Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh phú thọ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 101 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN QUANG HềA

Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN QUANG HềA

Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. Lấ LAN CHI

H NI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Quang Hòa


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TIẾP NHẬN,
GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM, KIẾN
NGHỊ KHỞI TỐ ................................................................................. 8
1.1.


Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của thủ tục tiếp nhận,
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố............... 8

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố ...................................................... 8
1.1.2. Vị trí, vai trò của thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm, kiến nghị khởi tố ................................................................ 19
1.2.

Các nguyên tắc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố ................................................................... 22

1.2.1. Nguyên tắc về trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ, kịp thời tin báo, tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố ................................................ 23
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết đúng thẩm quyền ............................................ 27
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích của chủ thể báo tin, tố giác,
kiến nghị khởi tố................................................................................. 30
1.3.

Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm,
kiến nghị khởi tố trong lịch sử pháp luật Việt Nam ..................... 31

1.3.1. Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến
nghị khởi tố trong lịch sử pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến
trước năm 1988................................................................................... 31


1.3.2. Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến
nghị khởi tố trong lịch sử pháp luật Việt Nam từ năm 1988 đến
năm 2003 ............................................................................................ 32

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC TIẾP NHẬN, GIẢI
QUYẾT TIN BÁO TỘI PHẠM, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM,
KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ....................................................................... 36
2.1.

Các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến
nghị khởi tố ........................................................................................ 36

2.1.1. Quy định về chủ thể báo tin, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố....... 37
2.1.2. Quy định về chủ thể tiếp nhận, giải quyết.......................................... 39
2.1.3. Quy định về thủ tục tiếp nhận ............................................................ 41
2.1.4. Quy định về thủ tục giải quyết ........................................................... 43
2.1.5. Quy định về các biện pháp giải quyết, biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế được áp dụng.................................................... 46
2.1.6. Quy định về trách nhiệm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
cho chủ thể tố giác, báo tin................................................................. 47
2.1.7. Quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ thể tố giác, báo tin, quy định
về quyền và nghĩa vụ của chủ thể bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố ............ 50
2.1.8. Quy định về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố ..... 52
2.2.

Thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ (giai đoạn 2012-2016) ........................................ 54

2.2.1. Tình hình tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến
nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (giai đoạn 2012-2016) ......... 54

2.2.2. Các hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân .............................................. 58


Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ
TỤC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ
TỘI PHẠM, KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP KHÁC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN ................ 65
3.1.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật ...................................................... 65

3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm của các
chủ thể liên quan đến thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố ................................................ 65
3.1.2. Quy định bổ sung chủ thể báo tin, tố giác về tội phạm là người nước
ngoài.................................................................................................... 69
3.1.3. Hoàn thiện quy định về thủ tục tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác
về tội phạm và kiến nghị khởi tố ........................................................ 70
3.1.4. Quy định cụ thể về tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố từ email, facebook và các trang mạng xã hội ............ 72
3.1.5. Quy định cụ thể về các thủ tục, các hoạt động phải tiến hành
trong quá trình giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố ................................................................................................. 74
3.1.6. Quy định cụ thể về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc
kiểm sát và thực hiện quyền công tố trong tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố ............................... 78
3.2.

Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố............................... 81


3.2.1. Giải pháp về tổ chức cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết ........ 82
3.2.2. Giải pháp về nâng cao ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp ..... 84
3.2.3. Giải pháp về cơ chế kiểm tra, kiểm sát .............................................. 84
3.2.4. Giải pháp về cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin ................. 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 90


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Từ đầy đủ

ANND

An ninh nhân dân

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CSND

Cảnh sát nhân dân


QĐND

Quân đội nhân dân

VKS

Viện kiểm sát

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKSQSTƯ

Viện kiểm sát quân sự trung ương


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Bảng 2.1: Tình hình giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm từ năm 2011 - 2016

