Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

PHÁP LUẬT bảo đảm AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG cấp tín DỤNG của các tổ CHỨC tín DỤNG ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.21 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THANH CHUNG

PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG
CẤP TÍN DỤNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Giang Thu

HÀ NỘI - 2005


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo khoa Sau đại học và bạn bè
trường Đại học Luật Hà Nội đã hỗ trợ và tạo mọi điều kiện để tôi thực hiện đề
tài. Đặc biệt, nhờ sự quan tâm sâu sắc và sự hướng dẫn tận tình của TS. Phạm
Thị Giang Thu – giảng viên khoa Pháp luật Kinh tế, trường Đại học Luật Hà Nội
đã giúp tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và chúc cô
sức khỏe để tiếp tục thực hiện công việc cao quý của mình.

Tác giả



Phạm Thanh Chung


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng

4

của các tổ chức tín đụng ở Việt Nam
1.1. Khái niệm và sự cần thiết của pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt

4

động cấp tín dụng
1.2. Những vấn đề cơ bản của pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động

8

cấp tín dụng
Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm

37

an toàn trong hoạt động câp tín dụng của tổ chức tín dụng
2.1. Thực hiện đảm bảo an toàn trong quá trình thành lập tổ chức tín dụng


37

2.2. Thực hiện bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng

39

2.3. Thực hiện bảo đảm an toàn trong quá trình đầu tư tài chính

58

Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật, bảo đảm an toàn

63

trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam
3.1. Những yêu cầu đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các

63

tổ chức tín dụng
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật, bảo đảm an toàn trong hoạt động

65

cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng
3.3. Một số đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật, bảo đảm an toàn

71


trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng
KẾT LUẬN

78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

79


1

PHN M U
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động cấp tín dụng ngày càng phát triển đa dạng, phong phú dưới nhiều hình
thức khác nhau và khẳng định được tầm quan trọng đối với nền kinh tế. Xuất phát từ bản
chất của hoạt động cấp tín dụng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, nên nó luôn tiềm ẩn
những nguy cơ rủi ro cao, không chỉ ảnh hưởng tới năng lực tài chính của chính tổ chức
tín dụng mà sự phát triển rủi ro mang tính dây chuyền cũng gây ra những tác động rất
lớn đối với nền kinh tế.
Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng đã và đang phát huy hiệu
lực trên thực tế, góp phần không nhỏ trong việc bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín
dụng. Tuy nhiên, bên cạnh việc bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng, chúng ta
không thể xem nhẹ quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức tín dụng, nghĩa là bảo đảm
an toàn phải gắn với hiệu quả của hoạt động cấp tín dụng. Thực trạng áp dụng các quy
định bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng còn nảy sinh nhiều bất cập ảnh
hưởng đến khả năng đảm bảo an toàn cho nguồn vốn tín dụng. Các biện pháp bảo đảm
chưa phản ánh hết yêu cầu, chưa thực sự tạo ra trạng thái ổn định cần thiết cho hoạt
động cấp tín dụng và đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Do đó, nghiên cứu thực
trạng áp dụng cũng như hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo đảm an toàn trong

hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng là vô cùng cần thiết, sao cho không chỉ
đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng mà còn đảm bảo hiệu quả kinh doanh của
các tổ chức tín dụng. Với những yêu cầu đặt ra đó cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoàn thiện pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ
chức tín dụng là một vấn đề đặt ra không chỉ đối với những nhà xây dựng pháp luật mà
còn đối với giới nghiên cứu khoa học. Điều đó đặt ra không chỉ đối với pháp luật Việt
Nam mà còn đối với pháp luật của các nước trên thế giới
Trước đây đã có nhiều nghiên cứu khoa học về pháp luật bảo đảm an toàn trong
hoạt động cấp tín dụng như: Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trương Thị Kim
Dung: Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng (1996); Luận văn
thạc sỹ luật học của tác giả Trần Thị Thu Thuỷ: Chế định bảo đảm hợp đồng tín dụng
ngân hàng - thực trạng và giải pháp (1998); Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê
Thu Hiền: Bảo đảm tiền vay ngân hàng - thực trạng và giải pháp; Luận văn thạc sỹ luật


2

học của tác giả Nguyễn Thị Minh Chi: Pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín
dụng - thực trạng và phương hướng hoàn thiện...
Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu khoa học trên chỉ dừng lại ở một hoặc một số
khía cạnh vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng như là: bảo đảm thực
hiện hợp đồng tín dụng, bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng tín dụng hay các vấn đề khác có liên quan. Những đề tài đó là nguồn tài liệu
tham khảo cần thiết trong quá trình nghiên cứu pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt
động cấp tín dụng.
Có thể nói, đây là đề tài mang tính tập trung, bao quát các vấn đề pháp luật bảo
đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng

là một đề tài tương đối rộng, bao gồm nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Trên cơ sở quá
trình nghiên cứu các quy định pháp luật, thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật
về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng, luận văn này tập trung vào nghiên cứu
các biện pháp tổng thể được áp dụng để bảo đảm an toàn cho hoạt động cấp tín dụng.
Do những giới hạn nhất định trong quá trình nghiên cứu và thực tế hoạt động cấp tín
dụng, nên không thể giải quyết được những vấn đề mang tính toàn diện của pháp luật
bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng.
Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ những vấn đề còn nhiều
khiếm khuyết của pháp luật, nên luận văn đã có những sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu
của quá trình nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu và xây dựng trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, còn vận dụng các phương pháp như: hệ
thống, tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê và một số phương pháp khác để giải quyết
các vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tạo ra cách nhìn tổng quan về pháp luật
bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng trên cơ sở đánh


3

giá thực trạng và góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo đảm an toàn trong
hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng
Để thực hiện điều đó, cần phải xem xét các quy định của pháp luật bảo đảm
an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng, đánh giá thực trạng áp
dụng qua việc nghiên cứu những kết quả và những vướng mắc trên thực tế trong hoạt

động cấp tín dụng của một hoặc một số tổ chức tín dụng, đưa ra những yêu cầu và
phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng
của các tổ chức tín dụng
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn trình bày một cách khoa học và hệ thống những vấn đề lý luận về pháp
luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng.
Phân tích và đánh giá một cách tương đối toàn diện về các biện pháp bảo đảm an
toàn cần phải thực hiện trong quá trình hoạt động cấp tín dụng.
Đưa ra những phương hướng và đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:

Chương 1: Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của
các tổ chức tín dụng ở Việt Nam

Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật bảo đảm an
toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam

Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt
động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam


4

CHNG I
PHP LUT BO M AN TON TRONG HOT NG CP
TN DNG CA CC T CHC TN DNG VIT NAM
1.1. Khỏi nim v s cn thit ca phỏp lut bo dm an ton trong
hot ng cp tớn dng

