Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

20 CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN CHUYÊN ĐỀ VỀ HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG KÌ THI CHUYÊN VIÊN CHÍNH , THANH TRA VIÊN CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.16 KB, 65 trang )

CHUYÊN ĐỀ 2. HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Câu 1. Phân tích các đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN và chỉ
ra sự khác biệt giữa NN pháp quyền tư sản và NN pháp quyền XHCN?
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công và phối
hợp khoa học, hợp lí giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, dồng thời có cơ
chế kiểm soát quyền lực. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật,
quản lí xã hội bằng pháp luật có tính nhân đạo, công bằng, vì lợi ích chính đáng của
con người.
Chúng ta có thể rút ra bốn tiêu chí chung của nhà nước pháp quyền như sau:
- Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật
quy định;
- Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật [đảng phái, tổ
chức, tôn giáo,… phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn nhổ của pháp luật];
- Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp;
- Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ rành, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng
của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội; đặc
biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân[ hoăc con người
nói chung].
Từ 4 tiêu chí trên ta có thể xác định sự khác biệt giữ nhà nước pháp quyền tư
sản và nhà nước pháp quyền XHCN:
1- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản đều phải
thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do
pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây
dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau rất cơ
bản. Rõ nhất là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về
tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực.
2- Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều phải
thừa nhạn tính tối cao của pháp luật, pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và
nguyện vong của toàn thể nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà
nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp


luật tư sản không phải là pháp luật toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý chí,
nguyện vọng của toàn dân, mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ
phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản.


3- Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết’ tam quyền phân lập” là học thuyết cơ
bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp hoàn toàn đọc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc
phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân
dân
4- Về hệ thông pháp luật Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước
pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau.Bên cạnh sự khác nhau về tính
giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận các quy phạm
pháp luật khi nó được xác laapk và thông qua theo một trình tự và thủ tục nhất
định, trong khi đó NN pháp quyền tư sản thường coi “án lệ” hoặc “tập quán”
như một loại quy phạm pháp luật “bất thành văn”.
Câu 2. Những đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN
Khái niệm: NN Pháp quyền XHCN:
Nhà nước pháp quyền XHCN có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là NN thực sự của Nhân dân, do
Nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực NN thộc về Nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Trong khuôn khổ của một chế độ chính trị dân chủ, quyền lực nhà nước phải
được xác lập và thực hiện trên cơ sở ý chí đích thực của người chủ quyền lực, tôn
trọng những quyết định chính trị của Nhân dân.Nhân dân với tư cách là người chủ
quyền lực không chỉ lập nên Nhà nước của mình, trực tiếp và thông qua các cơ
quan đại diện của mình để thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức khác
để tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước.
Do đó, Hiến pháp năm 2013 còn quy định cụ thể hơn các phương thức để

Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng daanchur trực tiếp, bằng dân chủ đại
diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và thông qua của các cơ quan khác
Nhà nước (Điều 6) mà không chỉ thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân như
Hiến pháp năm 1992. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể ‘nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua
Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”
- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và
bảo đảm tính tối cao của Hiếp pháp và luật trong đời sống xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền, ý chí cuarNhaan dân và sự lựa chọn chính trị
được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp.Hiến
pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định chế


độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho sự ổn
định xã hội và sự án toàn của người dân. Trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật là
cơ sở cho hoạt động của các thiết chế quyền lực, còn các thiết chế quyền lực phải
thực sự bảo đảm cho pháp luật có được những thuộc tính công bằng, bình đẳng và
dân chủ. Pháp luật là công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước và xã hội. Do đó phải
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của Nhân dân, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức xã hội.
- Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Sự thống nhất quyền lực thể hiện trước hết ở sự thống nhất về mục đích của
quyền lực: toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân có nghĩa là các cơ quan
nhà nước dù làm nhiệm vụ lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều là cơ quan thống
nhất của nhân dân, để phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Như vậy, quyền lực

nhà nước thống nhất phải thể hiện sự tập trung quyền lực vào các cơ quan đại diện
của dân, trước hết là cơ quan đại diện cao nhất là Quốc hội để có thể thống nhất bảo
vệ một mục tiêu chung là độc lập dân tộc và lợi ích của nhân dân, đất nước và dân
tộc, đi lên CNXH.
Tuy nhiên, mỗi nhánh quyền lực đều có đặc thù riêng và có những đặc điểm
kỹ thuật riêng: hoạt động hành pháp không thể giống với hoạt động lập pháp hay tư
pháp. Do đó, để nâng cao chất lượng hoạt động cần phân công các bộ phận quyền
lực lập pháp, hành pháp và tư pháp cho các cơ quan khác nhau, nhưng sự phân
công này không giống như “ tam quyền phân lập” ở các nước tư bản, không phải là
chia để đối trọng, khống chế lẫn nhau mà các cơ quan thực thi quyền lực này có
mối liên hệ với nhau để đạt mục tiêu chung.
- Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết với Nhân dân; tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Bản chất dân chủ của Nhà nước xét đến cùng thể hiện ở chỗ Nhà nước đó
đem lại lợi ích gì cho Nhân dân.Từ đó, tiêu chí của việc đánh giá hiệu quả hoạt
động của Nhà nước là khả năng phục vụ Nhân dân, là công cụ để Nhân dân làm chủ
về kinh tế, chính trị, xã hội, sử dụng tốt và hiệu quả các quyền lực, thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của mình.
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực hành dân chủ, nâng cao
trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước luôn