Trang
55



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau hơn 30 năm đổi mới, sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra nhiều thành tựu
to lớn cho đất nước. Bên cạnh đó, những mặt trái của nền kinh tế thị trường
cũng phát sinh. Về lĩnh vực an ninh – trật tự, tội phạm ngày càng phức tạp và
tinh vi hơn. Vì vậy, cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ngày càng đòi
hỏi sự tinh nhuệ, nhạy bén, kịp thời và chính xác. Cuộc đấu tranh này vẫn tiếp
tục cần sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã
hội trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Trong đó, tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố là một kênh quan trọng trong việc phát hiện và xử
lý các vụ việc phạm tội.
Pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam đã có nhiều quy định về thủ tục
tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Các
quy định này ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật về thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
và kiến nghị khởi tố vẫn gặp một số vướng mắc đáng kể. Việc tiếp nhận tin
báo, tố giác về tội phạm chưa đảm bảo kịp thời, chính xác vì nhiều nguyên
nhân khác nhau. Vì lẽ đó, trên thực tế, thời gian để cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố thường nhiều hơn thời hạn
luật định. Mặt khác, sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng với nhau và giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với các cơ
quan khác còn chưa hiệu quả. Một số cơ quan không có thẩm quyền điều tra
khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm đã không chuyển cho CQĐT dẫn
đến vụ việc không được xác minh làm rõ và gây ra hiện tượng bỏ lọt tội
phạm. Hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội

1



phạm và kiến nghị khởi tố cũng chưa hiệu quả, sự phối hợp giữa CQĐT và
VKS chưa hiệu quả ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Trong bối cảnh đó, BLTTHS năm 2015 đã chú trọng đến việc tiếp nhận
và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, các
quy định về tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố trong Bộ luật này chưa được hướng dẫn cụ thể. Những vướng mắc
trên đòi hỏi các quy định về thủ tục tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố phải được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Vì lẽ đó, học
viên lựa chọn đề tài “Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở
thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)” làm luận văn thạc sĩ luật học nhằm góp
phần nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục tiếp nhận
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể thấy rằng tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố đóng vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự. Vì vậy,
vấn đề này được các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm.
Cho đến nay cũng đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tin báo, tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Có thể liệt kê một số công trình khoa học nghiên cứu về quyết tin báo,
tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, như Sồng Pát Chay (2000), “Tiếp
nhận, xử lý tố giác và tin báo về tội phạm tại nước Cộng hoà Dân chủ Nhân
dan Lào – thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả” – Luận án tiến sỹ Luật
học, Đại học Cảnh sát Nhân dân; Nguyễn Duy Ngọc (2003), „„Tiếp nhận, xử
lý tin báo, tố giác tội phạm – thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả của
Công an các quận, huyện, thành phố Hà Nội‟‟ – Luận văn thạc sỹ Luật học;

2



Dương Tiến Mạnh (2015), “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
trong luật TTHS Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà
Nội;… Bên cạnh đó, cũng đã có một số bài báo khoa học bàn về tin báo, tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, như Phạm Quốc Huy (2009), “Bàn về
khái niệm “tố giác tội phạm”, “tin báo về tội phạm” và “kiến nghị khởi tố”
trong Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số 17 (tháng 9/2009);
Nguyễn Văn Cừ (2006), “Bàn thêm về việc bảo vệ người tố giác tội phạm,
người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số
15(8-2006); Đỗ Mạnh Quang (2011), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát, số 11 (tháng 6/2011); Lê Minh Long (2011), “Một
số giải pháp gỡ vướng mắc, bất cập trong giải quyết và kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm giết người”, Tạp chí Kiểm sát số 07 (tháng
04/2011); Bùi Mạnh Cường (2011), “Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát, số 01 (tháng 01/2011); Lê Ra
(2014), “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Kiểm
sát số 19 (tháng 10/2014); Nguyễn Văn Khoát (2014), “Một số giải pháp nâng
cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác”, Tạp chí Kiểm sát số 14 (tháng 7/2014); Trần Văn
Chung (2015), “Thực tiễn và những khó khăn, vướng mắc trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát số
10 (tháng 5/2015); Phạm Văn Gòn (2015), “Một số ý kiến góp ý các quy định
trong dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) về tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát số 09 (tháng 5/2015); Hoàng Huy


