Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Nghiên cứu tình hình tiêm chủng mở rộng ở trẻ em dưới 1 tuổi tại bốn xã đặc biệt khó khăn huyện Bắc Trà My

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.77 KB, 53 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 1974, Tổ chức Y tế thế giới đã đề xướng và vận động các nước
thành viên thực hiện một chương trình có ích trong khuôn khổ các hoạt động
chăm sóc sức khỏe ban đầu nhằm thực hiện các mục tiêu “ sức khỏe cho mọi
người vào năm 2000”. Đó là chương trình tiêm chủng mở rộng. Mục đích của
chương trình này là mở rộng, phát triển công tác tiêm chủng cho toàn thể trẻ em
trên thế giới, đặc biệt là trẻ em các nước đang phát triển, phấn đấu đến năm 1990
tất cả trẻ em trên thế giới đều được tiêm chủng phòng 6 bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm và phổ biến nhất và có vắc xin đặc hiệu để bảo vệ [07]. Hiện nay theo số
liệu của Tổ chức Y tế thế giới tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi còn rất cao,
chung cho toàn thế giới 61%0 nhưng có sự khác biệt rất lớn giữa các nước [03].
Ở các nước phát triển tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi là 7%0, các nước đang
phát triển là 67%0, các nước kém phát triển là 109%0. Chương trình tiêm chủng
mở rộng đã được thực hiện ở tất cả các quốc gia và thu được những thành quả
quan trọng góp phần hạ thấp tỷ lệ tử vong cho trẻ em từ 1-5 tuổi trên toàn thế
giới [04].
Ở Việt Nam, Nhà nước ta xác định “Sức khỏe là vốn quý nhất của con
người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Vì vậy chúng ta phấn đấu để mọi người được quan tâm chăm sóc sức
khoẻ” [07],[08]. Dự phòng tích cực và chủ động là quan điểm xuyên suốt trong
quá trình xây dựng và phát triển của nền y tế Việt Nam [9]. Chương trình tiêm
chủng mở rộng là một chủ trương thực hiện dự phòng tích cực và chủ động
trong các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm hạn chế tỷ lệ mắc, giảm tỷ lệ tử
vong và di chứng 6 bệnh truyền nhiễm phổ biến ở trẻ em [3],[6]. Chương trình
tiêm chủng mở rộng cho trẻ em luôn được duy trì đạt tỷ lệ cao trên 90% trong
nhiều năm liền [2], [10]. Năm 2000 Việt Nam đã thanh toán được bệnh bại liệt
trên toàn quốc và tiến đến loại trừ uốn ván sơ sinh, thanh toán bệnh sởi [8].



2

Chương trình tiêm chủng mở rộng được triển khai tại huyện Bắc Trà My
vào năm 1987 thí điểm ở 4 xã thị trấn và đến năm 1989 thực hiện trên 100% các
xã, thị trấn với hình thức tiêm chủng thường xuyên và tiêm chủng chiến dịch từ
năm 1988 đến năm 2001, chương trình tiêm chủng thực hiện tiêm chủng phòng
6 bệnh truyền nhiễm ở trẻ em: lao, sởi, bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt. Đến
năm 2002 chương trình triển khai thêm vắc xin phòng viêm gan B cho đến nay
nâng số bệnh bảo vệ trong chương trình tiêm chủng mở rộng tại huyện lên 7
bệnh. kết quả tiêm chủng mở rộng không đồng đều ở các xã, thị trấn trong
huyện. Vậy thì lý do nào đã tạo nên sự khác biệt đó, do điều kiện kinh tế, trình
độ dân trí, xã hội hóa công tác Y tế tốt hay không tốt hoặc tuỳ thuộc vào khu dân
cư, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa…để theo dõi, đánh giá kết quả
hoạt động tiêm chủng mở rộng chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu tình hình tiêm chủng mở rộng ở trẻ em dưới 1 tuổi tại bốn xã đặc biệt
khó khăn huyện Bắc Trà My”. Đề tài nhằm đến hai mục tiêu sau đây:
1. Xác định tỷ lệ tiêm chủng không đầy đủ, không đúng lịch ở trẻ em dưới 1 tuổi.
2. Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến tình trạng tiêm chủng không đúng, không
đầy đủ và nguyên nhân tiêm chủng không đúng liều của trẻ.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Tiêm chủng là một biện pháp nhằm tạo miễn dịch chủ động cho trẻ em để
phòng chống một số bệnh truyền nhiễm như lao, sởi, bạch hầu, ho gà, uốn ván,
bại liệt, viêm gan siêu vi B. Có thể nói đây là một thành tựu của Y học thế giới
trong thế kỷ XX. Chương trình tiêm chủng mở rộng đã làm giảm đáng kể số mắc
của nhiều bệnh truyền nhiễm ở trẻ em, góp phần làm giảm tỷ suất chết ở trẻ em

dưới 1 tuổi và trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt ở các nước đang phát triển.
1.1. LỊCH SỬ TIÊM CHỦNG MỞ RỘNG TRÊN THẾ GIỚI
Kỷ nguyên tiêm chủng bắt đầu năm 1796 khi một người Anh ở nông thôn
tên là Edward Jenner, đã cấy cho một đứa trẻ 8 tuổi những chất tiết lấy từ tổn
thương của bệnh đậu bò và cho thấy đứa trẻ được bảo vệ chống lại bệnh đậu
mùa, Jenner đã làm thí nghiệm này sau một quá trình quan sát, theo dõi và thấy
rằng những phụ nữ vắt sữa bò có bàn tay phủ đầy thương tổn bệnh đậu bò thì ít
mắc bệnh đậu mùa. Sau khi tiến hành thí nghiệm này nhiều lần với kết quả
giống hệt nhau, năm 1798 Jenner cho công bố kết quả nghiên cứu. Từ năm 1810
nhiều nước ở Châu Âu đã thực hiện tiêm chủng bắt buộc chống bệnh đậu mùa
[1].
Gần một thế kỷ sau phát minh của Jenner, Louis Pasteur phát hiện ra rằng
người ta có thể thu hút tác nhân gây miễn dịch bằng cách bất hoạt vi sinh vật gây
bệnh nhiễm trùng và ông gọi chúng là những vắc xin. Năm 1885, sau khi đã thử
trên súc vật một vắc xin sản xuất từ vi rút bất hoạt gây bệnh dại, Pasteur đã đem
thử nghiệm cho một đứa trẻ 9 tuổi bị thương rất nặng do chó dại cắn. Đứa trẻ
này được tiêm 14 mũi vắc xin và không bị bệnh dại. Từ năm 1890, những thành
phố lớn trên thế giới đã có những trung tâm tiêm chủng phòng bệnh dại và có
thể nói cho đến nay bệnh dại đã được khống chế một cách có hiệu quả [12],
[16].
Trong thế kỷ XX, nhiều loại vắc xin đã được tạo ra và những chương trình
tiêm chủng đã thu được nhiều thành công. Năm 1921 Albert Calmelle và


