Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Một Số Đổi Mới Về Nghệ Thuật Của Văn Xuôi Việt Nam Sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.75 KB, 26 trang )

PHẦN II – CHUYÊN ĐỀ MÔN NGỮ VĂN

151


Chuyên đề 6.
Một Số Đổi Mới Về Nghệ Thuật Của Văn Xuôi Việt Nam Sau 1975
THPT Chuyên Hạ Long
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
1. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử dân tộc, đồng
thời cũng mở ra một chặng đường mới của nền văn học Việt Nam. Đã tròn bốn mươi năm kể
từ thời điểm lịch sử đó, nền văn học Việt Nam luôn đồng hành và gắn bó với vận mệnh của
dân tộc, đi qua những bước thăng trầm và thực sự đã tạo ra những biến đổi sâu sắc, toàn diện,
làm nên diện mạo của một giai đoạn văn học mới. Bốn mươi năm chưa phải là một khoảng
thời gian dài đối với tiến trình lịch sử của nền văn học nhưng đó cũng là khoảng thời gian đủ
để chúng ta nhìn lại, đánh giá sự vận động, chỉ ra những đặc điểm, quy luật riêng và những
đóng góp của nó cho sự phát triển của nền văn học dân tộc.
2. Các thể loại văn xuôi (tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, phóng sự...) có vị trí rất quan
trọng trong mọi nền văn học hiện đại. Ở Việt Nam, khi văn học đi vào quá trình hiện đại hóa
ở đầu thế kỷ XX, thì các thể loại văn xuôi cũng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đạt đến
tính hiện đại. Trong công cuộc đổi mới văn học ở thời kỳ từ sau 1975, văn xuôi cũng phát
triển mạnh mẽ và có vai trò rất to lớn. Sự đổi mới của văn xuôi được thể hiện trên mọi bình
diện và trong mọi thể loại.
3. Đã có rất nhiều công trình, bài viết, chuyên luận về những đổi mới của văn xuôi
Việt Nam sau 1975. Trong các công trình, các bài viết, các tác giả đã phát hiện, phân tích quá
trình vận động và các đặc điểm của văn xuôi Việt Nam giai đoạn này trên rất nhiều phương
diện. Ở chuyên đề này, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu những đổi mới về nghệ thuật của văn
xuôi sau 1975 với mong muốn sẽ đóng góp một cái nhìn, một quan điểm, đồng thời soi chiếu
những vấn đề lí thuyết vào thực tiễn giảng dạy các bài văn xuôi sau 1975 được học trong
chương trình THPT.


3. Qua thực tế giảng dạy ở trường THPT và đặc biệt qua quá trình bồi dưỡng học sinh
giỏi, chúng tôi nhận thấy vấn đề đối mới nghệ thuật của văn xuôi sau 1975 là một vấn đề khó
đối với cả giáo viên và học sinh. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn chuyên đề này với hi vọng sẽ
phần nào đem đến cho các giáo viên và học sinh chuyên một cách tiếp cận làm sáng rõ hơn
vấn đề, từ đó vận dụng chuyên đề vào thực tế giảng dạy đạt hiệu quả cao.
II. Mục đích của đề tài:
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm hướng đến ba mục đích cơ bản sau:
1. Nhận diện, phân tích những đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam sau
1975
Cụ thể:
- Phân tích những cơ sở làm tiền đề cho sự đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi Việt
Nam sau 1975.
- Phân tích sự đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi sau 1975 ở các phương diện: dạng
thức cấu trúc các thể loại, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ.
2. Vận dụng các vấn đề lí thuyết, tìm hiểu những đổi mới trong nghệ thuật viết
truyện của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải qua các tác phẩm được học trong
chương trình THPT.

152


3. Vận dụng các vấn đề lí thuyết, hình thành và định hướng một số đề luyện tập
đáp ứng yêu cầu thi THPT Quốc gia và thi học sinh giỏi các cấp.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát sự đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam sau 1975
1. Cơ sở cho sự đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam sau 1975
1.1. Hoàn cảnh lịch sử - văn hóa – xã hội
a. Hoàn cảnh lịch sử
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, tổ quốc thống
nhất, cả dân tộc bước vào thời kỳ xây dựng lại đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thời cơ và

thuận lợi để đưa đất nước phát triển, lớn mạnh đã đến, nhưng thách thức và khó khăn thì rất
nhiều. Hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh ác liệt và dài lâu vào bậc nhất trong lịch sử
dân tộc, cho đến nay sau 40 năm vẫn chưa thể khắc phục hết được. Đó không chỉ là sự tàn
phá, hủy diệt từ cơ sở hạ tầng của nền kinh tế vốn lạc hậu, nghèo nàn. Đó còn là những hậu
quả về mặt tinh thần không thể nào đo đếm được. Cùng với những khó khăn, phức tạp chồng
chất của thời hậu chiến mà bất kỳ đất nước nào vừa trải qua chiến tranh đều phải gánh chịu,
chúng ta còn bị rơi vào tình thế khó khăn gấp bội bởi chính sách cấm vận, cô lập Việt Nam
của các thế lực đế quốc thù địch, bởi sự khủng hoảng dẫn đến tan rã của hệ thống các nước
XHCN và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết. Thêm vào đó, còn là những chủ trương, chính
sách kinh tế - xã hội nặng về duy ý chí, chủ quan, nóng vội. Cuộc chiến tranh giải phóng đã
kết thúc, nhưng tiếng súng vẫn nổ ở biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, máu vẫn chảy ở
chiến trường Campuchia. Tất cả những tình hình đó đã đẩy đất nước đến cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội ngày càng nặng nề ở nửa đầu những năm 80 và hết sức trầm trọng ở giữa thập
kỷ đó.
Nhưng sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của một dân tộc đã có lịch sử mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước lại một lần nữa được thể hiện để đưa đất nước thoát khỏi tình thế hiểm
nghèo. Đường lối đổi mới đã hình thành từ trong thực tiễn, từ những biện pháp "xé rào" để "tự
cởi trói" của nhiều cơ sở kinh tế và một số địa phương, đến Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm
1986) đã trở thành cương lĩnh và con đường đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng để bước
vào thời kỳ phát triển mới. Sự suy thoái kinh tế đã được chặn lại và tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế ngày một cao và dần có sự ổn định, nền kinh tế thị trường dần được hình thành.
Đổi mới cũng có nghĩa là mở cửa, tăng cường giao lưu và hội nhập quốc tế trên mọi bình diện
chính trị, kinh tế, văn hóa. Gần hai mươi năm từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, trên đất nước
ta đã diễn ra rất nhiều sự thay đổi theo hướng tích cực, làm biến đổi sâu sắc, toàn diện hình
ảnh của đất nước. Tuy còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn, phải tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức,
khó khăn và sự phát triển chưa phải đã thật vững chắc, nhưng con đường đi lên đã rõ và
đường lối đổi mới đất nước là không thể đảo ngược.
b. Những chuyển biến về xã hội, văn hóa - tư tưởng
Trong chiến tranh giữ nước và giải phóng dân tộc, sức mạnh của tinh thần yêu nước và
ý thức cộng đồng đã được phát huy cao độ. Cuộc sống cá nhân, riêng tư của mỗi người phải

thu hẹp lại đến tối thiểu, nhường chỗ cho đời sống chung của tập thể, của cả dân tộc. Con
người được nhìn nhận, đánh giá trước hết và chủ yếu ở tư cách con người của dân tộc, của
nhân dân, của cách mạng. Đó là thời kỳ, theo cách nói của Chế Lan Viên: "những năm đất
nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt, nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ như nhau".
Chiến tranh là một hoàn cảnh khác thường, bởi vậy con người ở trong đó cũng không thể sống
cuộc sống bình thường. Nay hòa bình trở lại, con người trở về với cuộc sống bình thường,
cũng có nghĩa là trở về với đời thường - cái đời thường phồn tạp, muôn vẻ, lẫn lộn tốt xấu,
trắng đen, bi hài... ý thức cá nhân với mọi nhu cầu của con người như một cá thể, một thực thể
sống đã được thức tỉnh trở lại. Các giá trị (về xã hội, đạo đức, nhân cách...) của một thời trước

153


đây bền vững là thế thì lúc này đã lung lay rạn nứt và đổ vỡ từng mảng. Trong khi đó các
chuẩn giá trị mới thì chưa hình thành thực sự. Những năm 80, 90 của thế kỷ trước và cả đến
bây giờ, xã hội và con người Việt Nam phải trải qua một cuộc trở dạ lớn lao và không ít đau
đớn, phải tự xây dựng lại hình ảnh của chính mình cùng lúc với việc phải tự hình thành từng
bước các tiêu chí giá trị mới. Trong tình hình ấy, đời sống văn hóa - tư tưởng cũng có diện
mạo và diễn biến khá phức tạp. Không hiếm khi sự phê phán những hạn chế, bất cập của một
thời đã qua được đẩy lên thành sự phủ định sạch trơn, thành thái độ cắt lìa, quay lưng lại với
mọi giá trị truyền thống. Trong khi đó lại không ít người rơi vào tình thế lưỡng nan, trở thành
những kẻ lạc thời, không tìm thấy chỗ đứng trong xã hội mới.
Công cuộc đổi mới đất nước cũng đồng nghĩa với việc mở cửa hội nhập với thế giới.
Hoàn cảnh đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu ngày càng rộng rãi về văn hoá, văn
học với khu vực và thế giới, đặc biệt là với phương tây. Trước đây, do chiến tranh và giới hạn
của hệ tư tưởng nên sự giao lưu này rất hạn chế, chủ yếu là với các nước trong khối xã hội chủ
nghĩa. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự giao
lưu và những ảnh hưởng của văn hoá, văn học thế giới đến đời sống văn hoá, văn học nước ta
ngày càng mau chóng và đậm nét.
1.2. Nhu cầu đổi mới văn học

Văn học Việt Nam trong ba mươi năm, từ 1945 đến 1975, đã làm tròn sứ mệnh cao cả
của một nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu, vì Tổ quốc, dân tộc, nhân dân. Về
đặc điểm loại hình, đó là nền văn học theo khuynh hướng sử thi, được thể hiện trong sự thống
nhất trên quan điểm sử thi của cảm hứng, đề tài và chủ đề, thế giới nhân vật, cho đến kết cấu,
giọng điệu. Nền văn học sử thi của ba mươi năm ấy là một giai đoạn có tính đặc thù, có những
đóng góp riêng cho tiến trình văn học dân tộc. Quá trình của nó còn tiếp tục chi phối nền văn
học ở nửa cuối thập kỷ 70 và phần nào ở cả nửa đầu những năm 80. Nhưng sự chuyển biến
của đời sống xã hội, văn hóa, tư tưởng nhất thiết sẽ dẫn đến những đổi thay trong nhu cầu và
quan niệm thẩm mỹ, đòi hỏi văn học phải đổi mới. Vào cuối những năm 70, đã hình thành rõ
rệt nhu cầu nhìn lại giai đoạn văn học trước đó, chỉ ra những giới hạn của nó và đã manh nha
hình thành những hướng đi mới. Nhu cầu đổi mới văn học đã dần trở thành đòi hỏi chung của
cả giới sáng tác, lý luận lẫn công chúng. Bằng những tìm tòi, thể nghiệm trên cả sáng tác và
hoạt động lý luận, phê bình, văn học đã hình thành từng bước một tư duy nghệ thuật mới, trên
cơ sở đổi mới toàn diện các quan niệm về văn chương, về hiện thực và con người, về chính
nhà văn và về công chúng văn học. Nhiều vấn đề cốt lõi cơ bản của quan niệm văn học trước
đó vốn được xem là những chân lý hiển nhiên, thì bây giờ cũng phải được xem xét lại, trở
thành những vấn đề tranh cãi, bàn thảo khá sôi nổi cả trong và ngoài giới văn học, như: văn
học và hiện thực, văn nghệ và chính trị, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa... Đường lối mở
cửa, hội nhập quốc tế của Đảng đã tạo cơ hội mở rộng giao lưu văn hóa, văn học giữa nước ta
với các nước trên thế giới, đặc biệt là với phương Tây. Nhờ thế mà nhiều trào lưu, khuynh
hướng và lý luận nghệ thuật hiện đại của thế giới đã được giới thiệu ở Việt Nam, tác động đến
sự tìm tòi, sáng tạo của nhà văn và làm biến đổi cả thị hiếu tiếp nhận của công chúng.
a. Đổi mới tư duy nghệ thuật
Cần khẳng định văn xuôi từ sau 1975 đến nay đã có những phát triển mạnh mẽ và phát
triển này không chỉ ở chỗ đội ngũ các nhà văn ngày càng đông đảo, ngày càng nhiều tác phẩm
mới ra đời, mà cái quan trọng hơn, sự phát triển của văn xuôi được ghi nhận ở việc đổi mới
quan niệm nghệ thuật về con người, đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới hệ đề tài và phương
thức thể hiện… Trước hết có thể thấy rất rõ bước phát triển của văn xuôi trên bình diện tư
duy nghệ thuật.
Văn xuôi Việt Nam hiện đại từ sau 1975 đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy

tiểu thuyết. Sự phân biệt giữa tư duy tiểu thuyết và tư duy sử thi về đặc trưng thể loại không
nhằm phân biệt thang bậc giá trị. Có những đề tài, vấn đề có khi tiếp cận bằng tư duy sử thi lại
khả thủ hơn tư duy tiểu thuyết và ngược lại. Vấn đề là sự phù hợp giữa đề tài với nội dung thể