1.1.1 Khái niệm pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng
Hệ thống các tổ chức tín dụng ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, là công
cụ để Nhà nước điều chỉnh mang tính vĩ mô đối với nền kinh tế. Qua hoạt động của các
tổ chức tín dụng (TCTD), Nhà nước có thể kiểm soát được lượng cung và cầu về tiền của
nền kinh tế, đánh giá được khả năng lưu thông của tiền tệ, qua đó đề ra các biện pháp
cần thiết điều tiết mức cung tiền, tạo ra các luồng luân chuyển tiền tệ một cách hợp lý,
tập hợp và phân chia vốn cho thị trường và hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. Hệ thống
các TCTD là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, giữa nền tài chính quốc gia với
nền tài chính quốc tế.
Đặc trưng trong hoạt động của TCTD là cung cấp vốn cho nền kinh tế, mà hoạt
động sản xuất kinh doanh chịu sự chi phối của các quy luật khách quan vận động trong
nền kinh tế đó, có nghĩa là sản xuất không nằm ngoài sự đáp ứng các nhu cầu tất yếu
của thị trường. Để thích nghi với một thị trường ngày càng phong phú và đa dạng, yêu
cầu mở rộng quy mô cả về chiều rộng lẫn chiều sâu của hoạt động sản xuất kinh doanh,
đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng tăng cường, cải tiến máy móc thiết bị, áp dụng
khoa học kỹ thuật công nghệ. Thực hiện điều đó, doanh nghiệp cần phải có vốn, bởi
nguồn vốn sẵn có không đủ đáp ứng, doanh nghiệp sẽ phải huy động vốn từ nhiều nguồn
khác nhau. Xét chung nhu cầu vốn của cả nền kinh tế, để giải quyết được những khó
khăn này của doanh nghiệp, chỉ có các TCTD mới là nơi hội tụ đầy đủ các điều kiện để
giúp đỡ nguồn vốn cho doanh nghiệp.
Các TCTD đứng ra thành lập các kênh huy động các nguồn vốn khác nhau trong
xã hội và thông qua các nghiệp vụ tín dụng, những nguồn vốn huy động đó được chuyển
đến tận tay của các doanh nghiệp có nhu cầu một cách kịp thời, giúp doanh nghiệp giải
quyết được bài toán khó khăn về vốn. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng là một hoạt động
đặc biệt, đi vay để cho vay, sự hoàn trả của khách hàng về phần vốn vay lẫn lượng lãi
phát sinh có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các TCTD. Việc chuyển
nhượng quyền sở hữu vốn cho các doanh nghiệp hay các tổ chức cá nhân khác với điều


5


kiện hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn sau một khoảng thời gian nhất định luôn
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, bởi tính chất kéo dài của các quan hệ sản xuất kinh doanh và
các rủi ro trong kinh doanh mang lại.
Bảo đảm an toàn cho hoạt động cấp tín dụng luôn được đặt ra trong quá trình
hoạt động của các TCTD, nó chính là sự đảm bảo cần thiết nhất cho tính hiệu quả của
hoạt động tín dụng. Thông qua việc thực hiện các biện pháp cần thiết, khả năng tài
chính của các TCTD được đảm bảo, những rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng được hạn
chế sao cho ở mức thấp nhất.
Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đều quy định các biện pháp cần thiết
để đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động cấp tín dụng của các TCTD, các biện pháp
được đặt ra đều hướng tới một mục đích chung, đó là an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên đối
với mỗi quốc gia khác nhau do trình độ phát triển không đồng đều, vấn đề bảo đảm an
toàn cho hoạt động cấp tín dụng được nhìn nhận khác nhau. Điều đó phản ánh sự tương
quan giữa điều kiện phát triển kinh tế với vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động tín
dụng.
Theo từ điển tiếng Việt, bảo đảm được hiểu theo nhiều cách, nhưng tựu chung lại
cách nhìn truyền thống về bảo đảm là sự làm cho chắc chắn, có nghĩa là đã bảo đảm
phải là chắc chắn. Điều đó đòi hỏi trong hoạt động cấp tín dụng là các biện pháp được
đặt ra phải thoả mãn những điều kiện nhất định để giữ cho chắc chắn hoạt động cấp
tín dụng.
Bảo đảm an toàn cho hoạt động cấp tín dụng được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau tuỳ thuộc vào cách thức tiếp cận, mục đích tiếp cận. Nhìn chung, nó thường
được nhìn nhận ở hai góc độ, đó là góc độ kinh tế và góc độ pháp lý:

Với góc độ kinh tế, bảo đảm an toàn cho hoạt động cấp tín dụng được hiểu là
việc các tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp nhất định theo quy định của pháp luật
và yêu cầu của hoạt động tín dụng sao cho đảm bảo cho hoạt động cấp tín dụng an toàn
và hiệu quả. Bảo đảm an toàn cho hoạt động cấp tín dụng không đơn thuần chỉ được
xem xét trong hoạt động cấp tín dụng mà phải đặt nó trong một chỉnh thể, bởi hoạt động

của các TCTD luôn có sự ràng buộc chặt chẽ giữa các khâu, các giai đoạn. Bên cạnh đó,
hậu quả do những rủi ro mà nó mang lại là rất lớn, có thể ảnh hưởng tới toàn bộ nền
kinh tế. Do đó, không chỉ giới hạn vấn đề bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng mà cần
phải xem xét cả các vấn đề khác có liên quan. Các biện pháp được đặt ra trong quá trình
hoạt động của TCTD có thể là các biện pháp mà pháp luật quy định như: Các tỷ lệ an
toàn trong hoạt động tín dụng; Các giới hạn tín dụng; Dự phòng rủi ro; Các biện pháp tổ


6

chức cũng như nghiệp vụ của chính TCTD và các biện pháp khác theo yêu cầu nhằm
đảm bảo cho hoạt động cấp tín dụng tránh, hạn chế, giảm thiểu hoặc khắc phục được
những rủi ro trong quá trình thực hiện mang lại.

Với góc độ pháp lý, bảo đảm an toàn cho hoạt động cấp tín dụng được hiểu là
một chế định pháp luật, bao gồm tổng thể các quy định pháp luật về các biện pháp
mà các tổ chức tín dụng phải thực hiện để bảo đảm cho hoạt động cấp tín dụng được
an toàn. Nói cách khác, đó là những điều kiện mà pháp luật ràng buộc đối với các
TCTD. Những điều kiện này thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: Có thể là
những việc không được làm; Những việc chỉ được thực hiện tới một giới hạn nhất
định; Hoặc những việc chỉ được thực hiện với các điều kiện kèm theo. Việc quy định
những điều kiện này phải đặt trong mối quan hệ với hoạt động kinh doanh của
TCTD. Dù sao nhìn nhận từ góc độ này, có thể thấy được sự kiểm soát của Nhà nước
đối với hoạt động tín dụng thông qua việc ban hành ra các quy định pháp luật điều
chỉnh.
Như vậy, có thể nhận xét bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng dưới góc
độ kinh tế có nội hàm rộng hơn so với cách hiểu theo góc độ pháp lý. Điều này được lý
giải bởi các biện pháp bảo đảm mà TCTD thực hiện trước hết là các biện pháp pháp lý,
bên cạnh đó còn có các biện pháp được chính các TCTD xác lập và thực hiện theo yêu
cầu của hoạt động tín dụng trên cơ sở không trái pháp luật.

Pháp luật bảo đảm an toàn cho hoạt động cấp tín dụng là một bộ phận quan trọng
của pháp luật ngân hàng. Mục đích điều chỉnh và hiệu quả tác động của nó chính là sự
phản ánh mục đích điều chỉnh và hiệu quả tác động của pháp luật ngân hàng. Nội dung
của pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng không chỉ bao gồm những
quy định của pháp luật về vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng, khi
xem xét cần phải có một cách nhìn toàn diện. Vì an toàn trong hoạt động cấp tín dụng
không đơn giản chỉ là sự an toàn riêng trong hoạt động cấp tín dụng. Nhìn về tổng thể,
sự an toàn đó đòi hỏi phải là cả một quá trình từ giai đoạn hình thành, trong quá trình
phát triển của các hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, việc tìm hiểu các quy định của nó
cần phải đặt ra một giới hạn nhất định để tránh tình trạng lan man không cần thiết, tập
trung vào những vấn đề cơ bản, thiết yếu nhất thể hiện một cách tương đối đầy đủ nội
dung của pháp luật bảo đảm an toàn cho hoạt động cấp tín dụng.


