Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ HỒNG NHUNG

tr¸ch nhiÖm h×nh sù ®èi víi téi trèn thuÕ
trong luËt h×nh sù ViÖt nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ HỒNG NHUNG

tr¸ch nhiÖm h×nh sù ®èi víi téi trèn thuÕ
trong luËt h×nh sù ViÖt nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS CAO THỊ OANH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Lê Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
Trang
Trang phu ̣ bià
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mu ̣c tƣ̀ viế t tắ t
Danh mu ̣c bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỐN THUẾ TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM .......................................................................................... 6
1.1.
Khái niệm về trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế ................ 6
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự ............................................................ 6
1.1.2. Khái niệm tội trốn thuế......................................................................... 8
1.2.

Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế .............. 12
1.3.

Một số nội dung cơ bản về trách nhiệm hình sự đối với tội
trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam ........................................... 14
1.3.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự ........................................................... 14
1.3.2. Một số vấn đề lý luận chung về TNHS của tội trốn thuế đối với PNTM ..... 23
1.3.3. Các biện pháp cƣỡng chế về trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế .. 28
1.3.4. Thời hiệu truy cứu TNHS .................................................................. 30
1.4.
Lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về TNHS đối với tội trốn thuế ....... 31
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 ............................................... 31
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến trƣớc năm 1985 ...................................... 32
1.4.3. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999 ............................................... 34
1.4.4. Quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 ............... 36
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 43
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỐN THUẾ... 44
2.1.
Hình phạt đối với các chủ thể phạm tội trốn thuế ........................ 44


2.1.1.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.3.

Hình phạt đối với cá nhân phạm tội trốn thuế.................................... 45

Hình phạt đối với PNTM phạm tội trốn thuế ..................................... 49
Các tình tiết định khung tăng nặng đối với tội trốn thuế ............. 57
Các tình tiết định khung tăng nặng đối với cá nhân phạm tội trốn thuế.... 57
Các tình tiết định khung tăng nặng đối với PNTM phạm tội trốn thuế..... 59
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế..... 60

2.4.

Một số điểm mới của b ộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung
năm 2017 so với bộ luật hình sự 1999 về hình phạt đối với cá
nhân phạm tội trốn thuế .................................................................. 61
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 68
Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH

3.1.

NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỐN THUẾ, VÀ CÁC GIẢI
PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI TRỐN THUẾ ............................................................................. 69
Tình hình xét xử đối với tội trốn thuế ............................................ 69

3.2.

Các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về
trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế ...................................... 81
3.2.1. Các yêu cầu nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về trách nhiệm hình sự đối

với tội trốn thuế .................................................................................. 81
3.2.2. Các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về trách nhiệm
hình sự đối với tội trốn thuế ............................................................... 84
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

PNTM:

Pháp nhân thƣơng mại

TNHS:

Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC BẢNG

Số hiêụ


Tên bảng

Trang

Bảng 3.1. Số liệu tình hình xét xử tại tòa án cấp sơ thẩm
đối với tội trốn thuế

69

Bảng 3.2. Trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế

71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nƣớc, đồng thời là công
cụ quan trọng trong điều tiết nền kinh tế đất nƣớc. Nguồn thu từ thuế là xƣơng
sống trong việc duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc, điều tiết vĩ mô đối
với nền kinh tế và đời sống xã hội và góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc
theo luật của mỗi ngƣời dân, doanh nghiệp đối với đất nƣớc, không hoàn trả
trực tiếp ngang giá, nhƣng đƣợc dùng để trang trải các chi phí vì lợi ích chung
của toàn dân cƣ nhƣ đƣờng xá, cầu cống, nhà thƣơng, trƣờng học,... Thuế
đóng một vai trò vô cùng đặc biệt đối với bất kỳ một quốc gia nào. Bất kì một
quốc gia nào tại bất kì thể chế chính trị nào cũng cần phải xây dựng một hệ
thống thuế khoán hoàn chỉnh và hợp lý bởi vai trò đặc biệt quan trọng của
thuế: là công cụ chủ yêu của Nhà nƣớc nhằm huy động tập trung một phần
của cải vật chất xã hội vào ngân sách Nhà nƣớc; công cụ điều tiết vĩ mô Nhà

