Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận nghiên cứu về các nguồn thông tin trên thị trường chứng khoán, các yêu cầu về thông tin đối với công ty niêm yết, sàn giao dịch chứng khoán và cơ quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.63 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN SAU ĐẠI HỌC

CHUYÊN ĐỀ
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
CHUYÊN ĐỀ 6: Nghiên cứu về các nguồn thông tin trên thị trường chứng
khoán, các yêu cầu về thông tin đối với công ty niêm yết, sàn giao dịch chứng
khoán và cơ quan quản lý thị trường chứng khoán. Bình luận về thực trạng
công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Nhóm chuyên đề: Lê Thị Thúy Hồng
Đoàn Thị Huế
Bùi Tuấn Hùng
Mai Thị Hương
Đặng Hoàng Lan

Hà nội - 2013


I.

Hệ thống thông tin trên thị trương chứng khoán.

1.1

Khái niệm hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán
Hệ thống thông tin của TTCK là hệ thống chỉ tiêu, tư liệu liên quan đến chứng khoán và

TTCK, là những chỉ tiêu phản ánh bức tranh của TTCK và tình hình kinh tế, chính trị tại những
thời điểm hoặc thời kỳ khác nhau của những quốc gia, từng ngành…theo phạm vi bao quát của
mỗi loại thông tin.


Hệ thống thông tin thị trường chứng khoán rất đa dạng và phong phú. Hệ thống mày
được ví như hệ thống mạch máu trong cơ thể người.giúp cho thị trường vận hành liên tục và
thông suốt, đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư, cơ quan quản lý điều hành và
các tổ chức nghiên cứu. Thị trường chứng khoán hoạt động hết sức nhạy cảm và phức tạp,
nhưng phải bình đẳng trong việc tiếp nhận thông tin. Không ai được phép có đặc quyền trong
tiếp nhận thông tin, hoặc sử dụng các thông tin nội bộ, thông tin chưa được phép công bố để
đầu tư chứng khoán nhằm trục lợi. Có thể nói, TTCK là thị trường của thông tin, ai có thông tin
chính xác và khả năng phân tích tốt thì sẽ đầu tư có hiệu quả, ngược lại nhà đầu tư thiếu thông
tin hoặc thông tin sai lệch (tin đồn) sẽ phải chịu tổn thất khi ra các quyết định đầu tư.
1.2

Các nguồn thông tin trên thị trường chứng khoán

1.2.1. Thông tin từ tổ chức niêm yết
Chứng khoán là một dạng tài sản tài chính ( khác với tài sản thực ) được niêm yết giao
dịch trên thị trường thị trường chứng khoán bởi chính tổ chức phát hành .Ngoài yếu tố quan hệ
cung- cầu , giá chứng khoán được hình thành dựa trên “ sức khoẻ “ của chính công ty phát hành
. Do vậy , các thông tin liên quan đến tổ chức phát hành đều tác động tức thời lên giá chứng
khoán của chính tổ chức đó , và trong những chừng mực nhất định có thể tác động lên toàn bộ
thị trường . Trên thị trường chứng khoán , vấn đề công bố thông tin công ty ( corporate
disclosure ) được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu trong hệ thống thông tin của thị trường ,
bảo đảm cho thị trường hoạt động cong bằng, công khai và hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cả nhà đầu tư.


Nội dung thông tin liên quan đến tổ chức phát hành bao gồm các thông tin trước khi
phát hành , sau khi phát hành chứng khoán ra công chúng, và sau khi chứng khoán được niêm
ýêt giao dịch trên thị trường tập trung. Các thông tin bao gồm:
+


Thông tin trên bản cáo bạch ( prospectus ) . Bản cáo bạch là bản thông cáo của tổ chức

phát hành khi thực hiện phát hành chứng khoán ra công chúng , nhằm giúp nhà đầu tư hiểu rõ
về tình hình họat động kinh doanh , tàI chính vv.. và các thông tin khác về mục tiêu phát hành
chứng khoán của tổ chức phát hành
+ Thông tin định kỳ là những thông tin do tổ chức niêm yết công bố vào những thời điểm
theo qui định của cơ quan quản lý như : hằng năm , hàng quý , hàng tháng . Nội dung thông tin
liên quan đến các báo cáo tàI chính , kết quả hoạt động kinh doanh ; báo cáo lưu chuyển tiền
tệ ..vv Các báo cáo thường niên phải có ý kiến của tổ chức kiểm toán độc lập được UBCK chấp
thuận
+ Thông tin bất thường là thông tin được tổ chức niêm yết công bố ngay sau khi xảy ra các
sự kiện quan trọng , làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán hoặc lợi ích của nhà đầu tư . Thông
thường, các thông tin này được công bố trong vòng 24h sau khi xảy ra sự kiện hoặc sau 3 ngày
Nội dung của các thông tin bất thường do cơ quan quản lý qui định.
+ Thông tin theo yêu cầu là việc công bố thông tin khi UBCK hoặc SGDCK yêu cầu phảI
công bố thông tin do có những dấu hiệu bất thường , hoặc nguồn tin đồn trên thị trường có tác
động đến giá chứng khoán
1.2.2. Thông tin từ sàn giao dịch chứng khoán
Hệ thống các văn bản , chính sách ban hành mới ; thay đổi , bổ sung , huỷ bỏ …vv
Đình chỉ giao dịch hoặc cho phép giao dịch trở lại các chứng khoán
Công bố ngày giao dịch không được hưởng cổ tức , lãi và các quyền kèm theo
Các chứng khoán thuộc diện bị kiểm soát , cảnh báo
Đình chỉ thành viên hoặc cho phép niêm yết trở lại
Thông tin về tình hình thị trường : thông tin giao dịch của năm cổ phiếu hàng đầu ; dao
động giá cổ phiếu hàng ngày ; cổ phiếu đạt mức giá trần , sàn …


1.2.3. Thông tin về diễn biến thị trường
Thông tin về giao dịch trên thị trường ( giá mở cửa , đóng cửa , giá cao nhất, thấp nhất
trong ngày giao dịch ; khối lượng giao dịch ; giá trị giao dịch ; giao dịch lô lớn ; giao dịch mua

bán lại cổ phiếu của tổ chức niêm yết )
Thông tin về lệnh giao dịch ( giá chào mua , chào bán tốt nhất , quy mô đặt lệnh ; số
lượng mua hoặc bán )
Thông tin về chỉ số giá ( chỉ số giá cổ phiếu tổng hợp ; bình quân giá cổ phiếu ; chỉ số
giá trái phiếu )
Thông tin về tình hình các tổ chức niêm yết
Thông tin về các nhà đầu tư : giao dịch lô lớn ; giao dịch thâu tóm công ty ; giao dịch
đấu thầu mua cổ phiếu ..vv
1.2.4 Thông tin về giao dịch chứng khoán
Các thông tin về giao dịch chứng khoán được thông báo trên bảng điện tử kết quả giao
dịch của các mã chứng khoán trên SGDCK và trên các phương tiện thông tin đại chúng như :
báo, tạp chí

II.

