết tháng 6/ 2005 cả nước còn gần 2.980
DNNN. Bình quân mỗi doanh nghiệp có khoảng 45 tỷ đồng vốn, trong đó vốn
lưu động chưa đầy 10 tỷ đồng. Nhưng phần lớn vốn lại tập trung vào một số ít
các tổng công ty lớn trong một số lĩnh vực như dầu khí, xi măng, xăng dầu,
hàng không, hàng hải, đường sắt, điện lực. Còn tới 47% DNNN có vốn chưa
đầy 5 tỷ trên một doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp chỉ còn vốn trên sổ sách,
hoặc trong tài sản không dùng đến, nợ khó đòi, vốn thực tế dùng cho sản xuất,
kinh doanh chỉ còn khoảng 50% con số công bố trên sổ sách [10, tr.19]
Thứ hai, nhiều DNNN đang trong tình trạng tài chính thiếu lành mạnh,
hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, năng lực cạnh tranh kém, độ tin cậy của
các đối tác, của khách hàng thấp.
Năm 2003, trong 77% số DNNN làm ăn có lãi thì chưa đầy 40% số
DNNN đạt mức lãi cao hơn hoặc bằng lãi suất vay ngân hàng thương mại.
Nhiều doanh nghiệp lãi và hoà vốn là nhờ có chính sách hỗ trợ tài chính của
Chính phủ như : xoá nợ, cho vay ưu đãi, cho hoàn lại thuế, xoá nợ đọng, trợ
cấp hỗ trợ xuất khẩu. . .những doanh nghiệp làm ăn đạt lãi cao phần lớn hoạt
động trong lĩnh vực độc quyền hoặc gần như độc quyền.
Thứ ba, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm do các DNNN làm ra
trên thị trường quốc tế và trong nước còn thấp.
Một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt, thép, phân bón, xi măng,

kính xây dựng . . . có mức giá cao hơn 20- 40% so với giá các mặt hàng cùng
loại nhập khẩu, riêng mặt hàng đường thô giá cao hơn đến 70- 80%. Tốc độ
phát triển của DNNN là 11%/năm; của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là
14%/năm; của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 20%/năm. (tính bình
quân trong 10 năm 1991-2000) [13,tr.138-139]
Khi xét khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, người ta thường dựa
vào 3 nội dung cơ bản : thứ nhất, nắm được thông tin thị trường; thứ hai, tổ
chức sản xuất tốt để tăng năng suất, hạ giá thành; thứ 3, khả năng tiếp thị, tiêu
thụ tốt. Xét theo các nội dung trên, DNNN trong những năm qua cũng như
trong thời gian tới, hầu hết chưa đủ sức sạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường trong nước và quốc tế. Diễn đàn kinh tế thế giới xếp năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam như sau : năm 2002 đứng thứ 62/75 nước;
năm 2003 đứng thứ 60/102 nước; năm 2004 đứng thứ 72/104 nước [9, tr.155].


8

Thứ tư, các DNNN còn phải dựa khá lớn vào sự bao cấp của Nhà nước
Trong 10 năm (1991-2000) ngân sách Nhà nước đã đầu tư thêm cho
DNNN là 41.535 tỷ đồng. Ngoài ra, trong 4 năm 1997-2000, Nhà nước còn
miễn giảm thuế 1.351 tỷ đồng, xoá nợ 1088 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ
đồng, giãn nợ 540 tỷ, giảm trích khấu hao 240 tỷ đồng cho các DNNN. Cũng
trong 10 năm, Nhà nước đã cho các doanh nghiệp Nhà nước vay tín dụng ưu
đãi 70.000 tỷ đồng [ 13, tr. 142]. Sự trợ giúp trên của Nhà nước phần lớn là
cần thiết, nhưng không ít trường hợp bao cấp tràn lan, không xét tới hậu quả
chung của toàn bộ nền kinh tế, nên từ đó tạo ra sự trì trệ,ỷ lại trong đổi mới,
cơ cấu lại DNNN. Hiệu quả kinh doanh của nhiều DNNN chưa tương xứng
với sự đầu tư và trợ giúp của Nhà nước, không ít DNNN vi phạm pháp luật,
gian lận thương mại, lãng phí, tham nhũng, trốn thuế, gian lận để nhận hoàn
thuế giá trị gia tăng, lập các giấy tờ khống rút tiền từ ngân sách nhà nước . . .

làm ảnh hưởng đến uy tín của DNNN. Hiệu quả kinh tế thấp và sức cạnh
tranh yếu của DNNN vẫn còn tiếp tục kéo dài cho tới hiện nay.
Thứ năm, tình trạng thiếu việc làm, số lao động dôi dư trong các
DNNN vẫn còn lớn.
Lao động thiếu việc làm và dôi dư đang là một trở ngại lớn, ảnh hưởng
đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Mặc dù Nhà nước đã ban hành
một số chính sách nhằm giảm số lượng lao động, nhưng hiện nay ở các
DNNN, số người lao động vẫn còn ở mức cao 1,7 triệu người [ 13, tr.143].
Không ít DNNN tuỳ tiện tăng biên chế gián tiếp, lao động trực tiếp quá mức
cần thiết làm năng suất lao động giảm, chi phí sản xuất tăng.
Thứ sáu, việc tổ chức, quản lý DNNN cồng kềnh, kém hiệu quả.
Bộ máy tổ chức và quản lý DNNN quá cồng kềnh, trình độ quản lý của
các cán bộ trong DNNN phần lớn còn yếu kém, chưa đạt yêu cầu mà cơ chế
thị trường đòi hỏi, chưa năng động, nhanh nhạy, thích ứng với môi trường và
điều kiện mới. Nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại và thường
xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý, điều hành sản xuất kinh
doanh nên không đáp ứng nhu cầu chuyên môn; một bộ phận không nhỏ cán
bộ quản lý doanh nghiệp sa sút về phẩm chất đạo đức, trong khi việc bố trí lại,
thay đổi cán bộ này rất khó khăn, chậm chạp, chưa có cơ chế phù hợp cho
việc tuyển chọn người có năng lực vào quản lý, điều hành DNNN.
Thứ bảy, trình độ kỹ thuật, công nghệ của DNNN lạc hậu và thường
thua thiệt trong hội nhập
Do hậu quả của việc thành lập DNNN một cách tràn lan và thiếu thẩm
định chặt chẽ trước đây, nên việc đầu tư vốn, tài sản cho DNNN bị dàn trải.
Hầu hết các DNNN đều bị “đói vốn” nên không đủ điều kiện để đầu tư công