3


Hiệp (2015), “Góp ý chế định tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố trong dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)”,
Tạp chí Kiểm sát số 07 (tháng 4/2015); Nguyễn Trọng Nghĩa & Trần Trung
Hiếu (2015), “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Thông tư liên tịch số
06/2013/TTLT về việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát số 05 (tháng 3/2015); Vũ Văn Giang
(2015), “Những nét cơ bản trong Bộ luật tố tụng hình sự một số nước về tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí
kiểm sát số 22 (tháng 11/2015); Mai Đắc Biên (2015), “Vấn đề giải quyết và
kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong
dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi”, Tạp chí Kiểm sát số 17 (tháng
9/2015); Lê Ra (2012), “Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm”,
Tạp chí Kiểm sát số 20 (tháng 10/2012); Bùi Đăng Dung (2012), “Những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong việc phát hiện, giải
quyết tố giác, tin báo về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại thành phố
Hải Phòng”, Tạp chí Kiểm sát số 11 (tháng 6/2012).
Qua khảo cứu, học viên nhận thấy về cơ bản các công trình khoa học đã
công bố đã xác định được khái niệm, bản chất của tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố. Các công trình khoa học cũng đã chỉ ra một số bất
cập trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù đã có
công trình khoa học nghiên cứu từng khía cạnh liên quan đến tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nhưng vẫn cần một
công trình nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận về thủ tục tiếp
nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Hơn nữa,
cũng chưa có công trình nào nghiên cứu về thực trạng tiếp nhận, giải quyết tin


4


báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Vì lẽ
đó, đề tài “Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh
Phú Thọ)” được nghiên cứu bảo đảm tính mới so với các công trình đã công

bố trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Qua việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tiếp nhận,
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đề tài đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ làm rõ các vấn
đề sau:
- Nghiên cứu, tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về thủ tục tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cụ thể: đưa
ra khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khái niệm và
đặc điểm của thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến
nghị khởi tố, các chủ thể liên quan, các trình tự được tiến hành khi thực hiện
thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố,
các nguyên tắc/tiêu chí đánh giá hiệu quả của thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố...
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng về thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Trong
đó làm rõ những thành tựu đã đạt được và những vướng mắc, tồn tại, chỉ ra

nguyên nhân của những vướng mắc, tồn tại.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật

5


về thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi
tố và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiếp nhận, giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm ở Phú Thọ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về thủ
tục tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về thủ tục tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố bởi lực lượng cảnh sát nhân
dân ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian từ năm 2012 đến 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử. Để triển khai luận văn, tác giả sử dụng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học, phương
pháp liên ngành, phương pháp so sánh để tổng hợp và phát triển các tri thức
liên quan đến đề tài luận văn.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn có một số điểm mới sau đây:
- Luận văn cung cấp tổng hợp những tri thức, quan điểm khoa học về
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố để từ đó đưa ra khái niệm về
thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố,
làm sáng tỏ đặc điểm của thủ tục này. Bên cạnh đó, trên cơ tổng hợp, kế thừa
các quan điểm khoa học hợp lý đã được công bố, luận văn cũng xây dựng
được các bước, các biện pháp được áp dụng khi tiến hành thủ tục tiếp nhận,
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố cũng như nguyên

tắc tiến hành thủ tục này.
- Luận văn chỉ ra những vướng mắc, tồn tại cũng như nguyên nhân của
những vướng mắc, tồn tại này trong thực tiễn thực hiện thủ tục tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố ở tỉnh Phú Thọ.
6