Các yêu cầu về thông tin đối với công ty niêm yết, sàn giao dịch chứng khoán

và cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
2.1

Sự cần thiết của việc công bố thông tin của công ty niêm yết (CTNY) trên thị

trường chứng khoán
Các công ty đại chúng một khi đã đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán
(TTCK) phải cam kết nghĩa vụ công bố thông tin. Việc công bố thông tin (CBTT) thể hiện
trách nhiệm xã hội của công ty niêm yết là căn cứ để thực hiện việc điều hành TTCK một cách
hiệu quả và lành mạnh. Nó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các chủ thể sau:
-

Đối với nhà đầu tư, việc tìm hiểu một cách chủ ý cũng như tiếp nhận thông tin từ doanh


nghiệp một cách đương nhiên là phương tiện tốt nhất để thực hiện đầu tư hiệu quả. CTNY cung
cấp thông tin thông qua các báo cáo tài chính định kỳ và đột xuất giúp nhà đầu tư nắm bắt được
thời cơ kinh doanh và đầu tư cũng như xây dựng một chiến lược đầu tư và danh mục đầu tư
phù hợp .


-

Đối với nhà quản lý thị trường – Uỷ ban Chứng khoán (UBCK), Sở giao dịch chứng

khoán (SGDCK), thông tin từ CTNY giúp các nhà quản lý thị trường có thể đánh giá được
chất lượng và hiệu quả hoạt động của các thành viên niêm yết, từ đó có thể điều chỉnh hoạt
động của họ như cho phép niêm yết, huỷ bỏ niêm yết hay tái niêm yết, cũng là căn cứ cho
những quyết định khen thưởng hay xử lý vi phạm một cách công bằng và hợp pháp.
-

Đối với bản thân các CTNY, việc đưa ra những bản báo cáo tài chính (BCTC), báo cáo

kiểm toán và các thông tin khác đã phản ánh trung thực hiệu quả hoạt động của công ty. Nó là
một phương tiện quảng bá tốt nhất, khách quan nhất về hình ảnh, thương hiệu và uy tín của
công ty trên thương trường. Dĩ nhiên nó cũng mang lại một mức giá cao xứng đáng cho cổ
phiếu của họ. Nhưng ngược lại, nếu kinh doanh không hiệu quả, công ty phải chịu thiệt hại do
giá cổ phiếu giảm đi theo kết quả kinh doanh. Nhưng điều này lại có mặt tích cực của nó, các
thông tin trung thực được xem như tấm gương phản chiếu hoạt động kinh doanh của công ty
nên là động lực chính đáng nhất giúp công ty hoàn thiện chế độ quản trị, năng động trong kinh
doanh, tìm ra phương cách tốt nhất phát triển thương hiệu của mình.
2.2

Các yêu cầu về thông tin đối công ty niêm yết, sàn giao dịch chứng khoán và cơ


quan quản lý thị trường chứng khoán
-

Theo quy định tại tiểu mục 3 Mục I Thông tư số Số Số: 52/2012/TT-BTC, việc công bố

thông tin trên thị trường chứng khoán phải thực hiện theo đúng những yêu cầu sau:
-

Việc công bố thông tin phải đầy đủ, chính xác và kịp thời theo quy định của pháp luật;

-

Việc công bố thông tin phải do người đại diện theo pháp luật của công ty hoặc người

được uỷ quyền công bố thông tin thực hiện. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải
chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do người được uỷ quyền công bố thông tin công bố.
Trường hợp có bất kỳ thông tin nào làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán thì người đại
diện theo pháp luật của công ty hoặc người được uỷ quyền công bố thông tin phải xác nhận
hoặc đính chính thông tin đó trong thời hạn hai mươi bốn (24) giờ, kể từ khi nhận được thông
tin đó hoặc theo yêu cầu của cơ quan quản lý.
-

Việc công bố thông tin phải được thực hiện đồng thời với việc báo cáo Ủy ban Chứng

khoán Nhà nước, Sàn giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán về nội
dung thông tin công bố, cụ thể như sau:


+


Công ty đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng, công

ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, Sàn giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng
khoán khi thực hiện công bố thông tin phải đồng thời báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước;
+

Tổ chức niêm yết, công ty chứng khoán thành viên, công ty đầu tư chứng khoán đại

chúng; công ty quản lý quỹ có quản lý quỹ đại chúng/công ty đầu tư chứng khoán đại chúng
khi thực hiện công bố thông tin phải đồng thời báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sàn
giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán;
-

Việc công bố thông tin phải được thực hiện đồng thời trên các phương tiện thông tin đại

chúng
-

Sàn giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán cung cấp thông tin về tổ

chức niêm yết, công ty quản lý quỹ có quản lý quỹ đại chúng/công ty đầu tư chứng khoán đại
chúng; quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng cho các công ty chứng khoán
thành viên. Các công ty chứng khoán thành viên có trách nhiệm cung cấp ngay các thông tin
trên một cách đầy đủ cho nhà đầu tư.
-

Minh bạch thông tin
Minh bạch thông tin là một trong những nhân tố quan trọng nhất giúp thị trường chứng


khoán phát triển.Với tư cách là một người chủ sở hữu của doanh nghiệp, cổ đông của công ty
hoàn toàn được quyền biết rõ tình trạng doanh nghiệp của mình. Khi các doanh nghiệp này đã
được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thì câu chuyện minh bạch thông tin doanh
nghiệp không chỉ dừng lại ở những người chủ sở hữu mà còn là chuyện của những nhà đầu tư.
Doanh nghiệp niêm yết phải có trách nhiệm công bố thông tin một cách rõ ràng minh bạch theo
đúng pháp luật để cho các nhà đầu tư có những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên không phải
doanh nghiệp nào cũng làm được như vậy.