9

nghệ, thiết bị dẫn đến tình trạng là trình độ thiết bị, công nghệ của DNNN ở

nước ta vẫn còn trong tình trạng rất lạc hậu so với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Theo kết quả khảo sát của Bộ khoa học và Công nghệ, tại nhiều
DNNN thuộc 10 ngành (luyện kim, hoá chất,công nghệ thực phẩm, chế biến
nông-thuỷ sản, sản xuất giấy, chế biến gỗ, điện-điện tử, cơ khí chế tạo), ngoài
một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới
và khu vực như phát điện, dẫn điện; sản xuất thiết bị đo điện; lắp ráp điện tử, sản
xuất sợi, dệt; thi công xây lắp; sản xuất vật liệu xây dựng, máy móc thiết bị, dây
chuyền sản xuất của các doanh nghiệp lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm
(như cơ khí, sản xuất phôi), trình độ cơ khí hoá, tự động hoá dưới 10% (chế biến
thuỷ sản);mức độ hao mòn hữu hình từ 30- 50%, thậm chí có 38% là ở dạng
thanh lý,52% đã qua bảo dưỡng và sửa chữa.[ 13, tr. 145]
Trong những năm qua, mặc dù Nhà nước đã có những đầu tư đáng kể cho
DNNN nhằm hiện đại hoá dây chuyền, thiết bị, công nghệ sản xuất cho phù hợp,
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng nhìn chung, mới chỉ có
thể tập trung đầu tư được một số ngành như điện, điện tử, dệt may . . . còn đa
phần trình độ công nghệ, dây chuyền sản xuất còn lạc hậu. Phần lớn các DNNN
được trang bị máy móc, thiết bị từ nhiều nước thuộc nhiều thế hệ, chủng loại
khác nhau. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ không đáp ứng yêu
cầu về hiện đại hoá, gây lãng phí và nhiều vấn đề tiêu cực vẫn còn xảy ra.
 Nguyên nhân của những nhược điểm, khuyết điểm trong tổ chức
hoạt động của DNNN.
Những yếu kém của DNNN có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ
quan, không thể giải quyết nhất thời mà cần phải có thời gian.
- Về mặt khách quan, những yếu kém của DNNN hiện tại phần nào là do
hệ quả tất yếu của quá trình lịch sử để lại. Trong cơ chế kinh tế bao cấp, do nhận
thức về vai trò và vị trí của DNNN còn rập khuôn, máy móc, hơn nữa do xuất
phát từ nhu cầu cấp thiết phục vụ kháng chiến và xây dựng đất nước, nên Nhà
nước đã cho ra đời hàng loạt các DNNN không đủ khả năng về vốn, quy mô nhỏ
bé và dàn trải. Hậu quả là khi chuyển sang cơ chế thị trường, hầu hết các DNNN
không thích ứng kịp thời, không đủ vốn kinh doanh, không cạnh tranh nổi với

các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và do đó sớm bộc lộ những
yếu kém, bất cập.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan còn có những nguyên nhân chủ quan
sau:
- Chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế
nhà nước và DNNN trong nền kinh tế nhiều thành phần, chưa hình dung hết
những thách thức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
- Quản lý Nhà nước đối với DNNN còn nhiều chồng chéo, bao cấp nên
sinh tính ỷ lại Nhà nước. DNNN vừa chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản, vừa


10

chịu sự chỉ đạo của Bộ chuyên ngành và các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa
phương. Chưa thật sự phân rõ quyền sở hữu của Nhà nước đối với doanh nghiệp
với quyền sử dụng vốn, quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó
triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo trong kinh doanh.
- Cải cách hành chính chưa theo kịp yêu cầu đổi mới DNNN và nâng cao
hiệu lực quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp, còn nhiều thủ tục phiền hà, gây
ách tắc ở nhiều khâu, làm mất thời gian, tốn kém tiền bạc và mất cơ hội kinh
doanh của doanh nghiệp, chưa phát huy đầy đủ quyền tự chủ, năng động của
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
- Công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các DNNN
hầu hết chưa đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ đề ra. Phần lớn cán bộ lãnh đạo trong
DNNN chưa được đào tạo một cách bài bản, chính quy về chuyên môn, chưa
làm tròn trách nhiệm trong việc bảo toàn và phát triển vốn, tài sản của Nhà nước
giao. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, gây thất thoát tài sản của Nhà nước vẫn
còn nhiều. Chính sự yếu kém về năng lực chuyên môn và công tác tuyển chọn,
bổ nhiệm đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp đã có tác động không nhỏ đến thực
trạng yếu kém, khủng hoảng của DNNN.