được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Phát huy dân chủ nhằm bảo đảm trên
thực tế nguyên tắc “công dân có thể làm tất cả những gì pháp luật không cấm” còn
cán bộ, công chức nhà nước và các cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật
pháp quy định”.
- Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã
tham gia, ký kết, phê chuẩn; thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị hợp
tác, bình đẳng và phát triển cới các nước và dân tộc trên thế giới.
Thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất

cả các nước trên thế giới, chủ động hội nhập quốc tế, trong những năm qua Nhà
nước ta đã ký kết nhiều điều ước và gia nhập các tổ chức quốc tế. Điều ước quốc tế
mà Nhà nước Việt Nam ký kết hoặc tham gia đã và đang trở thành một bộ phận
không thể tách rời của hệ thống pháp luật quốc gia, trong trường hợp điều ước quốc
tế mà Nhà nước ta ký kết hoặc tham gia có quy định khác với các luật chuyên
ngành của Việt Nam thì được ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế.
- Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước và xã hội ở nước ta là một tất yếu lịch sử khách quan, bảo đảm vững
chắc quyền làm chủ của Nhân dân, làm cho Nhà nước luôn luôn nằm trong quỹ đạo
phục vụ Nhân dân, do Nhân dân. Với tư cách là một Đảng cầm quyền, Đảng được
tổ chức và hoạt động với tính chất là một nhân tố quan trọng của cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước.Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trên
những nội dung trọng yếu sau đây:
Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và tổ chức thực hiện thoongqua bộ máy nhà nước, bảo đảm cho
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời
sống toàn xã hội.
Lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân.
Lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và cán
bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, bảo đảm cho các cơ quan nhà
nước và cán bộ, công chức NN thực hiện đúng đường lối chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
Câu 3. Sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước
ta hiện nay.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
xuất phát từ tất yếu kinh tế, là một nhu cầu chính trị khách quan. Thông qua xây



dựng nhà nước pháp quyền, Nhà nước ta mới có thể xác định đúng chức năng và
nhiệm vụ, vị trí và vai trog của mình trong hệ thống chính trị nói riêng và trong đời
sống chính trị nói chung. Đến nay, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN đã
được định hình trên những nét cơ bản và trở thành trụ cột của hệ thống chính trị
nước nhà. Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cùng với việc xây dựng và
chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, cần xác định xây dựng và hoàn thiện nhà
nước là nhiệm vụ trọng tâm. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN
chính là xây dựng và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân; làm cho quyền lực nhà nước và hệ thống tổ chức
thực thi quyền lực – hệ thống chính trị - được xác định đúng đắn và có hiệu quả
hơn. Quyền lực nhà nước được củng cố và tăng cường cũng có nghĩa là quyền lãnh
đạo của Đảng được củng cố và tăng cường. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước là nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của Nhà
nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã xác định rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản VN lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lấp pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý
xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.”
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều ưu điểm, quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN nói riêng và đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói
riêng của chúng ta hiện nay cũng còn bộc lộ nhiều nhược điểm cần khắc phục như:
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và
quản lý đất nước, thể hiện trên các mặt: năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều
hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu; tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa
hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ
quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp

ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước; cải cách hành chính
chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công
dân; năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước trên một số lĩnh vực
yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội
không nghiêm. Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam
giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác, án tồn đọng, án bị hủy,
bị cải sửa còn nhiều.


Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra.
Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi,
phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
Những nhược điểm nói trên đặt ra yêu cầu khách quan phải đổi mới nâng cao
chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
thực hiện tốt quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát triển kinh tế thị trường
tạo cơ sở vật chất cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Câu 4. Những định hướng cơ bản trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở nước ta hiện nay.
Định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống các cơ quan nhà nước được
khẳng định rõ trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc và các nghị quyết
Trung ương của Đảng. Kế thừa văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
VII,VIII, IX, X và XI, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
chỉ rõ những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về hoàn thiện Nhà nước
Pháp quyền XHCNVN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN như sau:
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị:
“ Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ
các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao
hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành

pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn liền với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục
hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII).
- Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN:
“Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước
theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của NN pháp quyền
XHCN trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý
xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Phân
định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước
và thị trường.
Trong những năm tới, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi
hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền


XHCN. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực
nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng
đạo đức xã hội.
Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là
cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp,hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất;
xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ
hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính
quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước
ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; huy động
sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
và các tổ chức thành viên đối với công tác xây dựng pháp luật và giám sát thi hành

pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải gắn với tổ chức thi hành pháp
luật; củng cố các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật vừa là công cụ
quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp
luật.
Tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội theo hướng bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ, khả thi trên cơ sở thể chế hóa các chủ trương, đường lối của
Đảng và quy định của Hiến pháp, có thứ tự ưu tiên hợp lý và bảo đảm phù hợp với
thực tiễn. Thực hiện nghiêm túc kế hoạch xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ và chính quyền địa phương. Tăng cường phối hợp giữa
các cơ quan có trách nhiệm trong việc soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện, bảo
đảm tiến độ, chất lượng, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Kiện toàn
tổ chức các cơ quan và các cơ sở đào tạo liên quan đến lĩnh vực tư pháp và pháp
luật. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về án lệ.
Kịp thời ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp
lệnh; quan tâm công tác giải thích pháp luật; tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát việc chấp hành pháp luật; phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời
mọi hành vi vi phạm pháp luật; rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa văn bản quy
phạm pháp luật; đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ pháp lý và hoạt động bổ trợ tư
pháp; đổi mới mạnh mẽ nội dung phương pháp phổ niến, tuyên truyền, giáo dục
pháp luật.
- Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước:
“ Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội
thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao


nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn để quan trọng
của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc quản lý, sử dụng các nguồn
lực của đất nước.
Tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. đại biểu Hội đồng nhân

dân các cấp, bảo đảm cơ cấu và tiêu chuẩn, nâng cao chất lượng đại biểu, tăng số
lượng đại biểu hoạt động chuyên trách một cách hợp lý.
Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan
dân cử, nhất là hoạt động lập pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ chế giám
sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc
phê chuẩn. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm
tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát
của nhân dân.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện
quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Đẩy mạnh thực hiện Cương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo
hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục
vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện thể chế hành chính dân
chủ - pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà
nước; giảm mạnh, bải bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân,
doanh nghiệp. Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ
cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đẩy nhanh việc áp
dụng chính phủ điện tử.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, daanchur, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ
pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi cíh hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân.Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền
hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cụ thể hóa đầy đủ
các nguyên tắc hiến định về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và hoạt
động xét xử.
Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền baofchuwax của bị can, bị cáo, của
đương sự. Tiếp tục xã hội hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có điều

kiện.


Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án; tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra.
Kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ chức năng nhiệm vụ, quyền
hạn và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của luật sư, bổ trợ tư pháp.
Về chính quyền địa phương: Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất, thông suốt,
hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia, xác định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm quản lý nhà nước của mỗi cấp chính quyền địa phương theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật. Việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
chính quyền địa phương gắn kết hữu cơ với đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp. Hoàn thiện mô hình
tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo,
đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt theo luật định”
- Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức:
Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu
chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác
cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong
xaayduwngj đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức trong sáng có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của
giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở
cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu
chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xacs
định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng dầu cơ quan hành chính.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng
khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức
công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng

lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ
chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách
dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ
cán bộ, công chức.


Câu 5. Anh/chị hiểu thế nào về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam là “đảm bảo tính tối cao của pháp luật trong tổ
chức, hoạt động của nhà nước”.
Đáp án:
Nguyên tắc là những quy định mà cá nhân, tổ chức bắt buộc phải tuân thủ
trong quy trình thực hiện các hoạt động của mình. Nói cách khác đó là các tiêu
chuẩn định hướng cho hành vi con người, tổ chức trong quá trình hoạt động để giúp
con người hay tổ chức đó đạt được mục tiêu của mình. Cũng như mọi tổ chức khác,
để đạt được mục tiêu của mình, Nhà nước cần phải đặt ra những nguyên tắc định
hướng cho tổ chức hoạt động quản lý Nhà nước.
1.1. Quan niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là một nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
pháp luật, nhằm đưa lại tự do, hạnh phúc cho con người, tạo điều kiện cho sự tồn
tại và phát triển của xã hội dân sự, thông qua hệ thống các thể chế và yêu cầu dân
chủ như: bảo đảm chủ quyền nhân dân; có cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước khoa học và hiệu quả; dân chủ hóa đời sống nhà nước về xã hội; pháp luật
phải có tính tối thượng và phải phù hợp với quy luật khách quan, thúc đẩy xã hội
phát triển vì lợi ích con người.
Những giá trị cơ bản của nhà nước pháp quyền thường tập trung vào các vấn
đề như nhà nước phải đề cao chủ quyền nhân dân, tôn trọng và thực hiện pháp luật,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền tự do của con người, nhà nước
phải chịu trách nhiệm trước công dân, và ngược lại. Pháp luật phải có tính tối
thượng, là công cụ quản lý mang tính tối cao, nhà nước phải quản lý xã hội bằng

pháp luật, mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện
pháp luật.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang các giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiễn của một
chế độ dân chủ hiện đại, vừa có bản sắc, đặc điểm của riêng mình, cụ thể:
Một là, Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Hai làNhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội.
Ba là, Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất;
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.


Bốn là, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước
quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn; thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình,
hữu nghị hợp tác, bình đẳng và phát triển với các nước và dân tộc trên thế giới.
Sáu là, Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
1.2. Giải thích và minh họa nguyên tắc: “Đảm bảo tính tối cao của pháp
luật trong tổ chức, hoạt động” của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. (bổ
sung thêm trang 82-HĐ1)
- Pháp luật làm cơ sở pháp lý để tổ chức bộ máy thực thi các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được
xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì
lẽ đó mà Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý
cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của các cơ quan Nhà nước.
Trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật là cơ sở cho hoạt động của các thiết
chế quyền lực, là cơ sở pháp lý để tổ chức bộ máy thực thi các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Cơ quan lập pháp: QH. Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước CHXHCN
VN (điều 69, Hiến pháp 2013). QH do nhân dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, bất cứ cơ quan nào khác ngoài Quốc
Hội cũng không có quyền làm ra hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa
đổi luật.
Cơ quan hành pháp: là chính phủ, CP được lập ra trong kỳ họp thứ nhất của
mỗi khoá QH trên cơ sở hiến pháp và Luật tổ chức CP. Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước CHXHCNVN, chịu
trách nhiệm trước QH và phải báo cáo công tác với QH, CP thống nhất quản lý việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, KT, VH, XH, AN, QP và đối ngoại của NN, chỉ
đạo tập trung, thống nhất các Bộ, cq ngang Bộ, cq thuộc CP, UBND các cấp.
Cơ quan tư pháp: gồm TAND, VKSND và các cq điều tra. Đây là những cơ
quan được lập ra để xử lý các tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, bảo đảm việc
thực thi pháp luật khách quan, công minh.


- Pháp luật qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan nhà
nước. Các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động phải làm đúng chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định cho mình, không được chồng chéo với chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan khác và không được vượt thẩm quyền.
- Pháp luật là căn cứ để giải quyết các mối quan hệ với tổ chức, công dân hoặc
để cưỡng chế đối tượng vi phạm; là căn cứ để xác định một hành vi của chủ thể
thuộc phạm vi điều chỉnh bởi đạo luật nào, có vi phạm pháp luật hay không, chế tài
ra sao.