4

Calmille Guerin đã thành công trong trong việc tạo ra một chủng loại vi khuẩn
lao giảm độc lực và từ đó chế ra vắc xin BCG (Bacille Calmette – Guein: vắc
xin phòng lao). Việc tiêm chủng BCG đã nhanh chóng triển khai ở nhiều nước
để phòng chống bệnh lao cho cộng đồng. Chỉ năm 1955 hơn 60 triệu người trên

thế giới đã được tiêm phòng BCG [03]. Năm 1923 Gaston Ramon đã phát hiện
ra rằng độc tố của vi khuẩn gây bệnh uốn ván và bạch hầu có thể bất hoạt bằng
Formaldehyde (gọi là giải độc tố) và có thể dùng để phòng những bệnh đó. Năm
1925 vắc xin phòng bệnh ra đời, và tiếp theo là sự ra đời của vắc xin phòng bệnh
sốt vàng da vào khoảng năm 1930. Chỉ trong những năm 40, hơn 20 triệu người
Tây Phi đã được tiêm chủng phòng bệnh sốt vàng da, cho phép khống chế cơ
bản bệnh dịch này tại khu vực Tây Phi [09]. Trong những năm 50 vắc xin phòng
bệnh bại liệt đã được đem ra thử nghiệm và sau đó được sử dụng rộng rãi trên
thế giới. Với việc sử dụng vắc xin phòng bệnh bại liệt, cho đến nay hầu hết các
nước phát triển và nhiều nước đang phát triển đã tuyên bố thanh toán bệnh bại
liệt. Hiện nay có nhiều vắc xin gây miễn dịch chủ động phòng chống các bệnh
truyền nhiễm. Những vắc xin được dùng phổ biến trong các chương trình tiêm
chủng của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam bao gồm: Vắc xin
BCG, vắc xin phòng bại liệt, vắc xin DPT hiện nay có HIP…Đó là những vắc
xin mà tổ chức Y tế thế giới và Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (QNĐLHQ) muốn
phổ cập đến tất cả mọi người.
Chương trình Tiêm chủng mở rộng (TCMR) trên thế giới được Tổ chức Y
tế thế giới (TCYTTG) chính thức thành lập và triển khai từ năm 1974. Thực tế
cho thấy các chương trình tiêm chủng hàng năm đã cứu sống được khoảng 1
triệu trẻ em ở các nước đang phát triển, tuy vậy vẫn còn hơn 3,5 triệu trẻ em bị
tử vong hoặc tàn phế mà lẽ ra có thể phòng tránh được bằng tiêm chủng vắc xin
phòng bệnh. Chính vì thể, tháng 7 năm 1977, TCYTTG đã đề xướng các mục
tiêu dài hạn chủa chương trình TCMR trong đó có mục tiêu quan trọng là:
“Giảm tỷ lệ tử vong có thể quy cho 6 bệnh: bạch hầu, ho gà, uốn ván, sởi, lao,
bại liệt bằng cách tạo miễn dịch cho tất cả trẻ em trên toàn cầu trước năm 1990”.


5

Sau 10 năm (1980-1990) thực hiện chương trình TCMR, tỷ lệ tiêm chủng

cho trẻ em trên thế giới từ 5% năm 1974 tăng lên 70% năm 1990, hàng năm số
trẻ được cứu sống do tiêm phòng sởi là khoảng 1.376.000, uốn ván 368.000, ho
gà 425.000. Giai đoạn 1990-2000, TCYTTG đã phát động, triển khai chương
trình thanh toán bại liệt và chương trình loại trừ uốn ván sơ sinh (UVSS) trên
phạm vi toàn cầu.
Sau 15 năm (2000-2015) chương trình TCMR vẫn là chương trình Quốc
gia ưu tiên của hầu hết các nước trên thế giới và được cộng đồng Quốc tế đánh
giá là một chương trình chăm sóc sức khỏe hiệu quả nhất như bênh sởi giảm
79%, góp phần thực hiện công ước quốc tế quyền trẻ em. Bên cạnh những thành
công đạt được, Chương trình TCMR vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn
thách thức. Bệnh bại liệt đã được thanh toán ở nhiều nước song vẫn còn lưu
hành nặng ở một số nước Châu Phi, Châu Á với hàng nghìn ca mắc trong năm
2000, đặc biệt ở Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan, Conggo…và rất dễ xâm nhập trở
lại trở lại các nước đã thanh toán. Viêm gan siêu vi B là bệnh có tỷ lệ mắc và
mang vi rút cao, đặc biệt ở Châu Á và Đông Nam Á, tỷ lệ mang dấu ấn vi rút
viêm gan B trong dân cư là 15-20%, và đây là bệnh TCYTTG khuyến cáo sử
dụng vắc xin rộng rãi vào thế kỷ 21.
Chương trình TCMR trên thế giới cũng đang có những triển vọng đáng
ghi nhận:
- Ngày càng có nhiều loại vắc xin mới, hiệu quả và những bệnh có thể tiến tới
thanh toán, loại trừ bằng vắc xin.
- Thế giới hình thành Hiệp hội toàn cầu về vắc xin và Chương trình TCMR
(GAVI) với nguồn vốn trên 1 tỷ đô la Mỹ để giúp cho các nước đang phát triển
đẩy mạnh công tác chương trình TCMR và phát triển cho các loại vắc xin mới
trong giai đoạn 2001-2010[2].
1.2. TÌNH HÌNH TIÊM CHỦNG MỞ RỘNG TẠI VIỆT NAM
1.2.1. Chương trình tiêm chủng tại Việt Nam


6


Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới ký Công ước về quyền trẻ em và
hưởng ứng chương trình TCMR từ rất sớm. Chính sách đúng đắn của Nhà nước
Việt Nam đã tập trung nguồn lực của cộng đồng, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc
tế và đưa chương trình TCMR thành một chương trình y tế Quốc gia được triển
khai rộng rãi nhất trong những năm qua.
Với sự giúp đỡ có hiệu lực của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc và
TCYTTG chương trình TCMR đã được sự chỉ đạo của Chính phủ và của chính
quyền các cấp, sự tham gia tích cực của các ngành, sự hưởng ứng của nhân dân,
của các bà mẹ và trở thành một chương trình quốc gia về y tế được triển khai
rộng rãi nhất trong những năm qua [7], [13].
Ở nước ta TCMR được hoạt động qua các thời kỳ:
- 1981-1982: làm thí điểm ở một số tỉnh
- 1983-1986: phát triển ra 20 tỉnh
- 1986-1990: đẩy mạnh chương trình TCMR trong cả nước (100% số tỉnh,
92% số xã phường) nhằm đạt mục tiêu tiêm chủng đầy đủ cho trẻ em vào năm
1990.
- 1991-2000: duy trì mục tiêu tiêm chủng đầy đủ và thực hiện 3 mục tiêu
tiếp theo của chương trình TCMR là thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ uốn ván sơ
sinh, khống chế và tiến tới loại trừ sởi.
- Kế hoạch tiêm chủng được vạch ra cho từng thời gian dài (1985-19901995) và từng năm với các mục tiêu và biện pháp thực hiện cụ thể, song kế
hoạch đôi khi còn chủ quan [10].
- 2001-2005: duy trì và tiếp tục hoàn thành chương trình nâng cao chất
lượng các mục tiêu của TCMR. Từ năm 2001 trên 80% đối tượng ở một số tỉnh
thành nằm trong kế hoạch triển khai được tiêm vắc xin viêm gan siêu vi B. Viêm
não Nhật Bản, thương hàn và uống vắc xin tả theo quy định [16].
Đây là một chương trình có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã hội
và quan hệ quốc tế, đồng thời là một bộ phận quan trọng trong chiến lược chăm
sóc sức khỏe ban đầu của ngành y tế trong kế hoạch 1986-1990 [9]. Năm 1988



