Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 115 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TRN CHUNG

KHIếU NạI, Tố CáO
TRONG Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TRN CHUNG

KHIếU NạI, Tố CáO
TRONG Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. TRN THU HNH

H NI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Trần Chung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ............................................................................................. 7
1.1.
KHÁI QUÁT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ...................................................7
1.1.1.
1.1.2.

1.2.

Khái niệm khiếu nại, tố cáo ..........................................................................7
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân ..............8
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ

1.2.1.

TỤNG HÌNH SỰ .......................................................................................10
Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại ............................................................10

1.2.2.
1.2.3.
1.3.

Khái niệm, đặc điểm của tố cáo .................................................................12
Tính đặc thù của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ...........................14
PHÂN BIỆT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỚI MỘT SỐ HÀNH VI KHÁC

1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......................................................................15
Phân biệt khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng với khiếu nại
bản án có hiệu lực pháp luật .......................................................................15
Phân biệt tố cáo trong tố tụng hình sự với tố giác tội phạm.......................17
Phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với các quy định về

khiếu nại, tố cáo trong Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo hiện nay...................19

1.4.
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHIÊU
NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .........................21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................31
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ................................................................................. 32
2.1.
CHỦ THỂ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .........32
2.1.1. Chủ thể khiếu nại trong tố tụng hình sự .....................................................32
2.1.2.

Chủ thể tố cáo trong tố tụng hình sự ..........................................................38


2.1.3.

Chủ thể giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ........................41

2.1.4.

Mối quan hệ giữa các chủ thể trong khiếu nại, tố cáo ................................42

2.2.

ĐỐI TƢỢNG CỦA KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....42

2.2.1.
2.2.2.
2.3.


Đối tƣợng của khiếu nại trong tố tụng hình sự ...........................................42
Đối tƣợng của tố cáo trong tố tụng hình sự ................................................44
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG

2.3.1.

HÌNH SỰ ....................................................................................................45
Quá trình giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự .................................45

2.3.2.

Quá trình giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự.......................................52

2.4.

NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 ..................................................56

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................62
Chương 3: THỰC TIỄN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ...............................................63
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.1.4.
3.2.


3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.

THỰC TIỄN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH .............................................................63
Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Hà Tĩnh ........................63
Khái quát tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ................65
Tình hình khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh....66
Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ..............................74
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................................................................77
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chủ thể khiếu nại, tố cáo .............77
Hoàn thiện các quy định pháp luật về đối tƣợng khiếu nại, tố cáo ............78
Hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm đối với chủ thể của
khiếu nại, tố cáo .........................................................................................78
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quy trình giải quyết khiếu
nại, tố cáo ...................................................................................................79
Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự .............................81


3.3.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH HÀ TĨNH ...............................................................................82


3.3.1.
3.3.2.

Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ..................................82
Chú trọng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, pháp luật về
Khiếu nại, tố cáo nói chung và pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự nói riêng cho mọi tầng lớp nhân dân .....................................84

3.3.3.

Nâng cao năng lực, ý thức pháp luật của cán bộ công chức tiến hành

3.3.4.

tố tụng hình sự trên địa bàn ........................................................................86
Nâng cao chất lƣợng giải quyết các vụ án hình sự .....................................88

3.3.5.

Tăng cƣờng chỉ đạo các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thực hiện
nghiêm túc công tác tiếp công dân; phối hợp, thực hiện tốt quy chế
liên ngành về tiếp nhận giải quyết đơn thƣ khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự ................................................................................................94
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..........................................................................................99
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................102



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

KNPA:

Kiến nghị, phản ánh

KNTC:

Khiếu nại, tố cáo

THAHS:

Thi hành án hình sự

Thông tƣ liên tịch số 02: Thông tƣ liên tịch số
02/2005/TTLT ngày 10/8/2005 của VKSNDTC –TANDTC
– Bộ Công an – Bộ Quốc phòng – Bộ Tƣ pháp về việc hƣớng
dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về
khiếu nại, tố cáo.
UBND:

Ủy ban nhân dân


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ

Số hiệu

Tên bảng, sơ đồ

Trang

Bảng 3.1: Tổng hợp kết quả xử lý đơn thƣ khiếu nại, tố cáo của
Công an tỉnh Hà Tĩnh (giai đoạn 2011 - 2016)
Sơ đồ 2.1:

69

Sơ đồ minh họa quá trình giải quyết khiếu nại trong tố
tụng hình sự

Sơ đồ 2.2: Sơ đồ minh họa giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự

51
54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, là một trong những quyền cơ bản của công dân đƣợc Hiến pháp quy định.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Quốc hội nƣớc ta đã thông qua Luật khiếu nại,
Luật Tố cáo để đảm bảo phù hợp thực tế. Đây là cơ sở pháp lý để cơ quan, tổ chức,
cá nhân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nếu bị các cơ quan nhà nƣớc
hoặc cá nhân có thẩm quyền có hành vi xâm phạm trong khi thi hành công vụ.
Về lĩnh vực tố tụng hình sự, ngay trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của
Nhà nƣớc ta (BLTTHS năm 1988) cũng đã có một số điều quy định về quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hành vi hoặc quyết định của các cơ quan
tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng. Hiện nay, BLTTHS năm 2003 đang áp
dụng đã có riêng một chƣơng (Chƣơng 35) trong Phần Thủ tục đặc biệt để quy
định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; các quy định này về cơ bản đã tạo
một số điều kiện thuận lợi nhất định cho quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo phát
sinh trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở nƣớc ta
trong những năm qua cho thấy tình hình khiếu nại, tố cáo về tố tụng hình sự nói
chung còn có những diễn biến phức tạp. Tình trạng khiếu nại, tố cáo vƣợt cấp, kéo
dài vẫn thƣờng xuyên xảy ra, trong đó có những vụ đã có quyết định giải quyết
cuối cùng của ngƣời có thẩm quyền theo luật định, có những vụ khiếu kiện gây
xôn xao dƣ luận, làm ảnh hƣởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ảnh
hƣởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng.
Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua, nếu tính về số lƣợng thì việc
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự có những năm tăng, có những năm giảm,
nhƣng tính chất và quy mô khiếu kiện có chiều hƣớng phức tạp hơn do trình độ
dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật ngày càng đƣợc nâng cao, dân chủ trong tố
tụng hình sự ngày càng đƣợc phát huy. Đáng chú ý là tình trạng khiếu nại vƣợt

1



cấp, kéo dài, bức xúc xảy ra ở một số địa phƣơng cấp huyện, làm ảnh hƣởng đến
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong số đó có một số ít trƣờng hợp mặc
dù đã đƣợc cấp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng trả lời nhƣng vì có khiếu nại
lên cấp trên bức xúc kéo dài nên cấp trên đã xem xét lại và xác định là khiếu nại
đúng, một số cơ quan có thẩm quyền giải quyết đã giải quyết không đúng.
Mặc dù hiện nay Quốc hội đã thông qua các đạo luật riêng về giải quyết
khiếu nại, tố cáo nhƣng các luật này mới chỉ điều chỉnh trong lĩnh vực dân sự và
hành chính, không quy định trong lĩnh vực tố tụng hình sự. BLTTHS năm 2003
(Chƣơng 35) và mới đây là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Chƣơng 33) đã bổ
sung thêm một số quy định mới về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Đồng
thời, Liên ngành tƣ pháp Trung ƣơng và các ngành cũng đã có một số văn bản
hƣớng dẫn giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực của ngành, tuy vậy các nội
dung hƣớng dẫn về trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết khiếu nại, tố cáo còn khá
nhiều bất cập, chƣa đầy đủ cũng nhƣ chƣa có văn bản hƣớng dẫn các quy định mới
nên các địa phƣơng vẫn gặp nhiều lúng túng, thiếu thống nhất trong việc giải
quyết. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung đạt
hiệu quả chƣa cao, thậm chí còn tiếp tục phát sinh khiếu kiện về công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tiến hành tố tụng.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự là cần thiết. Đây chính là lý do để tôi lựa chọn "Khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)" làm đề tài luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là một trong những nội dung quan
trọng thể hiện quyền cơ bản của công dân, có quan hệ mật thiết với pháp luật về
Khiếu nại, tố cáo và các quy định về khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực khác. Do
vậy, dƣới những góc độ nhất định, quy định này đã đƣợc một số các nhà khoa học,
các luật gia nghiên cứu. Cụ thể:


2


Bài nghiên cứu chuyên đề: Tố cáo và giải quyết tố cáo trong Luật tố tụng
hình sự: Những vấn đề lý luận - thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, của TSKH. Lê
Cảm - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đăng trên Tạp chí Khoa học (chuyên san
Kinh tế - Luật), Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007. Bài viết đề cập những vấn đề lý
luận về tố cáo trong tố tụng hình sự, qua đó phân tích thực trạng tố cáo và giải quyết
tố cáo, nêu ra những kẽ hở của pháp luật trong lĩnh vực này, đồng thời đƣa ra mô
hình lý luận của những kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
tƣơng ứng. "Khiếu nại, tố cáo theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003", của PGS.TS Phạm
Hồng Hải, Tạp chí Luật học, số 6/2004, trong bài viết này, tác giả phân tích và lý giải
những vấn đề cơ bản các quy định khiếu nại, tố cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 nhƣ điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo. "Về người khiếu nại, tố
cáo và người bị khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự" của đồng tác giả TSKH. Lê
Cảm và ThS. Minh Phƣợng, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2004, bài viết này đề cập đến
việc nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến việc khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự theo hệ thống nhƣ sau: Quyền và nghĩa vụ của ngƣời khiếu
nại, quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị khiếu nại, quyền và nghĩa vụ của ngƣời tố cáo,
quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị tố cáo. "Về đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam", tác giả Nguyễn Trọng Phúc - Tạp chí Nhà nƣớc và
pháp luật số 8/2007, trong bài viết này, tác giả đã khái quát quyền khiếu nại, tố cáo
trong lịch sử, đồng thời đƣa ra những khái niệm cơ bản về khiếu nại, tố cáo, phân
biệt khiếu nại, tố cáo với tố giác, tin báo về vi phạm pháp luật và vi phạm các quyền
đó. Ngoài ra, nghiên cứu về khiếu nại, tố cáo còn đƣợc thể hiện trong "Bình luận
khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự" năm 2003, Nxb Công an nhân dân, do PGS.TS
Võ Khánh Vinh làm chủ biên; trong các sách giáo khoa chuyên ngành luật tố tụng
hình sự; các tập bài giảng của giảng viên...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên của các tác giả thƣờng dƣới dạng
bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành, hoặc một phần trong

các bài giảng của giáo trình giảng dạy hoặc một phần trong sách chuyên khảo... mà
ít có công trình nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và toàn diện về khiếu nại, tố

3


cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thời điểm nghiên cứu và công bố các công trình
nghiên cứu liên quan đến nay đã khá lâu, đồng thời từ sau khi ra đời Luật Khiếu nại
2011, Luật Tố cáo 2011, Luật Tiếp công dân 2013, Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015 đến nay, việc nghiên cứu nội dung này còn rất hạn chế, vì vậy cần
tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách tổng thể cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Trên cơ sở kết quả của các công trình nghiên cứu trƣớc đây, tác giả có sự
tổng hợp, kế thừa để nghiên cứu về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự hình sự ở
Việt Nam, qua thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Từ đó, đƣa ra những nhận định,
đánh giá và một số đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong tố tụng hình sự trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài
a. Mục đích nghiên cứu của luận văn: Mục đích của luận văn là làm rõ một số
vấn đề lý luận của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, nhƣ khái niệm, đặc điểm,
chủ thể, đối tƣợng, quy trình giải quyết của khiếu nại, tố cáo và thực tiễn áp dụng
các quy định của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Qua đó, phân định rõ ràng, có hệ thống những nội dung cơ bản của khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự, so sánh với các hành vi khác trong tố tụng hình sự. Mặt
khác, phân tích một số hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự và đƣa ra một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện
các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự.
b. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận của khiếu nại,
tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, thực tiễn áp dụng khiếu nại, tố cáo trong
tố tụng hình sự hiện hành trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh; xác định hạn chế, nguyên nhân

của hạn chế, hƣớng giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự tại địa phƣơng.
c. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những nội dung cơ bản của khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự hiện hành, bên cạnh đó có so sánh, đối chiếu với Luật
Khiếu nại, Luật Tố cáo và phân biệt khiếu nại, tố cáo với một số hành vi khác trong

4


tố tụng hình sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Luận văn nghiên cứu thực tiễn
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn từ
năm 2011 đến năm 2016, qua đó đƣa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về đấu tranh
phòng và chống tội phạm, cũng nhƣ đảm bảo cơ chế hoạt động đúng, đầy đủ của
các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng, cũng nhƣ đảm bảo về các
quyền của công dân đƣợc khiếu nại, tố cáo khi thấy ngƣời tiến hành tố tụng, cơ
quan tiến hành tố tụng có những hành vi, quyết định tố tụng trái pháp luật, gây ảnh
hƣởng đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, luận văn còn áp dụng các thành tựu về khoa học của
chuyên ngành pháp lý, các nhà chuyên môn, các luận điểm nghiên cứu của các nhà
khoa học, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên
ngành pháp lý đƣợc đăng trên các tạp chí.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phƣơng pháp cơ bản sau để
làm rõ bản chất của đối tƣợng nghiên cứu: phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp so
sánh, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp thống kê xã hội học ...
5. Điểm mới của luận văn
Đây là đề tài nghiên cứu các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình
sự Việt Nam trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn. Đề tài giải quyết đƣợc các nội

dung sau:
- Phân tích và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về khiếu

nại, tố cáo trong tố tụng hình sự: khái niệm khiếu nại; khái niệm tố cáo; các đặc
điểm pháp lý của khiếu nại, tố cáo; cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự Việt Nam; phân biệt khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực hình sự với các lĩnh
vực khác, mối quan hệ giữa chúng.
- Tổng kết, đánh giá các quy định về khiếu nại, tố cáo qua các giai đoạn phát

triển, từ đó đƣa ra những nhận xét, đánh giá rút kinh nghiệm và hƣớng khắc phục.