Về nguyên nhân của những yếu kém trên, Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp
hành trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả của DNNN đã tổng kết như sau :
Những hạn chế, yếu kém của DNNN có nguyên nhân khách quan, nhưng
chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan : chưa có sự thống nhất cao trong
nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế Nhà nước và DNNN; về yêu cầu và giải
pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, nhiều vấn đề
chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận.
Quản lý Nhà nước đối với DNNN còn nhiều yếu kém, vướng mắc . . . cơ chế
chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với
kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy
cán bộ và người lao động trong DNNN nâng cao năng suất lao động . . . . một
bộ phận cán bộ DNNN chưa đáp ứng yêu cầu về năng lực và phẩm chất . . .[ 18 ]
1.2. Những hình thức tổ chức lại dNNN
1.2.1 Khái niệm tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước
Luật Doanh nghiệp (2005) đã vận dụng những quy định về sáp nhập,
hợp nhất, chia tách và chuyển đổi pháp nhân trong Bộ luật Dân sự (2005) để
quy định về các hình thức tổ chức lại công ty. Theo cách tiếp cận trong Luật
Doanh nghiệp (2005), tổ chức lại công ty bao gồm chia, tách, hợp nhất, sáp
nhập và chuyển đổi hình thức pháp lý công ty, nhưng không phải tất cả các
hình thức này đều được áp dụng cho tất cả các loại hình công ty. Chẳng hạn
việc chia, tách công ty chỉ áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công


11

ty cổ phần. Theo đó công ty TNHN, công ty cổ phần được chia tách thành
một số công ty cùng loại. Hình thức hợp nhất và sáp nhập được áp dụng cho
tất cả các loại hình công ty (công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp
danh). Còn hình thức chuyển đổi công ty là biện pháp tổ chức lại được áp

dụng cho công ty TNHH và công ty cổ phần. Theo đó công ty TNHH chuyển
đổi thành công ty cổ phần hoặc ngược lại
Những quy định về các hình thức tổ chức lại công ty trong Luật Doanh
nghiệp được áp dụng trước hết cho các công ty dân doanh và sau đây cho cả
DNNN. Khi các công ty này áp dụng một trong các hình thức tổ chức lại,
ngoài việc có thể làm thay đổi vốn điều lệ, quy mô ngành, nghề kinh doanh,
cách thức tổ chức hoạt động . . . thì có thể làm thay đổi cả tư cách chủ sở hữu
trong công ty, chẳng hạn như việc chia, tách, hợp nhất công ty . . . Những quy
định về tổ chức lại công ty của Luật Doanh nghiệp là cơ sở pháp lý tạo điều
kiện cho công ty phát triển thuận lợi, hiệu quả và đa dạng.
Để thực hiện mục tiêu của Nhà nước ta trong chính sách tổ chức, sắp
xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, Luật Doanh nghiệp nhà nước
(2003) đã dành hẳn chương VII để quy định về việc tổ chức lại, giải thể, phá
sản công ty nhà nước. Tại Điều 73-Luật Doanh nghiệp nhà nước đã quy định
về tổ chức lại công ty nhà nước như sau :
Các hình thức tổ chức lại công ty nhà nước không làm thay đổi sở hữu
của công ty nhà nước bao gồm :
1. Sáp nhập vào công ty nhà nước khác
2. Hợp nhất các công ty nhà nước
3. Chia công ty nhà nước
4. Tách công ty nhà nước
5. Chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH 1 thành viên
hoặc công ty TNHH có 2 thành viên trở lên.
6. Chuyển tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập
thành tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập
7. Khoán, cho thuê công ty nhà nước
8. Các hình thức khác theo quy định của pháp luật
Như vậy, theo Luật Doanh nghiệp nhà nước (2003) thì có 7 hình thức
tổ chức lại công ty nhà nước. Cách tiếp cận tổ chức lại công ty nhà nước trong
Luật Doanh nghiệp nhà nước (2003) khác với cách tiếp cận về tổ chức lại

công ty trong Luật doanh nghiệp (2005). Theo đó, khi áp dụng các hình thức
tổ chức lại này thì tư cách chủ sở hữu không thay đổi. Nghĩa là việc chia,
tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi công ty, khoán kinh doanh . . . chỉ áp
dụng đối với loại hình công ty nhà nước và Nhà nước vẫn nắm giữ 100% vốn


12

điều lệ của công ty. Việc áp dụng các hình thức tổ chức lại này nhằm đáp ứng
mục tiêu, yêu cầu của Nhà nước trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng
sức cạnh tranh cũng như khắc phục những hạn chế, yếu kém của DNNN.
1.2.2 Những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước
1/ Sáp nhập công ty nhà nước vào công ty nhà nước khác
Sáp nhập công ty nhà nước là việc một hoặc một số công ty nhà nước
cùng loại (gọi là công ty bị sáp nhập) sáp nhập vào một công ty nhà nước
khác (gọi là công ty nhận sáp nhập) theo quyết định của người quyết định
thành lập công ty nhận sáp nhập.
Công ty bị sáp nhập chấm dứt sự tồn tại, công ty nhận sáp nhập được
hưởng các quyền lợi hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh
toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ hợp pháp khác của công ty bị sáp
nhập.
Công ty nhận sáp nhập thực hiện đăng ký thay đổi nội dung đăng ký
kinh doanh. Công ty bị sáp nhập nộp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
cho Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh - nơi đã cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh cho công ty.
Việc sáp nhập công ty nhà nước là nhằm để khai thác thế mạnh, khắc
phục cái yếu của mỗi công ty. Công ty nhà nước bị sáp nhập thường là những
công ty làm ăn không hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Sự tồn tại của doanh nghiệp
bị sáp nhập là không cần thiết, có tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và vai trò của kinh tế nhà nước nói riêng. Doanh nghiệp bị sáp