- Luận văn đưa ra được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục
này ở tỉnh Phú Thọ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
Chương 2: Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành về thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Phú Thọ;
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục tiếp nhận, giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố và một số giải pháp khác
nâng cao hiệu quả thực hiện.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TIẾP NHẬN, GIẢI
QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM, KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của thủ tục tiếp nhận, giải

quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm, kiến nghị khởi tố

1.1.1.1. Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố và thủ
tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là nguồn thông tin
quan trọng, là cơ sở ban đầu để cơ quan tiến hành tố tụng xác minh các căn cứ
để khởi tố vụ án hình sự và tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo. Theo Từ
điển Tiếng Việt, tin là điều được truyền đi, báo cho biết về sự việc, tình hình
xảy ra [28, tr.993]. Cũng theo nghĩa phổ thông thì tố cáo và tố giác cũng có
nghĩa là báo cho cơ quan có thẩm quyền biết về người hoặc hành động phạm
pháp [28, tr.1008]. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý, tố cáo và tố giác về tội
phạm không đồng nhất.
Theo Luật tố cáo năm 2011 thì:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định
báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi
phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [21, Điều 2, Khoản 1].
Như vậy, chủ thể của hành vi tố cáo là công dân và đối tượng của tố
cáo là bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào. Trong khi đó, tố giác về tội phạm
có thể hiểu theo nghĩa chung nhất là báo cho cơ quan có thẩm quyền về hành

8


vi có dấu hiệu tội phạm. Tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy
hiểm cho xã hội thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong
BLHS. Do vậy, có thể thấy khái niệm tố cáo bao hàm các khái niệm tố giác về

tội phạm.Điểm khác biệt cơ bản giữa hai khái niệm này là: Tố cáo là quyền
của công dân, còn tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công
dân [16, tr.9]. Như vậy, việc tố cáo hành vi phạm pháp luật hay không là sự
lựa chọn của công dân. Trong khi đó, tố giác về tội phạm còn là nghĩa vụ của
công dân. Pháp luật hình sự cũng đã tội phạm hóa hành vi không tố giác tội
phạm. Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp luật chỉ phát sinh
sau khi công dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật tố giác về tội
phạm thì phát sinh ngay sau khi công dân biết về tội phạm [24, tr.33].
Hiện nay, khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm đã được đưa ra trong
BLTTHS. Theo đó, tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành
vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền (khoản 1 Điều 144 BLTTHS
năm 2015). Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do
cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin
về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng (khoản Điều 144 BLTTHS
năm 2015). Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm trong BLTTHS năm 2015 có
nhiều điểm tương đồng và khác biệt với khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm
đã được đưa ra trong một số công trình khoa học hiện nay.
Tin báo về tội phạm là việc các cơ quan, tổ chức báo tin hoặc
đăng tin có nội dung phản ánh về tội phạm xảy ra cho cơ quan thẩm
quyền giải quyết theo quy định của BLTTHS. Tố giác về tội phạm
được hiểu là việc cá nhân phát hiện, tố cáo người phạm tội hoặc
hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền giải quyết
theo quy định của BLTTHS [24, tr.34].

9


Hoặc: Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu
hiệu về tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho
cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. Tin báo về tội

phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên phương
tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ
quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết [10, tr. 32].
Về cơ bản, các khái niệm đều thống nhất chủ thể của tố giác về tội
phạm là cá nhân và đối tượng của tố giác về tội phạm là hành vi có dấu hiệu
tội phạm. Các khái niệm cũng đều thống nhất tin báo, tố giác về tội phạm là
thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm. Như tác giả Dương Tiến Mạnh
định nghĩa:
Tin báo, tố giác về tội phạm là những thông tin về tội phạm được
quy định trong BLHS do công dân, cơ quan, tổ chức cung cấp bằng các
hình thức thông tin khác nhau; do các phương tiện thông tin đại chúng
nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú để cho cơ quan có trách nhiệm
tiếp nhận và giải quyết theo qui định của BLTTHS [16, tr.13]
Có quan điểm cho rằng “cần hiểu bản chất của tin báo do công dân
hoặc cá nhân cung cấp là tố giác tội phạm” [11, tr.27]. Ở khía cạnh nhất định,
tác giả luận văn đồng tình với quan điểm này. Ví dụ, khi cá nhân báo tin về
một vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong đó chỉ ra hành vi có dấu hiệu tội
phạm, như hành vi cướp, cố ý gây thương tích và người thực hiện hành vi có
dấu hiệu tội phạm thì đây chính là tố giác về tội phạm. Nếu một cá nhân có
chức vụ, như Chủ tịch HĐND huyện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh nhân danh cơ
quan, tổ chức để tố cáo một hành vi có dấu hiệu tội phạm thì đây chính là tin
báo về tội phạm do cơ quan, tổ chức cung cấp. Tuy nhiên, nếu người có chức
vụ đó nhân danh cá nhân mình để tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm thì
được coi là tố giác về tội phạm hay tin báo về tội phạm? Theo quan điểm của