7

Chính phủ thực hiện lời cam kết với QNĐLHQ với mục tiêu là 80% trẻ em trong
độ tuổi dưới 1 tuổi được, uống 6 loại vắc xin, Từ năm 1989 tiêm chủng thường
xuyên kết hợp với tiêm chủng chiến dịch đã duy trì tỷ lệ tiêm [12]. Trước năm
1985, địa bàn thực hiện chương trình TCMR chỉ giới hạn trong 1313 xã phường
thuộc 166 huyện, đến năm 2008 tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ là trên 90%.
Làm tốt việc tiêm chủng, chúng ta chắc chắn phòng chống được 6 bệnh
trên, bảo vệ được tính mạng, đảm bảo lao động và hạnh phúc của con cháu sau
này [19]. Chương trình đã và đang tiếp tục phát huy hiệu quả, góp phần bảo vệ
thế hệ trẻ, hạ một cách rõ rệt tỷ lệ mắc, chết 6 bệnh truyền nhiễm trẻ em, giảm
bớt chi tiêu về điều trị [11].
Chương trình TCMR đã đưa thêm một số bệnh vào diện tiêm phòng, vắc
xin viên gan siêu vi B được sử dụng tại Việt Nam từ năm 1997 và từ năm 2003
triển khai trong toàn quốc. Một số vắc xin khác: Viêm não Nhật Bản, tả, thương
hàn…cũng đã được đưa vào chương trình TCMR, nhưng mới chỉ được sử dụng
ở một số vùng có nguy cơ cao. Vào tháng 2/2010 vắc xin viêm não Nhật Bản
được Bộ Y tế chính thức đưa vào TCMR nâng số vắc xin của chương trình
TCMR lên 8 loại.
1.2.2. Tình hình tiêm chủng mở rộng tại tỉnh Quảng Nam
Chương trình TCMR được triển khai thí điểm tại thành phố Tam Kỳ,
thành phố Hội An và một số huyện đồng bằng. Chương trình mở rộng dần và
đến năm 1990 triển khai trên 100% xã, phường trong toàn tỉnh. Hiện nay 18
huyện, thành phố đều triển khai tiêm chủng thường xuyên. Từ năm 2001, triển
khai tiêm vắc xin phòng viêm gan siêu vị B thí điểm ở thành phố Tam Kỳ, Hộ
An, năm 2002 triển khai thêm các huyện đồng bằng năm 2003 triển khai trên
100% các huyện, thành phố toàn tỉnh.
Tình hình mắc/chết do 6 bệnh truyền nhiễm trẻ em giảm mạnh so với
trước khi triển khai tiêm chủng. Năm 2000, cùng với toàn quốc, Quảng Nam

được công nhận thanh toán bệnh bại liệt. Bệnh uốn ván sơ sinh (UVSS) được
khống chế.


8

1.2.3. Tình hình tiêm chủng mở rộng tại huyện Bắc Trà My
Đặc điểm chung của huyện Bắc Trà My
Bắc Trà My là một huyện phía nam của tỉnh Quảng Nam, thuộc khu vực
Nam Trung bộ, có 12 xã và thị trấn Trà My.
Dân số 41.710 người, số trẻ dưới 1 tuổi: 892 [21].
Dân tộc kinh là chủ yếu, khoảng 20.198 người; dân tộc Ka dong 14.016,
cor 4.403, Mơ nông 712 người và một số dân tộc khác sống trên địa bàn 13 xã,
thị trấn.
Chủ yếu là nông nghiệp: làm rẫy trồng cây lương thực, cây keo…
Tình hình y tế
Có 13/13 xã, thị trấn có trạm y tế xây dựng kiên cố
Số xã có bác sĩ phục vụ 4/13
03/13 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế năm 2015 chiếm tỷ lệ: 23.07%
Có 02 phòng khám đa khoa khu vực
01 bệnh viện đa khoa huyện
Trung tâm Y tế huyện gồm 08 khoa và 05 phòng chức năng thức hiện hại
nhiệm vụ là khám chữa bệnh và phòng bệnh.
Khoa Y tế dự phòng chịu trách nhiệm triển khai và thực hiện chương trình
TCMR trong toàn huyện.
Trong tổng số dân cư có: 41.710
- Trẻ em dưới 1 tuổi năm (2015): 892
- Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 15-49 tuổi(2015): 11.569
Tình hình tiêm chủng mở rộng
Hoạt động TCMR bắt đầu tại thị trấn huyện Bắc Trà My năm 1986, năm

1987 thực hiện ở 05 xã, 1988 thực hiện 10 xã và đến năm 1989 thực hiện 100%
xã. Từ năm 2002, thêm vắc xin viên gan vi rút B vào chương trình TCMR tại
huyện.
Hiện nay 13/13 xã, thị trấn tổ chức tiêm chủng thường xuyên hằng tháng.
Trước đây một số xã phải tiêm chủng chiến dịch (lưu động), đến nay tỷ lệ tiêm


9

chủng tại điểm đã tăng lên. Chất lượng tiêm chủng ngày càng được củng cố, tỷ
lệ tiêm chủng hằng năm của từng loại vắc xin đạt ở mức cao, trên 90% tiêm
chủng chủng đầy đủ [21].
1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIÊM CHỦNG 7 BỆNH PHỔ BIẾN Ở CÁC
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.3.1. Các bệnh phổ biến
1.3.1.1. Bệnh lao
Theo tổ chức Y tế thế giới đã báo động tới các Chính phủ và Quốc gia trên
toàn cầu về nguy cơ trở lại và sự gia tăng của bệnh lao. Khoảng một phần ba dân
số thế giới đã nhiễm lao, mỗi năm từ tám đến chín triệu người mắc lao mới và
ba triệu người chết trên thế giới và 75% là lứa tuổi đang sản xuất ra của cải vật
chất cho xã hội [11]. Bệnh lao là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các
bệnh nhiễm trùng [05].
Nguyên nhân tăng tỷ lệ lao mới tập trung vào bốn yếu tố chính:


Không chú ý đúng mức tới bệnh lao trong các chính sách y tế.



Sự thay đổi về dân số.




Đại dịch HIV.



Xu hướng kinh tế - xã hội xấu.

Nhiễm lao:
Sau đây cho thấy nguy cơ bị nhiễm lao của trẻ em và thiếu niên:
- Tiếp xúc với người lớn bị lao,
- Những trẻ nào hoặc bố mẹ của trẻ ở vùng có tần suất lao cao.
- Những trẻ mà lâm sàng nghi lao.
- Những trẻ có huyết thanh HIV dương tính.
- Những trẻ có tình trạng suy giảm miễn dịch.
- Những trẻ có mắc các bệnh như Hodgkin, lymphoma, tiểu đường, suy
thận mạn, suy dinh dưỡng [8].
- Những trẻ tiếp xúc với những đối tượng người lớn: Người bị HIV dương
tính, vô gia cư.