nƣớc đối với nền kinh tế và đời sống xã hội; góp phần đảm bảo sự bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội
Thực hiện đƣờng lối phát triển nhiều thành phần, cùng với sự hội nhập
ngày càng sâu rộng đối với kinh tế thế giới, nền kinh tế nƣớc ta đã có những
bƣớc phát triển vƣợt bậc, nhanh chóng, kéo theo đó, số lƣợng ngành nghề,
hình thức, quy mô, vốn, lao động, phạm vi kinh doanh rất đa dạng và phong
phú. Trong xu thế đó, thuế lại càng đóng một vai trò quan trọng hơn nữa. Số
thuế thu đƣợc từ các nguồn đều tăng, tạo điều kiện cho việc cân đối thu chi
ngân sách, là động lực tái đầu tƣ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nhiều ngƣời
không nhận thức đƣợc tầm quan trọng cũng nhƣ trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình tìm đủ mọi cách để trốn thuế, ý thức chấp hành nghĩa vụ thuế của các

1


đối tƣợng nộp thuếđó chƣa cao, chƣa tự giác dẫn đến tình trạng trốn thuế diễn
ra phổ biến, phức tạp, thủ đoạn đa dạng, tinh vi. Số lƣợng thuế thu đƣợc
chiếm tỷ lệ thấp so với số thuế phải thu trên thực tế, điều này sẽ gây ra một
thiệt hại lớn cho nguồn ngân sách nhà nƣớc và làm mất đi sự công bằng của
xã hội, nếu sai phạm này trở nên nghiêm trọng sẽ có thể phải chịu TNHS theo
luật hình sự. Trên thực tế, số hành vi đủ dấu hiệu CTTP khá nhiều, tuy nhiên
số đối tƣợng bị phát hiện và truy cứu TNHS còn rất hạn chế. Điều đó cho thấy
thuế là một trong những lĩnh vực có tỷ lệ tội phạm ẩn cao nhất hiện nay. Mặc
dù Nhà nƣớc liên tục đƣa ra các biện pháp đấu tranh phòng chống hành vi
trốn thuế, nhƣng hiệu quả đạt đƣợc chƣa cao.
Một trong những công cụ pháp lý quan trọng để đấu tranh phòng chống
hành vi trốn thuế là quy định về Tội trốn thuế trong BLHS. Ngày 27 tháng 11
năm 2015, BLHS 2015 đã đƣợc Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ
10 đã có những quy định mới về tội trốn thuế. Đây là công cụ pháp lý quan
trọng nhằm đấu tranh và phòng chống loại tội phạm này, góp phần ổn định

kinh tế vĩ mô, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nƣớc. Tuy vậy, còn
nhiều vấn đề còn tồn tại trong các quy định của pháp luật liên quan đến tội
trốn thuế, ảnh hƣởng đến hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy,
nghiên cứu chế định TNHS đối với tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam
là cần thiết không những về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả xét xử đối với tội này. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề
tài: “TNHS đối với tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận TNHS của
các nhà nghiên cứu uy tín. Đối với các nghiên cứu về TNHS của tội trốn thuế

2


trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, đã có một số nghiên cứu chuyên
sâu liên quan đến tội phạm này nhƣ: Chuyên đề của Vụ thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự về kinh tế - Viện kiểm sát nhân dân
tối cao với đề tài “Thực tiễn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự về tội trốn thuế, một số giải pháp và kiến nghị”
trong đó đã nghiên cứu những vấn đề thực tiễn và những vấn đề khó khăn
vƣớng mắc hiện nay trong quá trình xử lý tội trốn thuế; đồng thời đã đƣa ra
một số giải pháp nhằm tăng đấu tranh đối với loại tội phạm trốn thuế trong
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, với cấp độ nghiên cứu chuyên đề và thời
gian nghiên cứu diễn ra từ trƣớc năm 2006 nên nhiều vấn đề nổi cộm trong
thời gian gần đây chƣa đƣợc đề cập. Một số công trình nghiên cứu về tội
phạm này đã đƣợc công bố nhƣ: Luận văn thạc sỹ “Đấu tranh phòng chống
tội trốn thuế” của Nguyễn Thị Hƣơng Lan năm 2005, khoa luật đại học
quốc gia Hà Nội; luận văn thạc sỹ “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội
trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn Việt Dũng năm 2010,

khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. Hay bài viết “Bàn về tội trốn thuế
trong BLHS Việt Nam” của tác giả Thái Nguyên Toàn, Tạp chí Kiểm sát số
23, tháng 12/2013,…
Mặc dù, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, làm rõ nhiều khía
cạnh về lý luận và thực tiễn liên quan đến tội trốn thuế trong luật hình sự Việt
Nam, tuy nhiên, trƣớc tình hình mới trong đời sống pháp luật, nhất là pháp
luật hình sự, pháp luật về thuế, tài chính, trong đó có quy định của BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã sửa đổi
căn bản các nội dung quan trọng quy định về tội trốn thuế. Do đó, trong đề tài
này, tác giả mạnh dạn đi vào nghiên cứu chuyên sâu về TNHS đối với tội trốn
thuế không những trong lịch sử lập pháp của nƣớc` ta mà còn có sự so sánh,