III.

Thực trạng công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

3.1

Thực trạng công bố thông tin của một số nước trên thế giới

3.1.1 Thực trạng công bố thông tin ở Mỹ
TTCK Mỹ có lịch sử phát triển đã hơn 200 năm với 14 Sở giao dịch, thậm chí cả thị
trường phi tập trung OTC, khối lượng giao dịch thuộc loại lớn nhất thế giới. Tính ổn định về


mặt kỹ thuật của nó đủ cho thấy hệ thống thông tin được tổ chức tốt đến mức nào. Hệ thống
thông tin của TTCK Mỹ vận hành trôi chảy là do nó được tổ chức tốt, được đầu tư hợp lý về cơ
sở hạ tầng. Ủy ban Chứng khoán Mỹ là cơ quan quản lý, giám sát về lĩnh vực chứng khoán, đã
thiết lập được khung pháp luật thực sự mạnh và có hiệu lực để quản lý TTCK nói chung và hệ
thống thông tin chứng khoán nói riêng. Mọi hoạt động của các chủ thể tham gia trên TTCK như
Sở giao dịch chứng khoán, các CTNY, công ty chứng khoán... đều phải tuân theo những quy
định của Uỷ ban trong quy chế công bố thông tin cũng như các hoạt động giao dịch.
Các công ty chứng khoán khi đưa ra thông tin của mình cho các nhà đầu tư bằng các
hình thức tư vấn cũng phải rất thận trọng. Bởi một mặt họ phải tuân theo những quy định rất rõ

ràng trong việc công bố thông tin thông qua Đạo luật tư vấn đầu tư, mặt khác, nếu vi phạm, họ
lập tức sẽ bị tẩy chay và sẽ có người thay thế họ ngay trên thị trường. Vì vậy, các thông tin của
các TTCK là rất đáng tin cậy. Hơn nữa, tại TTCK Mỹ có thêm loại hình công ty bảo vệ người
đầu tư. Do đó, các hành vi công bố thông tin sai trái, thông tin không trung thực làm ảnh hưởng
đến người đầu tư thì khó có thể tồn tại.
Đặc biệt, TTCK Mỹ luôn chú trọng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hệ thống thông tin để
quản lý và giao dịch hiệu quả, bảo đảm lợi ích về thông tin cho người đầu tư. Cụ thể là các Sở
giao dịch được khuyến khích áp dụng các thành tựu của công nghệ thông tin trong giao dịch.
Tại các Sở giao dịch chứng khoán của Mỹ, chẳng hạn TTCK New York, Amex... đều có riêng
bộ phận giao dịch và kỹ thuật, có chức năng tạo ra môi trường giao dịch công bằng, công khai
và hiệu quả cho các thành viên. Bộ phận này có nhiệm vụ bảo đảm mọi thông tin, số liệu về
giao dịch các chứng khoán được phổ biến kịp thời, chính xác tới các thành viên, người giao
dịch và thị trường.
Vấn đề mạng truyền thông cũng được phát huy tối đa tại TTCK Mỹ. Thông tin tại các
Sở giao dịch luôn thông suốt, có thể xóa đi tối đa sự chênh lệch về giá và sự lệch pha về thông
tin, do nó được bảo đảm bởi hệ thống mạng CORES với cấu hình mạnh và phần mềm ổn định,
có thể kết nối được với các TTCK lớn khác trên toàn thế giới.
Hệ thống thông tin chứng khoán được phát triển cũng bởi mạng lưới các hãng cung cấp
thông tin chuyên nghiệp, các công ty chuyên làm dịch vụ tư vấn với hơn 80.000 khung màn
hình vi tính khác nhau thể hiện bản tin chứng khoán của hơn 80.000 công ty, cung cấp các số


liệu, phân tích chứng khoán đến từng địa phương ở Mỹ. Những công ty này chỉ phục vụ cho
khách hàng hội viên của công ty, cho nên để được tham gia người đầu tư phải trở thành hội
viên thực sự và phải cần một chi phí cũng rất lớn. Trên thực tế, các nhà đầu tư muốn đầu tư tại
Mỹ thường tập trung vào một số chương trình quan trọng qua những kênh lớn là CNN, AOL,
REUTERS, FINANCIAL TIMES...
Các CTNY có những ràng buộc rất chặt chẽ. Ngoài việc chấp hành các nguyên tắc về
công bố thông tin chung của các TTCK, họ còn có sự kiểm soát khác từ phía người đầu tư.
Chẳng hạn, các công ty muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng với số lượng cổ đông lớn, họ