- Pháp luật làm công cụ quản lý xã hội. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự
có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước
của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội,
được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với
mục đích tạo lập trật tự, ổn định cho sự phát triển xã hội.
- Lấy pháp luật làm chuẩn mực để duy trì các hoạt động kinh tế - xã hội theo
qui định. Với mục tiêu là tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, duy trì
các mối quan hệ về kinh tế ổn định và phát triển theo định hướng, đời sống xã hội
ngày càng phát triển, NN thực hiện quản lý gián tiếp các hoạt động kinh tế - XH
thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô như các chính sách, PL, kế hoạch.
- Pháp luật là căn cứ để huy động và sử dụng các nguồn lực công và nguồn lực
xã hội vào thực hiện mục tiêu phát triển.
- Lấy pháp luật làm cơ sở để ban hành các quyết định hành chính. Các quyết
định hành chính có tính chất dưới luật, chấp hành luật, quyết định hành chính phải
phù hợp Hiến pháp, luật, được ban hành theo trình tự, thể thức do pháp luật quy
định.
- Cán bộ công chức luôn tự giác chấp hành và vận động mọi người cùng chấp
hành qui định pháp luật. Luật cán bộ công chức quy định nghĩa vụ của cán bộ, công
chức là phải chấp hành pháp luật của nhà nước.
Kết luận:


Câu 6. Hãy phân tích nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là “Bảo đảm công khai, minh bạch trong tổ chức và
hoạt động của Nhà nước”.
Đáp án:
Nguyên tắc là những quy định mà cá nhân, tổ chức bắt buộc phải tuân thủ
trong quy trình thực hiện các hoạt động của mình. Nói cách khác đó là các tiêu
chuẩn định hướng cho hành vi con người, tổ chức trong quá trình hoạt động để giúp
con người hay tổ chức đó đạt được mục tiêu của mình. Cũng như mọi tổ chức khác,

để đạt được mục tiêu của mình, Nhà nước cần phải đặt ra những nguyên tắc định
hướng cho tổ chức hoạt động quản lý Nhà nước.
2.1. Nêu quan niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là một nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
pháp luật, nhằm đưa lại tự do, hạnh phúc cho con người, tạo điều kiện cho sự tồn
tại và phát triển của xã hội dân sự, thông qua hệ thống các thể chế và yêu cầu dân
chủ như: bảo đảm chủ quyền nhân dân; có cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước khoa học và hiệu quả; dân chủ hóa đời sống nhà nước về xã hội; pháp luật
phải có tính tối thượng và phải phù hợp với quy luật khách quan, thúc đẩy xã hội
phát triển vì lợi ích con người.
Những giá trị cơ bản của nhà nước pháp quyền thường tập trung vào các vấn đề
như nhà nước phải đề cao chủ quyền nhân dân, tôn trọng và thực hiện pháp luật,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền tự do của con người, nhà nước
phải chịu trách nhiệm trước công dân, và ngược lại. Pháp luật phải có tính tối
thượng, là công cụ quản lý mang tính tối cao, nhà nước phải quản lý xã hội bằng
pháp luật, mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện
pháp luật.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang các giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiễn của một
chế độ dân chủ hiện đại, vừa có bản sắc, đặc điểm của riêng mình:
Một là, Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Hai làNhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội.
Ba là, Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất;
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.



Bốn là, Nhà nước phục vụ nhân dân,, gắn bó mật thiết với nhân dân; tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước
quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn; thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình,
hữu nghị hợp tác, bình đẳng và phát triển với các nước và dân tộc trên thế giới.
Sáu là, Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
2.2. Phân tích nguyên tắc “bảo đảm công khai, minh bạch trong tổ chức và
hoạt động của nhà nước”
+ Khẳng định về tính tất yếu khách quan của nguyên tắc
Từ bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nên công khai, minh bạch trong tổ chức và
hoạt động là nguyên tắc tất yếu khách quan, cần phải đảm bảo nguyên tắc này vì:
+ Phân tích tính công khai trong nguyên tắc
Công khai trong tổ chức, hoạt động của nhà nước là việc cơ quan, cán bộ,
công chức có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời và hệ thống những
thông tin chính thức có trong văn bản quản lý và phương thức thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình cho các đối tượng có liên quan biết theo quy định của pháp luật.
Công khai trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước là sự không “che đậy, dấu giếm”,
không bí mật vì lợi ích của một cá nhân hoăc tổ chức nào đó mà cần thể hiện: tất cả
những thông tin liên quan đến giải quyết các mối quan hệ thuộc chức năng, nhiệm
vụ được giao phải công khai cho người dân, trừ trường hợp có quy định cụ thể với
lý do hợp lý được pháp luật qui định trên cơ sở những tiêu chí rõ ràng.
Nội dung, phương pháp và hình thức công khai về tổ chức, hoạt động của nhà
nước cần thực hiện nghiêm theo quy định của pháp luật, theo quy chế làm việc của
cơ quan và điều kiện cụ thể của từng đối tượng tiếp nhận thông tin.
Thực hiện tốt nguyên tắc công khai vừa đảm bảo tính họp pháp về tổ chức và
hoạt động của nhà nước, vừa là phương thức thực hiện quyền làm chủ của người
dân trong hoạt động kiểm soát các cơ quan nhà nước. Nguyên tắc này có tác dụng
giáo dục, thuyết phục, động viên nhân dân tích cực tham gia vào xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN.