154


loại. Văn xuôi trước 1975 chủ yếu là văn xuôi sử thi. Và sự tiếp cận này về cơ bản là phù hợp
với đối tượng mà nó phản ánh, cảm hứng mà nó bộc lộ. Với kiểu tiếp cận bằng cảm hứng sử
thi, văn xuôi giai đoạn này cũng đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị, chứ không phải chỉ là “ca
ngợi một chiều”, đơn điệu, tẻ nhạt như xu hướng muốn “phủ định sạch trơn” văn xuôi sử thi.
Sau 1975, hiện thực đời sống đã biến đổi rất lớn, cần phải có cách tiếp cận phù hợp. Điều đó
đòi hỏi đổi mới tư duy nghệ thuật. Quá trình đổi mới này đã diễn ra đầy khó khăn và thử
thách. Tư duy nghệ thuật từ sử thi đã dần dần chuyển sang tư duy tiểu thuyết là phù hợp với
đối tượng phản ánh và là một quá trình tất yếu trong sự chuyển động của văn học. Có thể thấy
quá trình chuyển biến này trong cả lớp nhà văn lão thành cũng như ở lớp nhà văn mới, xuất
hiện trong thời kỳ này. Những tác phẩm như Tâm tưởng của Bùi Hiển, Gió từ miền cát của
Xuân Thiều, Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam,… đã thấy có cách tiếp cận đời
sống khác trước. Ở đây không chỉ ngợi ca chiêm bái mà còn là sự phân tích, lý giải các hiện
tượng của hiện thực đời sống. Nếu trước đây chủ yếu là cách nhìn đơn diện, đơn tuyến…thì
bây giờ là cách nhìn nhiều chiều, đa diện, sâu sắc hơn. Đến Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải, Lê Lựu và nhất là ở lớp nhà văn trẻ trưởng thành sau 1975, cách nhìn tiểu thuyết mới
thật sự đổi mới trong việc nắm bắt và lý giải hiện thực, việc phản ánh hiện thực lùi xuống
hàng thứ yếu, nhà văn không chỉ là người thư ký trung thành của thời đại mà phải là nhà tư
tưởng, nhà tiên tri…
b. Đổi mới trong quan niệm và cách tiếp cận hiện thực
Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975, do sự quy định của điều kiện lịch sử - xã hội, là
nền văn học theo khuynh hướng sử thi. Sáng tác văn xuôi là khu vực mà khuynh hướng này
được bộc lộ một cách rõ nét, đầy đủ hơn cả. Quan điểm sử thi đã chi phối sự lựa chọn đề tài,
chủ đề, tức là phạm vi và vấn đề của hiện thực được văn học quan tâm khám phá, thể hiện.

Trong giai đoạn văn học ấy luôn tồn tại một quan niệm về cái gọi là "hiện thực lớn", đó là
những nơi mũi nhọn của cuộc sống cách mạng, là "cuộc sống mới, con người mới". Ttrong
nền văn học sử thi, việc tập trung vào những hiện thực lớn của đời sống cách mạng, việc đề
cao một số đề tài ưu tiên, là lẽ tất yếu, phù hợp với tính chất và mục đích của nền văn học ấy.
Từ khoảng đầu những năm 80, cuộc sống thời bình đã thực sự trở lại, con người hàng
ngày phải đối diện với bao nhiêu vấn đề và thực tiễn của đời thường, của các quan hệ thế sự, của
đời sống riêng tư. Các nhà văn có sự mẫn cảm với cuộc sống đã không thể bỏ qua cái hiện thực
đời thường đó và họ đã nhìn ra nhiều vấn đề có ý nghĩa, đáng được quan tâm trong đó. Từ thể tài
lịch sử dân tộc vốn là thể tài chủ đạo và chi phối mọi bình diện của hiện thực, văn học đã chuyển
sự quan tâm chủ yếu sang thể tài thế sự và đời tư. Với sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực
như thế, văn xuôi đã vượt qua tình trạng bị lệ thuộc vào đề tài, vào một cách nhìn đã được định
trước, để mở ra khả năng phong phú, vô tận trong sự khám phá và thể hiện hiện thực đời sống
trong tính muôn mặt và muôn vẻ của nó. Khi văn chương được giải phóng khỏi "chủ nghĩa đề tài"
thì điều đó vừa là một thuận lợi, vừa là một thách thức với nhà văn. Họ có thể viết về mọi điều, kể
cả những điều trước kia cần phải kiêng kỵ, nhưng cái quan trọng lại là ở chỗ nhà văn có phát hiện
được điều gì mới, muốn biểu đạt cái gì của riêng mình trong những cái quen thuộc hay xa lạ với
người đọc.
Thay đổi trong quan niệm về hiện thực cũng đi liền với sự thay đổi quan niệm về mối
quan hệ giữa văn học với hiện thực. Khi không còn bị trói buộc trong quan niệm phản ánh
hiện thực một cách thụ động, dẫn tới sự "sùng bái" hiện thực và hạ thấp vai trò của chủ thể
sáng tạo, thì người ta không còn xem xét tác phẩm theo cách đối chiếu giữa hiện thực ngoài
đời với thế giới nghệ thuật để đánh giá về mức độ chân thực của tác phẩm. Thế giới nghệ
thuật không chỉ phản ánh thực tại ngoài đời, mà chủ yếu hơn, đó là thế giới do nhà văn sáng
tạo, có thể bao gồm cả cái có thực và cái không thể có, cái kỳ ảo được tạo ra bằng trí tưởng
tượng có thể tồn tại bên cạnh những hình ảnh của hiện thực.
c. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người

155



Trong thời kỳ chiến tranh và cách mạng, thì việc văn học nhìn con người chủ yếu ở tư
cách con người công dân, con người dân tộc, giai cấp là phù hợp và cần thiết. Nhưng cũng vì
thế mà các bình diện khác, những tư cách khác của con người thường bị văn học bỏ qua, hoặc
nếu có quan tâm thì cũng phải được nhìn theo hệ quy chiếu của các giá trị cộng đồng, thống
nhất với phần căn bản (con người dân tộc, con người giai cấp).
Văn xuôi hôm nay đã tiếp cận con người ở nhiều tư cách, vị thế và trên nhiều bình
diện. Nó đặc biệt quan tâm đến con người như một cá thể, một thực thể sống, trong đó chứa
đựng cả cái phần nhân loại phổ quát.
Từ nhận thức và quan niệm mới về con người, tất sẽ dẫn tới những đổi thay trong thế
giới nhân vật của văn xuôi. Trong văn xuôi trước 1975, các nhân vật được nhận diện trước hết
theo lập trường dân tộc và cách mạng, bởi thế dễ dàng xếp họ vào loại chính diện hay phản
diện, tích cực hay tiêu cực. Các nhân vật lại được khuôn vào trong những khung hình của tầng
lớp xã hội - giai cấp. Hệ thống nhân vật vì thế thường được phân chia theo tầng lớp, nghề
nghiệp, vị trí xã hội hoặc lứa tuổi, chẳng hạn như nông dân, công nhân, trí thức, người lính, bà
mẹ, người phụ nữ...
Trong văn xuôi thời kỳ đổi mới, khi đã vượt qua giới hạn chật hẹp và cứng nhắc của
cái nhìn con người và thể hiện nhân vật như trên, thì đã mở ra sự phong phú, đa dạng dường
như vô tận cho thế giới nhân vật. Rất khó có thể đưa ra một bảng phân loại hay liệt kê nào có
khả năng bao quát được thế giới nhân vật của văn xuôi hiện nay. Nhưng cũng có thể dễ dàng
nhận ra khá nhiều kiểu loại nhân vật mới, vốn chưa có hoặc rất ít trong văn xuôi trước 1975:
Nhân vật cô đơn, con người bi kịch, con người lạc thời, nhân vật tư tưởng, nhân vật kỳ ảo...
Đó chỉ là một số trong những kiểu loại nhân vật, được phân chia theo những tiêu chí khác
nhau, của văn xuôi đương đại. Nếu như trước đây, khắc họa tính cách điển hình theo quan
niệm điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là mục tiêu hướng tới của các
nhà văn trong xây dựng nhân vật, thì ngày nay nhân vật không còn bị lệ thuộc quá nhiều vào
chức năng thể hiện tính cách, nhà văn ngày nay có quyền lựa chọn và sáng tạo tự do đối với
nhân vật của mình.
Tất cả những vấn đề chúng tôi phân tích ở trên đã trở thành tiền đề cho những đổi mới
nghệ thuật trong văn xuôi sau 1975. Sự thay đổi về tư duy nghệ thuật cùng quan niệm về hiện
thực, về con người sẽ chi phối đến việc lựa chọn dạng thức cấu trúc thể loại, chi phối đến

nghệ thuật xây dựng nhân vật, lựa chọn phương thức giọng điệu trần thuật và ngôn ngữ.
2. Một số đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam sau 1975
2.1. Đổi mới trong cấu trúc các thể loại văn xuôi
Phương diện đổi mới đầu tiên có thể nhận thấy rõ rệt nhất là những biến đổi trong cấu
trúc thể loại. Ở đây chúng tôi tập trung khảo sát và phân tích hai thể loại chính là tiểu thuyết
và truyện ngắn.
a. Đổi mới trong cấu trúc tiểu thuyết
Văn học giai đoạn 1945-1975 đã đưa loại hình tiểu thuyết sử thi đến sự phát triển khá
cao, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Nhưng khi chất sử thi đậm nét thì chất
tiểu thuyết lại có phần mờ nhạt, bởi tư duy sử thi lấn át tư duy tiểu thuyết. Từ những năm 80,
cùng với xu hướng khai thác thể tài thế sự - đời tư, tính tiểu thuyết cũng được gia tăng trong
văn xuôi.
Nhìn vào bức tranh thể loại của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, có thể nhận ra nhiều kiểu
loại, khó mà xếp vào các bảng phân loại quen thuộc trước đây. Nhìn chung loại tiểu thuyết
toàn cảnh đã hầu như vắng bóng, tiểu thuyết phiêu lưu cũng ít ỏi. Tiểu thuyết tâm lý và tiểu
thuyết triết luận chiếm số đông. Kiểu tiểu thuyết "cổ điển" của thế kỷ XIX ở phương Tây
được vận dụng trở lại với nhiều biến tấu. Nhưng cũng đã xuất hiện các tiểu thuyết xây dựng
theo mô hình tiểu thuyết hiện đại thế kỷ XX mà Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài, Thân phận của

156


tình yêu của Bảo Ninh là những trường hợp tiêu biểu. Gần đây, nhiều tiểu thuyết của Hồ Anh
Thái, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh lại là những nỗ lực mới để cách tân tiểu thuyết.
b. Đổi mới trong cấu trúc truyện ngắn
Truyện ngắn vốn là một thể loại nổi trội trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, kể từ giai
đoạn 1930 - 1945 đến các giai đoạn tiếp theo. Ở mỗi chặng đường phát triển, truyện ngắn Việt
Nam cũng tạo được một số kiểu loại đặc trưng, làm phong phú cho diện mạo thể loại. Trong
giai đoạn 1945 - 1975, nổi lên là loại truyện ngắn đậm chất kí và loại truyện ngắn trữ tình. Từ
sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, truyện ngắn cũng được đa dạng hóa về kiểu loại.

Theo nhiều nhà nghiên cứu, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 có thể chia làm ba loại
chính dựa trên sự khác biệt cơ bản trong cách phản ánh hiện thực và kiểu cấu trúc tự sự.
Loại truyện ngắn - kịch hóa là các tác phẩm dùng thủ pháp của kịch để tạo ra một
kiểu cấu trúc tự sự mới, trong đó vẫn có câu chuyện được kể lại nhưng chủ yếu gợi ra ấn
tượng có một hành động đang tự diễn ra trong một môi trường xung đột đầy kịch tính. Đây là
những truyện mang tính đặc trưng của truyện ngắn, truyện thể hiện góc nhìn thế giới qua hành
động. Những truyện ngắn được xây dựng theo hướng "kịch hóa" thường lấy một hành động
nhân vật làm nòng cốt. Mọi vấn đề của tác phẩm thường xoay quanh việc phân tích hành động
giàu xung đột, giàu kịch tính này. Truyện thường có cốt truyện gay cấn: sự kiện, hành động
tập trung trong một tình huống điển hình nhất. Mâu thuẫn, xung đột thường được đẩy đến
đỉnh điểm và đòi hỏi một kết thúc thật bất ngờ. Nhân vật thường được miêu tả thiên về ngoại
hình và hành động bên ngoài. Lời trần thuật thường ngắn gọn, tính chất khẩu ngữ và cá thể
hóa ngôn ngữ rất đậm nét. Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh (Kịch câm), Lại Văn Long (Kẻ
sát
nhân
lương
thiện)...
tiêu
biểu
cho
loại
truyện
ngắn
này
.
Loại "truyện ngắn - trữ tình hóa" thường sử dụng thủ pháp của trữ tình để tạo ra
một cấu trúc tự sự mới, trong đó câu chuyện được kể lại chủ yếu để gợi ra ấn tượng về một
thế giới đang tồn tại trong tâm tưởng của con người. Cốt truyện thường ít sự kiện hành động.
Sự phát triển của tác phẩm thường dựa vào một tình huống trữ tình giàu sức gợi để bày tỏ, bộc
lộ thế giới tâm hồn, tình cảm, tư tưởng của nhân vật. Nhân vật thường không được miêu tả cụ

thể, sắc nét ở ngoại hình và hành động, ít có những biến đổi lớn về cuộc đời, tính cách mà chủ
yếu là những diễn biến tinh tế của các trạng thái tâm lý, tình cảm, tư tưởng bên trong. Truyện
ngắn trữ tình thường không có cốt truyện; cho nên tiếp cận, đọc hiểu truyện ngắn trữ tình
không nhất thiết phải qua cách tiếp cận cốt truyện truyền thống mà nên đi vào khám phá thế
giới tâm trạng, cảm xúc và cảm giác của nhân vật. Khi viết về con người trong các mối quan
hệ, các nhà văn ít chạy theo sự kiện mà chủ yếu khám phá vấn đề thông qua thế giới tâm hồn,
đặc biệt qua sự trải nghiệm về tinh thần của nhân vật. Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc
Tư, Nguyễn Ngọc Thuần... đã vượt ra ngoài phương thức miêu tả vừa thực vừa hư, vừa trần
thế vừa ảo mộng, chuyện hiện tại, chuyện dĩ vãng nhằm tạo dựng cuộc sống ở nhiều chiều,
khai thác chiều sâu những góc uẩn khúc trong thế giới bên trong của con người. Nhiều truyện
ngắn trữ tình được viết bằng năng lực biểu cảm cuộc sống qua thế giới tâm hồn của nhân vật
"tôi". Phương thức thể hiện này không chỉ làm cho hiện thực được phản ánh có chiều sâu mà
còn giàu sức khái quát, sức ám ảnh lớn.
Loại "truyện ngắn - tiểu thuyết hóa" là một loại truyện tổng hợp loại thể, ở đó các
thủ pháp kịch và trữ tình vẫn được sử dụng nhưng không nhằm diễn tả hành động, hay trạng
thái cảm xúc mà trước hết là để phân tích, lý giải đời sống qua mối quan hệ của con người với
môi trường, hoàn cảnh, tính cách. Với kiểu truyện ngắn này, tình huống truyện phổ biến là
tình huống đời thường và tình huống luận đề đánh dấu sự quay trở lại với cuộc sống đời
thường của văn học, và từ tình huống ấy, nhân vật cũng như người đọc sẽ chiêm nghiệm ra
những điều sâu sắc trong cuộc sống. Trong truyện, chức năng phân tích và giải thích trở thành
nguyên tắc tự sự kiểu mới. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn thường tập trung vào việc phân
tích, giải thích về tính cách, số phận một cách biện chứng trong quan hệ với hoàn cảnh nên
nhân vật thường có chiều sâu và sức khái quát lớn. Đa số truyện ngắn của Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Hồ Anh Thái... tiêu biểu cho loại truyện ngắn này đều đã thể hiện sự tìm