7

1.1.2 Sự cần thiết của pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tín dụng ngày càng tăng trưởng với một tốc
độ chóng mặt, các nguồn vốn huy động trong xã hội ngày càng lớn. Tốc độ giải ngân
nhanh chóng đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết những nhu cầu bức xúc
về vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm tăng khả năng lưu thông của tiền tệ
trong nền kinh tế. Những tiện ích mà hoạt động tín dụng mang lại ngày càng thể hiện rõ
nét, in đậm dấu ấn trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
những nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng cũng ngày càng phát triển ở một mức
độ tinh vi hơn mà dường như không thể dự đoán được khả năng xảy ra. Cho nên, cùng
với sự đa dạng hoá của hoạt động tín dụng, sự phát triển của rủi ro cũng ngày càng gia
tăng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau:

Một là, đối tượng kinh doanh của hoạt động tín dụng là tiền tệ. Tiền tệ đóng vai
trò là vật ngang giá chung trên thị trường, là thước đo giá trị của mỗi quốc gia, nó phản

ánh tốc độ tăng trưởng cũng như sức mạnh của nền kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên
giá trị của đồng tiền chỉ có tính ước lệ, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chi phối. Khi những
yếu tố này thay đổi cũng kéo theo sự thay đổi giá trị đồng tiền mà hoạt động tín dụng là
hoạt động có quan hệ trực tiếp với tiền tệ cho nên chịu ảnh hưởng rất lớn.

Hai là, trong nền kinh tế thị trường, những sự kiện kinh tế thường xuyên biến
động, thay đổi. Đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các TCTD, đồng thời cũng
luôn tiềm ẩn những nguy cơ. Các quan hệ trong kinh doanh thường diễn ra trong một
thời gian dài, trong mối quan hệ với các TCTD đã tạo lên những khoản vay với thời hạn
lâu dài. Điều đó ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán của các TCTD. Mặt khác, với
thời gian dài như vậy có thể phát sinh những yếu tố, những sự kiện dù là chủ quan hay
khách quan tác động xấu đến khả năng thu hồi vốn của các TCTD.

Ba là, xuất phát từ chính bản thân các TCTD. Quá trình thu thập và xử lý thông
tin để phục vụ cho hoạt động tín dụng, nhất là công tác thẩm định hồ sơ, các hoạt động
phân tích, dự báo, dự đoán những biến đổi trên thị trường, định giá tài sản còn thể hiện
sự yếu kém và hạn chế. Có thể là do trình độ nghiệp vụ còn non yếu hoặc do những
thông tin từ phía khách hàng không chính xác. bên cạnh đó, cũng phải thừa nhận chúng
ta chưa có một cơ chế kiểm soát thông tin có hiệu quả.
Những rủi ro trong hoạt động tín dụng rất đa dạng. Đó có thể là những rủi ro tự
nhiên, những rủi ro về kinh tế, những rủi ro trong hoạt động quản lý hoặc những rủi ro
có thể phát sinh khi có sự thay đổi của pháp luật Trong các loại rủi ro đó, có loại rủi ro


8

có thể kiểm soát được và có loại rủi ro không thể kiểm soát được. Nhiệm vụ của pháp
luật là hạn chế tối đa những rủi ro có thể kiểm soát được.
Bên cạnh những rủi ro, hoạt động tín dụng đã tạo ra liên kết chặt chẽ giữa các
TCTD, bởi tính chất đặc biệt của nó. Khi có rủi ro xảy ra, hậu quả không chỉ dừng lại tại

một tổ chức mà sẽ kéo theo một loạt các tổ chức khác bị ảnh hưởng, bởi hoạt động tín
dụng không thể diễn ra một cách đơn lẻ, mà phải liên kết thành một hệ thống có tổ
chức. Mặt khác, hoạt động tín dụng dựa trên uy tín, nếu một tổ chức mà mất khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn, sẽ gây tâm lý hoang mang cho khách hàng và ảnh
hưởng xấu tới niềm tin của khách hàng đối với các TCTD khác.
Chính vì thế, nhằm hạn chế, khắc phục những hậu quả có thể xảy ra trong quá
trình thực hiện hoạt động tín dụng, yêu cầu pháp luật cần phải quy định những biện
pháp bảo đảm cần thiết duy trì trạng thái ổn định cho hoạt động tín dụng. Việc quy định
này, phản ánh thái độ của Nhà nước trong việc thực hiện quản lý, phản ánh được mối
tương quan của pháp luật đối với những diễn biến trong đời sống kinh tế xã hội.
Những biện pháp được đặt ra với mục đích tạo ra được sự bảo đảm, ít nhất cũng
có thể khắc phục được những rủi ro xảy ra. Những biện pháp này thường xuyên được
điều chỉnh tuỳ thuộc vào từng thời điểm nhất định, khi những điều kiện chi phối nó thay
đổi, những điều kiện này có thể xuất phát từ chính những hoạt động kinh doanh của các
TCTD, từ sự biến động trong tăng trưởng kinh tế, hoặc xét theo một khía cạnh khác, có
thể từ yếu tố chính trị.
Hoạt động tín dụng cũng là hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, các TCTD
cần phải được tự chủ trong hoạt động kinh doanh của mình. Điều đó cũng phần nào
phản ánh quyền tự do kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Để xây dựng được
những biện pháp hợp lý, phát huy hiệu quả cao, mặt khác phản ánh khả năng kiểm soát
của Nhà nước đối với hoạt động tín dụng, cần có những đánh giá khoa học trên cơ sở
tình hình thực tế, cũng như điều kiện của mỗi loại hình TCTD.
1.2. Nhng vn c bn ca phỏp lut bo m an ton trong hot ng cp
tớn dng

1.2.1 Pháp luật bảo đảm an toàn trong giai đoạn hình thành tổ chức tín dụng
Các quy định của pháp luật thành lập một TCTD có ý nghĩa rất lớn, ngoài việc
tạo ra một chủ thể mới cho nền kinh tế, còn góp phần hạn chế những rủi ro có thể xảy ra
đối với TCTD ngay từ khi thành lập.
Theo các quy định trước đây, việc thành lập một TCTD phải trải qua hai thủ tục

khác nhau, do hai cơ quan khác nhau thực hiện, đó là thủ tục thành lập và thủ tục cấp


9

phép hoạt động. Điều đó gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu thành lập.
Để đơn giản hóa thủ tục, tạo ra một đầu mối thống nhất trong việc thành lập, Luật các
Tổ chức tín dụng năm 1997 đã quy định Ngân hàng Nhà nước là cơ quan có thẩm
quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho tổ chức tín dụng.
Theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng, để được cấp phép thành lập và
hoạt động một TCTD ở Việt Nam thì phải tuân thủ các điều kiện sau:

Một là, có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn xin hoạt động. Hiệu quả
hoạt động của TCTD chỉ đảm bảo khi được đặt trong môi trường nhất định. Điều đầu
tiên quyết định đến hiệu quả đấy là nhu cầu hoạt động ngân hàng tại địa bàn, thông qua
việc đáp ứng các nhu cầu của khách hàng mà những quan hệ tín dụng được thiết lập.
Tuy nhiên, nhu cầu là có hạn, trường hợp xuất hiện quá nhiều TCTD dẫn đến tình trạng
thị phần bị chia nhỏ, hiệu quả trong hoạt động tín dụng giảm, điều đó ảnh hưởng lớn
đến sự tồn tại và phát triển của các TCTD. Mặt khác, với tư cách là chủ thể quản lý,
hoạch định chính sách phát triển của hệ thống các TCTD, đòi hỏi Nhà nước phải có
những can thiệp nhất định đảm bảo cho khả năng phát triển của hoạt động tín dụng.