3


đối chiếu quy định mới về TNHS của tội trốn thuế tr1ong BLHS 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017 nhằm đánh giá đúng cơ sở pháp luật hiện hành về tội
phạm trốn thuế để qua đó làm sáng tỏ các quy định của Luật hình sự về
TNHS đối với tội trốn thuế và đƣa các giải pháp kiến nghị phù hợp về việc
phòng chống, ngăn ngừa tội phạm xảy ra trong lĩnh vực thuế hiện nay. Với
tinh thần đó thì trong bối cảnh hiện nay chƣa có công trình nào nghiên cứu
một cách toàn diện, đầy đủ về đề tài này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này là các vấn đề lý luận, cơ sở pháp
lý về TNHS đối với tội trốn thuế, đồng thời phân tích thực trạng việc áp dụng
pháp luật để thấy đƣợc ƣu điểm cũng nhƣ chỉ ra đƣợc những hạn chế để từ đó
có các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của luật hình sự về tội trốn thuế.
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi một số vấn đề liên quan đến TNHS tội
trốn thuế trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và một số các văn bản

pháp luật trƣớc đây. Đồng thời, luận văn đánh giá tình hình xét xử tội phạm
trốn thuế của cả nƣớc trong thời gian từ năm 2009 đến 2016, từ đó đƣa ra một
số các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
công tác đấu tranh, ngăn ngừa tội phạm trốn thuế.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói chung, các văn kiện của Đảng và văn
bản pháp luật của Nhà nƣớc về quan điểm đấu tranh chống tội phạm trong quá
trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền tại Việt Nam. Đề tài đã sử dụng các
phƣơng pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự và tội phạm học nhƣ:
phƣơng pháp thống kê hình sự, phƣơng pháp phân tích và so sánh, phƣơng

4


pháp liệt kê. Ngoài ra, còn một số phƣơng pháp khác cũng đƣợc áp dụng nhƣ:
phƣơng pháp phân tích hệ thống, phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử... Trong
quá trình nghiên cứu, các phƣơng pháp này đƣợc vận dụng một cách linh hoạt
và đan xen lẫn nhau để tạo ra kết quả nghiên cứu.
5. Ý nghĩa của luận văn
Trong phạm vi của mình, đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý
nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh
phòng, chống tội trốn thuế trong lĩnh vực tài chính nói chung
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của
Điều 200 BLHS năm 2015, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự
- Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh
vực tài chính nói chung và vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức,
cá nhân trong lĩnh vực thuế nói riêng. Ngoài ra, đề tài có thể đƣợc sử dụng

làm tài liệu tham khảo cho các lực lƣợng tham gia phòng, chống loại tội phạm
này trong cả nƣớc và ở từng địa phƣơng.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội
trốn thuế trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về trách
nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm hình sự đối với
tội trốn thuế; các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI TRỐN THUẾ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Trƣớc đây, TNHS đƣợc định nghĩa “là việc thực hiện chế tài pháp lý hình
sự, phát sinh từ khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội” [32, tr.59]. Ngày
nay, với tƣ cách là một khái niệm khoa học hình sự quan trọng, TNHS đƣợc
nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau và tồn tại những quan điểm khác
nhau xung quanh khái niệm pháp lý này.
GS.TSKH Đào Trí Úc cho rằng: “TNHS là hậu quả pháp lý của việc
phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi
của mình trước Nhà nước” [33, tr.41]. Quan điểm này nhìn nhận TNHS dƣới
góc độ là một loại hậu quả pháp lý đối với một loại vi phạm pháp luật, đó là

tội phạm. Tuy vậy, định nghĩa này vẫn chƣa phân biệt đƣợc thật rõ nét giữa
TNHS với một số hậu quả pháp lý khác nhƣ hậu quả pháp lý của việc vi phạm
hành chính, bởi lẽ ngƣời vi phạm hành chính cũng phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình trƣớc Nhà nƣớc
GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa định nghĩa:
TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là tổng hợp các
quyền và nghĩa vụ của Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội, đƣợc thể hiện
ở các biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự mà luật hình
sự quy định, áp dụng đối với ngƣời thực hiện tội phạm, bao gồm
hình phạt và các biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự
khác không phải hình phạt và đƣợc bắt đầu từ khi truy cứu TNHS
đối với một ngƣời [13, tr.8].