phải lập và nộp bản thông cáo phát hành. Các nhà đầu tư có quyền khởi kiện công ty, nếu công
ty công bố bất cứ điều gì sai sự thật trong bản thông cáo phát hành.
Ở TTCK Mỹ, đội ngũ các hãng thông tin chuyên nghiệp khá hùng hậu, nó cung cấp
thông tin cập nhật chính xác và phong phú cho các nhà đầu tư trên toàn thế giới.
3.1.2 Thực trạng công bố thông tin ở Trung Quốc
Trong thời gian đầu, các thông tin giữa hai Sở giao dịch chứng khoán Thâm Quyến và
Thượng Hải không thống nhất bởi chúng tuân theo các quy định của địa phương, mạng truyền
thông chưa được chú trọng và áp dụng các giao dịch thủ công, mặc dù lúc đó ngành điện toán
đã có những ứng dụng rất hiệu quả vào giao dịch chứng khoán của một số TTCK trên thế giới.
Cũng chính vì chưa có cơ quan nhà nước quản lý thống nhất về chứng khoán nên các quy chế,
quy định về thông tin không được coi trọng, do đó chất lượng thông tin trên thị trường rất kém,
các công bố thông tin của các CTNY, công ty chứng khoán có độ tin cậy rất thấp.
Kết quả là TTCK Trung Quốc phát triển một cách chậm chạp, không đáp ứng được nhu
cầu cổ phần hóa, không đẩy mạnh việc thu hút vốn từ TTCK và gây lãng phí thời gian.
Chỉ từ năm 1992 đến nay, khi Ủy ban chứng khoán nhà nước được thành lập, TTCK
Trung Quốc mới dần đi vào trật tự. Ủy ban chứng khoán nhà nước giữ vai trò quản lý và giám
sát các hoạt động thuộc lĩnh vực chứng khoán. Các CTNY, công ty chứng khoán, các Sở giao
dịch chứng khoán hoạt động theo chuẩn thống nhất, đặc biệt là các quy chế về công bố thông
tin trên thị trường.
Trung Quốc nhận thức rằng trong điều kiện tin học phát triển như hiện nay, các TTCK
cần được hiện đại hóa. Các Sở giao dịch Thâm Quyến và Thượng Hải đã áp dụng giao dịch tự


động, đưa khối lượng giao dịch tăng lên nhanh chóng. Thông qua hệ thống giao dịch tự động,
mỗi giờ có thể tiến hành 100.000 cuộc giao dịch, đáp ứng lượng giao dịch ngày càng tăng của
đất nước có hơn 1,3 tỷ dân này.
Các Sở giao dịch chứng khoán Trung Quốc đã nối mạng với nhau và với các công ty
chứng khoán trong nước. Toàn bộ các giao dịch đã được thực hiện thông qua mạng vi tính, xóa
đi sự không thống nhất về thông tin. Gần đây, Trung Quốc đang tiến hành khảo sát lại hiện
trạng và học hỏi kinh nghiệm về phát triển hệ thống thông tin chứng khoán của thế giới.

3.1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
-

Tất cả các Sở giao dịch chứng khoán lớn trên thế giới đều chú ý đến cơ sở hạ tầng kỹ

thuật, công nghệ thông tin hiện đại, tạo tiện ích tối đa cho hoạt động đầu tư cũng như tất cả các
hoạt động quản lý khác của Sở giao dịch chứng khoán như nhập lệnh, khớp lệnh, đăng ký, lưu
ký, thanh toán bù trừ ... và cả hệ thống giám sát giao dịch bằng công nghệ hiện đại.
-

Vấn đề công nghệ thông tin được đặt lên hàng đầu với sự đầu tư đúng mức để đảm bảo

mọi thông tin trên thị trường đều được phản ánh một cách trung thực, đầy đủ và kịp thời.
-

Để đảm bảo tính an toàn,. Sở giao dịch chứng khoán phải thể hiện được tính công bằng

trong công khai minh bạch thông tin. Có cơ chế giám sát nghiêm ngặt để hạn chế tối đa những
sai sót hoặc tiêu cực làm thiệt hại quyền lợi nhà đầu tư .
-

Tiêu chuẩn niêm yết nghiêm ngặt, đòi hỏi ở các CTNY phải tuân thủ chế độ quản trị,

BCTC, kế toán, kiểm toán theo chuẩn mực quốc gia và quốc tế .
-

Các CTNY có những ràng buộc rất chặt chẽ. Ngoài việc chấp hành các nguyên tắc về

công bố thông tin chung của các TTCK, họ còn có sự kiểm soát khác từ phía người đầu tư.
Chẳng hạn, các công ty muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng với số lượng cổ đông lớn, họ

phải lập và nộp bản thông cáo phát hành. Các nhà đầu tư có quyền khởi kiện công ty, nếu công
ty công bố bất cứ điều gì sai sự thật trong bản thông cáo phát hành.
-

Khuyến khích hoạt động của các hãng cung cấp thông tin chuyên nghiệp, nhất là khi

TTCK phát triển, có thị trường phi tập trung. Ở TTCK Mỹ, đội ngũ các hãng thông tin chuyên
nghiệp khá hùng hậu, nó cung cấp thông tin cập nhật chính xác và phong phú cho các nhà đầu
tư trên toàn thế giới.


3.2

Thực trạng công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Qua hơn 11 năm phát triển, TTCKVN đã trải qua những bước thăng trầm. Trên SGDCK

TP.HCM với số lượng CTNY ngày càng tăng lên sấp sỉ gần 300 công ty, đã tạo nên một thị
trường giao dịch sôi động, là tâm điểm chú ý của cả nhà đầu tư trong và ngoài đạt được đáng
khích lệ, vẫn còn tồn tại những vấn đề ảnh hưởng tiêu cực đến bộ mặt của TTCK VN, trong đó
vi phạm về CBTT đã nổi lên như một vấn đề gây bức xúc cho toàn thể giới đầu tư trong và
ngoài nước.
3.2.1 Bất cân xứng thông tin trên TTCK và những giao dịch gây thiệt hại cho các cổ đông
bên ngoài, cổ đông nhỏ.
Công bố thông tin không đầy đủ, sai lệch
Ngoài các thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các doanh nghiệp
không chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời đã tác động bất lợi cho nhà đầu tư. Đặc biệt
đối với các công ty có công ty có cổ phiếu giao dịch trên thị trường phi tập trung( OTC), phần
lớn các công ty không chủ động cung cấp thông tin chi tiết những báo cáo thuyết minh tài
chính. Nhà đầu tư hầu như mù mờ về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, tình hình tài
chính và các khoản nợ vay của công ty. Các thông tin mà nhà đầu tư tìm chủ yếu qua nguồn tin