Hai là, phải có đủ vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu mà pháp luật
quy định đối với các tổ chức tín dụng, là cơ sở đảm bảo cho khả năng tiến hành hoạt
động của các TCTD. Mức vốn pháp định cụ thể của mỗi loại hình tổ chức tín dụng do
Chính phủ quy định và được điều chỉnh trong từng thời kỳ căn cứ vào nhiều yếu tố khác
nhau, có thể dựa vào: Loại hình tổ chức tín dụng; Hình thức hoạt động tín dụng; Những
diễn biến trong nền kinh tế hay các yếu tố khác. Một số quốc gia quy định mức vốn
pháp định chung cho các TCTD không căn cứ vào loại hình hoạt động. Theo Luật ngân
hàng thương mại Trung Quốc năm 1995, mức vốn thấp nhất cho việc thành lập một

ngân hàng thương mại là 1 tỷ nhân dân tệ (RMB) [2, tr 8]. Hiện nay, đối với nhiều lĩnh
vực trong hoạt động kinh doanh, pháp luật đã bỏ những quy định về vốn pháp định.
Nhưng đối với hoạt động tài chính ngân hàng, do tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng
đối với nền kinh tế, nên vẫn cần thiết phải duy trì điều kiện vốn pháp định như là một
biện pháp an toàn tín dụng, phòng tránh rủi ro.

Ba là, thành viên sáng lập TCTD phải là tổ chức, cá nhân có uy tín và năng lực tài
chính. Hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh doanh rất phức tạp có đối tượng kinh
doanh đặc biệt là tiện tệ, đòi hỏi bản thân TCTD phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh để
đảm bảo tiến hành hoạt động, xử lý được các rủi ro trong kinh doanh mang lại. Mặt
khác, đây là hoạt động mà uy tín có ảnh hưởng rất lớn. Do đó, để hình thành lên uy tín
và năng lực tài chính của TCTD, đòi hỏi cả một quá trình nỗ lực và hoàn thiện. Trong


10

đó, trước tiên phải tạo dựng ngay từ giai đoạn đầu, cụ thể là từ những chủ thể đứng ra
thành lập, đó là các sáng lập viên. Đây là nhân tố rất quan trọng phản ánh khả năng thiết
lập những quan hệ của TCTD ngay từ lúc mới thành lập.

Bốn là, người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ
chuyên môn phù hợp với từng loại hình TCTD. Những người này là nhân tố đem lại
thành công trong hoạt động của TCTD. Kết quả hoạt động của họ phản ánh kết quả hoạt
động của TCTD, phản ánh thông qua khả năng quản lý, điều hành, xử lý những tình
huống xảy ra trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, họ cũng gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoạt động tín dụng nếu năng lực kém hoặc không khách quan trong công việc.
Chính vì thế, pháp luật cũng định ra những chuẩn mực nhất định đối với những người
này, thể hiện ở quy định tiêu chuẩn để trở thành thành viên Hội đồng quản trị, người
điều hành trong các TCTD, hạn chế một số đối tượng không được đảm nhận các chức
vụ trên.


Năm là, có điều lệ tổ chức và hoạt động phù hợp với quy định của Luật các Tổ
chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Điều lệ phản ánh tương đối đầy đủ
các nội dung trong tổ chức và hoạt động của một TCTD. Nội dung của điều lệ bao hàm
những giá trị pháp lý quan trọng, một mặt xác nhận yếu tố tổ chức, quản lý trong TCTD,
mặt khác là sự bảo đảm đối với các đối tác trong kinh doanh. Pháp luật quy định rất chặt
chẽ về hiệu lực của điều lệ: Một điều lệ chỉ được coi là hợp pháp và có hiệu lực pháp lý
khi đã được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.

Sáu là, có phương án kinh doanh khả thi. Đây là yếu tố phản ánh hiệu quả hoạt
động của TCTD. Một phương án kinh doanh được xây dựng tốt sẽ đem lại khả năng sinh
lợi cao và ngược lại, nó sẽ không đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động tín dụng và
hậu quả lớn nhất có thể xảy ra là tình trạng thua lỗ dẫn đến sự sụp đổ của các TCTD.
Ngay từ khi mới thành lập, việc buộc các chủ thể phải xây dựng phương án kinh doanh
là rất cần thiết. Qua phương án kinh doanh được đề xuất, Ngân hàng Nhà nước xem xét
có thể cho phép thành lập hay không.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế, các nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam ngày càng gia tăng. Đặc biệt, yêu cầu hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng, đặt ra cho các TCTD có vốn đầu tư trong nước trước sự cạnh tranh rất lớn. Đảm
bảo thu hút nguồn vốn đầu tư kết hợp hài hoà với bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân
hàng, pháp luật quy định những điều kiện nhất định để được cấp giấy phép thành lập
hoạt động đối với các TCTD có vốn đầu tư nước ngoài. Trong việc thành lập các TCTD
liên doanh, TCTD 100% vốn nước ngoài, ngoài các điều kiện như đối với các TCTD


11

trong nước, còn có thêm các điều kiện: Là TCTD nước ngoài được cơ quan có thẩm
quyền nước ngoài cho phép thực hiện các hoạt động ngân hàng; Các TCTD nước ngoài
được cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cho phép hoạt động tại Việt Nam. Các Ngân

hàng nước ngoài muốn mở chi nhánh tại Việt Nam, ngoài các điều kiện về nhu cầu hoạt
động ngân hàng, vốn pháp định, người quản trị, điều hành thì có thêm các điều kiện:
Được cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cho phép mở chi nhánh ngân hàng tại Việt
Nam; Có văn bản bảo đảm của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài bảo đảm khả năng
giám sát toàn bộ hoạt động của chi nhánh tại Việt Nam; Có văn bản của Ngân hàng
nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh tại
Việt Nam.
Đối với các TCTD đã được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, để tiến hành
hoạt động còn phải có đủ các điều kiện sau: Có điều lệ được Ngân hàng Nhà nước chuẩn
y; Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Có đủ vốn pháp định; Có trụ sở phù hợp với
yêu cầu của hoạt động ngân hàng; Phần vốn điều lệ phải được gửi vào tài khoản phong
toả trước khi hoạt động tối thiểu 30 ngày, số vốn này chỉ dược giải toả sau khi TCTD
hoạt động; Thực hiện chế độ công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng
theo quy định của pháp luật về các nội dung trong giấy phép.
Bên cạnh đó, tránh ảnh hưởng đến hoạt động của cả hệ thống TCTD, bảo đảm an
toàn trong hoạt động tín dụng, pháp luật quy định những trường hợp buộc phải thu hồi
giấy phép hoạt động của các TCTD, cụ thể khi có một trong những căn cứ sau: Có
chứng cứ là trong hồ sơ xin cấp giấy phép có những thông tin làm sai sự thật; Sau 12
tháng kể từ ngày được cấp giấy phép mà vẫn không hoạt động; Tự nguyện hoặc bị cơ
quan có thẩm quyền buộc phải giải thể; Chia, sát nhập, hợp nhất, phá sản; Hoạt động sai
mục đích; Không có đủ các điều kiện tiến hành hoạt động đã nêu trên.
1.2.2 Pháp luật bảo đảm an toàn trong quá trình cấp tín dụng của tổ chức tín dụng