nhập sẽ chấm dứt tư cách của mình và mọi quyền lợi và nghĩa vụ của nó được
chuyển sang cho doanh nghiệp nhận sáp nhập. Doanh nghiệp nhận sáp nhập,
bên cạnh việc thu nhận những quyền lợi của doanh nghiệp bị sáp nhập còn
phải tiếp nhận cả những nghĩa vụ như công nợ, các khoản lỗ . . . của doanh
nghiệp bị sáp nhập. Nói chung, công ty bị sáp nhập phải bàn giao đầy đủ,
nguyên trạng tài sản, vốn, công nợ, quyền sử dụng đất, các hợp đồng kinh tế,
các quyền và nghĩa vụ khác cho công ty nhận sáp nhập kèm theo hồ sơ, chứng
từ có liên quan. Sau khi nhận bàn giao, công ty nhận sáp nhập có trách nhiệm
tiếp tục xử lý các tồn tại về tài chính của công ty bị sáp nhập (phát sinh trước
thời điểm có quyết định sáp nhập) chưa xử lý được. Ngoài ra, sau khi nhận
bàn giao, công ty nhận sáp nhập có quyền và trách nhiệm tiếp nhận, kế thừa
toàn bộ tài sản (kể cả tài sản hư hỏng, kém, mất phẩm chất, không cần dùng,
chờ thanh lý) các khoản công nợ phải thu (kể cả nợ phải thu không có khả
năng thu hồi đã xử lý xoá sổ ghi ngoài bảng cân đối kế toán), các khoản nợ
phải trả, các khoản lỗ luỹ kế, hợp đồng lao động và nghĩa vụ khác của công ty
bị sáp nhập.


13

2/ Hợp nhất các công ty nhà nước
Hợp nhất công ty nhà nước là việc hai hoặc một số công ty nhà nước
(gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất với nhau thành một công ty nhà
nước mới (gọi là công ty hợp nhất) theo quyết định của người quyết định
thành lập công ty bị hợp nhất.
Công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại, công ty hợp nhất được hưởng các
quyền lợi hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp
đồng lao động và các nghĩa vụ hợp pháp khác của các công ty bị hợp nhất.
Công ty hợp nhất phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh. Các công ty
bị hợp nhất nộp lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Phòng đăng ký

kinh doanh cấp tỉnh nơi đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho DN
và chấm dứt hoạt động.
Đã có một thời kỳ, do quan niệm không đúng về vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước và của doanh nghiệp nhà nước nên Nhà nước ta đã thành lập
một số lượng lớn DNNN (đến năm 1993 con số doanh nghiệp nhà nước lên
đến trên 12.000), cho nên việc đầu tư vốn phải dàn trải. Đa số các DNNN có
quy mô nhỏ, chồng chéo về ngành nghề kinh doanh. Thực tế cho thấy, có
nhiều DNNN có cùng ngành nghề kinh doanh, cùng cấp quản lý và nằm trên
cùng một địa bàn hoạt động. Điều đó đã gây nên sự cạnh tranh không đáng
có, không cần thiết giữa các DNNN với nhau. Vì số vốn Nhà nước đầu tư
không lớn nên các DNNN loại này không có điều kiện đầu tư đổi mới dây
chuyền, thiết bị, máy móc mới, không có khả năng cạnh tranh với các loại
hình doanh nghiệp dân doanh khác. Dể khắc phục tình trạng đó, Nhà nước ta
đã chủ trương tiến hành sáp nhập và hợp nhất các DNNN với nhau.
Việc hợp nhất các công ty nhà nước nhằm mục đích tạo ra tư thế và
động lực mới cho các doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn đầu
tư. Các doanh nghiệp bị hợp nhất khi còn hoạt động độc lập vì vốn ít, quy mô
nhỏ nên khả năng cạnh tranh chưa cao. Vì vậy, thường thì những DNNN cùng
loại hợp nhất với nhau sẽ tạo cho doanh nghiệp hợp nhất có quy mô lớn hơn,
các doanh nghiệp bị hợp nhất khi hợp nhất sẽ khắc phục được những điểm
yếu của nhau.
Về bản chất, việc hợp nhất các công ty nhà nước cho ra đời một tổ chức
kinh tế mới (công ty hợp nhất), trên cơ sở tiếp nhận toàn bộ những quyền và
nghĩa vụ của các công ty bị hợp nhất, và đương nhiên các công ty bị hợp nhất
sẽ chấm dứt sự tồn tại
Công ty hợp nhất, ngoài việc được tiếp nhận những quyền lợi ( như
vốn, tài sản, các khoản nợ phải thu . . .) của công ty bị hợp nhất, còn phải tiếp


14


nhận cả các nghĩa vụ (như các khoản nợ phải trả, các hợp đồng lao động, các
khoản lỗ luỹ kế và các nghĩa vụ khác) của các công ty bị hợp nhất.
3/ Chia công ty nhà nước
Chia công ty nhà nước là việc một công ty nhà nước (gọi là công ty bị
chia) có thể chia thành hai hoặc một số công ty nhà nước mới (gọi là công ty
được chia) theo quyết định của người quyết định thành lập công ty bị chia,
nếu các công ty được chia đáp ứng những điều kiện theo quy định.
Quyền và nghĩa vụ của công ty bị chia phải được phân rõ cho các công
ty được chia.
Các công ty được chia thực hiện đăng ký kinh doanh tại phòng đăng ký
kinh doanh cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính. Công ty bị chia nộp lại giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh cho phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi đã cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho công ty.
Khi tiến hành chia công ty, mọi quyền và nghĩa vụ của công ty bị chia
sẽ được chuyển toàn bộ cho các công ty được chia. Toàn bộ tài sản của công
ty bị chia sẽ được chia cho các công ty được chia bao gồm : tài sản hữu hình,
tài sản vô hình, các khoản đầu tư ra ngoài công ty, hàng hoá tồn kho, nợ phải
thu, đất đai và các tài sản khác. Toàn bộ các khoản nợ phải trả của công ty bị
chia cũng phải chia cho các công ty được chia theo nguyên tắc nợ phát sinh ở
bộ phận nào thì công ty được chia tiếp nhận bộ phận ấy tiếp tục chịu trách
nhiệm thanh toán, nhưng tổng giá trị nợ phải trả tương ứng với tỷ trọng giá trị
tài sản được nhận. Lãi, lỗ luỹ kế, vốn của chủ sở hữu khác cũng được chia cho
các công ty được chia theo tỷ trọng giá trị tài sản đã nhận. Tóm lại, về nguyên
tắc, các công ty được chia phải tiếp tục kế thừa quyền và trách nhiệm của
công ty bị chia theo tỷ trọng giá trị tài sản đã nhận.
4/ Tách công ty nhà nước
Tách công ty nhà nước là việc một công ty nhà nước (gọi là công ty bị
tách) có thể tách một hoặc một số đơn vị phụ thuộc để thành lập một hoặc một
số công ty nhà nước mới (gọi là công ty được tách) theo quyết định của người