riêng, trên các diễn đàn chứng khoán hoặc tin đồn … không có cơ sở, không được kiểm soát.
Nhiều bản báo bạch còn sơ sài, thông tin vừa nghèo nàn vừa không chuẩn mực. Tệ hơn nữa, có
công ty kiếm cớ thoái thác việc cung cấp bản cáo bạch cho nhà đầu tư, không chỉ chậm nộp báo
cáo tài chính, nhiều công ty còn báo cáo số liệu thiếu chính xác, hoặc lợi dụng những quy định
linh hoạt của pháp luật để lập những báo cáo tài chính thiếu chính xác. Theo quy định thông
báo về đấu gía được trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp.
Để che dấu thông tin, có công ty đã ‘lách” bằng cách đăng thông báo trên những tờ báo rất ít
người theo dõi.
Theo thống kê của UBCKNN, có tới 203 trên tổng số 500 doanh nghiệp đang
niêm yết tại 2 Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và TP HCM không hoàn thành nghĩa
vụ báo cáo và công bố thông tin cho Ủy ban trong thời gian qua.
Ngoài ra, nhữg thông tin, những bản cáo bạch, báo cáo tài chính trước khi được
công bố ra thì vẫn chưa đựơc kiểm tra kỹ lưỡng, vẫn còn nhiều sai lệch, không rõ ràng,


thậm chí tồn tại nhiều sai lệch trong yếu, những sai lệch chưa được các công ty kiểm toán
chấp nhận.
3.2.2 Có hiện tượng rò rỉ thông tin hay giao dịch nội gián
Sự rò rỉ thông tin thể hiện ở việc công bố các thông tin có lợi của công ty. Với
cách công bố thông tin hiện nay, việc rò rỉ thông tin dẫn đến giao dịch nội gián, đầu cơ là điều
dễ hiểu xảy ra. Bởi theo qui định thì các công ty niêm yết phải chuyển các tài liệu, thông tin về
DN mình đến TTGDCK để các trung tâm công bố. Khoảng thời gian từ lúc thông tin gửi về
cho đến lúc được TTGDCK công bố có khi kéo dài đến 4-5 ngày. Với quãng thời gian như vậy,
những người nắm được các thông tin này hoàn toàn có thể đặt những lệnh mua, bán cổ phiếu..
để kiếm lợi nhờ biết trước thông tin so với các nhà đầu tư khác. Đến khi đại đa số các nhà đầu
tư trên thị thuờng biết được thông tin thì giá cổ phiếu đã tăng không ngừng. Hay như những với
công ty bị lỗ, người có thông tin hoàn toàn có thể hoàn toàn quyết định bán sớm cổ phiếu mà
mình nắm giữ để tránh thiệt hại. Trong suốt từ cuối năm 2006 đến nay, các cổ đông nội bộ, cổ
đông lớn liên tiếp dùng giao dịch nội gián hoặc thao túng giá chứng khoán đã làm cho TTCK
không ổn định và mất cân bằng. Thiệt hại cho nhà đầu tư là rất lớn trong khi mức phạt thấp,

khung pháp lý chưa đầy đủ, chế tài còn nhẹ, không đủ răn đe. Như vậy, niềm tin của nhà đầu tư
giảm sụt là điều không còn xa lạ trên TTCK VN.
.3.2.3 Doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư.
Ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà
không công bố rộng rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy trong các cuộc đấu giá thì
người đấu giá thành công chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức. Loại trừ khả năng các nhà đầu tư
tổ chức có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích thì người ta cũng nghi ngờ các nhà đầu tư nhận
được nhiều thông tin chất lượng hơn so với các nhà đầu tư cá thể.
3.2.4

Hiện tượng tung tin đồn
Trong thời gian hoạt động của thị trường chứng khoán, có không ít tin đồn ảnh hưởng

đến uy tín của các công ty niêm yết. Các tin này thường đựơc tung ra trên các diễn đàn chứng
khoán, trên các sàn giao dịch chứng khoán, hoặc được truyền miệng. Do nhà đầu tư chưa có
kinh nghiệm, kĩ năng để kiểm chứng nguồn thông tin, đồng thời do cơ chế thông tin của doanh
nghiệp còn yếu kém, chậm chạp nên dẫn đến gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư, ảnh


hưởng đến giá cả cổ phiếu trên thị trường. Trong khi đó, các quy định của Nhà nước về việc xử
phạt đối với việc tung tin đồn trên thị trường chứng khoán vẫn còn trong giai đoạn soạn thảo.
Cơ chế phát hiện đối với việc tung tin đồn cũng chưa rõ ràng.
3.2.5 Các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ
Đây không phải là hiện tượng phổ biến nhưng khiến cho các nhà đầu tư chuyên
nghiệp không mấy tin cậy vào chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí. Mặt khác, về nội
dung thông tin do cơ quan truyền thông cung cấp, chủ yếu vẫn là tin tức, diễn biến thị trường,
chưa có nhiều thông tin nhận định phân tích mang tính định tính cho nhà đầu tư và thị trường.
Ngoài ra, còn có nhiều hiện tượng khác về một số nhà đầu tư làm giá, tạo cung cầu ảo trên thị
trường khiến cho giá cả biến động mạnh. Một vấn đề khác cũng hết sức nghiêm trọng trong
thời gian vừa qua là việc phần mềm của TTGDCK thường xuyên bị lỗi.

Theo Trung tâm An ninh mạng (BKIS) cho biết kết quả khảo sát cho thấy vẫn còn 40% website
có lỗi trên tổng số 60 website của các công ty chứng khoán đang hoạt động. Trang web của
Công ty Phân đạm và Hóa chất dầu khí đã bị hacker tấn công và xóa sạch các dữ liệu về tình
hình sản xuất, kinh doanh, diễn biến giá cả chứng khoán... đồng thời để lại dòng chữ “Bị phá
sản”. Doanh nghiệp này cho biết họ phải mất vài ngày mới có thể khắc phục sự cố. Còn theo
Trung tâm đào tạo Quản trị an ninh mạng Athena, hiện nay các trang web mắc lỗi rất nhiều và
họ cũng cảnh báo một số doanh nghiệp có lỗ hổng dễ bị hacker xâm nhập, các website chứng
khoán thường bị mắc các lỗi như cho phép upload file bằng các công cụ quản lý website, các
lỗi SQL injection, lỗi XSS... Những lỗi này có thể giúp hacker dễ dàng upload lên website
những đoạn shell code độc nhằm mục đích chiếm quyền điều khiển website và qua đó làm thay
đổi nội dung thông tin. Theo cảnh báo từ BKIS, lỗ hổng hiện nay tại các website chứng khoán
có thể bị hacker lợi dụng thay đổi thông tin kết quả giao dịch, sửa đổi chỉ số chứng khoán, đưa
các thông tin thất thiệt về thị trường. Nếu không được phát hiện kịp thời, kẻ xấu có thể lợi dụng
gây sự biến động trên thị trường chứng khoán để trục lợi và nhiều nhà đầu tư sẽ gánh chịu thiệt
hại. Ngoài ra còn nhiều hiện tượng khác về việc một số nhà đầu tư làm giả, tạo cung cầu ảo trên
thị trường khiến cho giá cả biến động mạnh.