Theo quy định của Hiến phap nước ta thì Nhà nước là của dân nên nhân dân có
quyền được biết về tổ chức và hoạt động của Nhà nước, chính vì vậy công khai
công tác tổ chức và hoạt động của Nhà nước là đảm bảo tính hợp pháp về về tổ
chức và hoạt động của nhà nước. Bên cạnh đó, chỉ khi công khai tổ chức và hoạt
động cho toàn thể nhân dân thì nhân dân mới có thể kiểm soat được Nhà nước, chứ
khi mọi thông tin đều bị che dấu, bưng bít thì nhân dân không thể tham gia ý kiến,


phê bình, khiếu nại… nên khi thực hiện nguyên tắc nay cũng là phương thức thực
hiện quyền làm chủ của người dân trong hoạt động kiểm soát các cơ quan nhà
nước. Khi nguyên tắc công khai được thực hiện sẽ có tác dụng nâng cao lòng tin
của nhân dân đối với nhà nước khiến cho nhân dân tích cực tham gia xây dựng nhà
nước.
-

Phân tích tính minh bạch trong nguyên tắc

Minh bạch trong tổ chức, hoạt động nhà nước là những thông tin phù hợp được
cung cấp kịp thòi cho người dân dưới hình thức cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện thông
qua các hình thức phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Điều này đảm bảo cho mọi
tầng lớp dân cư có thể tham gia theo dõi và giám sát các hoạt động của NN. Không
phải mọi thông tin về tổ chức và hoạt động của nhà nước đều được cung cấp cho
nhân dân mà chỉ là những thông tin phù hợp mà thôi, ví dụ những thông tin liên
quan đến bí mật quốc gia thì không những Nhà nước giữ bí mật mà mọi công dân
khi vô tình biết được cũng cần có trách nhiệm giữ bí mật, đó chính là bảo vệ Tổ
quốc. Những thông tin phù hợp này nếu được thông tin đến nhân dân một cách kịp
thời thì mới có tác dụng còn khi thời gian đã trôi qua quá lâu, thông tin Nhà nước
đưa ra đã trở thành lạc hậu thì dù có minh bạch thông tin cũng không còn tác dụng
đối với việc giám sát của nhân dân nữa. Tuy nhiên thông tin khi cung cấp cho nhân
dân thì cần phải thể hiện dưới những hình thức cụ thể nhất, dễ hiểu nhất và phù hợp

nhất để mọi tầng lớp nhân dân có thể kiểm soát mới mang lại hiệu quả. Các thông
tin đưa ra mà chỉ một số ít người mới có điều kiện tiếp cận, hiểu rõ (ví dụ sử dụng
ngôn ngữ chuyên ngành mà chỉ các nhà chuyên môn mới hiêu) thì hiệu quả mang
lại sẽ không như mong muốn của NN, góp phần phòng và chống các hiện tượng
tiêu cực trong xã hội như tham ô, tham nhũng, lãng phí, ăn cắp của công…
Tính minh bạch trong hoạt động là điều kiện tiên quyết để cơ quan nhà nước có
trách nhiệm thực sự trước nhân dân, đồng thời giúp người dân và các tổ chức có thể
dự báo kết quả hành động một cách hiệu quả. Những thông tin về hoạt động của
nhà nước được công khai thì cơ quan NN đó cũng phải làm việc một cách có trách
nhiệm cao hơn rất nhiều khi luôn có những người dân theo dõi, giám sát, trong
trường hợp có sai sót gì sẽ có sự phản hồi ngay lập tức từ phía người dân. Những
thông tin phù hợp kịp thời, đáng tin cậy đến được với người dân thì họ sẽ có thể có
những dự báo hiệu quả, tránh được những sai lầm không đáng có đối với các quyết
định trong tương lai, gây ra lãng phí thời gian, tiền bạc, công sức…
Các quyết định, quy trình, thủ tục giải quyết công việc liên quan đến tổ chức và
hoạt động của nhà nước phải rõ ràng và cần được phổ biến đầy đủ đảm bảo cho
người dân có thể thực hiện được. Đây cũng là một phần hoạt động trong quá trình
cải cách hành chính đang diẽn ra ở nước ta và đến nay đã đạt được những kết quả


đáng khích lệ, tuy nhiên để công cuộc cải cách hành chính mang lại thành công như
mong đợi thì cần phải có sự nỗ lực cố gắng hơn rất nhiều trong thực hiện nguyên
tắc này
Kết luận:
Công khai và minh bạch có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không một tổ chức
và hoạt động nào của nhà nước có thể minh bạch mà các thông tin liên quan lại
không được công khai đến mọi tầng lớp dân cư, cũng như đưa ra các thông tin mà
lại không minh bạch thì công khai cũng không có tác dụng. Từ sự cần thiết khách
quan mà cần phải kết hợp tính công khai và tính minh bạch thành nguyên tắc công
khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của NN

Câu 7. Phân tích nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước”.
Đáp án:
a) Nêu quan niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân bầu ra để duy
trì sự ổn định và phát triển xã hội theo pháp luật, là nhà nước thượng tôn pháp luật
và đảm bảo dân chủ xã hội.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang các giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiễn của một
chế độ dân chủ hiện đại, vừa có bản sắc, đặc điểm của riêng mình:
Một là, Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Hai làNhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội.
Ba là, Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất;
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bốn là, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước
quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn; thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình,
hữu nghị hợp tác, bình đẳng và phát triển với các nước và dân tộc trên thế giới.


Sáu là, Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
b) Nêu bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam gồm:
+ Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mang bản chất của giai cấp công
nhân.

+ Quyền lực nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thuộc về nhân dân, là
nhà nước của dân, do dân, vì dân
+ Lợi ích mà nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo đuổi, bảo vệ là lợi
ích của xã hội, không đối kháng giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả
dân tộc.
c) Phân tích nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước là ”bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước”:
Nghị quyết Trung ương 3 (6-1997), khóa VIII, đã khẳng định những thành
tựu quan trọng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những đổi
mới về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, để vừa bảo
đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ
động của các cơ quan nhà nước. Nghị quyết đã đề ra yêu cầu là cần nắm vững và
thực hiện tốt ba nội dung trọng yếu về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là:
- Lãnh đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng
thành pháp luật.
- Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước; xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, thực sự vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
- Tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong việc thực hiện các
nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định nội dung đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: "Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề
ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm
tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật
của Nhà nước...".
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước”đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng được thực hiện thông qua các nội dung sau:
- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước được hiến định tại
Điều 4 Hiến pháp 2013