10


tác giả luận văn, đây chính là trường hợp tố giác về tội phạm vì thỏa mãn dấu
hiệu chủ thể là cá nhân, không quan trọng cá nhân đó thực hiện hành vi tố cáo

về hành vi có dấu hiệu tội phạm với tư cách là một công dân bình thường hay
với tư cách là một người đang nắm giữ chức vụ.
Tuy nhiên, trên thực tiễn cũng xảy ra trường hợp, cá nhân phát hiện ra
một vụ việc có dấu hiệu tội phạm nhưng không xác định được người nào có
hành vi có dấu hiệu tội phạm mà chỉ có thể báo tin với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về vụ việc này. Ví dụ, một cá nhân phát hiện ra một xác chết
đang bị phân hủy trong một vườn cây bỏ hoang và báo cho công an xã. Vậy
trường hợp này cần coi là tin báo hay tố giác về tội phạm? Tác giả luận văn
cho rằng để được coi là tố giác về tội phạm, cá nhân báo tin cần phải chỉ ra
hành vi có dấu hiệu tội phạm và người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm
này. Do vậy, nếu cá nhân chỉ báo tin về một vụ việc có dấu hiệu tội phạm,
như vụ xác chết trong vườn cây bỏ hoang vừa nêu trên, thì cần được coi là tin
báo về tội phạm.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về tin báo, tố giác về
tội phạm như sau:
Tin báo về tội phạm là những thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm
do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền
bằng bất kỳ hình thức hoặc phương thức truyền tin nào. Tin báo về tội phạm
có thể được truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm
được quy định trong Bộ luật hình sự do cá nhân cung cấp cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Theo từ điển tiếng Việt, kiến nghị là nêu ý kiến đề nghị về một việc
chung với cơ quan nhà nước có thẩm quyền [28, tr.524]. Ở góc độ pháp lý,
kiến nghị khởi tố là quyền của cơ quan nhà nước, thể hiện bằng văn bản kiến

11


nghị gửi CQĐT và VKS, yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để điều tra, xử lý tội