3.2.6 Sự thiếu minh bạch thông tin
Có một đặc điểm chung của khối doanh nghiệp cổ phần hoá khi IPO là nhà đầu tư biết
rất ít thông tin về các doanh nghiệp này, kết quả kinh doanh rất nghèo nàn, chi phí quản lý
doanh nghiệp cao, nội dung các bản cáo bạch thông tin không đầy đủ rõ ràng, phần vốn thặng
dư sau IPO không biết được giữ lại bao nhiêu, đơn vị tư vấn thì có khi lại chính công ty con
của mình như VCB, VCBS liệu có công tâm hoàn toàn trong việc công bố thông tin khi VCBS
lại là con đẻ của VCB, thông tin nghèo nàn, chỉ số tài chính không hấp dẫn. Sự thiếu minh bạch
trong công bố thông tin doanh nghiệp lại chủ yếu xuất phát từ bản thân chính doanh nghiệp:
che dấu thông tin về đối tác liên doanh, quyền sử dụng đất để một số lãnh đạo công ty Intimex
trúng giá đấu, VCB đưa vào quĩ dự phòng quá cao, các khoản đầu tư tài chính thông tin chưa
cụ thể, báo cáo tài chính tự nhiên xấu đi với các năm trước, vấn đề xung đột lợi ích đựơc đặt ra
bởi lẽ lãnh đạo cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp họ được mua cổ phần ưu dãi giảm

40% so với giá đấu bình quân. Việc định giá doanh nghiệp không minh bạch, thông tin bị che
dấu và bị làm sai lạc… đã khiến cho các nhà đầu tư khi tham gia vào quá trình IPO của các
công ty sẽ không có đủ các thông tin cần thiết để đi đến một mức giá chính xác: định giá cao
hoặc định giá thấp so với thực tế theo thông tin đã cung cấp từ phía các doanh nghiệp này trước
IPO, và điều này sẽ gây tổn thất rất nghiêm trọng cho các bên tham gia vào IPO, tạo ra tâm lý
không tin tưởng đối với các nhà đầu tư trên thị trường, gây thất thoát vốn nhà nước khi thực
hiện IPO các doanh nghiệp nhà nước, …
3.1.7. Vi phạm về công bố thông tin của một số CTNY
Theo số liệu từ UBCKNN, hiện nay lỗi vi phạm chủ yếu của các DN là chậm nộp báo
cáo tài chính. Đơn cử trong hai tháng (8 và 9) đã có 7 công ty chứng khoán bị xử phạt vi phạm
nộp báo cáo tài chính kiểm toán không đúng thời hạn qui định như: Công ty Chứng khoán An
Thành, Công ty chứng khoán Phương Nam, Công ty Chứng khoán Kim Eng Việt Nam, Công ty
Chứng khoán ACB, Công ty Chứng khoán Đại Nam... Trong đầu tháng 10, UBCKNN lại tiếp
tục xử lý 2 Công ty chứng khoán là Mê Kông và Công ty Chứng khoán Công nghiệp Việt Nam
do vi phạm lỗi như trên.


Ngày 24/9, UBCKNN đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty Cổ
phần Nhựa Y tế Mediplast do đã có các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán.
Cụ thể, trang thông tin điện tử của Công ty Cổ phần Nhựa Y tế Mediplast không cập
nhật đầy đủ các thông tin theo quy định tại Điểm 4.3 Khoản 4 Mục I Thông tư 09/2010/TTBTC ngày 15/01/2010 hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán (nay là
Khoản 3 Điều 4 Thông tư 52/2012/TT-BTC ngày 05/4/2012 hướng dẫn về việc công bố thông
tin trên thị trường chứng khoán-Thông tư 52/2012/TT-BTC). Bên cạnh đó, công ty này chậm
nộp Báo cáo tài chính kiểm toán năm 2010 (5 tháng), Báo cáo tài chính kiểm toán năm 2011
(14 ngày) và chưa nộp Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2012.Vì vậy,
UBCKNN xử phạt tổng cộng 50 triệu đồng đối với Công ty Cổ phần Nhựa Y tế Mediplast.
Trước đó, ngày 21/9, UBCKNN ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 20 triệu đồng
đối với Công ty CP Chứng khoán An Thành do không lưu giữ đầy đủ bằng chứng chứng minh
đặt lệnh.

Ngày 20/9, UBCKNN có quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty Cổ
phần Sông Đà 10.1 với số tiền 10 triệu đồng. Lý do là Công ty Cổ phần Sông Đà 10.1 khi tổ
chức Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2010 và 2011 đã không gửi thông báo mời dự họp
đến các cổ đông nắm giữ dưới 100 cổ phiếu. Việc là này đã vi phạm quy định tại Điểm a Khoản
1 Điều 79 Luật Doanh nghiệp và Điểm b Khoản 1 Điều 3 Quy chế quản trị công ty áp dụng cho
các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng khoán ban
hành kèm theo Quyết định số 12 ngày 13/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính (nay là Khoản 2
Điều 6 Thông tư số 121/2012/TT-BTC ngày 26/7/2012 của Bộ Tài chính quy định về quản trị
công ty áp dụng cho các công ty đại chúng).
Cũng trong ngày 20/9, một doanh nghiệp khác bị UBCKNN ra quyết định xử phạt với
số tiền 7,5 triệu đồng là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam. Nguyên nhân do, Tập đoàn Xăng dầu
Việt Nam đã đủ điều kiện trở thành công ty đại chúng từ ngày 1/12/2011, nhưng đến ngày
31/7/2012 Tập đoàn này mới nộp hồ sơ đăng ký công ty đại chúng cho UBCKNN, vi phạm quy
định tại Khoản 2 Điều 25 Luật Chứng khoán.