1.2.2.1 Pháp luật bảo đảm an toàn trong các hoạt động cấp tín dụng
Theo quy định tại Điều 49 Luật các Tổ chức tín dụng "Tổ chức tín dụng được cấp
tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và
các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước". Qua quy định này, có thể thấy rõ các hình thức cấp tín
dụng cơ bản của hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, xét về khía cạnh bảo đảm an toàn, đối
với mỗi hình thức khác nhau của hoạt động cấp tín dụng pháp luật cũng có những sự

điều chỉnh khác nhau, cụ thể đối với từng hoạt động như sau:
* Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay


12

Cho vay là hình thức cấp tín dụng cơ bản và chủ yếu của các TCTD, là biểu hiện
đặc trưng nhất của hoạt động tín dụng. Các TCTD có thể cho vay theo hình thức,
phương thức, thời hạn khác nhau, điều đó tuỳ thuộc vào nhu cầu và mục đích sử dụng
vốn vay của khách hàng với những bảo đảm cần thiết cho việc vay vốn. Vì cho vay ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của các TCTD, đối với những khoản vay với
thời hạn dài thường kéo theo sự thâm hụt nguồn vốn tín dụng. Mặt khác, thời hạn vay
dài luôn tiềm ẩn rủi ro có thể xảy ra, bởi lượng vốn vay thường rất lớn, nên pháp luật
quy định rất chặt chẽ để bảo đảm an toàn trong hoạt động này.

Thứ nhất, khách hàng phải thoả mãn điều kiện vay vốn
Pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều quy định điều kiện đối với khách hàng
vay rất cụ thể. Theo pháp luật tín dụng Đức, khách hàng vay phải trình bày các mối
quan hệ kinh tế, đặc biệt là phải xuất trình bản quyết toán năm theo yêu cầu và TCTD
có thể bỏ qua việc xem xét nếu có những tín thế cần thiết hoặc đã có những người đồng
trách nhiệm [2, tr 57]. Đây là quy định khá thông thoáng, tạo điều kiện cho các TCTD
được chủ động lựa chọn khách hàng cho vay và tạo cơ hội cho khách hàng có thể tiếp
cận nguồn vốn tín dụng dễ dàng.
Theo pháp luật Việt Nam, trong Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, điều kiện đối với khách hàng được quy định :
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo
quy định của pháp luật; Có khả năng tài chính bảo đảm trả nợ trong thời hạn cam kết;
Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp; Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh
dịch vụ khả thi, có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi
kèm theo phương án trả nợ khả thi; Phải thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay của

Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Những điều kiện đối với khách hàng là một biện pháp bảo đảm an toàn đối với
hoạt động cho vay. Tuy nhiên, điều đó chỉ có ý nghĩa đối với khách hàng vay, còn việc
cho vay hay không, quyền quyết định thuộc về các TCTD.

Thứ hai, yêu cầu thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay là việc các TCTD áp dụng các biện pháp phòng ngừa, khắc
phục rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay.
Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 và Nghị định 85/2002/NĐ-CP ngày
25/10/2002 quy định các biện pháp bảo đảm tiền vay: Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng
tài sản và biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản.


13

Đối với biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản: Đây là việc vay vốn của các
TCTD mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bảo đảm thực hiện bằng
tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Bảo đảm bằng tài sản chiếm một vị trí vô cùng quan trọng và mang tính quyết
định đến khả năng thu hồi nguồn tín dụng đã cấp. Tuy nhiên, không phải có tài sản bảo
đảm là không có rủi ro, bởi chính từ các tài sản bảo đảm lại là nguyên nhân xuất hiện
rủi ro. Pháp luật quy định chặt chẽ điều kiện của tài sản bảo đảm: tài sản phải thuộc sở
hữu của khách hàng vay, bên bảo lãnh, được phép giao dịch, không có tranh chấp, có giá
trị lớn hơn giá trị khoản vay và đối với tài sản pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì
khách hàng vay, bên bảo lãnh phải mua bảo hiểm tài sản bảo đảm trong thời hạn bảo
đảm.
Đối với tài sản hình thành từ vốn vay, tài sản đó phải xác định được quyền sở hữu
hoặc quyền quản lý, sử dụng, xác định được giá trị, số lượng và được phép giao dịch.

Tài sản là vật tư, hàng hoá còn đòi hỏi khả năng quản lý, giám sát của TCTD. Tài sản
mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì khách hàng vay phải cam kết mua bảo
hiểm trong suốt thời hạn vay vốn.
Việc xác định giá trị của tài sản bảo đảm áp dụng tại thời điểm ký kết hợp đồng
bảo đảm là cơ sở để xác định mức cho vay chứ không áp dụng khi xử lý tài sản để thu
hồi nợ. Đối với tài sản bảo đảm tiền vay không phải là quyền sử dụng đất thì việc xác
định giá trị tài sản do các bên thoả thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn
xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại giá
khác.
Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất có quy định riêng do
đặc thù của quyền sử dụng đất. Theo quy định của pháp luật đất đai, đất được chia làm
nhiều loại khác nhau, căn cứ vào hình thức giao đất hay tính chất của mỗi loại đất. Vì
vậy, cách thức xác định giá trị mỗi loại đất cũng khác nhau.
Bên cạnh đó, pháp luật quy định một tài sản được dùng để bảo đảm cho một
nghĩa vụ trả nợ tại một TCTD. Trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy
định của pháp luật, một tài sản có thể được bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trả nợ tại nhiều
TCTD vì đối với những tài sản có đăng ký quyền sở hữu, các TCTD có thể kiểm soát
được mức độ nghĩa vụ mà tài sản đó bảo đảm thông qua các quy định của pháp luật về
chuyển quyền sở hữu hay đăng ký giao dịch bảo đảm.


14

Đối với biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản. Pháp luật quy định những biện pháp bảo đảm trong trường hợp cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản là: TCTD chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản; TCTD nhà nước được cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản theo chỉ định của Chính phủ; TCTD cho các cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có
bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.


Thứ ba, tuân thủ hình thức pháp lý của quan hệ cho vay
Hình thức pháp lý của quan hệ cho vay là hợp đồng tín dụng được thiết lập trên
cơ sở thoả thuận của các bên. Do tính chất của quan hệ tín dụng, nên hợp đồng do các
bên xây dựng phải thoả mãn các điều kiện nhất định, cụ thể:

Về hình thức, hợp đồng tín dụng phải được lập thành văn bản, bởi chỉ với hình
thức này mới thể hiện đầy đủ giá trị pháp lý, là bằng chứng xác thực cho việc giao kết
hợp đồng giữa các bên, giúp cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện công vụ tốt hơn và
thông báo cho bên thứ ba có liên quan về việc giao kết này.

Về nội dung, hợp đồng bao gồm các điều khoản và cam kết do các bên thoả
thuận, thể hiện được đầy đủ các điều khoản của một hợp đồng tín dụng theo quy định
của pháp luật, đó là: Điều kiện vay; Mục đích sử dụng tiền vay; Cách thức giải ngân và
sử dụng vốn vay; Số tiền vay; Lãi suất; Thời hạn vay; Giá trị tài sản bảo đảm; Biện pháp
xử lý tài sản bảo đảm; Chuyển nhượng hoặc không chuyển nhượng hợp đồng tín dụng;
Các cam kết khác của các bên không trái pháp luật.
Những quy định về hình thức và nội dung của hợp đồng tín dụng là hết sức quan
trọng và cần thiết cho các quan hệ tín dụng, bởi nó xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các
bên, là cơ sở đảm bảo hiệu quả và an toàn tín dụng.