quyết định thành lập công ty bị tách, nếu công ty sau khi bị tách và công ty
được tách đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật
Quyền và nghĩa vụ của công ty bị tách phải được phân định rõ cho công
ty sau khi bị tách và các công ty được tách
Công ty bị tách thực hiện đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh
doanh. Công ty được tách thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật.
Thứ nhất, khi tiến hành tách bộ phận hạch toán phụ thuộc công ty thì
trên cơ sở tài sản, công nợ của bộ phận hạch toán phụ thuộc người quyết định


15

thành lập công ty bị tách quyết định phân chia các khoản nợ và vốn chủ sở hữu
cho công ty được tách.
Thứ hai, nếu tách bộ phận công ty chưa phân cấp hạch toán phụ thuộc thì
thực hiện như quy định đối với trường hợp chia công ty như trên.
Việc tách công ty nhà nước có tác dụng tạo cho một hoặc một số bộ phận
được tách có khả năng độc lập, tự chủ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, mà sự gắn kết của các bộ phận này trong công ty bị tách là không cần
thiết.
5/ Chuyển công ty nhà nước thành công ty TNHH nhà nước một
thành viên hoặc công ty TNHH nhà nước có 2 thành viên trở lên
Chuyển đổi doanh nghiệp là một trong những hình thức tổ chức lại doanh
nghiệp đã được Luật Doanh nghiệp (2005) quy định. Điều 3 Luật Doanh nghiệp
(2005) quy định :”Tổ chức lại doanh nghiệp là việc chia, tách, hợp nhất, sáp
nhập và chuyển đổi doanh nghiệp.” Như vậy, Luật Doanh nghiệp(2005) mới chỉ
thể hiện hình thức chuyển đổi doanh nghiệp mà chưa đưa ra khái niệm pháp lý
cụ thể về chuyển đổi doanh nghiệp.
Tuy nhiên, qua các quy định của pháp luật cũng như qua việc tìm hiểu quá

trình chuyển đổi doanh nghiệp, có thể đưa ra khái niệm chuyển đổi DN như sau :
“Chuyển đổi doanh nghiệp là một biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp mà
kết quả là sau quá trình thực hiện, các doanh nghiệp tham gia chuyển đổi mang
một diện mạo mới khác với loại hình tổ chức vốn có, tức là tạo ra một doanh
nghiệp khác loại “
Khái niệm này cho thấy rõ thêm chuyển đổi doanh nghiệp được hiểu là
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa vì trong thực tế còn có
sự chuyển đổi về chủ sở hữu, chuyển đổi tên gọi, chuyển đổi trụ sở. . . mà không
thay đổi loại hình tổ chức doanh nghiệp. Từ một loại hình doanh nghiệp này,
doanh nghiệp sau quá trình chuyển đổi sẽ có một cơ cấu theo loại hình tổ chức
khác; trở thành doanh nghiệp mới khác loại với doanh nghiệp nguyên phát.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chuyển đổi doanh nghiệp bao
gồm các trường hợp sau :
- Chuyển đổi công ty TNHH thành công ty cổ phần và ngược lại (Điều
154 Luật Danh nghiệp (2005))
- Chuyển đổi công ty TNHH 1 thành viên thành công ty TNHH có từ 2
thành viên trở lên (Điều 155 Luật Doanh nghiệp (2005))
- Chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH nhà nước 1 thành
viên hoặc công ty TNHH nhà nước có 2 thành viên trở lên (Điều 79 Luật DNNN
(2003))
- Chuyển công ty nhà nước thành công ty TNHH nhà nước một thành viên
hoặc công ty TNHH nhà nước có 2 thành viên trở lên là việc chuyển đổi công ty
nhà nước trên cơ sở sự điều chỉnh của Luật DNNN (2003) về quy chế thành lập,


16

cơ cấu tổ chức hoạt động. . . sang loại hình công ty TNHH nhà nước 1 thành
viên hoặc công ty TNHH nhà nước 2 thành viên trở lên do sự điều chỉnh của
Luật Doanh nghiệp (2005).