157


tòi trong nghệ thuật trần thuật song nhìn chung, kĩ thuật tự sự vẫn là sự đổi mới trên nền tảng
truyền thống.

2.2. Đổi mới nghệ thuật xây dựng nhân vật
Trong các tác phẩm văn xuôi sau 1975, vấn đề nhân vật nổi lên với một đặc điểm nổi
bật: tính phức hợp, đa bình diện. Đặc điểm này đã chi phối mạnh mẽ đến các phương diện
khác của nghệ thuật tự sự và thi pháp thể loại. Tuy nhiên, ở một đối cực khác, song song với
xu hướng phức thể hóa nhân vật - làm “dày” nhân vật, chúng ta lại bắt gặp một xu hướng
ngược lại: tiết giản hóa nhân vật - làm“mỏng” nhân vật, đến mức đôi khi chúng chỉ còn là các
“phản nhân vật”, các kí hiệu hay các hình bóng hư ảo, bị tẩy trắng hoặc biến mất khỏi văn
bản. Tính phức hợp, đa bình diện biểu hiện ở sự phong phú các kiểu nhân vật và làm cho thế
giới nhân vật trong văn xuôi đương đại có sự đa dạng về sắc thái của hình tượng nghệ thuật
cũng như kết cấu nghệ thuật của tác phẩm.
Nếu như trước đây, văn xuôi ở nước ta thường chỉ có hai kiểu loại nhân vật đối lập là
chính diện-phản diện (tốt-xấu) thì kiểu nhân vật phức hợp, đa bình diện là một sự đổi mới rất
căn bản. Hoàng Cẩm Giang trong bài viết “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu
thế kỉ 21” đã có sự phân loại khá hợp lý. Đó là kiểu nhân vật có tính cách, tâm lý phức tạp là
khá phổ biến, bên cạnh đó là kiểu nhân vật phân thân (Khẩn trong Ngồi, Tính trong Thoạt kỳ
thủy), hoặc kiểu đa nhân vật. Điểm đặc biệt ở các kiểu nhân vật nêu trên là sự thể hiện vấn đề
“ẩn ức tình dục” đồng thời với vấn đề “tâm linh”. Tác giả đã mạnh bạo khi coi “tình dục” như
là lối dẫn vào tâm linh, từ đó thể hiện khát vọng tình yêu, tình dục, khát vọng về giải phóng
bản thể.
Một kiểu nhân vật đặc biệt nữa là kiểu nhân vật chức năng tự sự: nhân vật vừa đóng
vai người kể chuyện, vừa trực tiếp tham gia cốt truyện, xuất hiện khá nhiều. Đó là cách nhà
văn muốn thể hiện tính dân chủ của văn xuôi hiện đại: xóa mờ ranh giới giữa tác giả và
nhân vật, người viết và người đọc trên văn bản. Câu chuyện trở nên đa chiều, đa diện hơn
do được trần thuật, được soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau. Tác phẩm trở nên đa thanh,
đa nghĩa do có những cuộc “đối thoại” giữa các nhân vật, giữa nhân vật với tác giả và cuối
cùng là giữa người đọc và tác phẩm. Nhờ thay đổi này mà nhân vật không còn là một “con
rối” hoàn toàn bị “giật dây” trong tay tác giả nữa: nó không chỉ là một nhân tố của tự sự,
nó đang ngày càng trở thành chủ thể của tự sự.
Tuy chưa thành phổ biến nhưng kiểu nhân vật mang tính ký hiệu, biểu tượng và
“phản nhân vật” cũng rất đáng chú ý và đạt hiệu quả nghệ thuật nhất định. Đây là kiểu nhân

vật không có tiểu sử hay tâm lý, tính cách mà chỉ còn là một cái tên, một thứ ký hiệu, biểu
tượng (nhân vật “bào thai” trong Thiên thần sám hối, “cô gái điên” và “hắn” trong Đi tìm
nhân vật, “con cú” trong Thoạt kỳ thủy,…). Các “nhân vật” này chỉ hiện diện trong hình hài
của những ký ức hư ảo, không thể lí giải và nhận thức hết nhưng có ý nghĩa lớn, thậm chí
quan trọng.
Ở một vài tác giả, ta còn thấy kiểu nhân vật “biến mất” hay “không - nhân vật”.
Đây là kiểu nhân vật bị tha hóa, thậm chí bị “vật hóa” (như trong văn học phi lý) và biến mất
khỏi tiến trình câu chuyện: “Quân” trong Ngồi, “Tuấn” trong Trí nhớ suy tàn, … Hiện tượng
nhân vật “biến mất” khỏi tiến trình tự sự tạo nên những “khoảng trống”, những khúc “vô
thanh” cho văn bản. Mặc dù đã “mất tích”, nhưng cái bóng của nhân vật vẫn chập chờn ẩn
hiện trong câu chuyện, vẫn ám ảnh những người ở lại và tạo ra hàng loạt câu hỏi cho người
đọc.
Sự thay đổi trong quan niệm về nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật vừa
là nguyên nhân, vừa là hệ quả của những đổi thay trong cấu trúc tự sự. Và như vậy,
họ cũng đã góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới về cấu trúc thể loại cho văn xuôi
Việt Nam hiện đại.

158


2.3. Đổi mới về nghệ thuật trần thuật
Nghệ thuật trần thuật giữ vai trò quan trọng trong tác phẩm tự sự. Nhưng trong các thể
tự sự xuất hiện trước nền văn học hiện đại, nghệ thuật tự sự ít có những biến đổi lớn và nhìn
chung, chưa đạt đến sự phong phú, đa dạng. Trong nền văn học theo khuynh hướng sử thi ở
giai đoạn 1945 - 1975, nghệ thuật trần thuật cũng chịu sự chi phối rõ rệt của quan điểm sử thi.
Văn xuôi trong thời kỳ đổi mới đã đem lại nhiều tìm tòi, biến đổi trong nghệ thuật trần
thuật. Từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng
đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau.
Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch các điểm nhìn vào nhiều nhân vật, để mỗi
nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái độ của mình và để cho các ý thức cùng có quyền

phát ngôn, cùng đối thoại. Sự thay đổi vai kể, cách đưa chuyện lồng trong truyện, sự đảo
ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc không theo một trật tự thời gian duy nhất, tất cả những
thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra được hiệu quả nghệ thuật mới.
a. Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thuật “nhập vai”
Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thật “nhập vai” là để chỉ cách
trần thuật linh hoạt khi vai trò “phát ngôn” được trao cho nhiều người, nhiều đối tượng trong
tác phẩm. Không còn chỉ có một người kể chuyện mà nhiều người kể. Trước một vấn đề, một
sự việc nào đó, vì được soi rọi bằng nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ nên sẽ hiện ra bằng diện
mạo, hình thù khác nhau dẫn đến nhiều luồng dư luận, nhận xét khác nhau, thậm chí ngược
nhau, do các điểm nhìn khác nhau về tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính, học vấn, đôi khi là thói
quen, sở thích v.v…Nhà văn có xu hướng đổi mới trần thuật sớm nhất cho nền truyện ngắn
sau 1975 là Nguyễn Minh Châu. Trong truyện ngắn Bức tranh, tiếp đó là hàng loạt truyện
ngắn khác của ông như: Chiếc thuyền ngoài xa, Cơ giông, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau v.v..
đều có cái nhìn đa chiều, trong xu hướng đối thoại này. Chẳng hạn, trước số phận cực nhọc,
cam chịu của người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu để
cho nhiều “cái nhìn” soi rọi vào: Cái nhìn trẻ thơ trong sáng của đứa con trai khi nó kết án
ông bố tàn bạo và thề sẽ giết chết ông ta. Nhưng đứa chị thì hiểu biết hơn, vừa khóc lóc vừa
ngăn nó lại. Nhà nhiếp ảnh thì sẵn sàng “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Viên thẩm
phán thì khăng khăng giải pháp ly hôn là đúng đắn nhất để cứu người đàn bà. Nhưng người
đàn bà, kẻ hứng chịu tất cả những trận đòn tàn nhẫn và phi lý của chồng thì nhìn nhận khác
hẳn: “Lòng các chú tốt nhưng các chú không phải là người làm ăn nên các chú không hiểu
được nỗi khổ của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Từ Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn
Khải và đặc biệt đến Nguyễn Huy Thiệp, cách trần thuật từ nhiều điểm nhìn đã đạt đến đặc
sắc. Để tạo ra sự bình đẳng cho các điểm nhìn, tác giả - người kể chuyện không làm thay nhân
vật mà chỉ đóng vai trò “dàn dựng” lại sự việc. Thậm chí sự “dàn dựng” này như được làm
một cách ngẫu nhiên. Chẳng hạn, đoạn kể về cha con tướng Thuấn bàn bạc việc gia đình:
“…Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo: “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo: “Không!” Vợ tôi
bảo: “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi
bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo: “Để xem đã!”. Hoặc một cảnh khác:
“Tôi cũng không hiểu tại sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại

ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo: “các cháu có sách gì mang cho ông
đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo: “Cái gì dễ đọc”. Hai đứa
bảo: “Thế thì không có”. Đọc Nguyễn Huy Thiệp có cảm giác, người kể chuyện không mấy
khi thực hiện vai trò “kể” mà phần lớn chỉ thực hiện vai trò sắp xếp, tổ chức, nói đúng hơn,
người “cắt dán” các cảnh lại với nhau với ý đồ trung thực nhất, ít chủ quan nhất bằng cách
hạn chế thấp nhất sự tham gia của trữ tình ngoại đề. Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, nhiều lúc
không tránh khỏi cảm giác thấy truyện rời rạc, lỏng lẻo, lan man. Tuy nhiên, người đọc được
trải nghiệm nhiều cảm giác, suy nghĩ, được tranh luận và tự mình thấu nhận, rút ra những điều
bổ ích. Và quan trọng nhất là tránh được cảm giác nhàm chán, đơn điệu trong cách tiếp cận
tác phẩm.