: “Đảng cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, …”.
Về mặt lịch sử, hơn 80 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là lực lượng duy nhất tổ
chức vận động, lãnh đạo, đồng thời là người đi tiên phong, không sợ hy sinh gian
khổ trong sự nghiệp cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc, kháng chiến chống
thực dân, đế quốc xâm lược. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng,
lãnh đạo hơn 27 năm qua tạo nên vị thế mới của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập được vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội
thông qua uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân.
Về chính trị - tư tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; mục tiêu của Đảng là xây
dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Mục tiêu
đó phản ánh chân thực và khách quan khát vọng của đại đa số quần chúng nhân dân
và phù hợp với xu thế phát triển lịch sử.
Về pháp lý, vai trò lãnh đạo của Đảng được quy định tại Điều 4 của Hiến
pháp năm 2013, và các hiến pháp trước đó, được các đại biểu Quốc hội, đại diện
cho nhân dân biểu quyết thông qua. Việc Hiến pháp quy định vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là điều hoàn toàn phù hợp
quyền dân tộc tự quyết, được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc.
Như vậy, Nhà nước CHXHCN VN đã thực sự khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng.
- Cơ chế vận hành của Hệ thống chính trị Việt Nam có được sự thống nhất
thừa nhận của các thành viên, trong đó nhà nước là trụ cột là: Đảng lãnh đạo,
nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ
Các tổ chức hợp thành hệ thống chính trị hiện nay ở nước ta bao gồm:
ĐCSVN, Nhà nước CHXHCNVN, Mặt trận Tổ quốc VN và các đoàn thể nhân dân
nhằm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân vì mục tiêu” dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống CT
là điều kiện cần thiết và tất yếu để đảm bảo hệ thống Ct giữ được bản chất của giai
cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Với vai trò là hạt nhân chính trị trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt
Nam thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị, trong đó có Nhà nước.
Sự lãnh đạo chính trị của Đảng được thể hiện thông qua quyền quyết định và
quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối chính trị trong tất cả các lĩnh vực


hoạt động và phát triển của đất nước. Quyền lực chính trị của Đảng được kết tinh
trong cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, chủ trương tạo lập khung chính trị
cho sự phát triển của đất nước, của từng lĩnh vực, từng ngành, từng cấp trong mỗi
giai đoạn phát triển. Nếu chủ trương, đường lối của Đảng càng hoàn thiện, càng cụ
thể, minh bạch, phù hợp với thực tiễn khách quan của đất nước thì việc thể chế hoá
thành pháp luật là đúng đắn, càng có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, do
vậy, sự lãnh đạo của Đảng càng được tăng cường. Để thực hiện sự lãnh đạo chính
trị của mình, Đảng còn thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt động
của Nhà nước trong việc quán triệt thực hiện đường lối chính trị của Đảng trong
quá trình thực hiện các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đảng không làm
thay NN.
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thông qua các cơ quan lập pháp, tư
pháp và hành pháp;
Nhân dân làm chủ thông qua việc tham gia vào các cơ quan của Nhà nước,
thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát đối với mọi hoạt động của Nhà nước.
- Những chủ trương, quan điểm chính trị của Đảng được Nhà nước lấy
làm cơ sở chính trị để xây dựng hệ thống thể chế cho phù hợp với điều kiện cụ
thể trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng là kim chỉ nam cho tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể
chế hóa bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch cụ thể. Để thực
hiện được nhiệm vụ này, Nhà nước tổ chức các cơ quan lập pháp để cụ thể hóa
thành luật, pháp lệnh; tổ chức bộ máy hành pháp để tổ chức thực hiện luật, pháp

lệnh; tổ chức cơ quan tư pháp để tiến hành kiểm tra, kiểm soát và điều chỉnh các
hành vi theo luật.
Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, cơ sở Đảng hoạt động
đúng chức năng, phối hợp tốt giữa bộ máy NN và các cơ quan của Đảng, thực hiện
tốt chức năng kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt động của Đảng đối với Nhà nước
trong việc quán triệt thực hiện đường lối chính trị của Đảng trong quá trình thực
hiện các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp
- Để lãnh đạo tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Đảng luôn chăm lo bồi
dưỡng, đào tạo những Đảng viên ưu tú, có phẩm chất và năng lực để đảm
đương những trọng trách trong bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng, qui hoạch cán bộ tham gia vào các cơ quan quản lý nhà nước
thông qua bầu cử dân chủ, lãnh đạo việc sắp xếp, phân công cán bộ. Đảng kiểm
tra tổ chức Đảng, Đảng viên, động viên, khích lệ các đảng viên và quần chúng
trong hệ thống nỗ lực học tập để nâng cao năng lực, phẩm chất trong thực thi


công vụ.
Trên cương vị Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta hiện nay, hầu hết đảng
viên của Đảng được bố trí vào các vị trí quan trọng của bộ máy nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi để Đảng ta thực hiện vai trò,
nhiệm vụ cầm quyền của mình.
Tại các cơ quan của Nhà nước, cơ sở Đảng có ý kiến trong việc quy hoạch,
bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo; lãnh đạo việc sắp xếp, phân công cán bộ.
Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức
kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lãnh đạo
thông qua tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong cơ quan Nhà nước. Đảng ban
hành các Nghị quyết về luân chuyển cán bộ, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước ….. Các cơ
sở Đảng được yêu cầu đảng viên học tập các Nghị quyết và triển khai cho đơn vị