Công ty nhà nước là loại hình doanh nghiệp mà mọi quy chế thành lập
cũng như tổ chức hoạt động và các vấn đề khác được Luật DNNN điều chỉnh.
Khi chuyển sang loại hình công ty TNHH 1 hoặc có 2 thành viên trở lên thì nó
phải tuân thủ theo quy định trong Luật Doanh nghiệp về thủ tục thành lập, cơ
cấu tổ chức hoạt động. . . Hình thức tổ chức lại này áp dụng dối với DNNN sẽ
không làm thay đổi tư cách chủ sở hữu nhà nước mà chỉ làm thay đổi cách thức
hoạt động của DNNN, tạo một mặt bằng pháp lý bình đẳng, làm cho DNNN hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.
Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty được chuyển đổi chấm dứt sự tồn tại.
Công ty chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm
về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản
khác của công ty được chuyển đổi.
Chế định công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH có từ hai thành
viên trở lên, ngoài việc dùng để điều chỉnh thành lập mới công ty TNHH , còn là
hành lang pháp lý quan trọng thực hiện chủ trương về chuyển đổi DNNN thành
công ty TNHH một thành viên hoặc hai thành viên trở lên. Việc quy định cụ thể,
chi tiết về công ty TNHH có ý nghĩa rất quan trọng. Nó tạo thêm một phương
thức tổ chức lại DNNN đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước vẫn quyết định
nắm giữ 100% vốn điều lệ mà không thuộc diện giao, bán, khoán kinh doanh,
cho thuê, giải thể, phá sản hoặc nằm trong kế hoạch cổ phần hoá.
Mô hình công ty TNHH khác với mô hình công ty nhà nước ở những
điểm cơ bản như sau :
- Thứ nhất, về môi trường pháp lý hoạt động thì công ty TNHH một hoặc
hai thành viên trở lên hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (1999) và từ ngày
01/07/2006 là hoạt động theo Luật DN(2005), các công ty nhà nước hoạt động
theo Luật DNNN
- Thứ hai, nếu chuyển DNNN sang mô hình công ty TNHH thì không
những giảm sự can thiệp của chủ sở hữu mà còn giảm bao cấp, giảm cơ chế xincho, loại bỏ một số nghĩa vụ xã hội không mang tính kinh doanh cho doanh
nghiệp.
- Thứ ba, do quy định rõ chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên cũng

như các thành viên góp vốn vào công ty TNHH có 2 thành viên trở lên đều là
công ty nhà nước nên chủ sở hữu cũng như đồng chủ sở hữu chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phần vốn
điều lệ của công ty nên hạn chế được tình trạng Nhà nước phải liên tục bổ sung
vốn, khoanh nợ. . .


17

Chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH một hoặc hai thành
viên trở lên sẽ làm tăng thêm tính tự chịu trách nhiệm của công ty đối với hành
vi của mình, buộc công ty phải căn cứ vào quy định pháp luật và nhu cầu của thị
trường để kinh doanh có hiệu quả hơn, khắc phục được những tồn tại của loại
hình DNNN là tính bao cấp của Nhà nước, tính chịu trách nhiệm không đầy đủ
đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
Hình thức chuyển đổi này sẽ tạo nên môi trường pháp lý bình đẳng, tạo
cho các DNNN hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, nâng cao được khả năng
cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế.
6/ Chuyển tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập
thành tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập
Tổng công ty nhà nước là hình thức liên kết trên cơ sở tự đầu tư, góp vốn
giữa các công ty nhà nước, giữa các công ty nhà nước với các DN khác hoặc
được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối quan
hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh
doanh khác, hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế- kỹ thuật
chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị
thành viên và toàn tổng công ty (Điều16- Luật DNNN (2003))
Tổng công ty nhà nước gồm tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư
và thành lập và tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập
Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là hình thức

liên kết và tập hợp các công ty thành viên toán độc lập có tư cách pháp nhân,
hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế- kỹ thuật chính, nhằm
tăng cường tích tụ, tập trung vốn và chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị
thành viên và toàn tổng công ty.
Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập (tổng công ty theo mô
hình công ty mẹ- công ty con) là hình thức liên kết thông qua đầu tư, góp vốn
của công ty nhà nước quy mô lớn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ với
các DN khác, trong đó công ty nhà nước giữ quyền chi phối DN khác.
Chuyển đổi tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập
thành tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập là hình thức chuyển đổi
tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập sang hoạt động theo
mô hình công ty mẹ - công ty con.
Việc chuyển đổi tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập
thành tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập có mục đích và tác dụng
sau đây :
- Tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
- Tăng cường khả năng chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong sản xuất
kinh doanh


18

- Tạo điều kiện nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật- công
nghệ.
- Nhằm tối đa hoá lợi nhuận, giành ưu thế trong sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm, chiếm lĩnh thị trường.
- Công ty nhà nước giữ quyền chi phối DN khác (công ty mẹ), các công
ty thành viên (công ty con) hoạt động độc lập nên phát huy sự sáng tạo, quyền tự
chủ, tự do định đoạt các vấn đề của công ty trong chiến lược phát triển chung.

Hình thành tập đoàn làm tăng khả năng cạnh tranh, phân tán rủi ro nhằm bảo
toàn nguồn vốn của công ty mẹ. Công ty mẹ dễ dàng luân chuyển vốn trong các
công ty con.
- Tận dụng được năng lực dư thừa tương đối, dễ dàng phát triển sản xuất
kinh doanh, mở rộng lĩnh vực ngành nghề mới.
- Kết hợp hài hoà các hình thức sở hữu và lợi ích trong hoạt động của các
DN liên kết với nhau.
7/ Khoán kinh doanh, cho thuê công ty nhà nước
Để đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới các DNNN có quy mô nhỏ, kinh doanh
thua lỗ kéo dài, Nhà nước đã thử nghiệm để rút kinh nghiệm và mở rộng đấu
thầu công khai để cho thuê, khoán kinh doanh các DNNN. Đây là hai biện pháp
tiếp tục sắp xếp, đổi mới DNNN góp phần bảo đảm việc làm cho người lao động,
thay đổi phương thức quản lý DN, tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của
người lao động, sử dụng có hiệu quả hơn số tài sản đã đầu tư, giảm bớt chi phí
và sự điều hành trực tiếp của Nhà nước, đảm bảo lợi ích chung của cả Nhà nước
và người lao động.
Khoán kinh doanh công ty nhà nước là phương thức quản lý DN mà
bên nhận khoán được giao quyền quản lý DN, có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ
tiêu, bảo đảm các điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng khoán.
Khoán kinh doanh đối với công ty nhà nước cũng là một hình thức chuyển
đổi, đổi mới trong quản lý DNNN. Tuy nhiên, hình thức này khác với bán
DNNN ở chỗ : trong khoán kinh doanh hoặc cho thuê DNNN có sự tách biệt
giữa chủ sở hữu (thực chất là đại diện chủ sở hữu) và một bên là chủ thể quản lý
và điều hành (bên nhận khoán).
Mục tiêu của khoán kinh doanh là biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của DNNN thông qua việc thay đổi chủ thể quản lý và điều
hành, qua đó có những thay đổi về phương pháp, phương thức quản lý các hoạt
động kinh doanh
Thực chất của việc khoán kinh doanh là một nội dung của “hợp đồng hợp
tác kinh doanh”, xác định trên cơ sở mối quan hệ về lợi ích và quản lý giữa