10

Chỉ số nhiễm mới hoặc nguy cơ nhiễm lao đã thực hiện năm 1987 được
sử dụng để ước tính nguy cơ nhiễm lao cho các khu vực khác nhau của các nước
đang phát triển. Chỉ số lớn nhất nhất ở vung Sahara Châu Phi (1,5% - 2,5%),
tiếp theo Đông Nam Á (1%-2%), tại Bắc Phi, Trung Đông và Châu My La Tinh
(0,5%-1,5%). Ước tính nhiễm lao trung bình toàn cầu là 1%, nghĩa là xấp xỉ 38
triệu các trường hợp nhiễm lao mới/năm trong tổng số quần thể nhiễm trước đó.

Theo ước tính trong 100.000 dân mỗi năm ước khoảng 680 trẻ em mới bị
nhiễm lao, trong đó có 34 ca mắc lao tập thể, khoảng 20 ca cần điều trị [5]. Theo
một số nghiên cứu có thể một người ra vi khuẩn lao thì lây lan cho 15 người
xung quanh.
1.3.1.2. Bệnh sởi
Bệnh sởi là bệnh rất hay lây, lâm sàng dễ chẩn đoán, nhiều biến chứng do
sự phát tán của vi rút và thâm nhập thứ phát của vi trùng. Chủng ngừa sởi mang
lại sự giảm tần suất mắc bệnh và có thể tiến tới thanh toán bệnh này [15].
Tần suất mắc bệnh cao ở tuổi bắt đầu đi học (6 tuổi) do tiếp xúc nhiều ở
trường học. Hiếm thấy sởi ở 6 tháng tuổi [3], bởi vì hầu hết các bà mẹ đã bị mắc
bệnh và kháng thể đã qua được nhau thai bảo vệ cho trẻ đến 9 tháng kể từ khi ra
đời. Khi phụ nữ mang thai bị nhiễm sởi thường thấy sảy thai, sinh non, dị tật
bẩm sinh.
Tình hình mắc sởi ở Việt Nam:
Năm 1991 cùng với cam kết thực hiện mục tiêu thanh toán bại liệt, loại
trừ uốn ván sơ sinh. Việt Nam còn cam kết thực hiện mục tiêu phòng chống sởi
của TCYTTG. Có 2 chỉ tiêu chủ yếu của mục tiêu phòng chống sởi là: giảm tỷ lệ
mắc sởi 90% và giảm tỷ lệ chết do sởi là 95% so với những nơi chưa triển khai
TCMR [02].
Trong giai đoạn 1976 – 1984 số mắc sởi của Việt Nam dao động từ
125.176 ca/năm (1983) đến 62.400 ca/năm (1981). Bình quân số mắc sởi hàng
năm là 82.364 ca. Số chết do sởi dao động là 322ca/năm.
Trong giai đoạn 1984 – 2012 tỷ lệ mắc sởi giảm 830 lần.


11

Cũng trong thời gian này, một số vụ dịch sởi có quy mô vừa và lớn sảy ra,
nhiều trẻ em trên 5 tuổi bị mắc, trong số đó nhiều trẻ em đã được tiêm vắc xin
sởi [9]. Riêng từ tháng 01/2014 – 4/2014 cả nước có 2496 cas mắc sởi.

Cùng với sự duy trì tỷ lệ tiêm chủng đạt cao, trên 90% như hiện nay, chiến
dịch tiêm nhắc vắc xin sởi – Rubella mũi hai cho trẻ 18 tháng đang được thực
hiện. Các xã, phường, thị trấn triển khai chiến dịch đạt (100%) trẻ được tiêm
với chất lượng vắc xin tốt an toàn không có trường hợp phản ứng đáng tiếc xảy
ra.
1.3.1.3. Bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu là bệnh do nhiễm độc, nhiễm khuẩn, lây theo đường hô
hấp và gây dịch do trực khuẩn Corynebacterium diphteriae (còn gọi là trực
khuẩn Klebs – Loeffler) gây nên. Vi khuẩn thường trú trong mũi họng, thanh
quản.
Cuối thế kỷ thứ nhất, Aretee (Hy lạp) đã mô tả về lâm sàng bệnh bạch hầu
qua hai vụ dịch ở Xiri và ở Ai Cập từ đó bệnh được phát hiện ở nhiều nước và
được mô tả với nhiều tên khác nhau, như Tây Ban Nha, Pháp, Ý...[9].
Hai nhà bác học Đức, Klebs (1883) và Loeffler (1884) đã xác định được
tác nhân gây bệnh là vi khuẩn bạch hầu và đã gây bệnh trên súc vật thực
nghiệm. Năm 1888, Roux và Yersin (pháp) đã xác định được độc tính của vi
khuẩn bạch hầu.
Roux Martin và Ncard (pháp, 1891) dùng kháng độc tố của huyết thanh
ngựa để điều trị bệnh nhân bạch hầu, mở đầu thời kỳ dùng liệu pháp huyết thanh
chữa bệnh bạch hầu. Năm 1912, Schick gây phản ứng ngoài da bằng độc tố bạch
hầu để phát hiện cơ thể cảm thụ hoặc miễn dịch bạch hầu. Năm 1923, Ramon
(Viện Pacteur Paris) tìm ra giải độc tố bạch hầu. Từ năm 1924 áp dụng tiêm
phòng vắc xin cho người, nhiều nước trên thế giới đã thanh toán được bệnh bạch
hầu.
Nếu so sánh số mắc/chết do bạch hầu trước khi triển khai TCMR trên toàn
quốc (1980-1984) có thể thấy TCMR Việt Nam trong 30 năm đã bảo vệ được


12


hàng trăm ngàn cháu tránh được bệnh và hàng ngàn cháu tránh được tử vong do
bạch hầu.
1.3.1.4. Ho gà
Ho gà là một bệnh truyền nhiễm hô hấp cấp, một bệnh lây nhất trong các
bệnh lây ở trẻ em.
Bệnh có thể xảy ra ở khắp nơi, nhưng nhiều nhất ở các nước đang phát
triển. Có thể phát triển thành dịch tản mạn hoặc dịch lớn.
Bệnh xảy ra quanh năm nhưng thường thấy vào tháng 7, tháng 10 là chủ
yếu. Bệnh lây trực tiếp qua đường hô hấp giữa người với người qua những giọt
nước bọt. Cường độ lây bệnh mạnh nhất trong giai đoạn viêm long và giảm dần
vào tuần thứ 3 sau khi bắt đầu có giai đoạn ho cơn [13].
Miễn dịch không được truyền từ mẹ sang con, nên ở trẻ sơ sinh nếu có
nguồn lây thì có thể mắc bệnh ngay trong những tuần lễ đầu. Trong khi đó miễn
dịch chủ động tuy kéo dài nhưng có thể giảm dần theo thời gian.
Người ta đã ghi nhận rằng miễn dịch đối với ho gà không truyền qua được
nhau thai.
* Do đó phải chủng ngừa vắc xin cho trẻ để tạo miễn dịch chủ động đạt
hiệu quả từ 70-90%
* Phát hiện và cách ly sớm cho những trẻ nghi là bị ho gà trong thời kỳ
xuất tiết, trong thời kỳ toàn phát. Trẻ ho gà phải được cách ly 4 tuần để bảo vệ
cho những trẻ khác dễ bị cảm thụ [12].
* Dùng Erythromycine để dự phòng khi có nguồn lây ở gia đình hoặc tiếp
xúc ở bệnh viện, đặc biệt cho trẻ dưới 2 tuổi.
TCMR đã bảo vệ thành công trẻ em phòng chống bệnh ho gà. Việc tiêm
chủng vắc xin DPT-VGB-Hib ở trẻ dưới 1 tuổi duy trì đạt tỷ lệ trên 90% liên tục
trong nhiều năm. Nhờ vậy tỷ lệ mắc bệnh ho gà ở trẻ em giảm 183 lần cho thấy
đã phòng bệnh cho hàng triệu trẻ em.
1.3.1.5. Bệnh bại liệt