159


b.Trần thuật bằng dòng ký ức nội tâm
Ngược với kiểu trần thuật “nhập vai”, trao vài trò kể chuyện cho nhiều người là kiểu
trần thuật bằng “dòng ký ức nội tâm”. Với cách trần thuật này, mọi chuyện diễn ra trong dòng
chảy ký ức hoặc dòng chảy nội tâm. Đây cũng là cách để tác giả “khách quan hoá” nội dung
hiện thực trong tác phẩm hoặc tha hồ khám phá miền ẩn ức bên trong của tâm hồn con người.
Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và hàng loạt cây bút trẻ mới
xuất hiện gần đây đều đi theo xu hướng này. Tác phẩm Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc
Tư là dòng chảy miên man trong suy nghĩ của nhân vật Nương- cô gái tội nghiệp, nạn nhân
của thái độ vô trách nhiệm của người lớn, của sự tan vỡ hạnh phúc gia đình. Trong tác phẩm
này ai cũng nói rất ít, phần lớn những câu đối thoại hay độc thoại đều được “dịch” thông qua
những phán đoán suy nghĩ chứ không phải là những lời thoại trực tiếp. Qua ký ức của cô bé,
tuổi thơ hiện về, ba, má, cuộc sống nghèo mà yên bình trong xóm nhỏ. Rồi những bất ngờ dữ
dội xảy đến, má bỏ đi, ba hận má, hận cuộc đời, kế đó là những năm tháng trôi nổi, phiêu dạt
như những kẻ cô đơn, lạc loài trong xã hội loài người cho đến khi tai hoạ thực sự rơi xuống
đầu…Kết thúc truyện vẫn là những dòng ký ức đau nhói, hoà trộn xót xa vói ân hận, thức ngộ
và đau đớn tột cùng : “…Rồi ký ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi hôm bị người đàn ông bán

vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau
ràn rụa, nhói tận chân tóc… Hình như với cách thể hiện này, tác giả muốn chứng minh, trong
con người ta ai cũng có hai con người. Một con người với thân xác hiện hữu cùng với muôn
mối ràng buộc của nghĩa vụ và trách nhiệm và một con người bên trong thầm kín với những
suy nghĩ, việc làm chỉ mình mình biết. Con người bên trong ấy có đời sống riêng và luôn tìm
cách chống lại con người cụ thể với thân xác hiện hữu. Phải chăng, đó cũng là nhận thức và
khám phá về sự phức tạp của con người. Kiểu trần thuật dòng ký ức thường được những cây
bút trẻ khai thác, có lẽ vì nhu cầu khám phá, nhất là khám phá bản thân luôn là nhu cầu của
lứa tuổi này.
2.4. Đổi mới về ngôn ngữ
Mỗi thời đại văn học, mỗi trào lưu nghệ thuật đều cần có một hệ thống ngôn ngữ phù
hợp với ý thức nghệ thuật của mình, tạo ra một "trường ngôn ngữ" mang tính đặc trưng. Sự
đổi mới về ngôn ngữ vừa là yếu tố khởi đầu, vừa là kết quả của mọi sự đổi mới về tư tưởng,
quan niệm, thi pháp.
Khi tư duy tiểu thuyết đã mạnh lên, thay thế tư duy sử thi thì ngôn ngữ văn xuôi cũng
biến đổi theo hướng đó. Khi văn xuôi tiếp cận đời sống ở cự ly gần chứ không phải qua một
"khoảng cách sử thi tuyệt đối" (M.Bakhtin), với thái độ thân mật suồng sã chứ không phải tôn
kính, thì hệ lời cũng phải thay đổi, từ thứ ngôn ngữ trang trọng, chuẩn mực chuyển sang thứ
ngôn ngữ đời thường, đậm tính khẩu ngữ, thông tục. Đặc biệt, những cây bút thuộc thế hệ đến
với văn học từ thời kỳ đổi mới, ít bị chi phối bởi thói quen ngôn ngữ của giai đoạn trước, do
đó họ tạo được sự cách tân rõ rệt về ngôn ngữ văn chương. Xuất phát từ tinh thần dân chủ và
ý thức cá tính, họ có một cách ứng xử ngôn ngữ tự do, nhiều khi phá cách nhằm đem lại một
hiệu ứng trực tiếp, mạnh mẽ trong sự tiếp nhận của người đọc. Lời văn trong truyện Nguyễn
Huy Thiệp thường được rút gọn, giản lược đến tối đa nhất là ở lời trần thuật. Lối thuật, kể
ngắn gọn, khách quan thay thế cho lối miêu tả tỉ mỉ, phân tích cặn kẽ. Trong khi đó, nhiều
truyện của Nguyễn Huy Thiệp lại có sự xuất hiện những đoạn thơ đan xen vào mạch văn xuôi.
Những từ thông tục, thậm chí là thô tục có không ít trong tác phẩm của nhà văn này nhưng
thường thì nó lại chứa đựng một chiêm nghiệm, triết lý nhiều khi sâu sắc. Phạm Thị Hoài lại
có cách sử dụng ngôn ngữ dày đặc biểu tượng và với một cú pháp rất tự do, một cách nói cố ý
khiêu khích với những gì cũ mòn, công thức, tẻ nhạt. Bên cạnh lối viết như tốc ký, ghi nhanh,

lại có lối viết theo dòng ý thức, với những độc thoại nội tâm, hồi tưởng, ký ức triền miên. Có
những cây bút trẻ không muốn viết câu văn theo những trật tự cú pháp thông thường, mang
tính sách vở, rất ít dùng các dấu câu, thậm chí có cả trang được viết liền mạch không cần
chấm, phẩy. Một trong những biểu hiện của tinh thần dân chủ hóa trong văn học đổi mới là sự
xuất hiện trở lại tiếng cười với nhiều sắc độ khác nhau. Ngôn ngữ văn xuôi được gia tăng chất

160


hài cũng là một cách để tạo sự bình đẳng giữa người đọc với tác giả, tạo thêm sức hấp dẫn
thẩm mỹ cho văn chương.
a. Ngôn ngữ đời thường- gia tăng tính khẩu ngữ
Trong văn xuôi, bước đổi thay của ngôn ngữ lúc đầu gắn với nhu cầu “được nói thật”.
Sự cổ vũ của Đảng “nhìn thẳng và nói thật” cho phép nhiều tác phẩm chống tiêu cực ra đời.
Ngôn ngữ văn xuôi bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào đón mà gần gũi với đời
thường, chân thật trong giọng điệu, thô nhám trong từ ngữ. Sự xuất hiện của Nguyễn Huy
Thiệp như một hiện tượng “lạ”. Ngoài khả năng biến ảo của một bút pháp đa dạng, đa tầng,
tác giả này còn gây cú sốc thực sự cho ngôn ngữ văn học. lối nói “cộc lốc”, sắc bén và hàm
súc, câu văn ngắn gọn, dồn dập, hạn chế tối đa các liên từ, nén năng lượng làm rung chuyển
lối văn mực thước, trang trọng hoặc rào đón, đưa đẩy. Ngòi bút tác giả này như không hề biết
đến những gửi thưa kiểu cách, những nghi thức nhiều khi rất nhiều khách sáo, mặc nhiên
khẳng định tư thế bình đẳng, dân chủ giữa con người với con người. lối văn đó phù hợp với
cái hiện thực đời thường mà anh mô tả. Chẳng hạn, tác giả tả đám cưới của anh chàng lái xe
bò kết hôn với cô mẫu giáo con ông vụ phó: “đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô
tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi
mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc com lê đen, cravát đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravát
đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn nhưng chắc gì đòi được. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài
Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng
khiếp…”
Cùng với Nguyễn Huy Thiệp và trong không khí dân chủ cởi mở của xã hội, xuất hiện

hàng loạt cây bút trẻ. Họ ít bị ràng buộc bởi những tín điều đạo đức, luân lý, vừa tự tin vào
mình, vừa nhiều hoài nghi đối với cuộc đời. Họ sử dụng văn chương để bộc lộ “cái tôi” cá
tính là chính, nên họ quan tâm hơn đến vấn đề “viết như thế nào”. Có thể nói, chưa bao giờ
văn chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt – thế sự đến thế. Chưa bao giờ những câu chửi thề,
chửi tục, lối nói trần trụi xuất hiện nhiều đến thế. Để chống lại lối văn chương nhiều tính hành
chính khô khan hoặc du dương thi vị nhưng ít cá tính, ngôn ngữ truyện ngắn dung nạp rất
nhiều khẩu ngữ, cố tính coi thường cú pháp, “nhại” lại mọi ngôn ngữ kiểu cách.
b. Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và triết luận
Nhu cầu gia tăng tính tốc độ và thông tin đặt ra như một đòi hỏi chính đáng và tất yếu
ở thời đại “bùng nổ thông tin”, thời đại của công nghệ kỹ thuật cao, liên quan đến nhịp sống
hiện đại, nhất là nhịp điệu của cơ chế thị trường.
Tính tốc độ thể hiện ở cách vào truyện nhanh, diễn đạt ngắn gọn, nén thông tin. Ở
phương diện ngôn ngữ, có thể nhận thấy việc sử dụng các “điển cố” hiện đại như các thuật
ngữ khoa học chuyên ngành, thậm chí cả tiếng nước ngoài vào trong diễn đạt, chẳng hạn
“chuỗi xoắn kép, đột biến, bức xạ nhiệt, đồ thị hyperbol, the end of something v.v…những
cụm từ này thay thế cho rất nhiều lời diễn giải. Nhiều khi, một thứ ngôn từ ước lệ, “hàm súc”
và nhiều ngụ ý bắt nguồn từ sinh hoạt giao tiếp hiện đại, nếu được sử dụng đắc địa, nó vừa
như một hình thức phổ biến của khẩu ngữ Việt Nam, mang đậm dấu ấn lịch sử, tâm lý, vừa
chuyển tải được thông tin lớn. Thí dụ: “Bản nhạc đánh theo kiểu nội địa” (Chuyện thày AK.
Kẻ sĩ Hà Thành). “Nào hết cấm vận đến nơi, nào kinh tế thị trường quốc tế, nào liên doanh
thương mại thế mạnh” (Đất xóm chùa- Đoàn Lê); “Đảm bảo không có chuyện Nguyễn Văn
Mười Hai” (Vũ điệu của cái bô- Nguyễn Quang Thân)
Lượng thông tin đạt đến mức tối đa nằm ở một thứ ngôn ngữ đa nghĩa, nhiều ngụ ý.
Ngôn ngữ này là kết quả tất yếu của tính phức điệu, đa thanh trong tư duy tiểu thuyết. Mặt
khác, ngôn ngữ đa nghĩa cũng là sản phẩm của hứng thú triết luận càng ngày càng nổi rõ trong
văn xuôi. Văn Nguyễn Huy Thiệp đa nghĩa từ chi tiết đến tổng thể, nhiều sức gợi liên tưởng
ra bên ngoài tác phẩm. Cái “phức tạp”, “nhiều tầng lớp” có được, một phần là nhờ ngôn ngữ
đầy tính ẩn dụ, nhiều nghĩa, cho phép người đọc phát huy cao độ sức liên tưởng và kinh

161



nghiệm cá nhân vào việc lĩnh hội nghệ thuật. Xin nêu một số ví dụ: lời Đặng Phú Lân nói với
Nguyễn Ánh về thanh bảo kiếm “Trước chúa công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới
nhìn rõ kiếm, thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó” (Kiếm sắc); “Trời rất xanh. Giữa trời có
đám mây trắng trông hệt dáng điệu một nhà hiền triết. Thoắt cái, gió xua mây đi, nhà hiền
triết biến thành con chó xồm lớn”(Nguyễn Thị Lộ- Nguyễn Huy Thiệp). Các tác giả có thiên
hướng kiếm tìm ý nghĩa triết học nhân sinh qua diễn tả đời sống cụ thể. Điều đó đem lại cho
các tác phẩm ý vị triết lý và giá trị phổ quát. Đáp ứng yêu cầu này, ngôn ngữ văn xuôi tất yếu
sẽ bớt đi phần “kể”, phần “tả” và tăng phần triết luận, khái quát, nhà văn khi ấy sẽ hiện diện
qua ngôn ngữ “trữ tình ngoại đề”. Ở Nguyễn Minh Châu, thường thấy như vậy: “Rồi thì cũng
như mọi người khác, tôi vẫn không thể đi trốn được số phận, tôi không thể đi trốn được khỏi
cuộc đời mình một khi mà tôi còn sống”, “chiến tranh làm người ta hư đi hơn là làm người ta
tốt lên”, “Nỗi đau mất mát trong lòng người đàn bà lắm khi chả khác nắm cỏ trong dạ dày loài
nhai lại..”(Cỏ lau). “Tôi đưa cháu Quỳnh về trước đây. Ông cứ yên tâm. Thân thể cháu Quỳnh
vẫn nguyên vẹn. Nhưng băng đạn mà ông bắn vào lòng nhân ái, vào tình yêu thiên nhiên của
cháu Quỳnh thì không thể nào cứu chữa nổi” (Con thù bị ruồng bỏ - Nguyễn Dậu).
Cùng với hình thức đã có nhiều thay đổi, ngôn ngữ của truyện ngắn ngày nay, linh
hoạt, sinh động và giàu chất đời thường. Bốn chục năm qua, nhìn lại ngôn ngữ của truyện
ngắn nói riêng, văn xuôi nói chung đã hiện diện qua “các cuộc thí nghiệm”. Đã là thí nghiệm
không tránh khỏi phiêu lưu. Tuy nhiên, cùng với thời gian và độ chín của các tài năng, ngôn
ngữ của truyện ngắn đã và đang đạt đến độ ngưng kết mới.
II. Những đổi mới về nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và
Nguyễn Khải qua các tác phẩm trong chương trình THPT
1. Những đổi mới về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa
Trong hành trình đổi mới của Văn học Việt Nam sau 1975, Nguyễn Minh Châu là một
trong những nhà văn mở đường đã có nhiều cách tân nghệ thuật táo bạo, góp phần đưa văn
học Việt Nam hội nhập với văn học hiện đại thế giới. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
được trích học trong chương trình Ngữ văn 12 là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà

văn thể hiện rõ những đổi mới nghệ thuật đó.
Trong phần viết này, chúng tôi không bàn về tất cả những đổi mới của Nguyễn Minh
Châu, mà chủ yếu đi vào một số biểu hiện đổi mới về nghệ thuật viết truyện, với quan điểm
xem xét từ sự soi chiếu về mặt lí luận đã trình bày ở phần trên, trong mối liên quan với nội
dung chung của chuyên đề, góp thêm một sự bàn luận về tác phẩm vào thực tiễn dạy học tác
phẩm này trong nhà trường. Với quan điểm đó, chúng tôi xin được trình bày một số nội dung
cơ bản - ở những phương diện đổi mới nghệ thuật viết truyện của tác giả như sau.
a. Về xây dựng tình huống truyện
Tình huống bao trùm trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là tình huống nhận
thức, được thể hiện qua quá trình nhận thức của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu về những vấn
đề của nghệ thuật và cuộc sống. Nhà văn đã triển khai cốt truyện theo cách từ một sự kiện bên
ngoài tạo ra sự vận động của cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật, để người đọc từ chỗ khám phá
quá trình ấy của nhân vật mà thấu hiểu và rút ra những thông điệp nhà văn muốn chuyển tải.
Tình huống nhận thức này đã được phân tích, bàn luận, đánh giá… trong rất nhiều tài liệu
nghiên cứu và hướng dẫn giảng dạy, cũng như trong thực tế giờ dạy về tác phẩm này trong
các nhà trường. Điều chúng tôi muốn nói thêm ở đây là sáng tạo của Nguyễn Minh Châu về
một tình huống nghịch lí - nằm trong tình huống nhận thức nói trên, gắn với một kiểu tổ chức
nhân vật mới của Nguyễn Minh Châu - đó là kiểu nhân vật nghịch lí. Nhà văn đã phát hiện ra
một nghịch lí của đời sống - nghịch lí giữa hoàn cảnh với số phận con người, và phản ánh
hiện thực đó bằng cách xây dựng thành một tình huống nghịch lí. Trong cuộc sống, con người
thường phải đối chọi với hoàn cảnh, phải lựa chọn cách xử sự với nó.Và vì nhiều lí do khác