công tác nhằm từng bước hoàn thiện, củng cố về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống cũng như tăng cường học tập về chuyên môn nghiệp vụ cho từng cán bộ, đảng
viên. Đảng lãnh đạo thông qua động viên khuyến khích đảng viên gương mẫu, từ
đó tạo được uy tín trong hệ thống Nhà nước, uy tín trong nhân dân.
+ Đảng tạo điều kiện về môi trường và động lực cho cán bộ, công chức
nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đảng lãnh đạo các tổ chức trong hệ
thống chính trị tập trung thống nhất hướng, về mục tiêu phát triển chung; củng
cố niềm tin cho cán bộ, công chức hành chính trong thực thi công vụ, xây dựng
khối đại đoàn kết trong cơ quan nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước;
Tạo sức mạnh tổng hợp từ các tổ chức trong hệ thống chính trị để thúc đẩy tiến
trình cải cách hành chính nhà nước thông qua củng cố và tăng cường uy tín, vai
trò gương mẫu của các tổ chức Đảng và của từng Đảng viên đối với công chức
trong thực thi công vụ. Đảng xây dựng những quan điểm, nguyên tắc phát triển
làm cơ sở cho việc huy động, khai thác và sử dụng những nguồn lực vào xây
dựng nhà nước pháp quyền và tác động có hiệu quả vào quá trình kinh tế - xã
hội.
Một trong những ưu điểm của Đảng là tạo được uy tín trong nhân dân, trong
đó Đảng viên luôn là người có uy tín, phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, luôn đi đầu
trong việc hoàn thiện về bản lĩnh chính trị, tư tưởng đạo đức và phong cách làm
việc trong cơ quan Nhà nước.
- Đảng thường xuyên kiểm soát công tác tổ chức và hoạt động các cơ
quan nhà nước và cán bộ, công chức trong việc thực hiện đường lối, chủ
trương, của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước thông qua đội ngũ cán


bộ, đảng viên trong hệ thống cơ quan nhà nước để đánh giá tính thực tế của các
chủ trương mà Đảng đề ra từ đó khắc phục những hạn chế, phát huy những
mặt tích cực trong công tác lãnh đạo.
Thường kỳ, đảng tổng kết các Nghị quyết để đánh giá, kịp thời đưa ra các
định hướng tiếp theo.

Hàng năm, Đảng tiến hành đánh giá đảng viên, tổ chức Đảng trong việc chấp
hành chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nhiệm
nhiệm vụ chính trị tại cơ quan Nhà nước.
Câu 8. Hãy phân tích nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là "bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân".
Đáp án:
a) Nêu quan niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là một nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
pháp luật, nhằm đưa lại tự do, hạnh phúc cho con người, tạo điều kiện cho sự tồn
tại và phát triển của xã hội dân sự, thông qua hệ thống các thể chế và yêu cầu dân
chủ như: bảo đảm chủ quyền nhân dân; có cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước khoa học và hiệu quả; dân chủ hóa đời sống nhà nước về xã hội; pháp luật
phải có tính tối thượng và phải phù hợp với quy luật khách quan, thúc đẩy xã hội
phát triển vì lợi ích con người.
Những giá trị cơ bản của nhà nước pháp quyền thường tập trung vào các vấn
đề như nhà nước phải đề cao chủ quyền nhân dân, tôn trọng và thực hiện pháp luật,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền tự do của con người, nhà nước
phải chịu trách nhiệm trước công dân, và ngược lại. Pháp luật phải có tính tối
thượng, là công cụ quản lý mang tính tối cao, nhà nước phải quản lý xã hội bằng
pháp luật, mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện
pháp luật.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang các giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiễn của một
chế độ dân chủ hiện đại, vừa có bản sắc, đặc điểm của riêng mình:
Một là, Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.



Hai làNhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội.
Ba là, Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất;
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bốn là, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước
quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn; thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình,
hữu nghị hợp tác, bình đẳng và phát triển với các nước và dân tộc trên thế giới.
Sáu là, Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
b) Nêu các nguyên tắc:
+ Bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân tham gia xây
dựng nhà nước, quản lý nhà nước và giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ công
chức nhà nước.
+ Mọi hoạt động của nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, thực hiện và bảo vệ
quyền con người, tất vả vì hạnh phúc của con người.
+ Bảo đảm tập trung thống nhất quyền lực, có phân công rành mạch, phối hợp
chặt chẽ và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
+ Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp chế XHCN trong tổ chức, hoạt
động của nhà nước.
+ Bảo đảm tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của nhà nước.
+ Bảo đảm công khai, minh bạch trong tổ chức, hoạt động của nhà nước.
+ Bảo đảm bình đẳng giữa các dân tộc trong tổ chức, hoạt động của nhà nước.
+ Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
c) Phân tích nội dung nguyên tắc “bảo đảm mọi quyền lực NN thuộc về
nhân dân":
Khái niệm quyền lực nhà nước: Quyền lực nhà nước là một bộ phận quan
trọng của quyền lực chính trị mà thực chất là nhân dân trao cho nhà nước thực hiện.

- Mọi quyền lực nhà nước đều tập trung trong tay nhân dân và các cơ
quan đại diện của người dân (Hội đồng nhân dân các cấp, Quốc hội).
Quyền lực nhà nước luôn gắn với chủ quyền quốc gia, nó thuộc về nhân dân
và được thể hiện thông qua những định chế nhà nước - pháp luật. Quyền lực nhà


nước được biểu hiện cụ thể ở hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước, các quy định
pháp luật và những nguyên tắc vận hành của hệ thống đó tạo nên một cơ chế thực
hiện quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước gồm 3 quyền: Lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
- Quyền lực NN đều tập trung trong tay nhân dân và các cơ quan đại diện
của người dân thông qua các nội dung sau:
+ Nhân dân tổ chức nên bộ máy nhà nước trước hết thông qua chế độ bầu cử
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín để lựa chọn những người có đủ đức,
tài vào cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc Hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc
hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước. Sau đó các cơ quan quyền lực NN bầu thành lập
các cơ quan chấp hành của mình và những người lãnh đạo các cơ quan đó. Để bảo
đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, pháp luật nước ta quy định tất cả các cơ
quan khác của nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hội đồng
nhân dân, phải báo cáo công tác với Quốc hội và hội đồng nhân dân. Cử tri có
quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND và có
thể bãi miễn các đại biểu đó khi họ không còn xứng đáng với cử tri nữa.
+ Nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý NN
+ Quyền lực NN là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa cơ quan
NN trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần đảm bảo để mọi quyền lực
nhà nước tập trung trong tay nhân dân và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Nhà