5


- Phân tích, so sách các quy định khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự theo

hƣớng loại trừ để xác định sự cần thiết của khiếu nại, tố cáo trong các giai đoạn tố
tụng của luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Tổng hợp và phân tích các nguyên nhân của tồn tại trong quá trình thực

hiện và giải quyết các vấn đề về khiếu nại, tố cáo, đánh giá tác động của các hệ quả
này đối với thực tiễn áp dụng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về khiếu nại,

tố cáo trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao nhận thức của ngƣời dân về quyền
khiếu nại, tố cáo, cũng nhƣ hạn chế những sai sót đối với ngƣời tiến hành tố tụng, cơ
quan tiến hành tố tụng.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo

trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Chương 3: Thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình
sự trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh và một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo
Theo từ điển Tiếng Việt thì: "Khiếu nại là việc đề nghị cơ quan có thẩm
quyền xét một việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không đồng
ý" [39, tr. 501].
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã đƣợc ghi nhận
tại các bản Hiến pháp của nhà nƣớc ta. Đó là hiện tƣợng phát sinh trong đời sống xã
hội nhƣ là một phản ứng của con ngƣời trƣớc một quyết định, một hành vi nào đó
mà ngƣời khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó là không phù hợp với các
quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Điều 2 của Luật Khiếu nại năm 2011 giải thích khái niệm khiếu nại:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công
chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá

nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan hành chính nhà nƣớc, của ngƣời có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nƣớc hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức
khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình [51, tr.1].
Theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt:
Khiếu nại đƣợc sử dụng khi quyền chủ thể của bản thân công dân
khiếu nại hoặc của ngƣời do mình bảo hộ bị vi phạm do quyết định hoặc
hành vi trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nƣớc của các cơ quan
nhà nƣớc hoặc viên chức nhà nƣớc [69, tr. 477].

7


Điểm đáng lƣu ý ở đây là tác giả đã chỉ rõ khiếu nại là một trong những
phƣơng thức bảo vệ quyền chủ thể, điều đó tạo cơ chế thuận lợi để công dân sử
dụng quyền khiếu nại của mình đối với cơ quan có thẩm quyền mà theo họ đã bị
quyết định hay hành vi trái pháp luật xâm phạm tới.
"Tố cáo" theo từ điển Tiếng Việt là: "1. Báo cho mọi ngƣời hoặc cơ quan có
thẩm quyền biết ngƣời hoặc hành động phạm pháp nào đó, 2. Vạch trần hành động
xấu xa hoặc tội ác cho mọi ngƣời biết nhằm lên án, ngăn chặn" [39, tr. 1008].
Cùng với khiếu nại, quyền tố cáo của công dân đã đƣợc ghi nhận trong Hiến
pháp, Luật Tố cáo và nhiều văn bản pháp luật khác. Khái niệm tố cáo có thể đƣợc
hiểu dƣới nhiều giác độ khác nhau, dƣới góc độ pháp lý:
Theo khoản 1, Điều 2, Luật tố cáo năm 2011 quy định:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm
pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức [52, tr.1].

Từ các khái niệm cơ bản nêu trên, có thể nói khiếu nại và tố cáo đều là các
quyền chính trị cơ bản của công dân, đƣợc ghi nhận trong văn bản pháp luật có giá
trị pháp lý cao nhƣ Hiến pháp, luật. Khiếu nại và tố cáo là một trong những phƣơng
thức thực hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm
bức xúc trong nhân dân. Đây cũng là phƣơng thức để nhân dân thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát của mình và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khiếu nại, tố
cáo đều hƣớng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo đảm
pháp luật đƣợc thực thi nghiêm minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền.
1.1.2. Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân
Trong giai đoạn hiện nay, khi xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền,
một trong những nguyên tắc, yêu cầu cơ bản nhất là đảm bảo, bảo vệ các quyền con
ngƣời bằng pháp luật và các biện pháp xã hội. Quy định và bảo vệ quyền con ngƣời

8


là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ hệ thống chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nƣớc ta. Điều 3, Hiến pháp năm 2013 quy định:
Nhà nƣớc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân

;

công nhâ ̣n, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con ngƣời , quyền công
dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, mọi ngƣời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện [53, tr.1].
Trong các quyền cơ bản của công dân đƣợc thể hiện theo các nhóm quyền
nhƣ: nhóm quyền công dân về dân sự, chính trị, các quyền về kinh tế, xã hội và văn
hóa, thì một trong những quyền đặc biệt là quyền đƣợc khiếu nại, tố cáo của công

dân. Điều 30, Hiến pháp năm 2013 quy định:
Mọi ngƣời có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận,
giải quyết khiếu nại, tố cáo. Ngƣời bị thiệt hại có quyền đƣợc bồi thƣờng
về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
Nghiêm cấm việc trả thù ngƣời khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại ngƣời khác [53, tr.5].
Bản chất của quyền đƣợc khiếu nại, tố cáo chính là đảm bảo cơ chế giám sát
một cách thực thi nhất đối với các hoạt động của Nhà nƣớc. Khi thực hiện chức
năng quản lý xã hội các hoạt động quản lý này có thể vì một lý do nào đó không
thực hiện đúng, đủ hoặc trái luật, xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân. Chính vì vậy, khiếu nại, tố cáo một mặt là đảm bảo các hoạt động này đúng
pháp luật, mặt khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đồng thời là phƣơng
thức hạn chế sự lạm quyền trong chức năng quản lý xã hội của Nhà nƣớc.
Mặc dù quyền khiếu nại, tố cáo của công dân chỉ đƣợc ghi nhận từ bản
Hiến pháp năm 1946, trong quá trình phát triển của xã hội, quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân ngày càng đƣợc quy định cụ thể qua các bản Hiến pháp và pháp luật
đủ thấy tầm quan trọng của nhóm quyền này trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền ở nƣớc ta.

9


1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại
Điểm 2.1 mục 2 Thông tƣ liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 10/8/2005 hƣớng dẫn
thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo quy định:
"Khiếu nại trong tố tụng hình sự" là việc cá nhân, cơ quan, tổ

chức, theo thủ tục quy định tại Chƣơng XXXV của Bộ luật Tố tụng hình
sự, đề nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định tố
tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó
là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình [70, tr.75].
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự cũng nhƣ trong các lĩnh vực xã hội khác tồn
tại mối quan hệ giữa nhà nƣớc với các chủ thể khác (công dân, tổ chức xã hội,
doanh nghiệp...) mà về nguyên tắc, không có sự bình đẳng giữa hai bên trong mối
quan hệ này, khi phát sinh những vi phạm pháp luật của nhà nƣớc (thông qua hoạt
động của cơ quan nhà nƣớc và công chức nhà nƣớc) ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích
của các chủ thể khác thì các chủ thể khác có quyền khiếu nại để đảm bảo quyền và
lợi ích của mình. Do đó, cũng tƣơng tự khái niệm khiếu nại trong các lĩnh vực khác,
có thể đƣa ra khái niệm khiếu nại trong tố tụng hình sự nhƣ sau:
Khiếu nại trong tố tụng hình sự là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự, có quyền đề nghị người có thẩm quyền giải quyết, xem
xét lại các quyết định, hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng và/hoặc người có
thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định,
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Từ khái niệm trên, có thể đƣa ra một số đặc điểm của khiếu nại trong tố tụng
hình sự nhƣ sau:
Thứ nhất, khiếu nại trong tố tụng hình sự đƣợc giới hạn bởi một phạm vi
nhất định, phạm vi này đƣợc thể hiện rất rõ và cụ thể, chỉ trong các hoạt động tố
tụng. Nói cách khác, Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ quy định phạm vi khiếu nại trong
các hoạt động tố tụng của ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành

10


tố tụng, các hoạt động này diễn ra từ giai đoạn bắt đầu của một vụ án từ trƣớc khi
khởi tố vụ án (hoạt động xác minh...), khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc vụ án đó
(có thể đến giai đoạn thi hành án).

Thứ hai, ngƣời có quyền khiếu nại là cá nhân, tổ chức bị quyết định tố tụng,
hành vi tố tụng xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Điều này có
nghĩa, bản chất các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của ngƣời tiến hành tố tụng,
cơ quan tiến hành tố tụng là các quyết định, hành vi đặc biệt. Những hoạt động này
có thể dẫn đến hạn chế hoặc tạm thời tƣớc bỏ một số quyền cơ bản của công dân.
Cho nên, sự xâm hại ở đây là xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức.
Thứ ba, đối tƣợng khiếu nại là những hoạt động tố tụng của cơ quan tiến
hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời có thẩm quyền tiến hành một số hoạt
động tố tụng. Các hoạt động tố tụng này thƣờng thể hiện ra bên ngoài thành những
dạng cụ thể bằng: quyết định tố tụng, hành vi tố tụng (hành vi có thể bằng hành
động cụ thể hoặc hành vi không hành động khi pháp luật quy định phải hành động).
Thứ tư, ngƣời bị khiếu nại chính là chủ thể có quyền tiến hành tố tụng hoặc chủ
thể đƣợc quyền thực hiện một số hoạt động tố tụng. Đây là những chủ thể đặc biệt, chỉ
có những chủ thể này, theo Bộ luật Tố tụng hình sự mới có thẩm quyền thực hiện các
hoạt động tố tụng mà thể hiện bằng các quyết định tố tụng và hành vi tố tụng.
Thứ năm, chủ thể có quyền phải có hành vi đề nghị ngƣời có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại xem xét lại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng. Theo khái niệm trên,
ngƣời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại là những ngƣời do Bộ luật Tố tụng hình sự
quy định có trách nhiệm trả lời những đề nghị (khiếu nại) của ngƣời khiếu nại. Ngƣời
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại là ngƣời không ra các quyết định hoặc không thực
hành vi tố tụng trực tiếp bị khiếu nại. Ví dụ, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Phó
Thủ trƣởng Cơ quan điều tra (chủ thể bị khiếu nại) do Thủ trƣởng Cơ quan điều tra
giải quyết (ngƣời có thẩm quyền giải quyết) hoặc hoạt động tố tụng của Kiểm sát
viên, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát do Viện trƣởng Viện kiểm sát giải quyết... Đây
cũng là đặc thù mang tính riêng biệt của khiếu nại trong tố tụng hình sự.