162


nhau, con người phải đầu hàng trước nghịch lí, bởi không còn có cách nào khác hơn để có thể
thay đổi hoặc chiến thắng nó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, người đàn bà hàng chài thường
xuyên chịu những cơn mưa đòn của người chồng vũ phu với một thái độ tự nguyện, không
kêu, không chống trả, không chạy trốn, và đặc biệt là nhất định không bỏ chồng theo lời
khuyên của vị Bao Công phố huyện vùng biển. Thái độ nhẫn nhục đáng kinh ngạc ấy khiến

cho tất cả những người xung quanh, từ nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu, cho đến cả con trai, con
gái của người đàn bà ấy đều sửng sốt không hiểu nổi, vì vậy họ sẵn sàng can thiệp để giải
phóng cho người đàn bà bất hạnh. Nhưng rồi chỉ bằng một lời giải thích đơn giản về vai trò
cần thiết của người đàn ông trong sự mưu sinh nhọc nhằn trên sông nước, người đàn bà hàng
chài đã làm cho tất cả hiểu ra khúc mắc tâm tư cũng như nghịch cảnh của chị. Phải có một
người chịu đựng sự đớn đau để đổi lấy sự tồn tại của một gia đình. Sức mạnh của điều nghịch
lí đã bắt con người phải đầu hàng. Thái độ đầu hàng này đồng nghĩa với sự chấp nhận những
nghịch lí đang tồn tại như một phần của cuộc sống mà con người không thể thay đổi được.
Phát hiện và phản ánh nghịch lí này, Nguyễn Minh Châu đã cho người đọc thấy thêm một góc
khuất về số phận con người trong cuộc sống. Nằm trong tình huống nhận thức của nhân vật,
tình huống nghịch lí này đã làm phong phú thêm ý nghĩa phản ánh hiện thực cũng như giá trị
nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm.
b. Về xây dựng nhân vật
Trước năm 1975, thế giới nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu chủ yếu là
các nhân vật loại hình, có chức năng cơ bản là thể hiện sinh động, sắc nét những phẩm chất,
tính cách cơ bản của cộng đồng. Sau 1975, ông đã xây dựng được những kiểu loại nhân vật
mới, những nhân vật đa chức năng phản ánh cuộc sống đời tư, thế sự. Trong phần khái quát
về đổi mới nghệ thuật xây dựng nhân vật, chúng tôi đã nhắc đến kiểu nhân vật phức hợp, đa
bình diện và kiểu nhân vật chức năng tự sự trong văn xuôi sau 1975. Có thể thấy, trong tác
phẩm Chiêc thuyền ngoài xa, nhân vật Phùng là một nhân vật chức năng tự sự. Nhân vật này
vừa là người kể chuyện, vừa tham gia vào cốt truyện. Toàn bộ chuyến đi công tác được kể lại
qua lời kể của Phùng, mà trong đó anh là một nhân vật của câu chuyện. Trong câu chuyện của
anh lại xuất hiện câu chuyện của người đàn bà hàng chài kể về gia đình mình. Do được trần
thuật, được soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau như vậy mà câu chuyện trở nên đa chiều, đa
diện hơn. Người đọc thấy trong hai câu chuyện đó có những cuộc “đối thoại” (hiểu theo nghĩa
đối thoại để đi đến tìm ra chân lí) giữa các nhân vật (Phùng, Đẩu - người đàn bà hàng chài và
chồng của chị), giữa nhân vật với tác giả ( Phùng, Đẩu, người đàn ông hàng chài, người đàn
bà hàng chài… - tác giả), và cuối cùng là đối thoại giữa người đọc và tác giả, tất nhiên là
thông qua tác phẩm. Những cuộc “đối thoại” ấy đã tạo ra sự đa thanh, đa nghĩa cho tác phẩm.
Với kiểu nhân vật chức năng tự sự như vậy, nhà văn đã khẳng định vai trò của nhân vật:

không chỉ là một nhân tố của tự sự mà đang ngày càng trở thành chủ thể của tự sự. Đây
cũng là cách nhà văn muốn thể hiện tính dân chủ của văn xuôi hiện đại: xóa mờ ranh giới
giữa tác giả và nhân vật, người viết và người đọc trên văn bản.
c. Về nghệ thuật trần thuật
Một trong những đổi mới về nghệ thuật trần thuật của văn học Việt Nam từ sau
1975 là trần thuật từ nhiều điểm nhìn. Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau
1975, trong đó có Chiếc thuyền ngoài xa cũng thể hiện khá rõ đổi mới đó. Trước những
năm 80, điểm nhìn trần thuật của nhà văn cơ bản theo xu thế hướng ngoại. Đó là điểm
nhìn của chủ thể trần thuật – vừa là người dẫn chuyện, vừa là người hướng đạo cho độc
giả, và nhân vật thường ở ngôi thứ ba, điểm nhìn thường bắt đầu từ khi xuất hiện sự kiện
và kết thúc khi sự kiện dừng lại. Sau năm 1980, nhà văn chuyển dần từ quan điểm trần
thuật sử thi sang quan điểm đời tư, thế sự , nên các hình thức trần thuật của ông cũng có
những chuyển đổi với hai kiểu trần thuật cơ bản là trần thuật từ ngôi thứ ba (kể chuyện
theo lời của tác giả) và trần thuật từ ngôi thứ nhất (chủ thể trần thuật được nhân vật hóa).
Trong Chiếc thuyền ngoài xa, chủ thể trần thuật là nhân vật Phùng, kể chuyện về gia đình
người đàn bà hàng chài, cùng những cảm xúc, chiêm nghiệm, nhận thức của chính anh từ

163


những sự kiện mà anh là người chứng kiến. Toàn bộ câu chuyện chủ yếu được kể theo
quan điểm, cách nhìn của Phùng, với tư cách là một nhân chứng không chỉ chứng kiến mà
còn tham gia trực tiếp vào diễn biễn của câu chuyện. Tác giả đã để cho nhân vật trần thuật
lại câu chuyện từ nhiều điểm nhìn : điểm nhìn không gian, thời gian (miêu tả ngoại cảnh
thiên nhiên, địa điểm, thời gian xảy ra chuyện), điểm nhìn bên ngoài (khi quan sát và miêu
tả sự kiện từ bên ngoài), điểm nhìn bên trong (khi thể hiện những cảm xúc, suy nghĩ của
chính mình), có điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc (thể hiện thái độ của chủ thể trong
quá trình kể lại câu chuyện)… Sử dụng lối trần thuật nhân vật hóa với nhiều điểm nhìn
này, tác giả được tự do trong quan sát, bình luận theo chủ kiến của mình. Nhờ vậy, câu
chuyện được kể lại trở nên chân thực, sinh động, hấp dẫn.

Có thể nói truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một thành công nghệ thuật xuất
sắc của Nguyễn Minh Châu, kết quả của sự tìm tòi, đổi mới của nhà văn ở rất nhiều
phương diện, trong đó có nghệ thuật thể hiện. Trong khuôn khổ của chuyên đề này, từ góc
độ dạy học tác phẩm trong nhà trường, với phần trình bày còn hạn hẹp, chỉ xem xét một số
đổi mới cơ bản nhất về nghệ thuật của tác giả như trên, chúng tôi cũng mạnh dạn trao đổi
với các đồng nghiệp, như là một đóng góp nhỏ thêm vào tư liệu giảng dạy.
2. Những đổi mới về nghệ thuật của Nguyễn Khải trong truyện ngắn Một người Hà
Nội
2.1. Những thay đổi trong tư duy và quan niệm nghệ nghệ thuật
Nguyễn Khải là một nhà văn nổi bật ở khả năng quan sát và phát hiện vấn đề. Văn của
ông thường thể hiện một tư duy sắc sảo, một khả năng phân tích tâm lí nhân vật có chiều sâu.
Ông tự chia sang tác của mình thành hai giai đoạn: trước và sau 1978. Một người Hà Nội
được xem là một bước chuyển của ngòi bút văn xuôi Nguyễn Khải.
Trước năm 1978, ngòi bút của Nguyễn Khải chủ yếu quan tâm đến các sự kiện, các
vấn đề chính trị - xã hội; thì sau năm 1978 ông dành phần lớn sự quan tâm cho những con
người cá nhân trong cuộc sống đời thường với tất cả những biểu hiện phức tạp và đa chiều
của nó. Trước năm 1978 ông thường chọn giọng văn hùng biện chính luận để viết về những
hình mẫu con người tập thể, cổ vũ họ thoát khỏi những cám dỗ vụn vặt đời thường của cuộc
sống cá nhân để có tầm nhìn xa, để đi xa hơn nữa; thì sau năm 1978 ông dùng giọng điệu thân
mật suồng sã bày tỏ những chiêm nghiệm của mình về những vấn đề triết lí nhân sinh, gắn
liền với việc soi xét đối tượng dưới góc nhìn văn hóa, lịch sử và triết học.
Nói tóm lại, sự chuyển đổi từ cảm hứng chính luận sang cảm hứng triết luận đã đánh
dấu một bước phát triển trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Hứng thú quan sát, thể nghiệm
những vấn đề thế sự, đặc biệt là vấn đề khẳng định bản lĩnh cá nhân của con người giữa một
hoàn cảnh sống mà cái tôi chưa được nhìn nhận công bằng, thỏa đáng, tất cả đều liên quan
đến việc chuyển đổi cảm hứng nói trên. Các sáng tác của ông sau năm 1978 vẫn không thiếu
tính thời sự nhưng giá trị của chúng đã vượt ra khỏi cái khung thời sự nhất thời để gây ám ảnh
lâu dài trong lòng bạn đọc. Việc nhà văn có ý thức tô đậm kinh nghiệm, thể nghiệm của cá
nhân trong việc trình bày mọi vấn đề đã làm cho những trang viết của ông thấm đượm tinh
thần đối thoại dân chủ, thoát li dần kiểu áp đặt chân lí một chiều trong lối viết trước đây.

Khi lấy triết lí làm nguyên tắc sang tác, Nguyễn Khải cũng bộc lộ những quan niệm
nghệ thuật rất riêng về cách nhìn hiện thực và con người. Nhà văn không sắp đặt các nhân vật
trong tác phẩm theo phạm trù tốt – xấu, chính diện – phản diện như những tác phẩm của thời
kì trước, ông đặt nhân vật trong cái nhìn đa chiều. Lời khen hay chê của tác giả chỉ có giá trị
tham khảo. Ông khước từ cách trần thuật của kiểu nhà văn đứng cao hơn bạn đọc nhằm giao
giảng đạo lí cho bạn đọc. Ông lựa chọn kiểu trần thuật gợi mở đối thoại, chia sẻ cảm xúc và
kinh nghiệm riêng trên tinh thần tôn trọng bạn đọc, trao cho bạn đọc quyền phán xét chân lí.
Được viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang trên con đường đổi mới với những
chuyển biến mau lẹ, với nhiều cuộc đụng độ gay gắt giữa hai hệ giá trị cũ – mới, với những

164


biểu hiện phức tạp của nền kinh tế thị trường trong sự mở rộng giao lưu đa chiều về văn hóa,
Một người Hà Nội là nơi để nhà văn gửi gắm nhiều trăn trở suy tư, chiêm nghiệm về những
giá trị văn hóa, những quan niệm sống của mỗi thời. Đây là tác phẩm thể hiện tương đối đầy
đủ những thay đổi trong tư duy và quan niệm của nhà văn.
2.2. Những đổi mới về nghệ thuật trong truyện ngắn Một người Hà Nội
a. Nghệ thuật xây dựng tình huống
Mới đọc qua ta thấy tình huống của truyện ngăn này không có gì độc đáo. Câu chuyện
được kể theo trình tự thời gian, bà Hiền là điểm tựa chính cho chủ đề của tác phẩm. Qua điểm
nhìn của nhân vật xưng “tôi”, tính cách và những nét đẹp trong phẩm chất của bàn Hiền dần
dần hé lộ. Tuy nhiên, tìm hiểu kĩ hơn, ta sẽ nhận thấy có một mạch ngầm xuyên suốt toàn bộ
câu chuyện, chi phối sự hình thành cấu trúc của truyện ngắn này, đó là một chuỗi các tình
huống nhận thức được nhà văn xây dựng nên để khắc họa chân dung bà Hiền một cách trọn
vẹn, đầy đủ nhất. Mỗi lần gặp gỡ bà Hiền là một lần nhân vật “tôi” ngỡ ngàng, vỡ lẽ về một
nét đẹp của bà. Quá trình hoàn thiện chân dung bà Hiền cũng là quá trình tự phản tỉnh của
người kể chuyện.
Có thể nhận thấy trong toàn bộ câu chuyện có bốn tình huống nhận thức, mỗi tình
huống lại ứng với một bối cảnh lịch cụ thể và một phát hiện mới của nhân vật tôi.