6


Định nghĩa này nhìn nhận TNHS dƣới góc độ là một trong những dạng
trách nhiệm pháp lý, bên cạnh những dạng trách nhiệm pháp lý khác trong các
mối quan hệ xã hội đƣợc pháp luật điều chỉnh.
Nhìn nhận TNHS dƣới góc độ là một loại hậu quả pháp lý, GS.TSKH.
Lê Cảm đã đƣa ra một định nghĩa mang tính chất khái quát những nét đặc
trƣng cơ bản một cách súc tích đối với khái niệm TNHS: “TNHS là hậu quả
pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối
với người phạm tội một hay nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật
hình sự quy định” [6, tr.122].
Cùng nhìn nhận khái niệm TNHS dƣới bình diện là một loại hậu quả
pháp lý, tuy nhiên PGS.TS Trần Văn Độ lại nhấn mạnh vào vai trò của Tòa án
khi định nghĩa: “TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, kết quả của việc
áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự và được thể hiện trước hết ở việc kết
án của Tòa án, nhân danh Nhà nước, đối với người phạm tội” [10, tr.91].

Một số nhà nghiên cứu khác lại nghiên cứu TNHS dƣới cả hai góc độ
nhƣ GS.TS. Đỗ Ngọc Quang khi định nghĩa:
TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của
ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định
trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng
tùy thuộc vào tính chất và mực độ nguy hiểm của hành vi mà ngƣời
đó đã thực hiện [18, tr.14].
Đồng quan điểm đó, TS. Trịnh Tiến Việt cho rằng:
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả
pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và đƣợc thể hiện bằng
việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc do
BLHS quy định đối với ngƣời phạm tội [35, tr.224].
BLHS 2015 ra đời đánh dấu một trong những thay đổi quan trọng trong

7


nhận thức về chủ thể của TNHS. Điều 2 của BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung
năm 2017) đã khẳng định: “1. Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS
quy định mới phải chịu TNHS; 2. Chỉ PNTM nào phạm một tội đã được quy
định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu TNHS”.
Theo đó, đây là lần đầu tiên pháp luật ghi nhận và điều chỉnh trong BLHS
quy định về TNHS đối với một chủ thể khác ngoài cá nhân, đó là PNTM.
Từ những phân tích trên, dƣới góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự, đồng thời có sự cập nhật chế định mới của BLHS, tác giả xin đƣa ra định
nghĩa về TNHS nhƣ sau:
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý đối với việc thực hiện tội
phạm, thể hiện ở việc các chủ thể của TNHS phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi
bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do
BLHS quy định.

1.1.2. Khái niệm tội trốn thuế
Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải
nộp cho Nhà nƣớc khi đáp ứng những điều kiện nhất định [30, tr.10]. Mặt
khác theo Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế
theo luật định” [22, Điề u 47]. Việc nộp thuế là nghĩa vụ của mọi công dân khi
rơi vào các điều kiện mà pháp luật quy định thì đều phải nộp thuế, đây chính
là một trong những dẫn chứng thể hiện tính bắt buộc của việc nộp thuế. Các
khoản thu từ thuế đƣợc Nhà nƣớc đầu tƣ vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, an ninh quốc phòng, chế độ phúc lợi công cộng, giao thông công cộng...
Nhƣ vậy, việc các chủ thể trích phần thu nhập của mình nộp thuế cho Nhà
nƣớc không phải trên tinh thần tự nguyện mà dựa trên quy định bắt buộc của
pháp luật thuế. Do đó, tình trạng trốn, gian lận thuế để tăng phần thu nhập
thực hƣởng, tối đa hóa lợi nhuận rất dễ dàng xảy ra. Hành vi trốn thuế có thể
đƣợc hiểu nhƣ những phân tích dƣới đây.