Thứ tư, thực hiện cho vay trong phạm vi quy định
Tránh rủi ro xảy ra tập trung, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các
TCTD, pháp luật giới hạn tỷ lệ cho vay của TCTD đối với một khách hàng: Tổng dư nợ
cho vay của một TCTD đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của
TCTD, trừ trường hợp đối với những khoản vay từ nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ,
của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là TCTD khác. Theo pháp luật
Trung Quốc thì tỷ lệ này là 10% vốn của ngân hàng [2, tr 14].
Để bảo đảm an toàn nguồn vốn vay, khả năng kiểm soát đối với hoạt động tín
dụng, pháp luật buộc các TCTD phải thực hiện việc báo cáo Ngân hàng Nhà nước
(thông qua Trung tâm tín dụng Ngân hàng Nhà nước) các khách hàng có tổng dư nợ tiền

vay từ 5% trở lên so với vốn tự có của TCTD đó.


15

Mặt khác, nhằm giải quyết nhu cầu của khách hàng vượt quá giới hạn cho phép
đối với một TCTD hay do yêu cầu của khách hàng cần phải vay vốn tại nhiều TCTD, thì
các TCTD được phép cho vay hợp vốn. Đối với các đối tượng hạn chế cho vay thì tổng
dư nợ cho vay đối với họ không vượt quá 5% vốn tự có của TCTD.
Bên cạnh đó, pháp luật quy định TCTD không được cho vay các đối tượng: Số
tiền phải nộp trực tiếp cho Ngân sách Nhà nước (trừ số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu
khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu mà giá trị lô hàng đó TCTD
có tham gia cho vay); Số tiền để trả nợ gốc và lãi vay cho TCTD khác; Số lãi tiền vay trả
cho chính TCTD cho vay vốn, trừ số lãi tiền vay trả cho TCTD cho vay trong thời hạn
thi công, chưa bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay trung hạn và
dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định mà khoản trả lãi được tính trong giá trị tài sản cố
định đó.

Thứ năm, chấm dứt cho vay và xử lý thu hồi nợ
Đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay, pháp luật quy định quyền chấm dứt
việc cho vay, xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ của TCTD trước thời hạn trong hợp đồng
khi khách hàng vi phạm những cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Khi khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết, cụ thể
là hoàn trả gốc lẫn lãi vay đúng thời hạn, các TCTD được xử lý các tài sản bảo đảm tiền
vay để thu hồi nợ. Việc xử lý này tuân theo những nguyên tắc nhất định:

Một là, tài sản bảo đảm tiền vay được xử lý theo phương thức mà các bên thoả
thuận trong hợp đồng. Trường hợp không xử lý được theo phương thức đó, TCTD có
quyền: Bán; Chuyển nhượng tài sản cấm cố, thế chấp để thu hồi nợ; Yêu cầu bên bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết thì xử lý tài sản bảo đảm của bên bảo lãnh. Để đa
dạng hoá việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, pháp luật đưa ra nhiều phương thức xử lý
tài sản bảo đảm. Cụ thể: TCTD có thể bán tài sản bảo đảm; TCTD nhận chính tài sản
bảo đảm đó để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm hoặc TCTD được trực
tiếp nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ bên thứ ba trong trường hợp bên thứ ba có nghĩa
vụ trả tiền hoặc tài sản cho khách hàng vay, bên bảo lãnh.

Hai là, TCTD có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên thứ
ba xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Trường hợp này, bên thứ ba cũng có quyền xử lý tài
sản bảo đảm để thu hồi nợ, thực chất đây là quan hệ mua bán nợ.
Việc mua bán nợ trên thế giới đã diễn ra từ lâu và được chuyên nghiệp hoá như
một dịch vụ kinh doanh. ở Việt Nam điều này là rất mới mẻ, trước đây việc mua bán nợ


16

chỉ diễn ra giữa các TCTD, xuất hiện dựa trên quan hệ tương trợ thanh khoản, giúp đỡ
tín dụng lẫn nhau trong một hệ thống. Tuy nhiên, phù hợp với tình hình phát triển của
hoạt động tín dụng, đến Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999, việc chuyển giao
này sẽ cho một tổ chức kinh tế có ngành nghề đặc biệt là mua bán nợ.

Ba là, việc xử lý tài sản bảo đảm theo thoả thuận của các bên, phải thực hiện
nhanh chóng, công khai, bảo đảm lợi ích của các bên. Trường hợp không xử lý được do
không thoả thuận được giá bán, thì TCTD có quyền quyết định giá bán, quy định này
tạo ra một đặc quyền cho các TCTD, đó là có thể chủ động về giá bán.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trường hợp tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ
trả nợ, nếu phải xử lý để đảm bảo cho một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy
chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn và được xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Bên
cạnh đó, pháp luật cũng quy định thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ trong quá trình
xử lý tài sản và quan trọng hơn pháp luật buộc khách hàng vay, bên bảo lãnh phải chịu

trách nhiệm đến cùng đối với khoản vay khi tài sản bảo đảm không đủ để thực hiện
nghĩa vụ trả nợ.
* Pháp luật đảm bảo an toàn trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Luật các Tổ chức tín dụng, Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo
Quyết định 283/2000/QĐ-NHNN4 ngày 25/08/2000 quy định: Bảo lãnh ngân hàng là
cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ
tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên có quyền. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho
tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Trên cơ sở những nghĩa vụ mà bảo lãnh ngân hàng đảm bảo, pháp luật chia thành
nhiều loại hình bảo lãnh khác nhau. Cùng với nó, tính chất, mức độ đảm bảo tài chính
của các TCTD thực hiện việc bảo lãnh là khác nhau. Có thể là: Bảo lãnh vay vốn; Bảo
lãnh dự thầu; Bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ; Bảo lãnh đối ứng hoặc các loại hình bảo lãnh
khác phù hợp với quy định của pháp luật. Đảm bảo an toàn cho hoạt động bảo lãnh ngân
hàng, pháp luật quy định rất chặt chẽ:

Thứ nhất, điều kiện đối với khách hàng được bảo lãnh
TCTD xem xét và quyết định bảo lãnh khi khách hàng là các tổ chức, cá nhân
thoả mãn các điều kiện: có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự
theo quy định của pháp luật, có mục đích đề nghị TCTD bảo lãnh là hợp pháp, có đảm
bảo hợp pháp cho nghĩa vụ được bảo lãnh, có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ
được bảo lãnh trong thời hạn cam kết.


17

Đối với trường hợp bảo lãnh có yếu tố nước ngoài (bên nhận bảo lãnh hoặc bên
được bảo lãnh là tổ chức, cá nhân nước ngoài) hoặc bảo lãnh thương phiếu, ngoài các
điều kiện trên, khách hàng phải tuân thủ và thực hiện các yêu cầu pháp luật có liên quan
khác.


Thứ hai, tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh trong phạm vi quy định
Hạn chế rủi ro phát sinh nằm ngoài khả năng kiểm soát của TCTD, pháp luật quy
định giới hạn bảo lãnh đối với một khách hàng của TCTD. Cụ thể:

Một là, TCTD có thể bảo lãnh một, một số hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho các loại
nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đến khoản
vay; Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị và các khoản chi
phí để khách hàng thực hiện các dự án hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
đời sống, đầu tư phát triển; Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính
khác đối với Nhà nước; Nghĩa vụ của khách hàng tham gia dự thầu, thực hiện hợp đồng
theo quy định của pháp luật; Các nghĩa vụ hợp pháp khác do các bên thoả thuận cam kết
trong các hợp đồng liên quan.