phạm và người phạm tội nào đó [24, tr.35]. Tác giả luận văn cho rằng, kiến
nghị khởi tố không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của cơ quan nhà nước
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện ra hành vi có dấu hiệu
tội phạm. Kiến nghị khởi tố là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội
phạm do cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện, thu
thập, chuyển và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý.
Kiến nghị khởi tố gồm có hai nội dung đó là 1, thông tin liên quan đến
hành vi có dấu hiệu tội phạm và 2, đề nghị CQĐT hoặc VKS xem xét, xử lý
vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Như vậy, chủ thể của kiến nghị khởi tố là cơ
quan nhà nước có thẩm quyền (khi thực hiện các hoạt động thuộc chức năng,
nhiệm vụ của mình, theo phân công, phân cấp trong bộ máy Nhà nước phát
hiện, thu thập, tập hợp thông tin về tội phạm). Tiếp đó, nội dung của tin báo,
tố giác về tội phạm chỉ là các thông tin liên quan đến hành vi có dấu hiệu tội
phạm mà không nhất thiết phải có yêu cầu hoặc đề nghị về việc khởi tố, xử lý
hành vi phạm tội. Trong khi đó, kiến nghị khởi tố bắt buộc phải có phần nội
dung về yêu cầu CQĐT hoặc VKS xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội
phạm (yêu cầu khởi tố). Vì lẽ đó, thông tin do chủ thể tố giác hoặc cung cấp
tin báo về tội phạm có thể không đầy đủ và không nhất thiết là chứng cứ.
Trong khi đó, để yêu cầu CQĐT, VKS khởi tố vụ án hình sự, cơ quan kiến
nghị khởi tố phải cung cấp các chứng cứ, tài liệu liên quan đến hành vi có dấu
hiệu tội phạm. Như vậy, các thông tin liên quan đến hành vi có dấu hiệu tội
phạm do cơ quan kiến nghị khởi tố cung cấp thường cụ thể hơn so với tin báo,
tố giác về tội phạm. Tuy nhiên, cũng không loại trừ các trường hợp, kiến nghị
khởi tố cũng chưa đầy đủ và chính xác. Về hình thức, kiến nghị khởi tố phải
được thực hiện theo thủ tục luật định và bằng văn bản. Trong khi đó, tin báo,
tố giác về tội phạm có thể được cung cấp bởi bất kỳ hình thức hoặc phương
tiện cung cấp thông tin nào, ví dụ gọi điện thoại, khai báo trực tiếp...
12



Như vậy, mặc dù có những đặc điểm khác nhau nhưng tin báo, tố giác
về tội phạm và kiến nghị khởi tố đều có chung một bản chất là nguồn thông
tin về tội phạm, và chính vì cùng chung đối tượng phản ánh là về vấn đề tội
phạm nên yêu cầu phải được tiếp nhận, giải quyết theo một trình tự luật định..
Trên thực tế, chất lượng thông tin được cung cấp thông qua hoạt động cung
cấp tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố thường không đồng đều.
Trong nhiều trường hợp, vì lý do khác nhau, những thông tin được chuyển tải
đến cơ quan có thẩm quyền không được chính xác và đầy đủ. Đồng thời,
trong nhiều trường hợp, các thông tin do người tố giác hoặc báo tin cung cấp
có thể chưa đủ cơ sở để xác định đầy đủ các dấu hiệu của hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, đây là những nguồn thông tin ban đầu giúp cho các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành các thủ tục nhằm xác minh sự thật
khách quan để xác định căn cứ khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Do
đó, tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố cần phải được tiếp nhận,
ghi nhận và xử lý theo những trình tự, thủ tục và biện pháp hiệu quả. Nếu cơ
quan có thẩm quyền thực hiện những biện pháp thích hợp khi tiếp nhận được
tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, nhanh chóng tiếp cận hiện
trường, tiến hành các hoạt động điều tra tại hiện trường, lấy sinh cung người
bị hại, khám xét, truy tìm sẽ giúp ngăn chặn kịp thời hậu quả của tội phạm,
ngăn chặn hoặc hạn chế cơ hội người phạm tội xóa dấu vết. Bên cạnh đó,
CQĐT cũng cần nhanh chóng thực hiện những biện pháp thích hợp nhằm bảo
vệ nguồn thông tin, bảo vệ người cung cấp thông tin... Vì vậy, những hoạt
động nghiệp vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiếp nhận tin báo, tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là rất cần thiết. Đây là những bước tiền
đề để tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự tiếp theo như khởi tố vụ án hình
sự, khởi tố bị can, tạm giam, truy tố, xét xử,...
Như vậy, thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến

13



nghị khởi tố là những hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong việc bảo
đảm chất lượng nguồn đầu vào của tố tụng hình sự, hạn chế khả năng bỏ lọt
tội phạm cũng như hạn chế khả năng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng hơn
do tội phạm gây ra. Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm,
kiến nghị khởi tố là những hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo trình tự do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm ghi nhận, xác minh
các nguồn tin về tội phạm để có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời cũng như
thu thập những thông tin cần thiết để ra các quyết định tố tụng tương ứng và
phục vụ các hoạt động điều tra tiếp theo.
1.1.1.2. Đặc điểm của thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm, kiến nghị khởi tố
a, đặc điểm về chủ thể
Trước hết, chủ thể tham gia thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm ba nhóm chủ thể chính, đó là: 1, chủ thể
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố; 2, chủ thể
báo tin, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố và 3, chủ thể bị tố giác, kiến
nghị khởi tố.
Như phần trên đã trình bày, chủ thể báo tin, tố giác về tội phạm, kiến
nghị khởi tố bao gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân báo tin về sự việc có dấu hiệu
tội phạm, cá nhân tố cáo về hành vi có dấu hiệu tội phạm và cơ quan nhà
nước cung cấp tài liệu, chứng cứ kèm theo yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Trong khi đó, chủ thể bị tố giác, kiến nghị khởi tố chính là người bị tố cáo đã
hoặc đang thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm. Người bị tố cáo đã hoặc
đang thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm có thể sẽ bị khởi tố, truy tố và
xét xử và bị tòa án tuyên là phạm tội nhưng cũng có thể không phạm tội. Các
thông tin mà chủ thể báo tin, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố chỉ là
thông tin ban đầu, cần được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục xác

14



minh để tìm ra những căn cứ khởi tố. Nếu không đủ căn cứ để khởi tố thì cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định không khởi tố.
Vấn đề đặt là cơ quan nào là chủ thể tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Về nguyên tắc, cơ quan có thẩm quyền
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố là CQĐT
và VKS, trong đó CQĐT là chủ thể chính tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bởi vì CQĐT được giao nhiệm vụ và quyền
hạn khởi tố và điều tra vụ án hình sự. Cơ quan nhà nước đưa ra kiến nghị khởi
tố, ví dụ kiểm toán, cơ quan thanh tra,... là những cơ quan am hiểu pháp luật,
nên biết hoặc buộc phải biết cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố và tiến
hành điều tra là CQĐT hoặc VKS. Do vậy, kiến nghị khởi tố buộc phải gửi
đến CQĐT hoặc VKS. Vì lẽ đó, về mặt nguyên lý, chủ thể có thẩm quyền tiếp
nhận và giải quyết kiến nghị khởi tố chỉ có thể là CQĐT hoặc VKS.
Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm không chỉ bao gồm CQĐT và VKS. Bên cạnh CQĐT và VKS,
những cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra cũng
có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Bởi vì, một
trong những nguồn tin là cơ sở ban đầu cho các cơ quan này tiến hành một số
hoạt động điều tra ban đầu chính là nguồn tin được cung cấp bởi người báo
tin hoặc tố giác về tội phạm.
Mặt khác, không phải lúc nào chủ thể báo tin, tố giác về tội phạm, kiến
nghị khởi tố cũng có thể biết được rõ ràng cơ quan nào có thẩm quyền điều
tra. Ví dụ, trên thực tế khi có vụ việc hình sự xảy ra ở một địa bàn nhất định,
người dân thường báo với công an xã, phường, thị trấn hoặc lực lượng cảnh
sát 113. Ngoài ra, trong những hoàn cảnh nhất định, người báo tin hoặc tố
giác về tội phạm không có điều kiện để cung cấp thông tin trực tiếp cho
CQĐT, VKS hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện các hoạt động điều