8


Theo từ điển luật học: “Hành vi trốn thuế được hiểu là (hành vi xâm
phạm đến chính sách thuế của Nhà nước thông qua việc chủ thể) không hành
động hoặc hành động không đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế” [34, tr.815].
TS. Nguyễn Mai Bộ cho rằng “Trốn thuế là hành vi dùng thủ đoạn gian dối
để không phải đóng thuế hoặc đóng thuế ít hơn mức thuế phải nộp” [5, tr.119] hay
có tác giả, TS. Đinh Văn Quế chỉ đƣa ra định nghĩa đơn giản: “Trốn thuế là không
nộp thuế cho Nhà nước theo quy định của pháp luật” [19, tr.111].
Pháp luật hiện hành không có quy định nào định nghĩa hành vi trốn
thuế là gì mà liệt kê những hành vi nào bị coi là trốn thuế. Luật quản lí thuế
2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định các hành vi bị coi là trốn thuế bao
gồm các hành vi sau:
- Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ

khai thuế sau chín mƣơi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế
theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 điều 32 của Luật này hoặc ngày hết
thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định tại Điều 33 của Luật này;
- Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác
định số tiền thuế phải nộp;
- Không xuất hoá đơn khi bán hàng hoá, dịch vụ hoặc ghi giá trị
trên hoá đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hoá,
dịch vụ đã bán;
- Sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán hàng hoá,
nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền
thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế đƣợc miễn, số tiền thuế đƣợc giảm
hoặc tăng số tiền thuế đƣợc khấu trừ, số tiền thuế đƣợc hoàn;
- Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số
tiền thuế phải nộp, số tiền thuế đƣợc hoàn;
- Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ

9


sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã đƣợc thông quan trong thời gian sáu
mƣơi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan;
- Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu;
- Cấu kết với ngƣời gửi hàng để nhập khẩu hàng hoá nhằm mục đích
trốn thuế;
- Sử dụng hàng hoá đƣợc miễn thuế không đúng với mục đích quy định
mà không khai thuế.
Có thể nhận thấy, các tiêu chí xác định một hành vi bị coi là trốn thuế
bao gồm:
- Chủ thể của hành vi trốn thuế là cá nhân, tổ chức thuộc đối tƣợng

nộp thuế;
- Chủ thể này đã thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật thuế;
- Hậu quả của hành vi vi phạm là dẫn đến việc làm giảm số thuế phải
nộp hoặc tăng số thuế đƣợc hoàn hoặc đƣợc miễn, giảm.
Bằng những phân tích trên chúng ta có thể hiểu: Trốn thuế là hành vi
của các cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của pháp luật về thuế dẫn đến
hậu quả làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn hoặc
được miễn giảm, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên đối với hành vi trốn thuế khi thỏa mãn dấu hiệu của tội phạm
thì còn bị truy cứu TNHS. Đây là đặc điểm quan trọng cho thấy mức độ nguy
hiểm và hậu quả của hành vi trốn thuế. Nhƣ vậy, hành vi trốn thuế tùy vào
mức độ khác nhau có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự. Vậy khi
nào thì hành vi trốn thuế cấu thành tội trốn thuế?
Theo quy định tại điều 8 BLHS năm 2015 thì:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định
trong BLHS, do ngƣời có năng lực TNHS hoặc PNTM thực hiện

10


một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con ngƣời, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này
phải bị xử lý hình sự [24, Điề u 8, Khoản 1].
Nhƣ vậy, cũng nhƣ các tội phạm kinh tế khác, tội trốn thuế là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho
lợi ích của Nhà nƣớc và xã hội thông qua việc vi phạm các quy định, các

chính sách về thu, nộp thuế. Nhƣ vậy theo quy định này thì hành vi trốn thuế
cấu thành tội trốn thuế khi nó đƣợc coi là nguy hiểm cho xã hội do BLHS quy
định, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nƣớc, do chủ thể có năng lực
TNHS, đủ tuổi chịu TNHS và thực hiện với lỗi cố ý.
Từ sự phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm tội trốn thuế nhƣ sau: Tội
trốn thuế là hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể có năng lực TNHS, đủ
tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý được BLHS quy định, thể hiện bằng việc
vi phạm các quy định của pháp luật về thuế dẫn đến hậu quả làm giảm số
thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn hoặc được miễn giảm, gây
thất thu cho ngân sách Nhà nước, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Nhà nước
được quy định trong BLHS
Qua những sự phân tích trên, TNHS đối với tội trốn thuế có thể
đƣợc hiểu là:
Những hậu quả pháp lý bất lợi mà các chủ thể của TNHS phải chịu do
có hành vi vi phạm pháp luật về thuế dẫn tới những hậu quả nhất định đƣợc
quy định trong BLHS, đƣợc thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện
pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc cũng do BLHS quy định.