Tình huống đầu tiên là sự kiện bà Hiền chọn chồng. Một người thông minh, xinh đẹp
như cô Hiền mà lại chọn chồng là một ông giáo dạy tiểu học. Sự kiện này khiến cả Hà Nội
phải ngạc nhiên. Nhưng có gì phải ngạc nhiên. Việc đó đã được bà dự liệu, tính toán trước cả.
Bà chọn ông giáo dạy tiểu học vì một người như ông có thể cho bà một cuộc sống bình yên và
điều quan trọng là ông giáo dạy tiểu học thời nào, chế độ nào cũng cần, chẳng phải lo gì đến
chuyện chính trị, chính em. Bà Hiền đã chọn chồng như thế, điều này càng nghĩ càng khiến
nhân vật tôi thán phục.
Tính huống thứ hai là khi bà bị ngờ là tư sản. Nhân vật tôi luôn xét nét bà cô bằng cái
nhìn đầy hoài nghi và định kiến. Vì ¨cái ăn, cái mặc¨ không giống xung quanh, vì ¨có gương
mặt đặc biệt là tư sản¨ mà bà Hiền bị anh ta quy kết ¨đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì
không thể tin cậy được.Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc
rối¨. Nhưng cô Hiền luôn tự tin và đầy bản lĩnh, cô nói: “mọi người không biết nhưng nhà
nước thì rất biết”, “tao có bộ mặt rất tư sản, một lối sống rất tư sản nhưng lại không bóc lột ai
thì làm sao thành tư sản được”. Cô Hiền đã khiến nhân vật tôi nhận ra mình có tư tưởng mang
nặng định kiến giai cấp khi nhìn đời, nhìn người.
Tình huống thứ ba là tình huống cô đồng ý cho cả hai người con trai đăng kí tong quân
ra mặt trận. Ở tình huống này, nhân vật tôi lại nhận ra ở cô Hiền sự thống nhất giữa tình yêu
thương con với tình yêu đất nước. Cô còn là một người giàu lòng tự trọng và giáo dục các con
phải biết sống tự trọng. Cô Hiền luôn lấy lòng tự trọng làm nguyên tắc đối nhân xử thế. Với
con cháu, cô bảo:¨Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn sống ra
sao thì tùy¨. Tự trọng là trung thực với mình, với người, kể cả khi phải đối lập với số đông.
Cô nói: ¨ Nó dám đi cũng là biết tự trọng. Bảo nó tìm đường sống khi bạn bè nó chết cũng là
cách giết chết nó¨. Vậy là chính lòng tự trọng sẽ đảm bảo cho mỗi người ý thức gắn kết cộng
đồng. Cô không hề chối bỏ trách nhiệm công dân:¨ Tao cũng muốn bình đẳng với các bà mẹ
khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì¨. Ý thức tự trọng làm cho bản lĩnh
cá nhân trở thành một giá trị chân chính. Điều này khiến nhân vật tôi càng cảm thấy khâm
phục và trân trọng bà cô của mình.
Tình huống thứ tư là phản ứng của bà khi nghe những lời phàn nàn của nhân vật tôi về
lối sống xô bồ của những người Hà Nội hôm nay. Bà không bình luận một lời nào, chỉ kể cho
anh Khải nghe câu chuyện về cây si ở đền Ngọc Sơn bị đổ rồi sống lại. Câu chuyện của bà ẩn

chứa bao triết lí nhân sâu sắc. Nó thể hiện niềm tin mãnh liệt của bà vào những giá trị văn hóa
trường tồn của Hà Nội. Chình điều này làm cho nhân vật tôi thấy khâm phục và ngưỡng mộ

165


hơn bao giờ hết bà cô của mình. Anh đã tôn vinh bà Hiền là một hạt bụi vàng của Hà Nội, là
chất vàng mười của Hà Nội.
b. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Sở trường của Nguyễn Khải là những nhân vật tinh khôn, thức thời. Nhân vật của ông
thường hiện lên là những con người có lối sống lịch lãm, được khám phá ở những nét đẹp văn
hóa và khẳng định bản lĩnh cá nhân.
Câu chuyện về cuộc đời bà Hiền được kể qua cái nhìn của nhân vật “tôi”, cách kể này
làm tăng thêm tính khách quan, tính đối thoại với bạn đọc. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình
trong nhiều mối quan hệ để từ đó nhân vật bộc lộ phẩm chất, cốt cách của mình. Nhà văn đã
tái hiện lại cuộc đời nhân vật theo trình tự thời gian để người đọc có cái nhìn đầy đủ, toàn vẹn
hơn về nhân vật.
Viết Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến chưa hẳn là ca ngợi một
con người, cho dù người đó đáng ca ngợi bao nhiêu đi chăng nữa. Cảm hứng chính của ông là
khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch
sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai. Qua đó cho thấy
Nguyễn Khải thật sự yêu quý Hà Nội, có những suy nghĩ thâm trầm về “đất kinh kì” và tha
thiết được thấy một Hà Nội hiện đại, đẹp, sang, xứng với bề dày văn hoá truyền thống của nó.
Hình tượng bà Hiền được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội,
một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con
của nó. Bà chỉ là người dân bình thường nhưng bà lại là chất vàng mười của Hà Nội. Tuy vậy,
nếu bình tâm suy xét, ta lại thấy trong tất cả những cái bình thường kia lại chứa đựng một triết
lí sống đáng vị nể, vừa thể hiện bản lĩnh cá nhân một con người, vừa bộc lộ kiểu ứng xử đặc
trưng của đất kinh kì. Bà Hiền biết rõ mình là ai, bà hiểu sâu xa mình là người Hà Nội. Sau
năm 1954, gia đình bà chẳng di cư vào Nam vì “không thể rời xa Hà Nội”. Đây không đơn

giản chỉ là một biểu hiện của tình yêu đối với nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà còn là
một biểu hiện của niềm tin vào thế tồn tại bền vững của mảnh đất đã trải qua nhiều thăng trầm
của lịch sử, có văn hoá riêng đã thấm vào máu thịt cư dân nơi này.
Bản lĩnh, tình yêu và niềm tự hào về Hà Nội còn được thể hiện ở việc bà giáo dục các
con các cháu: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không
được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Hoá ra vậy, làm người Hà Nội vừa là một vinh dự, vừa là
một trách nhiệm.
Khi kể về bà, nhân vật “tôi” rất hay nói đến chữ tính : “tính thế là đúng”, “Mọi sự mọi
việc đều được các bà tính trước cả. Và luôn tính đúng…”, “đã tính là làm”, “Cô tôi tính toán
việc nhà việc nước đại khái là như thế”, “cô muốn mở rộng sự tính toán…”. Dĩ nhiên, đã “tính
đúng” thì người đó là người khôn (“cô khôn hơn các bà bạn của cô”), người “có đầu óc rất
thực tế”, biết thích ứng. Với người “khôn”, mọi điều khó mấy xem ra cũng có thể thu xếp
được một cách khá nhẹ nhàng: là “tư sản” mà khi ở với chính quyền mới, gia đình bà Hiền
không bị hề hấn gì, bà lại có khả năng nuôi cả gia đình đủ ăn mà không phải dính dáng gì tới
hai chữ “bóc lột”… Đằng sau mỗi câu chuyện kể về bà Hiền, tác giả luôn luôn cho ta thấy sự
tồn tại của một bản lĩnh sống vững vàng, một khả năng tự ý thức rất cao, một lòng tự trọng
không thể nghi ngờ.
Bà có chính kiến, chủ kiến riêng về nhiều chuyện “vĩ mô” của nhà nước, chế độ. Khi
đứa cháu nói : “Nước được độc lập vui quá cô nhỉ ?”, bà đã trả lời : “Vui hơi nhiều, nói cũng
hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ?”. Theo bà “Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân
quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra
sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở…”. Bà
cũng nhận ra có cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân làm giàu” :
“Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ
ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”. Đặc biệt, bà có một quan điểm hết sức

166


khác thường : “Xã hội lúc nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho

mọi giá trị…”. Chưa hết, bà còn phát biểu về cái huyền vi của sự sống mà càng ngày ta càng
phải thừa nhận : “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”.
Như vậy, trong cái tính của bà Hiền có chứa đựng một “tầm nhìn xa” đáng để cho
nhân vật “tôi” phải thốt lên khâm phục : “Bà vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá.
Một người như cô phải chết đi thật tiếc…”. Chính tầm nhìn xa có ở bà Hiền, rộng ra là có ở
nền văn hoá của đất kinh kì đã tạo nên cái mà trên kia ta đã gọi là thế tồn tại uyển chuyển và
ngoan cường của Hà Nội, vượt lên trên mọi ba động của đời sống chính trị. Chi tiết bà Hiền
kể cho nhân vật “tôi” nghe về sự hồi sinh sau cơn bão của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn mang
ngụ ý triết lí sâu sắc.
Nhìn chung, bà Hiền đúng là một người Hà Nội, dù bà không thuộc “típ” điển hình
quen thuộc mà văn học cách mạng một thời ưa xây dựng trong cảm hứng ngợi ca. Dĩ nhiên,
bà cũng đã dành được sự ngợi ca, quý trọng rất mực của nhân vật “tôi”, của tác giả, nhưng
đây là sự ngợi ca, quý trọng xuất phát từ một tiêu chí đánh giá khác với trước. Cái lõi của tiêu
chí đó chính là sự khẳng định bản lĩnh cá nhân của con người trong đời sống – điều sẽ khiến
cho con người trong khi biết thích ứng với thời đại thì vẫn đóng góp được nhiều cho việc cải
biến, cải tạo môi trường tồn tại của mình theo hướng tích cực.
Nói tóm lại, qua nhân vật bà Hiền, nhà văn đã thực sự có đóng góp cho việc dân chủ
hoá hoạt động sáng tác văn học nước nhà. Các thước đo về con người, cuộc sống trở nên đa
dạng hơn, và chính điều đó đã kích thích tinh thần đối thoại ở độc giả. Sự hấp dẫn của văn của
Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai chính được đưa tới từ đặc điểm giàu tính đối thoại
dân chủ này.
c. Nghệ thuật trần thuật
Nguyễn Khải là một trong những nhà văn có cá tính sáng tạo độc đáo. Nhạy cảm phát
hiện hiện thực cuộc sống ở những góc độ khác nhau, ông đã đem đến cho người đọc cảm giác
thú vị khi tiếp cận tác phẩm của ông qua hình thức phản ánh độc đáo, sáng tạo.
Một người Hà Nội được xây dựng theo lối trần thuật chủ quan với người trần thuật ở
ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Theo lối kể này, nhân vật “tôi” vừa là người có vai trò trần thuật vừa
là người tham gia vào câu chuyện, có mối quan hệ với các nhân vật trong câu chuyện. Vì thế
bên cạnh nhiệm vụ tái hiện lại câu chuyện, nhân vật “tôi” cũng có vai trò bình đẳng với các
nhân vật khác, có thể bộc lộ cá nhân mình với những biểu hiện về tính cách, tâm lý, suy

nghĩ…
Trong tác phẩm này, sự tự bộc lộ cá nhân của người kể thể hiện khá đậm. Do vậy dõi
theo câu chuyện, có thể nhận thấy cùng với sự việc khách quan được người kể dẫn dắt có sự
đan xen những dòng suy nghĩ nội tâm của người kể chuyện. Nhân vật “tôi” đã vừa kể vừa suy
ngẫm về những vấn đề được kể cho nên người đọc có thể vừa theo dõi câu chuyện vừa có thể
hiểu được những suy nghĩ có tính chất chủ quan của người kể. Câu chuyện vì thế không hoàn
toàn khách quan, người kể luôn lộ diện để suy ngẫm, để bình luận, triết lí một vấn đề nào đó
qua những dòng độc thoại nội tâm. Do đặc điểm lối trần thuật của Nguyễn Khải có sự đan xen
giữa việc kể, tả với bộc lộ cá nhân ở những suy nghĩ, phân tích, bình luận sự việc đậm màu
sắc triết lí nên sự việc được kể không hoàn toàn khách quan, người đọc có thể hiểu được vấn
đề tác giả phản ánh và cả quan điểm của người kể. Cách kể như thế đã làm rút ngắn khoảng
cách giữa người kể với câu chuyện cùng với những nhân vật trong truyện, do vậy độ chân thật
của truyện cũng sẽ cao hơn. Với lối kể này, giọng trần thuật của truyện cũng mang nét riêng
thâm trầm sâu lắng. Nhịp điệu câu chuyện chậm rãi lắng sâu vào suy tư của nhân vật “tôi”,
một con người có nhiều trải nghiệm trong cuộc đời nên đã phát hiện ra những vấn đề tinh
nhạy, những bài học nhận thức mang rõ chủ kiến sâu sắc của nhà văn. Những đúc kết từ sự
trải nghiệm tác giả đặt ra đã đem đến cho người đọc sự suy nghĩ trước những vấn đề của cuộc
sống hiện đại. Vì thế tác phẩm như một sự đối thoại, chia sẻ với bạn đọc vấn đề tác giả chiêm