Hai là, tổng số dư bảo lãnh cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự
có của TCTD. Trường hợp phải trả thay khách hàng dẫn đến tình trạng tổng dư nợ cho
vay và dư nợ do trả thay vượt quá 15% vốn tự có thì TCTD phải ngừng ngay việc cho
vay và bảo lãnh mới đối với khách hàng đó, đồng thời thu hồi nợ để đảm bảo tổng mức
dư nợ cho vay đối với khách hàng theo đúng quy định.
Pháp luật quy định việc nhiều TCTD đồng bảo lãnh cho một nghĩa vụ trong các
trường hợp: Nghĩa vụ vượt quá giới hạn bảo lãnh của một TCTD; Khả năng tài chính và
nguồn vốn của một TCTD không đáp ứng được nhu cầu cấp tín dụng của dự án; Bên
nhận bảo lãnh có yêu cầu sự bảo lãnh từ các TCTD khác nhau; Hoặc các TCTD san sẻ
rủi ra cho nhau. Việc đồng bảo lãnh tuân thủ theo Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức
tín dụng ban hành kèm theo Quyết định 286/2002/QĐ-NHNN ngày 03/04/2002 và
Quyết định 886/2003/QĐ-NHNN ngày 11/08/2003.


18


Thứ ba, tuân thủ hình thức pháp lý của quan hệ bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động phức tạp. Trong hoạt động này, việc bảo
lãnh của TCTD là một hình thức bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ trong một
quan hệ khác và là điều kiện cần và đủ để thực hiện quan hệ đó. Xét riêng hoạt động bảo
lãnh, ở đây xuất hiện hai mối quan hệ, quan hệ giữa bên bảo lãnh với người được bảo
lãnh (khách hàng) và quan hệ giữa bên bảo lãnh với người nhận bảo lãnh. Chính vì mối
quan hệ phức tạp đó, pháp luật quy định rất cụ thể hình thức của hoạt động này, cụ thể
tồn tại hai loại hợp đồng:

Một là, hợp đồng dịch vụ bảo lãnh, được xác lập giữa TCTD bảo lãnh với bên được bảo lãnh (khách hàng) là người có nghĩa vụ bảo lãnh. Hình thức của hợp đồng có thể
là việc xác nhận của TCTD đối với đơn đề nghị bảo lãnh của khách hàng hoặc các bên
lập thành một hợp đồng với những điều khoản cụ thể. Đó là căn cứ xác lập các quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lãnh, là cơ sở giải quyết khi có mâu thuẫn phát
sinh trong quá trình thực hiện cũng như chấm dứt việc bảo lãnh.

Hai là, hợp đồng bảo lãnh, là văn bản mà TCTD đưa ra cho bên nhận bảo lãnh
cam kết bảo lãnh cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh và được bên nhận bảo lãnh chấp
thuận. Trong đó, bảo đảm đầy đủ các yêu cầu về nội dung liên quan đến việc bảo lãnh.
Và nó chính là một biện pháp bảo đảm cho một quan hệ được thực hiện.
Giữa hai loại hợp đồng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và song song tồn
tại trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của TCTD, hợp đồng dịch vụ bảo lãnh
làm phát sinh hợp đồng bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh là căn cứ để chứng minh cho
việc xác lập hợp đồng dịch vụ bảo lãnh.

Thứ tư, chấm dứt bảo lãnh, thu hồi khoản tín dụng đã ứng trước
Theo Quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000, việc bảo lãnh phải
chấm dứt trong các trường hợp: Nghĩa vụ bảo lãnh đã được TCTD thực hiện đầy đủ;
Nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định của pháp luật; Bên được bảo lãnh đã thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình với bên nhận bảo lãnh; Bên nhận bảo lãnh đồng ý huỷ bỏ
bảo lãnh hoặc thay thế biện pháp bảo lãnh bằng biện pháp bảo đảm khác theo thoả

thuận; Thời hạn của bảo lãnh đã hết hiệu lực nếu có thoả thuận trước hoặc các bên có
thể thoả thuận chấm dứt quan hệ bảo lãnh.
Bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh chỉ đặt ra khi TCTD buộc phải thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh. Trong trường hợp này, TCTD phải ứng trước một khoản tín dụng và có
quyền yêu cầu bên được bảo lãnh (khách hàng) bồi hoàn lại. Pháp luật quy định trường
hợp đã nhận được yêu cầu bồi hoàn mà khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện


19

không hết nghĩa vụ đối với TCTD thì quá thời hạn thoả thuận, nếu có thể thoả thuận
tiếp vì lý do khách quan, việc hoàn trả sẽ được xác định lại và TCTD có thể gia hạn
cho khách hàng. Trường hợp không thoả thuận được, khách hàng phải chịu lãi suất nợ
quá hạn do các bên thoả thuận đối với số tiền đã được TCTD trả thay để thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh nhưng không vượt quá 150% lãi suất trong hợp đồng vay vốn giữa
khách hàng và bên nhận bảo lãnh (trường hợp bảo lãnh vay vốn), hoặc lãi xuất cho vay
ngắn hạn mà TCTD thực hiện (đối với các loại bảo lãnh khác), kể từ ngày thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh.
Bên cạnh đó, TCTD bảo lãnh có quyền thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm hoặc
trích từ tài khoản của khách hàng (nếu có thoả thuận) hoặc khởi kiện ra cơ quan có thẩm
quyền để yêu cầu thu hồi khoản tín dụng đã ứng trước.
Trong trường hợp TCTD đứng ra bảo lãnh cho một nghĩa vụ mà nhiều khách
hàng cùng tham gia thực hiện, thì các khách hàng hoàn trả lại cho TCTD theo tỷ lệ
tương ứng với phần nghĩa vụ của mình trong nghĩa vụ chung. Nếu một trong số các bên
tham gia không thực hiện được phần nghĩa vụ của mình, TCTD có quyền yêu cầu bất kỳ
bên nào trong số các bên tham gia phải thực hiện phần nghĩa vụ đó, đây là một dạng của
nghĩa vụ liên đới.
* Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động chiết khấu
Chiết khấu giấy tờ có giá là một nghiệp vụ tín dụng truyền thống của các TCTD
trong điều kiện kinh tế thị trường, nhằm khắc phục trường hợp ứ đọng vốn trong các

giao dịch thương mại, đặc biệt là trong hoạt động mua bán chịu hàng hoá.
Chiết khấu là việc TCTD mua thương phiếu, giấy tờ có giá khác của người thụ
hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Đó là hoạt động cấp tín dụng có rủi ro. Tại thời
điểm ký kết hợp đồng chiết khấu, TCTD đã phải bỏ ra một khoản tín dụng, còn việc thu
hồi phải trong thời gian nhất định, trong khoảng thời gian đó những thay đổi bất thường
trong nền kinh tế có thể sẽ khiến cho các giấy tờ có giá mất giá trị, hoặc do chủ thể chịu
trách nhiệm thanh toán không có khả năng thanh toán, điều đó ảnh hưởng đến khả năng
thu hồi vốn của TCTD. Tuy nhiên, với những điều kiện mà pháp luật quy định, rủi ro
trong hoạt động chiết khấu là rất ít.

Thứ nhất, điều kiện đối với các loại giấy tờ có giá được chiết khấu
Nhằm tránh rủi ro cho các TCTD, pháp luật giới hạn những loại giấy tờ có giá
mà các TCTD được phép chiết khấu. Các loại giấy tờ này có khả năng thu hồi vốn cao
và rất an toàn, việc chiết khấu chúng đảm bảo an toàn vốn cho các TCTD, cụ thể:


20

Một là, thương phiếu, bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu. Theo Pháp lệnh thương
phiếu thì thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán không điều
kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định.