13

Sốt bại liệt là một bệnh nhiễm trùng cấp tính do do một loại vi rút ruột, có
thể gây thành dịch. Vi rút này có ái tính đặc biệt với hệ thần kinh và chỉ gây
bệnh cho người, được biểu hiện dưới nhiều dạng bệnh lý khác nhau: từ dạng
không triệu chứng đến dạng liệt [13].
Bệnh chủ yếu xảy ra cho trẻ em ở các nước nghèo, hầu hết trẻ em có được
kháng thể từ 5 tuổi nhưng chỉ một số rất ít có biểu hiện bệnh phần lớn bị nhiễm
phải vi rút rất sớm.
Từ năm 1993, thực hiện mục tiêu thanh toán bệnh bại liệt đến năm 2000,
Việt Nam triển khai chiến dịch Những ngày tiêm chủng toàn quốc (NIDs) cho
trẻ em dưới 5 tuổi uống bổ sung 2 liều vắc xin ngoài 3 liều cơ bản. Tỷ lệ trẻ em
mắc bệnh bại liệt giảm rõ rệt từ 2,7/100.000 dân năm 1980 xuống còn
0,7/100.000 dân vào năm 1990 và còn 0,06/100.000 dân năm 1996. Đến năm
1998 có thể nói Việt Nam đã cơ bản thanh toán bệnh bại liệt.
Trường hợp bại liệt cuối cùng được xác định là do vi rút polio hoang dại
của Việt Nam được phát hiện vào tháng 1 năm 1997 ở tỉnh Phú Yên và cho đến
nay không có trường hợp nào được phát hiện.
Do làm tốt công tác uống vắc xin bại liệt và giám sát tốt, không còn ca bại
liệt nào, nên ngày 29 tháng 11 năm 2000 Việt Nam được Tổ chức Y tế thế giới
khu vực Tây Thái Bình Dương công nhận là nước đã thanh toán bệnh bại liệt.
1.3.1.6. Bệnh uốn ván sơ sinh
Uốn ván trẻ sơ sinh là một bệnh nặng tỷ lệ tử vong trên 90%, do thần kinh
trung ương bị nhiễm độc bởi độc tố của uốn ván (Clostridium tetani). Vi khuẩn
xâm nhập vào cơ thể qua rốn nên còn gọi là uốn ván rốn [13].
Theo các chuyên viên của TCYTTG (1982), tỷ lệ tử vong do uốn ván ở
vùng Đông Nam Á và Nam Á là từ 4,8 – 26,7 trong 1.000 trẻ sơ sinh. Ở Việt
Nam bệnh uốn ván rốn còn gặp ở vùng nông thôn do điều kiện tiệt trùng kém
hoặc do trẻ bị đẻ rơi.
Tiêm phòng vắc xin uốn ván cho sản phụ vì người mẹ có thể truyền cho

thai nhi miễn dịch chống uốn ván. Phương pháp này an toàn và có hiệu quả. Các


14

chuyên viên Y tế thế giới khuyên nên tiêm hai lần, khoảng cách giữa hai lần tiêm
càng sớm càng tốt. Để thanh toán bệnh uốn ván sơ sinh, hội nghị quốc tế về uốn
ván (1987) chủ trương tiêm phòng uốn ván cho tất cả phụ nữ đang độ tuổi sinh
đẻ với 5 lần tiêm
1.3.1.7. Bệnh viên gan siêu vi B
Một trận dịch hoàng đản đầu tiên được nghi nhận từ thời Hypocrates, vào
thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Tuy nhiên bản chất nhiễm trùng của bệnh này
phải chờ đến năm 751 sau Công nguyên mới được biết đến. Đến thế kỷ 17 và 18
có 27 trận dịch hoàng đản xuất hiện tại Châu Âu, thì bệnh viêm gan nhiễm trùng
được đề cập đến.
Năm 1942, một trận dịch viêm gan sau chích ngừa đã xảy ra trong quân
đội đồng minh, có nơi ảnh hưởng đến 20% quân số, đặc biệt quan trọng quân đội
đóng ở Châu Phi.
Vào thập niên 60 của thế kỷ 20, thành phần cấu tạo của siêu vi B được
phát hiện. Bệnh viên gan B được nghiên cứu sâu rộng trên toàn thế giới, liên
quan đến nhiều chuyên ngành khác nhau. Viêm gan B liên quan mật thiết đến xơ
gan, ung thư gan, liên quan đến người được truyền máu nhiều lần, liên quan đến
tính lây lan từ mẹ sang con, liên quan đến tình dục...Nhiều kỹ thuật hiện đại
được phát minh, công nghệ chủng ngừa viêm gan B hiệu quả nhất, an toàn nhất
so với các thuốc chủng khác có từ trước đến nay.
Năm 1965, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lĩnh vực nghiên cứu viêm
gan siêu vi, đó là công trình của Blumberg khám phá được kháng nguyên Úc
Châu (nay gọi là kháng nguyên bề mặt của siêu vi gây viêm gan loại B, viết tắt
là HbsAg).
Bệnh viêm gan B thường diễn tiến phức tạp, trầm trọng dễ rơi vào mạn

tính. Khởi phát âm thầm và kéo dài. Yếu tố dịch tể học có nhiều giá trị chẩn
đoán: ủ bệnh kéo dài (6tuần đến 6 tháng), có tiếp xúc máu và các vật phẩm của
máu, dùng bơm kim tiêm không vô trùng, có tiếp xúc sinh dục với người mang
bệnh hoặc mang mầm bệnh.


15

Hiện nay Việt Nam, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, Châu Phi được
xếp vào khu vực lưu hành cao bệnh viên gan B; tỷ lệ viêm gan B hay gặp ở trẻ
sơ sinh và trẻ nhỏ ở mức cao [17].
1.4. MỤC TIÊU CỦA TIÊM CHỦNG MỞ RỘNG
1.4.1. Mục tiêu của Tổ chức Y tế thế giới
Hàng năm ở các nước đang phát triển, tiêm chủng mở rộng cứu được cuộc
sống của hàng triệu trẻ em. Tuy vậy vẫn còn trên dưới 3,5 triệu trẻ em khác chết
hoặc bị tàn tật do các bệnh có thể găn ngừa được bằng tiêm chủng. Tổ chức Y tế
thế giới (WHO) phát động một chương trình rộng lớn có tính toàn cầu là TCMR
với mục đích chính là dự phòng chủ động các bệnh truyền nhiễm phổ biến, nguy
hiểm trước hết cho trẻ em dưới năm tuổi bằng vắc- xin. WHO ước tính rằng nếu
tất cả các vắc- xin sẵn có hiện nay đều được sử dụng rộng rãi trên thế giới với tỷ
lệ bao phủ đạt hơn 90%, hàng năm có thể dự phòng cho ba triệu trẻ em nữa
không bị chết vì các bệnh truyền nhiễm, góp phần đạt được mục tiêu Thiên niên
kỷ làm giảm hai phần ba số trẻ em dưới năm tuổi chết vào năm 2015 so với năm
1990.
Bảng 1.4. Số liệu tử vong 6 bệnh chính của trẻ em
Bệnh
Sởi
Ho gà
Uốn ván sơ sinh
Bại liệt