nước đảm bảo quyền lực NN tập trung trong tay nhân dân bằng Hiến pháp Quy
định tại điều 2, 6, 7, 11, 53 của Hiếp pháp năm 1992
Nhà nước đảm bảo nhân dân tham gia quản lý NN bằng các hình thức cơ bản
sau:
1. Bầu những người đại diện cho mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Nhà
nước xây dựng Luật bầu cử đại biểu Quốc Hội và luật bầu cử đại biểu HĐND
để bảo đảm cho người dân tham gia vào bầu cử, ứng cử; Lựa chọn những
người có tâm, có tài để giúp người dân lựa chọn đại biểu của mình; đảm bảo
thực hiện: tuyên truyền, cổ động, hiệp thương công khai danh sách những
người ứng cử…
2. Thảo luận các chính sách, góp ý kiến vào các dự án luật và những vấn đề
chung nhất của cả nước và địa phương. Nhân dân thực hiện nhiệm vụ trên


thông qua việc trực tiếp góp ý cho cơ quan dự thảo chính sách, luật hoặc gián
tiếp thông qua các kỳ họp của các đại biểu HĐND các cấp, tổ chức tốt các
cuộc tiếp xúc với dân thông qua các chương trình, cơ quan NN bầu ra;
3. Người dân có quyền yêu cầu tiến hành bỏ phiếu quyết định những vấn đề
trọng đại của quốc gia (biểu quyết toàn dân, trưng cầu dân ý);
4. Có quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước về những vấn đề quan tâm;
5. Tham gia làm việc trong các cơ quan Nhà nước. Như vậy, ngoài việc trực
tiếp thực hiện quyền lực nhà nước thông qua một số hình thức thì chủ yếu
nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước.
Nhân dân là người trực tiếp quản lý đất nước khi tham gia vào cơ quan hành
pháp; thực hiện giám sát khi tham gia vào các cơ quan tư pháp;
6. Kiểm tra, Giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, của cán bộ, công chức
NN. Để thực hiện được nhiệm vụ này, các cơ quan NN phải thường xuyên
công khai hoạt động của mình để nhân dân thực hiện sự kiểm tra giám sát.
Nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của mình

7. Quản lý một số việc mà chính quyền giao cho như tham gia quản lý thôn,
xóm….
8. Ngoài ra, nhân dân còn tham gia quản lý NN thông qua những tổ chức mà
mình là thành viên (Mặt trận tổ quốc, Hội nông dân, Hội phụ nữ…).
- Giải thích được vì sao ở nước ta, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
nhà nước là phải “ bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.
Ở nước ta, điều 2 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định “Tất cả quyền lực NN
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức”, bởi thế nên bộ máy NN cần được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc cơ bản, có tính chất bao trùm là “ phân công và phối hợp giữa
các cơ quan NN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp”
nhằm “bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện…” (Điều 3
Hiếp pháp năm 1992)
Ở nước ta, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp một cách hợp lý. Để bảo đảm sự
thống nhất của quyền lực nhà nước, pháp luật nước ta quy định tất cả các cơ quan
khác của nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hội đồng nhân dân,


phải báo cáo công tác với Quốc hội và hội đồng nhân dân. Bằng cách tổ chức như
thế, quyền lực nhà nước ở nước ta đều bảo đảm sự tập trung thống nhất vào Quốc
hội và hội đồng nhân dân, nhưng tập trung và thống nhất cao nhất là vào Quốc hội.
Sự tập trung này là cần thiết, nó bảo đảm cho sự thống nhất của cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước, tránh được hiện tượng mâu thuẫn, xung đột nhiều khi đối lập
giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước.
- Những biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt
động của nhà nước.

+ Việc thực hiện quyền lực NN, thực hiện việc tham gia quản lý của người
dân bằng và thông qua các cơ quan đại biểu còn nhiều hạn chế từ các quy định
hiện hành về tiếp xúc cử tri, quy định về phương hướng hoạt động của đại biểu đến
việc thiếu nhận thức của người dân dối với quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong
việc tham gia quản lý đất nước, do vậy công tác bỏ phiếu còn mang nặng hình thức.
+ Nguyên tắc Nhân dân làm chủ ở một số nơi còn bị vi phạm; người dân
chưa được thông tin đầy đủ về các công việc của các cơ quan Nhà nước nên chưa
có điều kiện tham gia vào công việc góp ý xây dựng chính sách, luật; hoặc khi có ý
kiến thì chính sách thực hiện; nhất là thực hiện kế hoạch, chính sách của Chính phủ
+ Còn thiếu sự phân công, phối hợp trong thực hiện 3 quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Ở đây là sự chậm chễ trong việc ban hành, sửa đổi các luật, pháp
lệnh theo chương trình của Quốc Hội. Nguyên tắc phối hợp này được thể hiện
thông qua các cơ quan hành pháp tiến hành xây dựng dự thảo luật nên còn chậm
trễ; hoặc dự thảo luật mang tính phục vụ lợi ích của ngành quản lý, chưa quan tâm
đến lợi ích chung
+ Hiện tại, việc giám sát của nhân dân được thực hiện qua các tổ chức chính
trị và chính trị xã hội là chủ yếu và các tổ chức này thì khó có được ý kiến độc lập
thực sự.Cơ chế giám sát hiện hành còn hình thức và ngay cả việc nhân dân lựa ai
thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước cũng như vậy.Cần có sự giám sát của
nhân dân thông qua các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội với những ý kiến
độc lập, mang tính chất phản biện thực sự.
Câu 9. Anh (chị) hãy phân tích đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam là: “nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo”.
Đáp án:
- Nêu quan niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam


×