11



1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của tố cáo
GS.TSKH.Lê Cảm đƣa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tố cáo trong tố
tụng hình sự nhƣ sau:
Tố cáo trong luật tố tụng hình sự là việc cá nhân theo trình tự và
thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định báo cho cơ quan, ngƣời có
thẩm quyền giải quyết tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ
ngƣời tiến hành tố tụng nào trong các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử hoặc/và thi hành án hình sự đã gây nên (hoặc đe dọa gây nên) thiệt
hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức cũng nhƣ
lợi ích của Nhà nƣớc [14, tr. 118].
Tại điểm 2.5 mục 2 Thông tƣ liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 10/8/2005
hƣớng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khiếu nại, tố
cáo quy định:
"Tố cáo trong tố tụng hình sự" là việc công dân báo cho cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động
tố tụng của ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời có thẩm quyền tiến hành một
số hoạt động điều tra, mà họ cho rằng hành vi đó gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức [70].
Tuy nhiên, một số khái niệm trên còn chƣa thể hiện rõ tính đặc thù của tố cáo.
Chẳng hạn, chƣa phân biệt đƣợc tố cáo với tố giác tội phạm, dễ gây nhầm lẫn giữa tố
cáo trong hình sự với tố cáo theo quy định của Luật Khiếu nại và Luật tố cáo.
Chính vì vậy, để khắc phục những nhƣợc điểm trên, có thể đƣa ra khái niệm
khoa học về tố cáo trong tố tụng hình sự nhƣ sau:
Tố cáo trong tố tụng hình sự là việc công dân theo trình tự, thủ tục do pháp
luật tố tụng hình sự quy định báo cho cơ quan, cá nhân có thẩm quyền biết về hành
vi vi phạm pháp luật của bất cứ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và/hoặc
người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức. Hành vi vi phạm pháp luật đó chưa có dấu hiệu của tội phạm.


12


Từ phân tích ở trên, ta có thể đƣa ra một số đặc điểm của tố cáo, cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, phạm vi tố cáo trong tố tụng hình sự chỉ là hành vi của ngƣời tiến
hành tố tụng, ngƣời có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng. Do hành vi
thực hiện, nên các quyết định tố tụng không phải đối tƣợng của tố cáo. Số lƣợng
hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo không hạn chế.
Thứ hai, chủ thể có quyền tố cáo là công dân. Pháp luật không quy định tổ
chức là chủ thể của tố cáo. Xuất phát từ việc ảnh hƣởng tới quyền, lợi ích hợp pháp
của ngƣời bị tố cáo, thậm chí ảnh hƣởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của ngƣời
bị tố cáo nếu nội dung tố cáo sai sự thật nên trách nhiệm của ngƣời tố cáo khi thực
hiện quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật là rất quan trọng. Ngƣời tố cáo phải
nhận thức, buộc phải nhận thức và chịu trách nhiệm về nội dung tố cáo của mình.
Trƣờng hợp tố cáo sai sự thật, vu khống, ngƣời tố cáo phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm tƣơng ứng và bị cá thể hóa trách nhiệm. Đó cũng là lý do tại sao chỉ có cá
nhân mới có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong tố tụng hình sự mà không
quy định là tổ chức.
Thứ ba, chủ thể có quyền tố cáo trong tố tụng hình sự cũng tƣơng tự nhƣ tố
cáo trong các lĩnh vực khác là quyền của mọi công dân có đủ năng lực pháp luật.
Pháp luật không hạn chế bởi chỉ có những ngƣời bị ảnh hƣởng trực tiếp từ hành vi
vi phạm pháp luật gây ra. Bất cứ hành vi tố tụng nào trái pháp luật xâm hại hoặc đe
dọa xâm hại đến lợi ích của Nhà nƣớc hoặc của ngƣời khác đều bị tố cáo.
Thứ tư, hành vi vi phạm pháp luật này trƣớc khi bị tố cáo chƣa bị phát hiện
ra. Bất cứ ngƣời có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng có hành vi vi phạm
pháp luật đều có thể bị phát hiện và bị tố cáo.
Thứ năm, hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo trong tố tụng hình sự phải chƣa
có dấu hiệu của tội phạm. Trƣờng hợp hành vi vi phạm pháp luật này có dấu hiệu
của tội phạm thì không thực hiện và giải quyết theo quy trình tố cáo mà chuyển