Bạch hầu
Lao
1.4.2. Mục tiêu của chương trình TCMR

Số tử vong
02 triệu
9,6 triệu
9,8 triệu
9,83 triệu
10-15% tử vong
10 triệu trường hợp mới

- Tiếp tục thực hiện tiêm chủng phòng 7 bệnh, gây miễn dịch cơ bản cho
trên 90% trẻ em dưới 1 tuổi và tăng cường chất lượng dịch vụ tiêm chủng.
- Phấn đấu tiến tới loại trừ bệnh sởi.
1.4.3. Chiến lược chương trình tiêm chủng mở rộng
Chiến lược: Hai chiến lược tiêm chủng mở rộng được áp dụng:


16

- Tiêm chủng định kỳ:
Một hình thái của tiêm chủng được tổ chức thường xuyên hàng tuần tiêm
chủng, ngày tiêm chủng, vào ngày 25 đến ngày 30 hàng tháng, tuỳ theo khả
năng địa phương. Là chiến lược chủ yếu thực hiện ở thành phố , đồng bằng, nơi
đông dân cư có nhiều điều kiện thuận lợi.
- Tiêm chủng chiến dịch:
Tập trung vào những ngày tiêm chủng nhất định của từng quý, tháng hoặc
mùa có huy động nhân lực cao, trong thời điểm cố định, thực hiện ở những nơi
khó khăn về địa lý, giao thông, năng lượng, mạng lưới y tế cơ sở...phấn đấu để

phổ cập tiêm chủng định kỳ, trong cả nước bảo đảm chất lượng, hiệu quả phù
hợp với điều kiện ở nước ta.
Các biện pháp đối với tuyến huyện và tuyến xã:
- Ở tuyến quận huyện:
Khoa y tế dự phòng của Trung tâm Y tế quận, huyện có cán bộ chuyên
trách về TCMR, có phối hợp với chuyên ngành, chuyên khoa để chỉ đạo trong
huyện.
- Ở tuyến xã phường:
Y tế xã có cán bộ chuyên trách về TCMR giúp huy động toàn bộ y tế xã,
thôn, bản tham gia quản lý và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động liên quan đến
TCMR và các phương tiện vật chất.
Về chuyên môn kỹ thuật:
Tập trung giải quyết những thiếu sót, tồn tại về chất lượng tiêm chủng ỏ
tuyến y tế cơ sở: tiêm đúng lịch, đúng kỹ thuật, vô trùng khi tiêm, bảo quản vắc
xin, quản lý và báo cáo chính xác đối tượng tiêm chủng.
Tăng cường trang thiết bị chuyên môn, bổ túc cán bộ đồng thời có chế độ
đãi ngộ thích đáng kịp thời nhu cầu hoạt động tiêm chủng.
1.5. VẮC XIN
Vắc xin được tinh chế từ những vi sinh vật gây bệnh hoặc từ những độc tố
vi khuẩn tạo ra, phòng được và không gây hại cho người.


17

1.5.1. Các loại vắc xin
- Vắc xin phòng bệnh lao BCG: là vắc xin phòng lao do hai nhà bác học
Calmette và Guerin bằng cách lấy nhiều lần trên môi trường mật bò. Vi khuẩn
lao sống nhưng rất yếu không có khả năng gây bệnh, có vai trò như một kháng
nguyên.
Vắc xin BCG đóng ở dạng khô, nhạy cảm với ánh sáng nhiệt độ do đó bảo

quản ở nhiệt độ 0-8oC. Hiệu lực của BCG đạt được từ 52%-90% ở trẻ nhỏ. BCG
tiêm trong da từ 0,05 đến 1ml tuỳ theo chỉ định của nhà sản xuất.
Phản ứng bình thường sau khi tiêm tại chỗ có nốt đỏ, nốt sưng sau 01 đến
02 tuần vỡ ra tạo thành vảy. Vảy rụng tạo thành nốt sẹo trong nhiều năm, sẹo
BCG tốt có đường kính từ 3 đến 5mm.
- Vắc xin phòng sởi:
Vắc xin sởi chế tạo từ vi rút sởi sống đã làm giảm độc lực, bảo quản ở
nhiệt độ 0 – 8oC. Vắc xin sởi tiêm dưới da 0,5ml cho trẻ 9 đến 12 tháng tuổi.
Hiện nay TCYTTG khuyến cáo tiêm mũi sởi 2 cho trẻ em từ 6 tuổi đến 10 tuổi.
- Vắc xin bại liệt (OPV):
Vắc xin phòng bệnh bại liệt được chế tạo từ vi rút bại liệt sống đã được xử
lý để làm giảm độc hại. Hiệu lực của vắc xin OPV khá cao, dùng để uống hai
giọt chủ yếu là để gây miễn dịch cơ bản ở trẻ dưới 1 tuổi. Cho uống 3 liều OPV
1,2,3 vào lúc trẻ 2,3,4 tháng tuổi, khoảng cách tối thiểu giữa 2 liều là 30 ngày.
- Vắc xin DPT-VGB-Hib
Đây là loại vắc –xin đã được WHO tiền kiểm định với chỉ một mũi tiêm
nhưng phòng được tất cả các bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B và
viêm màng não mủ (Hib), thay cho việc phải sử dụng nhiều mũi tiêm ngừa như
hiện nay trong chương trình tiêm chủng mở rộng.
Loại vắc xin này tiêm cho trẻ lúc 2, 3 và 4 tháng tuổi. văcxin này có tính
ưu việt nữa là ngừa viêm màng não mủ và lại được tiêm ngừa miễn phí, hiệu quả
cao.


18

Tác dụng phụ của vắc xin rất ít, và tỷ lệ thấp. Tuy nhiên thời gian gần đây
có một số tại biến khi tiêm vắc xin trong chương trình TCMR.

1.5.2. Hiệu lực của vắc xin và miễn dịch

- Hiệu lực của vắc xin: Là khả năng phòng bệnh mà người tiêm có được
sau khi tiếp xúc với mầm bệnh trong thiên nhiên [18].
Hầu hết các loại vắc xin được sản xuất với mục đích như trên. Khi sử
dụng vắc xin, kháng thể trung hòa đặc hiệu với vi sinh vật là tuyến kháng thể
đầu tiên, nó giúp làm giảm tác động của vi sinh vật cho nên bệnh không xảy ra
được.
Miễn dịch:
+ Miễn dịch tự nhiên:
Một đứa trẻ bị lên sởi, sẽ không mắc lại bệnh sởi đó là miễn dịch tự nhiên
chủ động. Trong những tháng tuổi đầu tiên tự nhiên đứa trẻ được bảo vệ chống
lại bệnh sởi và một số bệnh khác nhờ kháng thể của mẹ. Các kháng thể này
truyền theo máu của mẹ qua nhau thai vào cơ thể trước khi sinh ra; trong sữa mẹ
cũng có kháng thể như vậy trẻ em đã có miễn dịch tự nhiên chủ động. Miễn dịch
này giảm đi sau những tháng tuổi đầu tiên và đứa trẻ có nguy cơ mắc bệnh trở
lại.
+ Miễn dịch nhân tạo:
Vắc xin là những chế phẩm được sản xuất từ các vi sinh vật gây bệnh
hoặc độc tố của chúng. Các thành phần này đã được làm biến đổi trở nên vô hại
cho cơ thể nhưng chúng vẫn đóng vai trò kháng nguyên kích thích cơ thể sinh ra
kháng thể. Miễn dịch do kháng nguyên tạo ra gọi là miễn dịch nhân tạo chủ
động, trong trường hợp các kháng huyết thanh là những chế phẩm có sẵn kháng
thể miễn dịch được tạo ra gọi là miễn dịch nhân tạo thụ động.
1.5.3.1. Số mũi tiêm chủng của mỗi vắc xin