11


1.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế
TNHS đối với tội trốn thuế bao gồm những đặc điểm cùng đƣợc thừa
nhận chung của TNHS và một số đặc điểm riêng. Tổng hợp những nghiên cứu
của các nhà khoa học, các đặc điểm của TNHS đối với tội trốn thuế bao gồm
những đặc điểm nhƣ sau:
Thứ nhất, TNHS là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với
bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Các dạng trách nhiệm pháp lý khác
không đƣa đến hậu quả bất lợi và nghiêm trọng đối với chủ thể của hành vi vi
phạm đến mức nhƣ TNHS, đó là hạn chế hoặc tƣớc bỏ quyền và tự do hay

thậm chí tƣớc bỏ cả tính mạng của chủ thể là cá nhân (nếu bị áp dụng hình
phạt tử hình) [7, tr.611], hay mức phạt tiền cao đối với chủ thể là PNTM.
Thứ hai, TNHS chỉ đƣợc thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật
hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất
định – một bên là Nhà nƣớc [7, tr.612], bên còn lại là chủ thể phạm tội. Cụ
thể, Nhà nƣớc mà đại diện cho Nhà nƣớc là các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự có thẩm quyền – có quyền khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử chủ thể
phạm tội, nhƣng phải có nghĩa vụ chỉ đƣợc xử lý dựa trên các căn cứ và trong
các giới hạn, biên độ do pháp luật quy định và điều chỉnh; ngƣợc lại, chủ thể
phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tƣớc bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do nhất
định, nhƣng đồng thời họ cũng có quyền yêu cầu sự tuân thủ nghiêm minh,
đầy đủ và thực hiện đúng quy định của pháp luật từ phía Nhà nƣớc, từ phía
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền và từ các cán bộ thực thi
pháp luật – đối với các quyền tự do và lợi ích chính đáng của con ngƣời, của
công dân theo đúng quy định của pháp luật. Hai nội dung (quyền và nghĩa vụ)
thực hiện luôn luôn song hành với hai chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự
là Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội [35, tr.228].
Thứ ba, TNHS đƣợc xác định bằng một trình tự đặc biệt bởi cơ quan tƣ

12


pháp hình sự có thẩm quyền mà trình tự đó phải do pháp luật tố tụng hình sự
quy định. Song, không phải bất kỳ cơ quan Nhà nƣớc nào cũng đƣợc phép
quy TNHS cho một công dân, mà chỉ có cơ quan tƣ pháp hình sự có thẩm
quyền (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) mới có thẩm quyền này. Tuy
nhiên, thẩm quyền trên không phải là sự tùy tiện mà phải theo một trình tự
đặc biệt do pháp luật tố tụng hình sự quy định – giai đoạn tố tụng hình sự cụ
thể tƣơng ứng với cơ quan nào, thì cơ quan đó mới có thể có thẩm quyền
khẳng định vấn đề TNHS của công dân đó bị coi là có lỗi trong việc thực hiện

tội phạm [7, tr.611].
Thứ tư, TNHS chỉ đƣợc thực hiện trong bản án kết tội của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật bằng việc áp dụng đối với ngƣời phạm tội một hoặc nhiều
biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc do luật hình sự quy định. - các văn bản
của các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát) trong
quá trình truy cứu TNHS công dân (nhƣ quyết định khởi tố vụ án hình sự,
quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra, quyết định tạm giam, cáo trạng,...)
hoặc bản án kết tội của Tòa án chƣa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo
hoặc kháng nghị đƣợc ban hành trƣớc khi công dân đó chính thức bị coi là
ngƣời có tội – chỉ là các văn bản áp dụng các biện pháp cƣỡng chế về mặt tố
tụng hình sự nhằm đảm bảo cho việc thực hiện TNHS sau này, chứ chƣa có
kháng cáo hoặc kháng nghị đƣợc ban hành trƣớc khi công dân chính thức bị
coi là ngƣời có tội – chỉ là các văn bản áp dụng các biện pháp cƣỡng chế về
mặt tố tu ̣ng hình sƣ̣ nhằm đảm bảo cho việc thực hiện TNHS sau này chứ
chƣa phải là các văn bản mà trong đó TNHS đƣợc thực hiện
- Vì căn cứ vào nguyên tắc về suy đoán vô tội đã đƣợc ghi nhận trong
hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự của nƣớc ta, thì TNHS chỉ đƣợc chính
thức thực hiện khi bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật và,
- TNHS đƣợc thực hiện bằng việc áp dụng đối với ngƣời phạm tội,