người chủ sở hữu và người quản lý các hoạt động kinh doanh của DN. Thực hiện
loại hợp đồng này, các chủ thể quản lý thường được hưởng một số quyền tự chủ
và ưu đãi nhất định, hoặc theo một cơ chế khuyến khích nào đó để có thể tích


19

cực đổi mới các hình thức quản lý các hoạt động kinh doanh nhằm đạt được một
kết quả tốt và hiệu quả kinh doanh được nâng lên.
Trong hợp đồng khoán công ty nhà nước, người nhận khoán được giao
quyền quản lý, sử dụng tài sản của DNNN, có quyền bố trí sắp xếp và sử dụng
hợp lý lao động. Người nhận khoán cũng được tạo những điều kiện thuận lợi
nhất định để chủ động, tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Người nhận khoán có
thể là chủ một DN khác cùng ngành, những người lao động, là cán bộ quản lý
hay công nhân trong DN. Người nhận khoán công ty nhà nước có trách nhiệm
thực hiện các chỉ tiêu nhận khoán do chủ sở hữu giao cho. Các chỉ tiêu giao
khoán chủ yếu thường là : chỉ tiêu về doanh thu, chỉ tiêu về lợi nhuận và các chỉ
tiêu tài chính liên quan khác (vốn, trả nợ . . .), chỉ tiêu số lượng, chất lượng sản
phẩm, tiền lương . . .
Quyền lợi của người nhận khoán phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
DN hay hiệu quả việc khai thác các tài sản được giao. Người nhận khoán sẽ có
thu nhập và tăng thêm thu nhập nếu họ hoàn thành hoặc hoàn thành vượt mức
các chỉ tiêu giao khoán và ngược lại.
Đối với người chủ sở hữu công ty nhà nước, việc thực hiện khoán kinh
doanh có thể làm mất đi một số quyền lợi nào đó, do quyền quản lý điều hành đã
chuyển sang cho bên nhận khoán. Tuy nhiên, việc khoán kinh doanh có thể làm
cho chủ sở hữu hoặc đại diện chủ sở hữu có thể học kinh nghiệm quản lý và điều
hành tốt từ phía người nhận khoán. Chủ sở hữu cũng có thể qua đó giảm bớt
những khó khăn mà trước đó họ gặp phải để có thể tập trung cho các hoạt động
khác.

Cho thuê công ty nhà nước là việc chuyển giao cho người nhận thuê
quyền sử dụng tài sản và lao động trong công ty nhà nước theo các điều kiện ghi
trong hợp đồng thuê công ty.
Cho thuê công ty nhà nước là hình thức tạm thời chuyển quyền khai thác,
sử dụng tài sản của công ty nhà nước cho các tổ chức, cá nhân khác mà vẫn giữ
nguyên tên gọi, sử dụng các thương hiệu của công ty nhà nước. Người nhận thuê
công ty nhà nước phải trả khoản bồi hoàn cho Nhà nước dưới dạng tiền thuê.
Thuê toàn bộ công ty nhà nước là thuê một DN đang hoạt động, bao gồm
cả tài sản đang được sử dụng cho hoạt động kinh doanh, lao động đang làm việc
tại DN và các yếu tố khác cấu thành hoạt động của DN. Cũng như các hoạt động
sản xuất kinh doanh khác, khi thuê và cho thuê DNNN, cần lưu ý đầy đủ tới lợi
ích của cả hai bên. Đặc biệt trong nhiều trường hợp, có lợi ích của những chủ thể
kinh tế – xã hội có liên quan đến việc khai thác và sử dụng các nguồn lực của
doanh nghiệp được thuê, tới việc thực hiện các nghĩa vụ mà DNNN đã tạo ra
trong quá trình hoạt động kinh doanh cho đến thời điểm cho thuê như : lao động
dôi dư, tài sản của doanh nghiệp không còn sử dụng được . . .Theo quan điểm
của nhiều nhà kinh tế, để đảm bảo lợi ích của người thuê, để tăng tính hấp dẫn


20

của doanh nghiệp được đem cho thuê, những tài sản, nguồn lực dư thừa, những
lao động dôi sẽ không được đưa vào hợp đồng thuê doanh nghiệp. Những lao
động, tài sản, . . này thuộc phạm vi trách nhiệm của chủ sở hữu doanh nghiệp cũ
và phải xử lý theo chế độ chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng không hoàn
toàn loại trừ khả năng mà người nhận thuê sẽ đảm nhận xử lý toàn bộ những
“gánh nặng” trên để đổi lấy một hoặc một số lợi ích khác (hưởng ưu đãi hoặc
được thuê với giá rẻ).
Hình thức thuê DNNN được áp dụng dứơi dạng cam kết bằng hợp đồng
giữa Nhà nước - chủ sở hữu doanh nghiệp và người thuê về quyền sử dụng toàn