167


nghiệm, suy tư. Cuối truyện khép lại tác phẩm là đoạn văn: “Cô muốn mở rộng sự tính toán
vốn dĩ đã rất khôn ngoan của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình không thể
biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết. Bà vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá.
Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu
vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà
bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng”. Đoạn văn đã để lại một dư âm vấn vương
trong lòng người đọc, gợi sự suy nghĩ về một vấn đề mà tác giả đặt ra: Nét đẹp xưa của thủ đô
với truyền thống văn hóa lâu đời liệu có còn được gìn giữ bảo tồn khi Hà Nội đang trên đà

hiện đại hơn xưa? Có lẽ đây là vấn đề tác giả quan tâm và muốn chia sẻ, đối thoại với người
đọc. Bằng lối kể như trên, tác giả đã rút ngắn khoảng cách giữa người đọc và câu chuyện, tạo
sự dân chủ trong đối thoại giữa tác giả và người đọc.
Đọc truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, người đọc còn cảm thấy hấp
dẫn, lí thú do lối kể có nét mới lạ độc đáo của tác giả. Nhà văn luôn đặt vấn đề ở nhiều điểm
nhìn và cách đánh giá khác nhau: của người kể, của từng nhân vật. Trong truyện thường có sự
chuyển vai linh hoạt, sự luân phiên điểm nhìn và ý thức từ người kể đến nhân vật, từ nhân vật
này đến nhân vật khác trong việc thể hiện suy nghĩ trước vấn đề tác giả đặt ra. Cách kể sự
việc dưới nhiều góc nhìn, điểm nhìn về cuộc sống, con người Hà Nội ở một giai đoạn mới của
xã hội giúp cho người đọc hiểu được tâm tư tình cảm, cách nghĩ và đời sống tinh thần của họ.
Sự việc được kể vì thế khách quan hơn đồng thời cách kể cũng trở nên linh hoạt, sinh động,
hấp dẫn chứ không đều đều, nhàm chán.
Do sự trần thuật có sự đan xen giữa lời kể khách quan của câu chuyện với suy nghĩ
chủ quan của người kể và ý thức của nhân vật nên lời văn nghệ thuật cũng biến hoá linh hoạt.
Trong truyện, tác giả sử dụng lời gián tiếp khi dẫn dắt câu chuyện đan xen với lời trực tiếp khi
dẫn lời nhân vật hay bộc lộ suy nghĩ nội tâm của chính mình. Có khi tác giả lồng vào trong lời
kể ý thức, quan điểm, suy nghĩ của nhân vật bằng lời văn nửa trực tiếp, tức lời gián tiếp nhưng
đã mang ý thức và ngữ điệu của nhân vật. Chẳng hạn đoạn văn sau đây: “ Cô than thở với tôi
rằng dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, y hệt một bà già nhà quê.
Mùa hè năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một đêm, sáng ra mở cửa nhìn sang đền Ngọc Sơn mà
hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tán cây đè lên hậu cung, một phần bộ rễ bật đất chổng ngược lên
trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự khác thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời.
Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn luôn là thời vàng son của họ. Hà Nội thì không
thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Đoạn văn đã có sự hoà trộn
giữa giọng điệu của người trần thuật và giọng của nhân vật. Để tạo sự khách quan trong khi
kể, nhà văn không đứng ngoài để miêu tả mà nhập vào ý thức nhân vật để nhân vật tự nói lên
suy nghĩ, tâm tư của mình. Bằng cách này nhà văn đã vừa kể vừa thâm nhập vào ý thức nhân
vật. Điều này đã làm cho lời văn có tính đa thanh, đa giọng và biến hoá linh hoạt.
III. Một số đề luyện tập
Đề 1: So sánh quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu và

Nguyễn Khải trong Chiếc thuyền ngoài xa và Một người Hà Nội.
Dàn ý chi tiết:
I. Đặt vấn đề:
Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải là hai nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt
Nam hiện đại. Mỗi người có một phong cách song họ đều góp phần không nhỏ vào sự phát
triển của nền văn học dân tộc. Nguyễn Minh Châu luôn đi tìm hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu
tâm hồn con người còn Nguyễn Khải lại thành công khi xây dựng hình tượng những con
người thức thời, tinh khôn. Chiếc thuyền ngoài xa và Một người Hà Nội là hai truyện ngắn
thành công trong sự nghiệp sáng tác của hai tác giả. Ra đời vào những thời điểm khác nhau,
có nội dung tư tưởng khác nhau song hai tác phẩm đều gặp nhau ở quan niệm nghệ thuật rất
mới mẻ và sâu sắc về con người.

168


II. Giải quyết vấn đề:
1. Giải thích khái niệm:
- Quan niệm nghệ thuật về con người là cách nhìn nhận, suy nghĩ đánh giá của nhà
văn về con người được thể hiện trong nghệ thuật và bằng nghệ thuật.
- Ở những giai đoạn khác nhau, quan niệm nghệ thuật về con người có sự thay đổi.
Trong văn học trung đại con người thường được nhìn ở phương diện đạo đức, cái tôi cá nhân
không được đề cao. Trong văn học từ đầu thế kỉ 20 đến cách mạng tháng Tám 194545, quan
niệm nghệ thuật về con người lại gắn liền với tinh thần dân chủ. Cái tôi cá nhân được khẳng
định, đề cao. Ở giai đoạn 1945-1975 các nhà văn lấy tiêu chuẩn chính trị và lý tưởng cách
mạng là thước đo cao nhất đánh giá con người.
- Sau 1975 các nhà văn lại có nhu cầu đổi mới tư duy nghệ thuật, thay đổi quan niệm
về nghệ thuật của con người. Và Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải là những người đi tiên
phong trong công cuộc đó.
2. Phân tích so sánh
a) Quan niệm nghệt thuật về con người của Nguyễn Minh Châu

* Giới thiệu chung về quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
- Trước 1975: Nhà văn đã thể hiện vẻ đẹp của con người trong thời chiến với phẩm chất
yêu nước anh hùng cách mạng. Con người được thể hiện chủ yếu bằng bút pháp lãng mạn kết hợp
với sử thi.
- Sau 1975, Nguyễn Minh Châu đã khám phá con người ở phương diện cá nhân, phát
hiện ra nỗi đau khổ của con người thời hậu chiến. Đề cập đến những vấn đề nhân sinh sâu sắc,
để tìm hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người, đặc biệt là những người dân lao động
bình thường.
* Phân tích quan niệm nghệ thuật về con người trong Chiếc thuyền ngoài xa
- Nguyễn Minh Châu đã nhìn con người bằng cái nhìn đa chiều. Vì nhìn con người
trong cái nhìn đa chiều nên nhà văn đã xây dựng nhân vật của mình hết sức phức tạp. Nếu
không có cái nhìn đa chiều, chúng ta sẽ không thể nào hiểu hết được về họ.
- Người đàn bà hàng chài:
+ Bề ngoài cam chịu, nhẫn nhục, quê mùa, thất học.
+ Bên trong ngời sáng vẻ đẹp khuất lấp: Người mẹ hết mực thương con, người vợ
hiểu chồng và thương chồng, một người hiểu đời hiểu người có bản lĩnh và giàu nghị lực…
- Người đàn ông
+ Bề ngoài: vũ phu, độc ác, tàn nhẫn
+ Nhưng bên trong lại là người đau khổ, bất hạnh, bế tắc trước thực tại.
- Thằng Phác: tỏ ra là người có cá tính và hành động mạnh mẽ, quyết liệt nhưng bên
trong cậu bé lại có một đời sống tâm hồn tổn thương nghiêm trọng
- Anh Đẩu: Bề ngoài là một vị cánh án am hiểu luật pháp, luôn đứng về lẽ phải. Anh
đã có những suy nghĩ hành động mà anh cho là tốt nhất để giúp đỡ người đàn bà nhưng thực
ra anh lại là người hành động theo lí thuyết suông và xa rời thực tế.
- Có thể nói cái nhìn đa chiều của nhà văn về con người đều được phát hiện qua cái
nhìn của của Phùng.

169



+ Phùng phát hiện ra nghịch lý của cuộc đời: cuộc sống vốn vẫn tồn tại với tất cả
nghịch lí. Cái đẹp bên ngoài có thể che lấp cái xấu bên trong và ngược lại. Vì vậy để hiểu đời
sống, hiểu con người thì chúng ta phải có cái nhìn đa chiều sâu sắc.
+ Phùng đã nhận thức lại mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nghệ thuật không
chỉ phản ánh cái đẹp mà còn phản ánh hiện thực nghiệt ngã trong cuộc sống…
* Nguyễn Minh Châu còn đặt ra vấn đề vế số phận con người thời hậu chiến.
- Chiến tranh đã đi qua nhưng nước mắt của nhân dân vẫn không ngừng chảy. Cuộc
chiến chống đói nghèo là cuộc chiến nan giải và còn khốc liệt hơn nhiều cuộc chiến chống
xâm lược.
- Sự nghèo đói sinh ra cái ác, kéo theo đó là sự ngu muội, lạc hậu.
- Khi cái ác len lỏi vào trong đời sống gia đình và được thể hiện bằng bằng nạn bạo hành
gia đình, nó sẽ có tác động và ảnh hưởng ghê gớm đến sự hình thành và phát triển nhân cách của
thế hệ trẻ.
- Cần phải có một giải pháp xã hội thiết thực cho vấn đề số phận của con người thời hậu
chiến.
b) Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Khải
b1.Giới thiệu chung
- Trước 1978, quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Khải mang đậm tính
thời sự chính trị. Nhà văn đi sâu vào việc thể hiện những xung đột giai cấp, mâu thuẫn giữa
con người cá nhân và con người tập thể. Con người chủ yếu được đánh giá qua tiêu chí đạo
đức chính trị và bằng bút pháp chính luận.
- Sau 1978, nhà văn đã giành sự quan tâm cho những cái đời thường, cho những
chuyện vặt vãnh. Tiêu chí đánh giá cũng được mở rộng hơn cả ở góc độ văn hóa, lịch sử, triết
học. Nhà văn đã sử dụng bút pháp triết luận để trình bày quan niệm nghệ thuật về con người.
b2. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Khải trong Một người Hà Nội
* Nguyễn Khải đã nhìn con người nổi bật ở những giá trị văn hóa, ở bản lĩnh cá nhân
và khả năng tự ý thức, nhân cách cao đẹp. Nhà văn đã xây dựng trong tác phẩm một chân
dung văn hóa, là tiêu biểu cho bản sắc văn hóa Hà Nội nói riêng và bản sắc dân tộc nói chung.
- Bà mang cốt cách vẻ đẹp thanh lịch của một người Hà Nội
+ Nếp sống và nếp sinh hoạt của gia đình bà Hiền (nơi ở, cái mặc, cái ăn…) → nếp

sống thanh lịch, đàng hoàng, sang trọng. Đó là nếp sinh hoạt truyền thống của một gia đình có
văn hóa, là một nếp sống đẹp.
+ Thói quen: Duy trì cuộc gặp mặt bạn bè hàng tháng, thói quen chơi hoa thủy tiên
ngày tết → không chỉ là thói quen của một người, một gia đình mà là vẻ đẹp của một vùng
đất, một dân tộc.
+ Cách dạy con: Dạy con cháu từ cách cầm bát đũa đến cách múc canh, nói chuyện
trong bữa ăn. Bà không cho đó là những chuyện vặt vãnh trong sinh hoạt đời thường, mà theo
bà đó là cách rèn luyện cho bọn trẻ một lối sống có văn hóa. Bà nói với các con: "Chúng mày
là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được tùy tiện, buông tuồng".
- Có bản lĩnh tự tin trong cuộc sống.
+ Tính toán quyết đoán, tính từ việc lấy chồng, sinh con, làm ăn buôn bán. Điều đáng
nói là việc gì bà cũng tính đúng. Đã tính là làm, đã làm là không để ý đến lời đàm tiếu của
thiên hạ.

170


+ Khi nhân vật Tôi và những người hàng xóm nghi ngại mình là tư sản, bà nói: "Tao
có một bộ mặt tư sản, một lối sống rất tư sản nhưng không bóc lột ai thì làm sao thành tư sản
được".
+ Khẳng định vai trò của người phụ nữ trong gia đình bà nói: "Đàn bà phải làm nội
tướng nếu không gia đình đó cũng chẳng ra sao cả" → Quan niệm đúng đắn, tư tưởng bình
đẳng giới tiến bộ.
- Yêu quê hương, đất nước.
+ Thời chống Pháp ở Hà Nội vì không thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác…
+ Thời chống Mĩ đồng ý cho cả hai đứa con ra mặt trận: tình yêu đất nước gắn với tình
yêu quê hương, tình yêu gia đình. Đồng thời thể hiện tình cảm rất mực thương con trong tấm
lòng của một người mẹ.
- Trí tuệ sắc sảo, thông minh tức thời.
+ Sau hòa bình lập lại năm 1954 bà nhận ra "vui hơi nhiều… làm ăn chứ". Bà không

thích kiểu bắt chước ngôn ngữ cách mạng không phải lối => bà là người có đầu óc thực tế.
+ Bà nhận thấy những việc làm chưa thật dân chủ của chính quyền và nhận thức rất rõ
bản chất của chế độ.
+ Hiểu biết sâu sắc về quy luật trong đời sống xã hội.
* Nguyễn Khải còn nhìn con người nổi bật ở khả năng trăn trở suy tư, chiêm nghiệm,
tự mình đi tìm những chân giá trị cuộc đời.
Đây chính là kiểu nhân vật trong sáng của Nguyễn Khải sau 1978. Kiểu nhân vật luôn
chiêm nghiệm về lẽ đời, kiếp sống của con người, từ sự thay đổi trong nhận thức và thái độ
của nhân vật tôi, Nguyễn Khải muốn khẳng định và tôn vinh những giá trị vĩnh hằng của đời
sống.
c) So sánh
* Giống:
- Cả hai nhà văn đều khám phá ra vẻ đẹp của con người trong cuộc sống đời thường.
Từ đó nêu nên những triết lý nhân sinh sâu sắc.
- Cả hai nhà văn đều trân trọng con người, đều khẳng định bản lĩnh con người trong
cuộc sống, đều ngợi ca những nhân cách đáng trọng.
- Đều đặt nhân vật trong một cái nhìn đa chiều.
- Qua quan niệm nghệ thuật về con người cho ta thấy được đổi mới tư duy của hai tác
giả.
- Về nghệ thuật: đều xây dựng tình huống nhận thức trong tác phẩm và đặt nhân vật
của mình trong tình huống nhân thức; đều trần thuật ở ngôi thứ nhất và đều chuyển điểm nhìn
trần thuật vào điểm nhìn của nhân vật. Từ đó nói nên những suy nghĩ đánh giá của mình về
con người, làm tăng thêm tính đối thoại với bạn đọc.
* Khác
Nguyễn Minh Châu

Nguyễn Khải

- Quan tâm tới nỗi khổ của con người thời hậu - Quan tâm tới hành vi ứng xử có văn hóa và nhân
chiến.

cách đẹp của con người trong cuộc sống.
- Thích khám phá vẻ đẹp khuất lấp và đi tìm - Thích để nhân vật của mình tự bộ lộ, tự khẳng
hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con định vẻ đẹp. Đó là vẻ đẹp tự nhiên cả bên ngoài
người.
lẫn bên trong.