3.4

Nguyên nhân của những vi phạm

3.4.1 Nhận thức chưa đầy đủ về thị trường chứng khoán
Khi quan sát diễn biến giao dịch của TTCK, ta thấy chúng đi theo một bước ngẫu nhiên
ứng với những thông tin và diễn biến giao dịch trên thị trường. Diễn biến trên không thể giải
thích được bằng cách sử dụng mô hình cung cầu và sự cân bằng giá cả mà phải sử dụng những
lý thuyết mới về kinh tế học hành vi và yếu tố kỳ vọng trên TTCK. Trong thực tế chúng ta lại
không có hiểu biết đầy đủ hoặc công cụ nào để có thể mô hình hóa được kỳ vọng và tâm lý
hành vi của nhà đầu tư. Đây chính là lý do làm cho Cơ quan quản lý đã không thể nào dự báo
được những rắc rối của TTCK và có cơ chế phòng ngừa thích hợp. Hiểu biết về những quy luật
vận động trên thị trường tài chính còn đang bỏ ngỏ, vì vậy những chính sách quản lý hiện nay
của chúng ta còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực cơ chế thông tin.

3.4.2 Nguyên nhân từ phía các công ty
Ngoài thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các công ty không chủ động
cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời. Ngoài ra, đối với công ty chào bán cổ phiếu ra công chúng,
có thể chính ban lãnh đạo công ty che giấu thông tin để "dìm giá" sao cho những người trong
công ty có thể mua được cổ phiếu với giá thấp. Có hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không
được phép công khai, phổ biến là trong công tác đấu giá cổ phiếu, hoặc trong việc công bố
thông tin có lợi của công ty. Công ty cung cấp thông tin không công bằng đối với NĐT. Ưu tiên
cung cấp thông tin cho các NĐT chiến lược, NĐT tổ chức mà không công bố rộng rãi.
3.4.3

Nguyên nhân từ phương thức thu thập, công bố và xử lý thông tin
Chu trình thu thập và xử lý thông tin hiện nay không được mã hóa, tự động hóa và còn

nhiều kẽ hở nên dễ bị rò rỉ và bị lợi dụng để giao dịch nội gián. Theo quy định thì các công ty
niêm yết phải chuyển tài liệu, thông tin của công ty đến Sở giao dịch chứng khoán để được
công bố, khoảng thời gian từ lúc thông tin được chuyển cho đến khi được công bố có khi kéo
dài đến 4-5 ngày, thời gian luân chuyển dài chính là điểm yếu làm cho thông tin dễ bị rò rỉ,
những người làm việc trong bộ phận này nghiễm nhiên có được thông tin mật, họ đứng trước
rất nhiều cám dỗ, và không ai dám bảo đảm rằng những con người này không dùng thông tin để
trục lợi.


3.4.4 Nguyên nhân từ hạn chế năng lực của những đơn vị tham gia kiểm soát thị trường
và từ những biện pháp chế tài chưa đủ răn đe
Đội ngũ giám sát thị trường của UBCKNN còn ít về số lượng cũng như kinh nghiệm,
công cụ giám sát thô sơ, quyền lực hạn chế, phản ứng chậm trước những thông tin, tin đồn sai
lệch xuất hiện trên thị trường. Trong khi đó, tội phạm trong lĩnh vực tài chính chứng khoán
thường rất tinh vi, nhất là những thủ đoạn trong giao dịch nội gián, thao túng giá, làm giá và
che dấu thông tin,… do đó, thậm chí đôi khi cơ quan chức năng biết rõ đối tượng có hành vi
thao túng thị trường nhưng không dễ tìm được bằng chứng xác thực, hoặc khi có được bằng

chứng thì UBCKNN chỉ có thể phạt tiền nhưng chưa thể ngăn chặn được hành vi phạm tội của
những tổ chức tinh vi này.
Chất lượng của các thông tin công bố đã được kiểm toán còn hạn chế. Nguyên nhân là
do số lượng công ty kiểm toán được UBCKNN chấp thuận kiểm toán các công ty niêm yết chỉ
khoảng 40 công ty, trong khi đó số lượng công ty niêm yết trên 2 sàn đã lên tới con số gần 400
công ty và sẽ còn tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới. Ngoài ra, năng lực chuyên môn và đạo
đức hành nghề của các công ty kiểm toán còn nhiều bất cập, chúng ta đang thiếu trầm trọng
công ty kiểm toán có uy tín quốc tế, nhiều công ty kiểm toán thiếu kiểm toán viên có chứng chỉ
hành nghề. Chế tài đối với những vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán chưa phù hợp, mức phạt
còn rất nhẹ không đủ sức răn đe.
3.4.5 Các nguyên nhân khác
Hành động của nhiều nhà đầu tư VN cũng góp phần tạo ra một môi trường cho phép sự
thiếu minh bạch tồn tại. Phần lớn các nhà đầu tư cá nhân thiếu kiến thức và kinh nghiệm đầu
tư, nhưng lại muốn kiếm tiền nhanh chóng, họ không quan tâm đến việc phân tích cẩn thận tình
hình kinh tế và tài chính của công ty. Thay vào đó, họ hành động theo tâm lý, theo xu hướng
của đám đông, theo những tin đồn… Chính điều đó đã cho phép nhiều công ty chuẩn bị BCTC
và công bố thông tin thiếu sót. Nhà đầu tư cá nhân, những cổ đông nhỏ lẻ thường không quan
tâm đến việc tham gia Đại hội cổ đông, thêm vào đó họ có xu hướng tìm thông tin trên báo chí
nhiều hơn là những nguồn tin chính thức khác trước khi ra quyết định đầu tư, nơi mà thông tin
có thể không chính xác về nội dung và từ ngữ, hoặc bị sai lệch do để phục vụ cho lợi ích một tổ
chức hoặc một cá nhân nào đó. Một số công ty chứng khoán, nhà môi giới chứng khoán vẫn


còn lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để tự doanh trên tài khoản của khách hàng, tranh mua
tranh bán với khách hàng, sẵn sàng chèn lệnh khi cần thiết. Nhân viên một số công ty chứng
khoán sẵn sàng tiếp sức cho những tổ chức, cá nhân thực hiện những hành vi thao túng, làm giá
trên thị trườngtin .