19

Có sự khác biệt trong giữa các loại vắc xin “sống” và “chết”. Lượng
kháng nguyên trong vắc xin chết là một thông số quan trọng để đánh giá hiệu
lực của vắc xin. Vắc xin chết phải được tiêm nhắc lại nhiều lần để tạo ra đáp ứng

miễn dịch đầy đủ (ví dụ DPT). Ngược lại vắc xin sống (sởi, BCG) chứa các vi
sinh vật sống bị giảm độc lực nên chúng có có thể tự nhân lên trong cơ thể trẻ
sau khi tiêm chủng. Vì vậy lượng kháng nguyên lúc đầu rất nhỏ nhưng sau đó sẽ
tăng lên nhanh chóng. Do đó, với những vắc xin sống chỉ cần tiêm 1 mũi ngoại
trừ OPV.
1.5.3.2. Đặc điểm lịch tiêm chủng của một số vắc xin
Vắc xin DPT: Ở những nước đang phát triển, điều quan trọng là trẻ em
nhận được 3 liều ngay khi có khả năng, bởi vì chúng có nguy cơ bị mắc bệnh ở
lứa tuổi rất nhỏ và có nhiều biến chứng. Liều thứ nhất không cho bảo vệ hữu
hiệu chống bạch hầu, ho gà, uốn ván nhưng chuẩn bị hệ thống phòng vệ miễn
dịch cho những liều sau. Phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy rằng vắc xin ho
gà không có tác dụng khi trẻ chưa tới 6 tuần tuổi, do còn tồn tại miễn dịch từ mẹ
sang và hiện tượng này cũng xảy ra đối với vắc xin uốn ván, bạch hầu.
TCYTTG khuyến cáo các nước đang phát triển nên sử dụng 3 liều DPT với
khoảng cách ít nhất 4 tuần. Sử dụng các liều ở khoảng cách dài hơn thì sẽ có
hiệu quả cao hơn nhưng trẻ lại không được bảo vệ trong một thời kỳ dài hơn. Về
nguyên tắc:
- Ba liều DPT-VGB-Hib: Bảo vệ 70-90% trẻ chống lại bệnh ho gà trong ít
nhất 2 năm, nếu chỉ dùng 2 liều DPT thì khả năng bảo vệ được 50% số trẻ. Đối
với bệnh bạch hầu, 2 liều DPT-VGB-Hib có khả năng gây miễn dịch cho khoảng
80-90% số trẻ và liều thứ 3 sẽ cải thiện mức độ miễn dịch và kéo dài sự bảo vệ
cho đến tận 13 tuổi.
- OPV (Oral Polio Vaccine): Lịch uống OPV cũng tương tự như lịch tiêm
DPT-VGB-Hib. Liều thứ nhất khởi động những kháng thể chống lại từng loại
trong 3 loại vi rút bại liệt, 2 liều OPV có tác dụng khởi động những kháng thể


20

chống mỗi loại vi rút 85-100% số trẻ. 3 liều sẽ tạo đáp ứng miễn dịch cả 3 loại

vi rút ở 100% số trẻ.
- Vắc xin sởi: Một liều vắc xin sẽ có thể cho miễn dịch vĩnh viễn. Tuy
nhiên mũi sởi chỉ có thể tiêm muộn khi mà kháng thể từ mẹ truyền sang đã hạ
xuống mức thấp. Tuổi tốt nhất để tiêm chủng sởi là vào tháng 9 bởi vì khi đó chỉ
có 10% mắc sởi và 7% trẻ vẫn còn kháng thể từ mẹ truyền sang. Tuy nhiên
những năm trở lại đây số trẻ em đã được tiêm vắc xin sởi vẫn có khả năng bị
mắc bệnh sởi nếu không tiêm nhắc lại. Theo kết quả khảo sát của viện Pasteur
Nha Trang thì có đến 59/99 trẻ đã tiêm phòng sởi một mũi vào tháng thứ 9 vẫn
mắc bệnh sởi.
1.6. ĐỐI TƯỢNG TIÊM CHỦNG, LỊCH TIÊM CHỦNG VÀ HIỂU BIẾT
VỀ TIÊM CHỦNG
1.6.1. Đối tượng tiêm chủng
- Trẻ từ 0-11 tháng tuổi là đối tượng chủ yếu, chỉ tiêu đề ra đạt được trên
90%
- Trẻ từ 12 đến 23 tháng tuổi là đối tượng tiêm nhắc lại nhằm củng cố
miễn dịch cơ bản đã đạt được.
- Tiêm chủng cho phụ nữ có thai và phụ nữ từ 15-45 tuổi.
1.6.2. Lịch tiêm chủng
Bảng 1.6. Lịch tiêm chủng cho trẻ em dưới 1 tuổi (0-11 tháng)
Tuổi
Từ 0 -1tháng
2 tháng tuổi
3 tháng tuổi
4 tháng tuổi