Hai là, các loại giấy tờ có giá khác. Theo Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy
tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định
1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15/10/2004, các loại giấy tờ có giá được chiết khấu bao
gồm: Các giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng phát hành theo quy định của Luật tổ chức
tín dụng và hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Tín phiếu Ngân hàng Nhà
nước phát hành theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Các loại trái phiếu
được phát hành theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ tài chính; Các loại tín
phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu do tổ chức khác phát hành và được chiết khấu, tái chiết khấu

theo quy định của pháp luật.
Pháp luật quy định điều kiện đối với các loại giấy tờ có giá để được nhận chiết
khấu. Trong đó về thương phiếu, do đặc thù, nên thương phiếu chịu sự quy định riêng
của pháp luật. Đối với các loại giấy tờ có giá khác, theo Quyết định 1325/2004/QĐNHNN ngày 15/10/2004, phải có các điều kiện: Thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
khách hàng; Chưa đến hạn thanh toán; Được phép giao dịch dưới nhiều hình thức khác
nhau (mua, bán, tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, bảo lãnh, các giao dịch
hợp pháp khác) và được thanh toán theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, tuân thủ phương thức chiết khấu và phạm vi chiết khấu
Trong trường hợp giữa TCTD và khách hàng đã đạt được thoả thuận về việc chiết
khấu các giấy tờ có giá, phải lựa chọn phương thức chiết khấu:
Thông thường, tất cả các loại giấy tờ có giá đều được chiết khấu toàn bộ thời gian
còn lại của giấy tờ có giá, đây là phương thức mua hẳn giấy tờ có giá theo giá chiết khấu
và khách hàng chuyển giao ngay quyền sở hữu giấy tờ có giá cho TCTD. Khi giấy tờ có
giá đến hạn thanh toán, TCTD xuất trình giấy tờ có giá để thanh toán với tổ chức phát
hành. Phương thức này thường áp dụng đối với thương phiếu vì theo quy định pháp luật,
thời hạn thanh toán đối với thương phiếu là ngắn hạn: không quá 180 ngày đối với thương phiếu sử dụng trong hoạt động thương mại và không quá 364 ngày đối với thương
phiếu sử dụng trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam với
thương nhân nước ngoài.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định việc các bên thoả thuận phương thức chiết
khấu có thời hạn, các TCTD mua giấy tờ có giá theo thời hạn và giá chiết khấu đồng
thời kèm theo cam kết của khách hàng về việc mua lại giấy tờ có giá đó vào ngày đáo


21

hạn. Trường hợp hết thời hạn chiết khấu mà khách hàng không thực hiện việc mua lại
giấy tờ có giá, thì TCTD là chủ sở hữu hợp pháp và được hưởng toàn bộ quyền lợi phát
sinh từ giấy tờ có giá đó.
Theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng, các TCTD thực hiện chiết khấu

đối với khách hàng trong một giới hạn nhất định, cụ thể mức chiết khấu đối với một
khách hàng tối đa bằng 15% vốn tự có của TCTD, việc đặt ra giới hạn này chỉ áp dụng
đối với các giấy tờ có giá khác. Đối với thương phiếu do tính an toàn và khả năng thu
hồi vốn cao, nên nó tuân thủ các quy định riêng của pháp luật.

Thứ ba, tuân thủ hình thức pháp lý của quan hệ chiết khấu
Hình thức pháp lý của quan hệ chiết khấu là hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Đây là thoả thuận bằng văn bản giữa TCTD với khách hàng về việc mua lại các giấy tờ
có giá của khách hàng trước kỳ hạn thanh toán theo một phương thức xác định, với điều
kiện khấu trừ ngay một số tiền nhất định, còn gọi là lãi suất chiết khấu theo một tỷ lệ
tương ứng mà các bên thoả thuận trên cơ sở giá trị mà giấy tờ có giá đó mang lại và thời
hạn còn lại của giấy tờ có giá.
Hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá phải bảo đảm đầy đủ các nội dung cơ bản mà
pháp luật quy định, các nội dung đó phản ánh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan
hệ chiết khấu, bên cạnh đó, các bên có thể thoả thuận về các điều khoản liên quan đến
việc chiết khấu phù hợp với các quy định của pháp luật.
Hình thức pháp lý của quan hệ chiết khấu là rất quan trọng, là cơ sở xác định sự
chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp đối với các giấy tờ có giá cho TCTD từ phía khách
hàng, là căn cứ để TCTD yêu cầu khách hàng phải chịu mọi trách nhiệm về tính hợp
pháp, về giá trị của các giấy tờ có giá mang lại vào ngày đáo hạn.

Thứ tư, chấm dứt chiết khấu và thực hiện nghiệp vụ thu hồi vốn
Trường hợp các bên thoả thuận chiết khấu có thời hạn, hết thời hạn trong hợp
đồng, khách hàng phải thực hiện nghĩa vụ cam kết mua lại giấy tờ có giá, khi thực hiện
xong, TCTD chuyển giao lại các giấy tờ có giá và quyền sở hữu các giấy tờ có giá cho
khách hàng. Nếu khách hàng không thực hiện, TCTD sẽ chính thức là chủ sở hữu hợp
pháp và được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh.
Trường hợp chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá thì khi đến
hạn thanh toán, TCTD xuất trình giấy tờ có giá để thanh toán với tổ chức phát hành.
Trường hợp thanh toán thương phiếu, tuân theo các quy định của pháp luật về thương

phiếu.


22

Pháp luật quy định khách hàng phải có trách nhiệm về tính hợp pháp, hợp lệ của
giấy tờ có giá. Bên cạnh đó, các bên có thể thoả thuận về vấn đề bồi thường thiệt hại,
hoặc khi có sự vi phạm, TCTD có quyền khiếu nại, khởi kiện bên vi phạm.
* Pháp luật bảo đảm an toàn cho hoạt động cho thuê tài chính
Theo Nghị định 16/2001/NĐ-CP, cho thuê tài chính được hiểu: là hoạt động tín
dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên
thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động
sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê.
Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê đã được
hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài
sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài
chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất
phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Nguồn vốn mà các Công ty cho thuê tài chính bỏ ra rất lớn và thời gian thuê dài,
nên để tránh các rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới việc thu hồi vốn của các Công ty cho
thuê tài chính, đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng, pháp luật quy định chặt chẽ các
biện pháp bảo đảm trong quá trình thực hiện cho thuê tài chính.

Thứ nhất, phải tuân thủ điều kiện cho thuê tài chính
Theo pháp luật Việt Nam, cho thuê tài chính được thực hiện qua các công ty cho
thuê tài chính, có thể là công ty độc lập hoặc công ty do một TCTD thành lập. Mức vốn
pháp định của công ty cho thuê tài chính được quy định rất chi tiết: Mức vốn pháp định
đối với Công ty cho thuê tài chính cổ phần, Công ty cho thuê tài chính trực thuộc TCTD
là 50 tỷ VND; Mức vốn pháp định đối với Công ty cho thuê tài chính liên doanh, Công

ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 5 triệu USD.
Đối với bên thuê, pháp luật không quy định điều kiện cụ thể mà để các công ty
cho thuê tài chính chủ động trong việc tìm kiếm, lựa chọn khách hàng.
Đối với tài sản cho thuê, phải là tài sản sử dụng hoặc hỗ trợ cần thiết cho hoạt
động kinh doanh của bên thuê. Tài sản cho thuê phải được đăng ký giao dịch tại trung
tâm đăng ký giao dịch bảo đảm, đây là quy định rất cần thiết nhằm đảm bảo an toàn cho
hoạt động cho thuê trên cơ sở xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giao
dịch liên quan đến tài sản cho thuê.


×