sang một quy trình khác, đó là quy trình giải quyết về tố giác tội phạm. (Xem cụ thể
mục 1.2.4.2. Phân biệt tố cáo trong tố tụng hình sự với tố giác tội phạm).
Những đặc điểm này phản ánh sự khác biệt của tố cáo trong tố tụng hình sự
với Luật Khiếu nại, tố cáo; với tố giác tội phạm... đồng thời cũng cho thấy tính
chịu trách nhiệm về mặt pháp lý của ngƣời tố cáo cũng nhƣ nguy cơ bị nguy hiểm

13


đối với ngƣời tố cáo. Vì vậy, trong số các quyền của ngƣời tố cáo, có hai quyền
khác biệt so với quyền của ngƣời khiếu nại, đó là các quyền mang tính bảo vệ
ngƣời tố cáo: 1) quyền yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích của mình và 2)
quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ. Điều này xuất
phát từ nguy cơ bị đe dọa, trù dập, trả thù ngƣời tố cáo từ phía ngƣời bị tố cáo và
những ngƣời khác có liên quan.
1.2.3. Tính đặc thù của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
Tính đặc thù của khiếu nại trong tố tụng hình sự Việt Nam về cơ bản đƣợc
thể hiện nhƣ sau:

a) Chỉ có những cá nhân, tổ chức, hoặc đại diện hợp pháp của họ bị các quyết
định tố tụng, hành vi tố tụng xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của họ mới có quyền
khiếu nại. Điều này thể hiện, ngoài chủ thể là những ngƣời nhƣ bị can, bị cáo, ngƣời
có quyền, nghĩa vụ liên quan, ngƣời làm chứng, hoặc các các chủ thể khác mới có
quyền khiếu nại đối với hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm
sát viên, thẩm phán Tòa án... khi có căn cứ hành vi tố tụng, quyết định tố tụng xâm
hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Khi thực hiện hành vi tố tụng hoặc ban
hành các quyết định tố tụng, đối với những chủ thể không liên quan đến hoạt động
này, thì không có quyền khiếu nại.

b) Phạm vi khiếu nại (đối tƣợng) cũng đƣợc bó hẹp, cụ thể chỉ có những

hành vi tố tụng, hoặc quyết định tố tụng khi có căn cứ vi phạm pháp luật mới đƣợc
quyền khiếu nại, điều này nếu không phân biệt rõ có thể nhầm lẫn với khiếu nại
quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành chính nhà nƣớc. Bản
thân các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng là hành vi hành chính, quyết định hành
chính, song, các quyết định này, hành vi này thuộc cơ quan Tƣ pháp nên không thuộc
đối tƣợng giải quyết theo Luật Khiếu nại, tố cáo, vì có tính đặc thù riêng biệt, do
tính chất của các hoạt động tố tụng, quyết định tố tụng, nên việc giải quyết khiếu nại
trong hoạt động tố tụng cần phải quy định chuyên biệt.

c) Chính do chủ thể đặc biệt, đối tƣợng khiếu nại đặc biệt, nên thẩm quyền
giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự cũng đƣợc quy định cụ thể bởi ngƣời có

14


thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết, quy trình giải quyết đƣợc
đẩy nhanh nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng.

d) Không có vụ án hành chính trong tố tụng hình sự. Khiếu nại đƣợc coi là
tiền đề của một vụ án hành chính. Theo Luật Khiếu nại nếu không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại lần 2, ngƣời khiếu nại có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân
dân có thẩm quyền.
Đối với tố cáo trong tố tụng hình sự, tính đặc thù cũng thể hiện rõ nhƣ:

a) Chỉ tố cáo đối với hành vi tố tụng của ngƣời tiến hành tố tụng, khi có cơ
sở cho rằng, hành vi đó vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, của ngƣời khác hoặc của cơ quan nhà nƣớc.

b) Chủ thể tố cáo trong tố tụng hình sự cũng giống chủ thể của Luật Khiếu
nại, tố cáo, không hạn chế các chủ thể tham gia tố cáo, kể cả những cá nhân không

liên quan đến hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, quy định tố cáo trong tố tụng hình sự
chỉ áp dụng cho cá nhân, đảm bảo và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật khi
ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng
thực hiện, đồng thời nâng cao trách nhiệm của ngƣời tố cáo khi phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật.

c) Hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo chƣa có dấu hiệu của tội phạm. Điều
này thể hiện mức độ vi phạm của ngƣời bị tố cáo trong các hoạt động tố tụng cũng
nhƣ hậu quả hạn chế (chƣa đến mức nghiêm trọng phải xử lý trách nhiệm hình sự)
của ngƣời bị tố cáo nếu trong trƣờng hợp ngƣời tố cáo tố cáo đúng sự thật.
1.3. PHÂN BIỆT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỚI MỘT SỐ HÀNH VI KHÁC TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.3.1. Phân biệt khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng với khiếu
nại bản án có hiệu lực pháp luật
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: "... khiếu nại đối với bản án
quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không giải quyết theo quy định tại chƣơng
này mà đƣợc giải quyết theo quy định tại các chƣơng XXIII, XXIV, XXX và XXXI
của Bộ luật này" [47, Điều 325].

15


Nhƣ vậy, nếu không chú ý, sẽ nhầm lẫn khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi
tố tụng của ngƣời có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng với khiếu nại
quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật. Bản chất của khiếu nại bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật là "kiến nghị với người có thẩm quyền kháng nghị bản án,
quyết định đã có hiệu lực theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm". Đối với thủ
tục giám đốc thẩm, Điều 272 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định về giám đốc
thẩm nhƣ sau: "Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong

việc xử lý vụ án". Tuy nhiên, không phải bất cứ công dân, hay tổ chức nào cũng có
quyền kháng nghị. Chỉ ngƣời có thẩm quyền mà pháp luật quy định mới có thẩm
quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục này. Để vụ án đƣợc giám sát một
cách chặt chẽ bởi quyền đƣợc phát hiện những vi phạm đối với bản án, quyết định
trên, Điều 274 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Ngƣời bị kết án, cơ quan, tổ chức
và mọi công dân có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án và
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho ngƣời có quyền
kháng nghị quy định tại Điều 275 Bộ luật này" [47].
Thông báo ở đây chính là văn bản khiếu nại bản án và quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật mà cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân phát hiện có dấu hiệu vi
phạm pháp luật.
Tƣơng tự nhƣ khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, khiếu nại theo thủ tục
tái thẩm cũng đƣợc Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rõ:
Thủ tục tái thẩm đƣợc áp dụng đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhƣng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới đƣợc phát hiện có thể làm
thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết đƣợc
khi ra bản án hoặc quyết định đó.
Ngƣời bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện
những tình tiết mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Viện trƣởng
Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những
tình tiết đó [47].

16


Việc phân biệt khiếu nại, tố cáo hành vi tố tụng, quyết định tố tụng với khiếu
nại bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án đƣợc thể hiện ở các đặc điểm sau:

- Về chủ thể: đối với khiếu nại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Chủ
thể là mọi công dân, cơ quan, tổ chức đều có quyền khiếu nại, không phải chỉ là

ngƣời bị ảnh hƣởng quyền, lợi ích hợp pháp trực tiếp từ quyết định, bản án trên.

- Không có chủ thể bị khiếu nại. Theo quy định trên, Tòa án ra quyết định,
bản án nhân danh Nhà nước, nên không phải là quyết định tố tụng của ngƣời có
thẩm quyền tiến hành tố tụng.

- Đối tƣợng khiếu nại là bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Bản án, quyết định này là những quyết định, bản án đặc biệt, đƣợc Tòa án Nhân
danh Nhà nƣớc ban hành sau khi đã thực hiện xong các hoạt động tố tụng.

- Chỉ có một số chủ thể đặc biệt mới có quyền kháng nghị các bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật trên trên.

- Quy trình giải quyết khiếu nại bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án
đƣợc giải quyết theo quy định chung của Luật Khiếu nại.
1.3.2. Phân biệt tố cáo trong tố tụng hình sự với tố giác tội phạm
Hiện nay, việc phân biệt tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố
tụng với tố giác tội phạm vẫn thƣờng gây nhầm lẫn về mặt khoa học pháp lý giữa tố
cáo với tố giác tội phạm. Xuất phát từ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về
tố cáo với quy định về tố giác tội phạm có thể thấy rõ sự khác biệt này nhƣ sau:

- Đối với tố cáo, đối tƣợng của tố cáo là hành vi tố tụng của ngƣời tiến hành
tố tụng hoặc ngƣời có thẩm quyền tiến hành một số hành vi trong hoạt động tố tụng.
Hành vi tố tụng này có dấu hiệu vi phạm pháp luật, ảnh hƣởng tới quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức hoặc của Nhà nƣớc.

- Hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời đƣợc giao
thẩm quyền tiến hành một số hành vi trong hoạt động tố tụng đó không có dấu
hiệu của tội phạm. Điều này đƣợc quy định rất rõ tại Điều 337: "Tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm thì đƣợc giải quyết theo quy định tại Điều 103

Bộ luật này" [47].

17


×