13


PNTM phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc do
BLHS quy định – có thể là hình phạt hoặc (và) biện pháp tƣ pháp [7, tr.612].
1.3. Một số nội dung cơ bản về trách nhiệm hình sự đối với tội trốn
thuế trong luật hình sự Việt Nam
1.3.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Cơ sở của TNHS đƣợc nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, dựa trên quan điểm của GS.TSKH. Lê Cảm khi nghiên cứu cơ sở

của TNHS cần phân tích, tiếp cận vấn đề trên ba bình diện: Về mặt nội
dung hay vật chất khách quan; Về mặt hình thức bên ngoài; Về mặt quy
phạm pháp lý. Trong đó:
Cơ sở khách quan của TNHS: Cơ sở của TNHS là việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm [7, tr.631].
Cơ sở hình thức của TNHS là căn cứ chung. Có tính chất bắt buộc và
do luật hình sự quy định mà chỉ có và phải dựa vào đó các cơ quan Nhà nƣớc
có thẩm quyền mới có thể đặt ra vấn đề TNHS của ngƣời đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [7, tr.632]
Cơ sở pháp lý là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các dấu hiệu
của CTTP cụ thể tƣơng ứng đƣợc ghi nhận trong pháp luật hình sự [7, tr.633]
hay CTTP đƣợc coi là cơ sở pháp lý của TNHS [12, tr.9-10].
Ở nƣớc ta, sự thể hiện cơ sở pháp lý của TNHS đã đƣợc cụ thể hóa
trong BLHS [35, tr.231].
Tội trốn thuế - đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các dấu
hiệu CTTP đƣợc quy định trong BLHS chính là một trong các cơ sở của
TNHS đối với tội trốn thuế.
1.3.1.1. Chủ thể của tội trốn thuế
Trong lịch sử hình thành và phát triển của ngành khoa học luật hình sự,
các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng: Chủ thể của tội phạm là người có

14


năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ
thể [31, tr.84]. Tuy nhiên, BLHS 2015 ra đời đã đặt ra vấn đề TNHS đối với
PNTM (khoản 2 điều 2) và quy định PNTM phải chịu TNHS về tội trốn thuế
(khoản 1 điều 76). Do đó, khi đạt đủ các điều kiện về chủ thể phải chịu
TNHS, các cá nhân và PNTM đó phải chịu TNHS theo luật định. Về điều
kiện phải chịu TNHS của PNTM, luận văn đã có một phần trình bày riêng.

Trong phần này, luận văn tập trung phân tích làm rõ chủ thể là cá nhân phạm
tội trốn thuế.
Chủ thể của tội phạm nói chung và của tội tốn thuế nói riêng là ngƣời có
năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Năng lực TNHS đƣợc hiểu là ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội có khả năng nhận thức đƣợc tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và có khả năng điều khiển đƣợc hành vi ấy [31, tr.126].
Luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định nhƣ thế nào là có năng lực
TNHS mà chỉ quy đình độ tuổi chịu TNHS và quy định thế nào là tình trạng
không có năng lực TNHS. Với quy định đó luật hình sự Việt Nam mặc nhiên thừa
nhận những ngƣời đã đạt độ tuổi chịu TNHS nói chung là có năng lực TNHS.
Trong đó điều 12 BLHS 2015 quy định về độ tuổi chịu TNHS nhƣ sau:
1. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu TNHS về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định
tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168,
169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 252, 265, 266, 286, 287,
289, 290, 299, 303 và 304 của bộ luật này [24].
Đây cũng là một điểm tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp của BLHS 2015
so với BLHS 1999. Trong khi điều 12 BLHS 1999 chỉ quy định:

15


“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
thì tại khoản 1, BLHS 2015 đã bổ sung thêm trƣờng hợp loại trừ TNHS
đối với những ngƣời đủ 16 tuổi trở lên khi đáp ứng đƣợc các quy định khác