15


tra. Ví dụ, A bị cướp tấn công và bị thương nặng. A chạy thoát và đến trụ sở
của một nhà máy báo tin về vụ cướp bao gồm địa điểm xảy ra vụ cướp, tài sản
bị chiếm đoạt và một vài đặc điểm nhận dạng của tên cướp và sau đó bị hôn
mê. Trong trường hợp này, lực lượng bảo vệ của nhà máy (đại diện cho nhà
máy) phải tiếp nhận tin báo của A, ghi chép lại thông tin, đưa A đi cấp cứu và
chuyển thông tin cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Như vậy, chủ thể tiếp
nhận tin báo, tố giác về tội phạm cần được mở rộng để bảo đảm sự thuận lợi
cho người dân theo hướng bất kỳ cơ quan, tổ chức nào cũng có quyền và
nghĩa vụ tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm.
Nói tóm lại, không phải mọi trường hợp, chủ thể tiếp nhận tin báo, tố
giác về tội phạm cũng đồng thời là chủ thể giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm. Chủ thể giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm là CQĐT, cơ quan được
giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra và VKS. Trong khi đó, chủ
thể tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm là bất kỳ cơ quan, tổ chức nào.
b, đặc điểm về đối tượng
Đối tượng của thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm,
kiến nghị khởi tố chính là tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Nội dung của tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố là những thông
tin ban đầu về vụ việc có dấu hiệu tội phạm, hành vi có dấu hiệu tội phạm,
người bị nghi thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm và những thông tin
khác. Các cơ quan có thẩm quyền không được hoàn toàn dựa vào các thông
tin này mà cần phải tiến hành các nghiệp vụ nhằm xác minh thông tin để làm
rõ sự thật khách quan là căn cứ để ra các quyết định tố tụng tiếp theo.
c, đặc điểm về trình tự thủ tục
Thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố được chia làm hai quy trình. Quy trình thứ nhất là quy trình tiếp nhận
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Quy trình thứ hai là quy

trình giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
16


Trong quy trình thứ nhất, các thủ tục cần được thiết kế sao cho bảo đảm
sự thuận tiện cho việc báo tin, tố giác về tội phạm và gửi kiến nghị khởi tố. Vì
vậy, các phương thức báo tin, tố giác về tội phạm cần đa dạng và không bắt
buộc phải tuân thủ theo một chuẩn mực nào về mặt thể thức. Ví dụ, tin báo, tố
giác về tội phạm có thể được thực hiện thông qua điện thoại, thư, thư điện tử,
khai báo trực tiếp... Kiến nghị khởi tố cần phải được lập thành văn bản và
kèm theo là các chứng cứ, tài liệu liên quan. Tuy nhiên, cơ quan kiến nghị
khởi tố có thể gửi kiến nghị khởi tố trực tiếp hoặc bằng đường bưu điện cho
cơ quan có thẩm quyền. Như phần trên đã trình bày, kiến nghị khởi tố phải
được gửi đến CQĐT hoặc VKS có thẩm quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, đôi
khi kiến nghị khởi tố vẫn được gửi đến cơ quan không có thẩm quyền tiếp
nhận và giải quyết. Trong trường hợp này, cơ quan tiếp nhận phải chuyển
ngay đến cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết kiến nghị khởi tố.
Đầu tiên, cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện hoạt động ghi nhận tin
báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thông thường nghiệp vụ này sẽ
do cán bộ trực ban hoặc tương đương thực hiện. Việc ghi nhận được thực hiện
thông qua lập biên bản, ghi âm, ghi hình có âm thanh lời khai ban đầu và ghi
vào sổ tiếp nhận. Ngoài ra, cơ quan này cũng tiến hành thủ tục nhận, lưu, giữ
tài liệu, đồ vật do người báo tin, tố giác về tội phạm, cơ quan kiến nghị khởi
tố giao nộp. Các tin báo về tội phạm được đăng, phát hiện trên các phương
tiện thông tin đại chúng thì cán bộ trực ban cần ghi chép đầy đủ nội dung, số
báo hoặc buổi phát thanh, truyền hình [29, tr.24]. Sau đó, nếu cơ quan tiếp
nhận đồng thời là cơ quan giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố thì thủ trưởng cơ quan này sẽ phân công cho một hoặc một số cán bộ
cụ thể giải quyết. Nếu cơ quan tiếp nhận không đồng thời là cơ quan giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ quan này phải

chuyển ngay cho cơ quan có thẩm quyền để tiến hành quy trình tiếp theo.

17


×