171


- Quan niệm về con người của Nguyễn Minh - Quan niệm về con người của Nguyễn Khải lại
Châu gắn liền với suy tư trăn trở về nghệ thuật, gắn với vấn đề văn hóa, vấn đề làm thế nào có
về mỗi quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
được lối sống đẹp, làm thế nào giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì hội nhập.
- Nguyễn Minh Châu đã tái hiện hình ảnh - Nguyễn Khải tái hiện vẻ đep bà Hiền qua trình
tự thời gian cuộc đời nhân vật.
người đàn bà qua một lát cắt của đời sống.
- Giọng triết lí, chiêm nghiệm kết hợp trữ - Giọng triết lí chiêm nghiệm nhưng gắn với tranh
biện đối thoại pha chút dí dỏm, hóm hỉnh.
tình sâu lắng
Đề 2: Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao trong Đời thừa và quan niệm nghệ
thuật của Nguyễn Minh Châu trong Chiếc thuyền ngoài xa
Dàn ý chi tiết
I. Đặt vấn đề
Nam Cao và Nguyễn Minh Châu là hai nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại.
Mỗi người mang một phong cách riêng song họ đều có những đóng góp không nhỏ cho văn
học dân tộc. Nam cao là nhà văn kết thúc xuất sắc khuynh hướng hiện thực phê phán 1930 –
1945, còn Nguyễn Minh Châu lại được mệnh danh là người mở đường tài năng và tinh anh
của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Đời thừa và Chiếc thuyền ngoài xa là hai truyện ngắn
nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của hai nhà văn. Tuy ra đời ở những thời điểm khác nhau, có

nội dung tư tưởng khác nhau song cả hai tác phẩm đều gặp nhau ở một điểm là bộc lộ được
những quan niệm mới mẻ, sâu sắc về nghệ thuật.
II. Giải quyết vấn đề
1. Giải thích khái niệm
- Quan niệm nghệ thuật là cách nhìn nhận, đánh giá, lý giải, là những băn khoăn trăn
trở của nhà văn về nghệ thuật (đó là những suy nghĩ về nghề viết, về chức năng, bản chất, giá
trị của văn học, về phẩm chất, yêu cầu đối với người nghệ sĩ, về mối quan hệ giữa hiện thực
và nghệ thuật).
- Biểu hiện.
+ Quan niệm nghệ thuật có thể phát ngôn trực tiếp trong các bài tiểu luận, các bài lý
luận phê bình.
+ Quan niệm nghệ thuật có thể bộc lộ gián tiếp trong tác phẩm qua phát ngôn của các
nhân vật hoặc qua tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
2. Phân tích, so sánh.
a. Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao trong Đời thừa
* Được thể hiện gián tiếp qua những suy nghĩ, phát ngôn của Hộ.
- Nam Cao đã nêu lên quan niệm về nghề viết và những yêu cầu đối với người nghệ sĩ.
+ Người nghệ sĩ phải không ngừng sáng tạo, vì sáng tạo là bản chất của nghệ thuật.
“Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho.
Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
+ Người nghệ sĩ phải có trách nhiệm với ngòi bút của mình "sự cẩu thả trong bất cứ
nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cầu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.

172


+ Người nghệ sĩ phải có cái nhìn sâu sắc đối với nghệt thuật. Qua lời Hộ Nam Cao đã
phê phán thứ văn chương "rất nhẹ, rất nông, gợi một vài ý thông thường quấy loãng trong một
thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi.

- Nam Cao còn đưa ra quan niệm về giá trị của văn học. Một tác phẩm đích thực phải
là một tác phẩm được viết trên tinh thần nhân đạo: "Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên
trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa
đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khời. Nó cá cụng lòng thương,
tính bắc ái, sự công bình… Nó làm cho người gần, người hơn".
* Quan niệm nghệ thuật được thể hiện gián tiếp qua tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
- Qua tấn bi kịch của Hộ, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ
giữa nhà văn với cuộc đời.
- Nam cao còn chỉ ra mối quan hệ giữa văn học và hiện thực: Văn học bắt nguồn từ
hiện thực và phản ánh hiện thực cuộc sống. Nhưng nếu hiện thực cuộc sống quá nghiệt ngã và
đời sống của người nghệ sĩ quá khó khăn thì sẽ khó có được tác phẩm có giá trị. Nếu người
nghệ sĩ dùng văn chương làm phương tiện kiếm sống thì giá trị của văn chương sẽ dần bị mai
một.
b. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: Thể hiện gián tiếp qua những phát
hiện của Phùng và qua tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
* Nguyễn Minh Châu nêu lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống:
- Nghệ thuật có quyền và cần phải phản ánh cái đẹp của cuộc sống bởi suy cho cùng
nghệ thuật chính là cái đẹp.
- Nghệ thuật còn cần phải phản ánh và tái hiện bức tranh hiện thực cuộc sống. Nghệ
thuật không thể né tránh cái ác, cái xấu bởi nó là một phần của cuộc sống.
* Nguyễn Minh Châu còn đề cập đến phẩm chất và bản lĩnh của người nghệ sĩ:
- Người nghệ sĩ phải có trách nhiệm, say mê công việc, phải biết rung động trước cái
đẹp của cuộc đời
- Người nghệ sĩ chân chính không phải chỉ biết rung động trước cái đẹp mà anh ta còn
phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật mà trước hết phải nhìn vào số phận bất hạnh
của con người.
- Người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều về cuộc sống.
c. So sánh
* Giống:
- Cả hai nhà văn đều đưa ra quan niệm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực

cuộc sống, đều đề cập đến vai trò, sứ mệnh và phẩm chất của người nghệ sĩ.
- Cùng hướng tới giải quyết vấn đề giá trị đích thực của nghệ thuật là gì. Giá trị đích
thực của nghệ thuật nằm ở chỗ người nghệ sĩ cần phải phản ánh, lý giải mọi vấn đề về hiện
thực trên lập trường nhân đạo.
- Đều xây dựng thành công nhân vật tư tưởng,
* Khác:
Đời thừa

Chiếc thuyền ngoài xa

- Đặt ra vấn đề hiện thực cuộc sống tác - Đặt ra vấn đề người nghệ sĩ phải có bản lĩnh
động đến giá trị văn học, khả năng sáng tạo khi tiếp cận hiện thực.
của con người.

173


- Đặt ra vấn đề người nghệ sĩ phải có cái - Đặt ra vấn đề người nghệ sĩ phải có cái nhìn
nhìn sâu sắc về hiện thực.
đa chiều về hiện thực.
- Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao cho
thấy những suy nghĩ, trăn trở, trải nghiệm
của người trí thức tiểu tư sản trong xã hội
cũ. Đây là quan niệm mới mẻ, tiến bộ theo
xu hướng khẳng định quan niệm nghệ thuật
vị nhân sinh.

- Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu lại là những suy tư trăn trở, trải nghiệm
của một nhà văn đã từng trưởng thành qua hai

cuộc kháng chiến và thấy được yêu cầu bức
thiết của việc đổi mới văn học. Vì vậy những
quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
cho thấy sự đổi mới tư duy nghệ thuật của nhà
văn sau 1980.

- Xây dựng tình huống tâm trạng để khắc
- Xây dựng tình huống nhận thức trên cơ sở của
họa nhân vật tư tưởng.
những nghịch lí
- Trần thuật ở ngôi thứ 3, nhưng chuyển
điểm nhìn trần thuật một cách linh hoạt, sử - Trần thuật ở ngôi thứ nhất, chuyển điểm nhìn
dụng nhiều lời nửa trực tiếp và độc thoại nội của mình vào điểm nhìn của Phùng để nói lên
quan niệm về nghệ thuật.
tâm.

Đề 3:
Hãy viết một bài văn bình luận một biểu hiện đổi mới về nghệ thuật trong
sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu hoặc Nguyễn Khải qua tác phẩm của hai nhà
văn được học trong chương trình Ngữ văn 12.
1. Yêu cầu:
- Viết một bài văn bình luận, trong đó HS tự chọn một biểu hiện đổi mới về nghệ
thuật nào đó của Nguyễn Minh Châu thể hiện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, hoặc
của Nguyễn Khải trong truyện ngắn Một người Hà Nội (có thể là về cách tổ chức tình huống
truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật hoặc ngôn ngữ…), trình bày cảm nhận, đánh
giá của mình về đổi mới nghệ thuật đó của nhà văn.
- HS cần kết hợp kiến thức về tác phẩm, về văn học sử và lí luận văn học; sử dụng
các thao tác lập luận để làm rõ ý kiến riêng của mình.
2. Gợi ý: Một số ý chính:
- Lựa chọn, xác định biểu hiện đổi mới về nghệ thuật của nhà văn (Nguyễn Minh Châu

hoặc Nguyễn Khải - trong tác phẩm Chuyền ngoài xa hoặc Một người Hà Nội).
- Làm sáng tỏ biểu hiện đổi mới nghệ thuật đó:
Phân tích biểu hiện của sự đổi mới, chứng minh bằng dẫn chứng cụ thể trong tác
phẩm.
- Bình luận về biểu hiện đổi mới đó của tác giả:
+ Nhận định, đánh giá về mức độ, giá trị, thành công… của sự đổi mới trong tác
phẩm, đóng góp vào sự nghiệp sáng tác của nhà văn nói chung, khẳng định vị trí, vai trò của
tác giả trong giai đoạn, lịch sử văn học nước nhà…
+ Lí giải cho sự đổi mới của nhà văn từ góc độ khách quan và chủ quan.
- Bàn bạc, mở rộng vấn đề:
Chỉ ra tác dụng, ý nghĩa của tinh thần đổi mới của nhà văn trong sáng tác, nêu lên
những bài học với người sáng tác, người tiếp nhận văn học…

174


Chú ý: Trong quá trình chứng minh, bình luận có thể sử dụng thao tác so sánh để
làm nổi bật sự mới mẻ của tác giả được lựa chọn. Thể hiện rõ cảm nhận, xúc cảm, ý kiến, bản
sắc riêng của người viết, vì đây là đề văn mở theo hướng phát huy năng lực sáng tạo của học
sinh.
Đề 4:
Một trong những qui luật của quá trình văn học là phát triển trong sự kế thừa
và cách tân.
Anh/Chị hiểu nhận định trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ bằng thực tế đổi
mới về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam sau năm 1975.
1. Yêu cầu:
- Bài nghị luận văn học cần bàn bạc và làm sáng tỏ một nhận định thông qua thực tế
sáng tác văn học của một giai đoạn, cụ thể là đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam
sau năm 1975.
- Kết hợp những hiểu biết về văn học sử, về tác phẩm văn học và kiến thức lí luận văn

học; sử dụng các thao tác lập luận như giải thích, chứng minh, so sánh, bình luận để giải quyết
vấn đề.
- Đảm bảo các yêu cầu về kết cấu, bố cục, cách diễn đạt, hành văn...
2. Gợi ý: HS có thể trình bày các ý chính sau
a. Giải thích: Qui luật kế thừa và cách tân của quá trình văn học:
- Kế thừa:
+ Lịch sử văn học phát triển trong sự tiếp nối của nhiều thời kì, giai đoạn, nhiều bộ
phận văn học. Nền văn học ra đời sau tất yếu phải tiếp thu những tinh hoa của nền văn học
trước. Các tác giả văn học viết chịu ảnh hưởng, kế thừa những đặc sắc của văn học dân gian,
Thơ mới học tập những tinh hoa của thơ ca cổ điển, thơ ca dân gian…
+ Sự kế thừa, tiếp thu được biểu hiện trên nhiều phương diện: quan điểm sáng tác, các
phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm văn học: ở đề tài, cảm hứng…., ở thể loại,
ngôn ngữ, hình ảnh, kết cấu…, cơ sở của sự tiếp thu: tác phẩm văn học của mỗi thời đại luôn
mang những giá trị đặc sắc tất yếu mà tác phẩm của văn học giai đoạn sau có thể vượt qua nó.
- Qui luật cách tân: do yếu tố thời đại, do như cầu của người đọc, do ý thức trách
nhiệm, nghề nghiệp của người sáng tác…, mỗi cây bút, mỗi giai đoạn cần phải mang đến cái
mới cho lịch sử văn học -> cái mới có giá trị đích thực sẽ được thời gian công nhận.
b. Chứng minh
Thực tế đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam sau năm 1975
- Những đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 xuất phát từ
những tiền đề hoàn cảnh lịch sử , xã hội, văn hóa…và những nhu cầu đổi mới của văn học.
Trong thực tế, những đổi mới này diễn ra trên nhiều bình diện nghệ thuật, song tập trung chủ
yếu ở một số yếu tố (cấu trúc thể loại, xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ)
như đã trình bày trong chuyên đề. Những đổi mới này nhìn chung đều có sự kế thừa thành tựu
nghệ thuật của văn học những giai đoạn trước, và cùng với sự kế thừa đó là những biểu hiện
cách tân theo hướng hiện đại, phù hợp với sự phát triển của xã hội cũng như của văn học.
- Trên cơ sở lí luận chung, phần chứng minh nên đi vào tác giả, tác phẩm cụ thể, tiêu
biểu (trọng tâm trong chương trình Ngữ văn phổ thông), với sự phân tích có đối chiếu, so sánh
để làm rõ kế thừa và cách tân (chủ yếu).


175


×