Vắc xin
BCG
Viêm gan B (VGB)
DPT-VGB-Hib 1


Liều và đường đưa vào
Tiêm trong da 1ml
Tiêm bắp 0.5ml

OPV lần 1
DPT-VGB-Hib 2

Uống 2 giọt
Tiêm bắp 0.5ml

OPV lần 2
DPT-VGB-Hib 3

Uống 2 giọt
Tiêm bắp 0.5ml

OPV lần 3

Uống 2 giọt


21

9-11 tháng tuổi
Trẻ 18 tháng

Sởi mũi 1

Tiêm dưới da 0,5ml


Tiêm DPT4

Tiêm bắp 0.5ml

và Sởi-Rubella mũi 2

Tiêm bắp 0.5ml

Một trẻ được tiêm chủng đầy đủ và đúng là đã được tiêm, uống:
- Một liều BCG lúc mới sinh hoặc bất cứ lúc nào khi trẻ 12 tháng tuổi,
nếu không có sẹo phải tiêm lại.
- VGB: Tiêm trước 24 giờ sau đẻ và dưới 7 ngày tuổi.
- DPT-VGB-Hib 1 tiêm khi 2 tháng tuổi; DPT-VGB-Hib 2 khi 3 tháng
tuổi; DPT-VGB-Hib khi trẻ 4 tháng tuổi với khoảng cách giũa các liều ít nhất là
30 ngày
- 3 liều vắc xin OPV lần 1 với khoảng cách giữa các liều ít nhất 30 ngày.
Liều thứ nhất khi trẻ được 2 tháng, liều thứ 2 trước khi trẻ được 3 tháng, liều thứ
3 khi trẻ được 3 tháng .
- Liều Sởi mũi 1khi trẻ được 9 tháng đến 11 tháng tuổi và tiêm DPT4 và
Sởi-Rubella mũi 2 khi trẻ được 18 tháng.
1.6.3. Quản lý dây chuyền lạnh
Dây chuyền lạnh và phân phối vắc xin ở trạng thái còn nguyên hiệu lực từ
nơi sản xuất đến tận nơi tiêm chủng. Hệ thống dây chuyền lạnh là quan trọng và
cần thiết vì vắc xin rất nhạy cảm với nhiệt độ và đông băng. Ba yếu tố cấu thành
của dây chuyền lạnh [10] gồm trang thiết bị, con người và các thao tác sử dụng.
Nếu trong 3 bộ phận cấu thành này có sai sót thì cả hệ thống dây chuyền
lạnh sẽ hư vỡ.
Hệ thống dây chuyền lạnh:
Dây chuyền lạnh bao gồm hàng loạt các khâu vận chuyển, nối tiếp kèm
theo việc làm lạnh thích hợp nhằm duy trì bảo đảm hiệu lực vắc xin. Nguy cơ

dây chuyền lạnh mất tác dụng sẽ làm tăng lên vì vắc xin phải vận chuyển theo
dây chuyền lạnh từ nơi sản xuất cho đến tận các bà mẹ và trẻ em cần được tiêm
phòng. Có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của dây chuyền


22

lạnh như: Tăng cường công tác huấn luyện về bảo quản sử dụng vắc xin, sử
dụng trang thiết bị bảo quản lạnh, cải tiến phương pháp kiểm tra, bảo quản, dự
trù, cấp phát vắc xin.


23

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng
- Trẻ em từ 0 – 12 tháng tuổi được xác định trong nghiên cứu là những trẻ
sinh ra từ ngày 01/7/2015 đến 30/8/2016 (tính theo dương lịch)
- Phụ nữ là bà mẹ của những trẻ trên.
2.1.2. Địa điểm
Các bà mẹ và trẻ em hiện đang sống tại 4 xã đăc biệt khó khăn của huyện
Bắc Trà My ( Trà Ka, Trà Giáp, Trà Giác, Trà Bui). Thời gian được tính sống tại
huyện Bắc Trà My là đã đến và sống tại nơi cư trú từ 3 tháng trở lên.
Khái niệm hộ gia đình theo TCYTTG hộ gia đình bao gồm những người
ăn cùng một mâm, cùng ở và sinh hoạt một nhà, trong giai đoạn từ 3 tháng trở
lên.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ 01/2016 đến 12/2016

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bằng phương pháp điều tra ngang, chọn mẫu ngẫu nhiên. Trên cơ sở ứng
dụng kỹ thuật LQT (Lot Quality Technique) của TCYTTG đánh giá chương
trình tiêm chủng mở rộng.
2.2.1. Chọn mẫu nghiên cứu
Ứng dụng phương pháp LQT để đánh giá tiêm chủng mở rộng tại địa bàn
huyện Bắc Trà My trên cơ sở chọn mẫu ngẫu nhiên.


24

Cỡ mẫu: Được chọn theo công thức:
Z2 .p(l-p)
n = ---------------c2
Trong đó:
-

n: cỡ mẫu

-

Z: Hệ số tin cậy ở mức xác suất: 95%, tương đương với 1,96

-

P = 0,90: là tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ ước đoán 90% ta có p = 0,90

-

C = 0,5: độ chính xác (sai số cho phép) là 5%

1,962x 0,90 (1 – 0,90)
n=

= 138
(0,05)2

Chúng tôi điều tra phỏng vấn 200 hộ bà mẹ có con < 1 tuổi là hợp lý
2.2.2. Chuẩn bị điều tra
Sử dụng bộ câu hỏi điều tra để phỏng vấn: Trước khi triển khai điều tra
thực địa. Tổ chức tập huấn, hướng dẫn sau đó tiến hành điều tra hàng hoạt.
Lập danh sách số xã trong toàn huyện, số danh sách thôn, tổ, nóc trong 04
xã.
- Chọn nhà điều tra bằng cách: Khi đến xã có lô điều tra, nếu có sẵn danh
sách hộ gia đình điều tra viên chọn ngẫu nhiên hộ gia đình theo bảng số ngẫu
nhiên và hộ này được xem là nhà đầu tiên để điều tra. Ở một số nơi nếu chỉ có
hộ gia đình theo thôn, nóc điều tra viên chọn hộ đầu tiên cũng giống như trên.
- Chọn nhà điều tra tiếp theo: Nguyên tắc để chọn nhà tiếp theo là nhà gần
nhất với nhà vừa điều tra trước. Trường hợp có nhiều hộ trong một gia đình thì
chọn ngẫu nhiên một hộ.
- Điều tra viên phỏng vấn các bà mẹ về tiền sử tiêm chủng của trẻ theo
mẫu, xem sẹo BCG, xem phiếu tiêm chủng của trẻ, đối chiếu với sổ tiêm chủng
trẻ em, sổ tiêm VAT hoặc sổ khám thai của bà mẹ để ghi chính xác phiếu điều
tra.


25

Dụng cụ và phương tiện nghiên cứu
Mỗi xã một nhóm gồm 03 cán bộ y tế đã được tập huấn trước.
-


Phiếu điều tra (bảng câu hỏi)

-

Phiếu tiêm chủng

2.2.3. Thu thập số liệu
Phần 1: Các thông tin cơ bản
- Tuổi (tính theo năm sinh), nghề nghiệp, trình độ văn hoá, số con, điều
kiện kinh tế, dân tộc, nơi ở...
- Nguồn cung cấp thông tin về lịch tiêm chủng
- Tỷ lệ trẻ giữ phiếu TC= (Số trẻ còn giữ phiếu TC/Tổng số trẻ đã tiêm
chủng tại thời điểm điều tra)/100.
Phần 2: Xác định tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ, không đầy đủ
- Trẻ được tiêm chủng đầy đủ là trẻ đã được tiêm đủ 7 loại vắc xin lao,
bạch hầu, hoa gà, uốn ván, bại liệt, sởi, viêm gan B và tiêm đủ mũi của mỗi loại
vắc xin khi dưới 1 tuổi.
- Trẻ tiêm chủng không đầy đủ là trẻ chỉ cần tiêm thiếu một mũi trong 7
loại vắc xin trong chương trình TCMR khi tròn 1 tuổi.
Phần 3: Xác định tỷ lệ tiêm chủng không đúng lịch
- Trẻ không tiêm chủng đúng lịch BCG: Tiêm BCG sau 1 tháng kể từ
ngày sinh.
- Trẻ không tiêm chủng đúng lịch DPT-VGB-Hib : Sau 1 tháng kể từ ngày
sinh, trước 2 tháng hay sau 3 tháng kể từ ngày tiêm mũi 1, DPT-VGB-Hib trước
2 tháng hoặc sau 3 tháng kể từ ngày tiêm mũi 2.
- Trẻ không tiêm chủng đúng lịch OPV: Uống OPV1, lúc chưa đủ 2 tháng
hoặc sau 3 tháng.
- Trẻ không uống đúng lịch OPV2: Khi ít nhất có 1 trong 2 tình huống
sau:

Uống liều OPV2, lúc chưa đủ 3 tháng hoặc sau 4 tháng.


×