IV.


Giải pháp ngăn ngừa và hạn chế vi phạm công bố thông tin của các CTNY

trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
4.1.

Hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK
Việc hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK là một biện pháp căn cơ hữu hiệu để điều

chỉnh hoạt động của các CTNY, trong đó hoạt động công bố thông tin là quan trọng nhất vì nó
có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của các nhà đầu tư công chúng, tạo niềm tin vào TTCK và
giúp TTCK phát triển một cách lành mạnh.
Luật chứng khoán cần bổ sung các chế tài mới đầy đủ hơn, xử lý nghiêm minh hơn, có
chế tài đủ mạnh các hành vi vi phạm nghia vụ công bố thông tin, giao dịch nội gián, thao túng,
lũng đoạn thị trường. Nhà nước nên nâng cao chất lượng việc công bố thông tin, quy định về
công bố báo cáo định kỳ, thông tin chi tiết trên bản cáo bạch và báo cáo thường niên về các yếu
tố rủi ro của CTNY.
Bổ sung điều khoản bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trước những thiệt hại do vi phạm công
bố thông tin của các CTNY. Cụ thể quy định rõ quyền hạn của cac nhà đầu tư khi bị thiệt hại
hoặc rủi ro do giao dịch chứng khoán của những công ty có những hành vi như chậm nộp báo
cáo tài chính làm thông tin lạc hậu, báo cáo tài chính sai sự thật, công bố thông tin không đúng
sự thật hoặc thông tin bị rò rỉ, thông tin bất cân xứng. giao dịch nội gián ... nhà đầu tư có quyền
khởi kiện lên các cơ quan chức năng theo đúng quy trình và thủ tục được hướng dẫn. Nếu nhà
đầu tư thắng kiện CTNY phải đền bù những thiệt hại đã gây ra cho nhà đầu tư, ngoài ra CTNY
còn phải chịu trách nhiệm với SGDCK về các hành vi của mình, có thể bị phạt tiền, bị đình chỉ
hoặc hủy bỏ niêm yết.
4.2.

Đầu tư đúng mức cho công nghệ thông tin
Với các diễn biến ngày càng tinh vi trong công nghệ làm giá, thao túng thị trường, hơn


lúc nào hết, TTCK VN cần một hệ thống công nghệ giao dịch hiện đại, đủ sức theo dõi, phát


hiện và xử lý các hành vi thao túng, lũng đoạn thị trường gây phẫn nộ và bức xúc dư luận trong
thời gian qua và mất lòng tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức tài chính trên thế
giới đối với TTCK VN.
Cho phép các tổ chức niêm yết được phép nộp báo cáo tài chính trực tuyến nhằm rút
ngắn thời gian công bố thông tin ra thị trường.
Xây dựng quy trình và quy chuẩn về công nghệ thông tin đối với các lĩnh vực: giao dịch;
đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán; thanh tra, giám sát và xử lý tiêu cực cho Sở giao dịch
chứng khoán TP.HCM và các công ty chứng khoán thành viên.
Để tạo điều kiện cho thông tin được công bố một cách kịp thời nhanh chóng có hệ thống
thì cần phải tận dụng tối đa các nguồn vốn đầu tư và huy động tối đa nguồn nhân lực công nghệ
thông tin trong nước, ứng dụng tiến bộ công nghệ thông tin vào việc thiết kế và xây dựng từng
phần hệ thống công bố thông tin. Việc xây dựng từng phần này, trước hết sẽ tập trung vào giải
quyết những khâu mất nhiều thời gian nhất hiện nay trong quy trình công bố thông tin. Đồng
thời, việc thiết kế cũng đảm bảo tính mở, nghĩa là có thể điều chỉnh để đáp ứng những yêu cầu
mới (trong thời gian trước mắt, nên bắt đầu từ việc xây dựng hệ thống kết nối giữa các SGDCK
và các tổ chức niêm yết chứng khoán, các công ty chứng khoán vì đây là một trong những khâu
tốn thời gian xử lý văn bản nhất). Xây dựng website của Sở giao dịch ngày càng tốt hơn, kiểm
tra và giám sát thường xuyên về việc tạo website giả.
4.3.

Giải pháp từ phía các CTNY
Là chủ thể gây ra những vi phạm trong CBTT trên TTCK, các CTNY phải có ý thức hơn

về trách nhiệm xã hội của mình đặc biệt trong hoạt động CBTT. Trước het cần phải quan tâm
đến những vấn đề sau:
-


Tăng cường và hoàn thiện công tác quản trị công ty.
Để đảm bảo một bộ máy quản lý làm việc có hiệu quả, có trách nhiệm, có đạo đức và có

khả năng giải quyết các vấn đề trên bình diện quốc gia và quốc tế.
-

Nâng cao chất lượng của các báo cáo tài chính.
Các công ty phải sớm ban hành quy trình lập báo cáo và công bố thông tin phù hợp với

đặc điểm của thị trường chứng khoán.


4.4

Tăng cường hoạt động giám sát hoạt động công bố thông tin về tình hình tài

chính trên TTCK
Các công ty niêm yết. Cần nhận thức đúng đắn việc cung cấp thông tin cho thị trường.
Cần đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin định kỳ, tức thời và theo yêu cầu. Tổ chức bộ phận
chuyên trách công bố thông tin. Cán bộ công nhân viên trong bộ phận này phải có một trình độ
chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp tốt để đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin tức thời,
định kỳ, theo yêu cầu thật nghiêm túc, đúng quy định, tránh tình trạng công bố thông tin sai sót,
thiếu chính xác, nhằm giúp cho các nhà đầu tư đạt hiệu quả cao trong hoạt động đầu tư của
mình. Để nâng cao tính minh bạch của thông tin công bố thì cần quan tâm thích đáng đến công
tác kiểm soát nội bộ. Xây dựng hội đồng kiểm toán nội bộ độc lập và đầy đủ quyền hạn.



×