bộ tài sản của doanh nghiệp và lao động trong doanh nghiệp đó (nếu có), về
quyền được hưởng lãi từ tài sản và kết quả kinh doanh trong một thời gian nhất
định theo hợp đồng ký kết, chịu trách nhiệm thanh toán tiền thuê cho chủ sở hữu.
Quyền sử dụng DNNN được chuyển sang cho người thuê căn cứ vào hợp
đồng thuê DNNN. Cũng như trong hình thức khoán kinh doanh, trong hình thức
cho thuê DNNN, nội dung và hình thức cụ thể cũng rất linh hoạt trong từng điều
kiện cụ thể của doanh nghiệp và quy định của pháp luật. Thuê doanh nghiệp
cũng có thể thông qua hình thức đấu thầu hay trực tiếp thuê.
Sau khi một DNNN được cho thuê, các tài sản đã thuê, bao gồm các tài
sản vật chất, lao động và sử dụng các quyền khác như quyền huy động vốn, đầu
tư đổi mới công nghệ, hoạt động kinh doanh, khai thác các yếu tố nguồn lực
khác cho hoạt động kinh doanh phải được ghi rõ trong hợp đồng cho thuê
DNNN, thậm chí phải có những phụ lục để giải thích rõ một số nội dung.
Người đi thuê DNNN có trách nhiệm đảm bảo duy trì mọi hoạt động kinh
doanh, đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển. Họ cũng phải chịu trách nhiệm về
những nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật và những vấn đề khác
trong kinh doanh, kể cả chấp nhận rủi ro, cạnh tranh trên thị trường. Người thuê
được quyền hưởng toàn bộ lợi ích, lợi nhuận thu được từ việc sử dụng tài sản đi
thuê sau khi đã hoàn thành các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và trách nhiệm
thanh toán với bên cho thuê.
Tóm lại, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN không làm thay đổi quan
hệ sở hữu đối với doanh nghiệp nhưng sau khi khoán hoặc cho thuê, cơ chế
quản lý doanh nghiệp có sự thay đổi so với các DNNN thông thường. Người
nhận khoán, đặc biệt là người nhận thuê có quyền chủ động rộng rãi hơn trong
điều hành sản xuất kinh doanh so với Giám đốc DNNN bình thường. Trách
nhiệm của họ cũng rõ ràng hơn, sự khuyến khích vật chất đối với họ cũng trực
tiếp hơn, thể hiện qua việc sử dụng phần vượt khoán hoặc lợi nhuận còn lại sau
khi nộp khoản bắt buộc theo hợp đồng thuê doanh nghiệp. Họ phải chịu lỗ nếu
doanh nghiệp kinh doanh không có lãi.
Sau khi ký hợp đồng nhận khoán kinh doanh DNNN, người nhận khoán

phải bảo toàn vốn của Nhà nước, bảo đảm việc làm và đóng đủ bảo hiểm cho


21

người lao động. Người nhận khoán tự quyết định về tổ chức kinh doanh, phương
thức trả lương, thưởng trong doanh nghiệp; được hưởng và tự quyết định việc
phân chia các quyền lợi do vượt định mức khoán. Ngược lại, thu nhập của họ sẽ
bị giảm (thậm chí phải chịu lỗ) nếu kinh doanh thua lỗ, không hoàn thành định
mức và điều kiện khoán.
Người thuê DNNN có thể đăng ký hoạt động theo loại hình doanh nghiệp
mà mình cho là thích hợp, nhưng sau khi đăng ký theo loại hình nào thì có quyền
và nghĩa vụ sử dụng doanh nghiệp cho thuê theo quy định của pháp luật về loại
hình doanh nghiệp đó. Họ có quyền chủ động quản lý, sử dụng các tài sản và lao
động thuê (nếu có) của DNNN, được thay đổi, tổ chức lại sản xuất, cải tiến kỹ
thuật, đầu tư mới trong DNNN, tự quyết định tổ chức bộ máy quản lý kinh
doanh, phương thức trả lương, thưởng trong doanh nghiệp; được hưởng các
quyền lợi do việc thuê DNNN đem lại, sau khi nộp các loại thuế, người nhận
thuê có toàn quyền sử dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh sau khi
trả đủ tiền thuê cho bên cho thuê.
Khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước là những biện pháp
sắp xếp và đổi mới những DNNN làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài mà Nhà
nước không cần trực tiếp quản lý và không cổ phần hoá được nhằm tạo điều kiện
cơ cấu lại DNNN, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của khu vực kinh
tế nhà nước; sử dụng có hiệu quả hơn số vốn, tài sản của Nhà nước đã đầu tư vào
công ty; bảo đảm việc làm cho người lao động; thay đổi phương thức quản lý
công ty; giảm bớt chi phí và trách nhiệm trực tiếp kinh doanh của Nhà nước;
đảm bảo lợi ích chung của Nhà nước và người lao động trong DNNN, khai thác
mọi tiềm năng trong các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh.

1.3. TÍNH CẤP THIẾT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC TỔ CHỨC LẠI
DNNN
Từ những hạn chế của DNNN được nêu ở phần trên, Nhà nước ta đã có
những biện pháp để tháo gỡ những khó khăn cho DNNN. Từ Đại hội VI
(1986), Đảng ta đã chủ trương đổi mới DNNN một cách mạnh mẽ. Tiếp đó,
các Đại hội VII, VIII và đặc biệt Đại hội IX của Đảng lại tiếp tục khẳng định
tính nhất quán trong định hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần, lấy kinh
tế nhà nước làm chủ đạo, trong đó DNNN giữ vai trò then chốt, đi đầu trong
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng,
hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật . . .
Các DNNN đang triển khai việc sắp xếp lại và đổi mới theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 3 và Trung ương 9 khoá IX. Đến cuối năm 2002, sau
10 năm sắp xếp DNNN, còn có 4.296 DNNN. Năm 2004 là năm sắp xếp lại
doanh nghiệp đạt mức cao nhất, thực hiện gần 1.000 doanh nghiệp. Đến cuối


×