của bộ luật. Còn tại khoản 2, các nhà lập pháp đã bổ sung, quy định cụ thể các
tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng mà ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên
nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS, tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp
luật đƣợc thống nhất.
Nhƣ vậy, đối chiếu quy định tại điều 200 BLHS 2015 thì cá nhân phạm
tội trốn thuế chỉ phải chịu TNHS khi thỏa mãn những điều kiện sau:
- Đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên (do tội trốn thuế không đƣợc liệt kê
tại khoản 2 điều 12 BLHS 2015 nên cá nhân từ đủ 14 đến dƣới 16 không phải
là chủ thể của tội phạm này);
- Có năng lực TNHS;
- Đã thực hiện hành vi trốn thuế quy định tại khoản 1 điều 200 BLHS 2015.
1.3.1.2. Khách thể của tội trốn thuế
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại [31, tr.78]. Dựa vào mức độ xâm hại của tội phạm đến
quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ, khoa học luật hình sự phân thành ba
loại khách thể của tội phạm nhƣ sau: khách thể chung, khách thể loại, khách
thể trực tiếp. Trong đó:
Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp những quan hệ xã hội đƣợc
luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm. Theo đó, tổng hợp những
quan hệ xã hội đƣợc quy định tại điều 8 BLHS 2015 đƣợc gọi là khách thể
chung của tội phạm bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc

16


phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
quyền con ngƣời, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải
bị xử lý hình sự.

Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất
đƣợc nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của nhóm
tội phạm. Tội trốn thuế là một trong những tội đƣợc quy định tại Chƣơng
XVIII của BLHS 2015 với tên gọi: “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế”. Đặc điểm chung của những nhóm tội này là xâm hại đến trật tự quản lý
kinh tế, ảnh hƣởng tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế quốc
dân, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nƣớc nên các nhà lập pháp xếp chúng
lại trong cùng nhóm tội phạm xâm hại trật tự quản lý kinh tế. Do đó, khách
thể loại của tội trốn thuế là trật tự quản lý kinh tế.
Khách thể trực tiếp của tội phạm là những quan hệ cụ thể bị loại tội
phạm cụ thể trực tiếp xâm hại [31, tr.84]. Theo đó khách thể trực tiếp của tội
trốn thuế là quy định của Nhà nƣớc về thuế, xâm phạm tới lợi ích của Nhà
nƣớc trong việc thu thuế [1, tr.282].
1.3.1.3. Mặt chủ quan của tội trốn thuế
Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt
khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là
hoạt động tâm lý bên trong của ngƣời phạm tội. Với ý nghĩa là một mặt của
hiện tƣợng thống nhất, mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại một cách
độc lập mà luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Hoạt động tâm lí
bên trong của ngƣời phạm tội luôn gắn liền với biểu hiện bên ngoài của tội
phạm [31, tr.125]. Do đó mặt chủ quan của tội trốn thuế chính là hoạt động
tâm lý bên trong của ngƣời có hành vi trốn thuế. Mặt chủ quan của tội phạm
bao gồm các dấu hiệu: Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội, trong đó lỗi là dấu
hiệu bắt buộc trong tất cả các CTTP [31, tr.126].
17


Đối với tội trốn thuế thì lỗi cuả ngƣời phạm tội là lỗi cố ý. Ngƣời phạm
tội nhận thức rõ hành vi trốn thuế của mình là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp
luật, biết rõ hành vi của mình làm thất thu ngân sách Nhà nƣớc nhƣng vì lợi

nhuận mà họ vẫn thực hiện hành vi phạm tội.
Về động cơ và mục đích phạm tội: Động cơ phạm tội là động lực bên
trong thúc đẩy ngƣời phạm tội thực hiện hành vi phạm tội [31, tr.128]. Mục
đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà ngƣời phạm tội đặt ra phải
đạt đƣợc khi thực hiện hành vi phạm tội [31, tr.130]. Ngƣời thực hiện hành vi
trốn thuế cũng có mục đích và động cơ nhất định, đó là vụ lợi. Tuy nhiên
động cơ, mục đích của ngƣời phạm tội không là dấu hiệu bắt buộc trong
CTTP của tội trốn thuế.
1.3.1.4. Mặt khách quan của tội trốn thuế
Mặt khách quan của tội phạm là những mặt bên ngoài của tội phạm,
bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới
khách quan [31, tr.91].
Mặt khách quan của tội phạm gồm có: Hành vi khách quan nguy hiểm
cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội khác
(công cụ, phƣơng tiện, phƣơng pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội).
Trong đó hành vi khách quan là yếu tố quan trọng nhất đƣợc phản ánh trong
tất cả các CTTP cơ bản. Các nội dung khác chỉ đƣợc phản ánh trong CTTP
nhất định có thể là CTTP cơ bản hoặc CTTP tăng nặng. Cụ thể với tội tốn
thuế nhƣ sau:
Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội trốn thuế theo BLHS 2015 đƣợc quy định
tại điều 200 bao gồm những hành vi sau:
- Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ

18


×