Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Bài dự thi tìm hiểu Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.88 MB, 117 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------------

BÀI DỰ THI
“TÌM HIỂU LUẬT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VÀ CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH”

Họ và tên

: LÊ THỊ HOÀI

Năm sinh

: 04/06/1994

Giới tính

: Nữ

Dân tộc

: Kinh

Địa chỉ

: UBND xã Nghi Yên, huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An

Số điện thoại



: 0989534347

Địa chỉ gmail

:

Nghi Yên, tháng 08 năm 2018
0


1


I. Những điểm mới của luật xử lý vi phạm hành chính so với pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Luật xử lý vi phạm hành chính được ban hành đã kế thừa những quy
định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1989, đồng thời đã bổ
sung những điểm mới đáng chú ý sau:
1. Phần những quy định chung:
- Luật XLVPHC đã dành riêng một điều (Điều 2) đề giải thích một số
thuật ngữ như: vi phạm hành chính, tái phạm, vi phạm hành chính nhiều lần,
tình thế cấp thiết, người đại diện hợp pháp, người nghiện ma túy, người không
có năng lực trách nhiệm hành chính. Theo đó, Luật quy định tái phạm là việc
cá nhân, tổ chức đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn
được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, kể từ ngày chấp hành xong
quyết định xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính
hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định này mà lại thực hiện hành vi vi
phạm hành chính đã bị xử lý. Luật cũng quy định rõ vi phạm hành chính
nhiều lần là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi hành chính mà

trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa bị xử lý và
chưa hết thời hiệu xử lý.
- Tại Điều 3 Luật XLVPHC, ngoài những nguyên tắc đã được ghi nhận
tại Pháp lệnh XLVPHC như: Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện và
xử lý kịp thời, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra đều phải được khắc
phục; việc xử lý vi phạm phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm,
nhân thân người vi phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định
hành thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả thích hợp, thì Luật
XLVPHC còn bổ sung một số nguyên tắc mới như: công bằng, công khai;
người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành
chính; cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc qua người đại diện
hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính; đối với cùng một
hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần
mức phạt tiền đối với cá nhân.
Việc bổ sung một số nguyên tắc như nêu trên là cần thiết, để khắc phục tình
trạng cơ quan hành chính ban hành quyết định xử phạt mang tính đơn
phương, áp đặt ý chí chủ quan của người có thẩm quyền xử phạt. Mặt khác,
việc xử lý vi phạm hành chính liên quan trực tiếp đến danh dự, quyền tự do cơ
bản của công dân, cần được tiến hành dân chủ, khách quan, chính xác, trên cơ
sở xác minh rõ vụ việc, bảo đảm nguyên tắc “Mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật” theo quy định tại Điều 52 Hiến pháp năm 1992.
- Về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính (Điều 6), nhìn chung, thời hiệu
xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước là 01 năm;
tuy nhiên, để đảm bảo cho việc xử lý vi phạm hành chính được triệt để, Luật
XLVPHC cũng quy định một số trường hợp như: Vi phạm hành chính về kế
toán, thủ tục thuế, phí, lệ phí, kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, xây dựng,
bảo vệ môi trường, đất đai…thì thời hiệu xử phạt là 02 năm. Mặt khác, nhằm
2



khắc phục tình trạng hiểu và áp dụng thiếu thống nhất như quy định của Pháp
lệnh XLVPHC, Luật quy định rõ thời điểm để tính thời hiệu xử lý vi phạm
hành chính; theo đó, đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu
được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm, đối với vi phạm hành chính
đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi
phạm.
- Để hạn chế tối đa việc vi phạm pháp luật, lạm quyền của người có
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong khi thi hành công vụ, Luật bổ
sung một điều quy định các hành vi nghiêm cấm (Điều 12), bao gồm 12
khoản, trong đó 10 khoản quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với người
có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính như: Giữ lại các vụ vi phạm có dấu
hiệu tội phạm để xử phạt vi phạm hành chính; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
sách nhiễu, đòi nhận tiền, tài sản, dung túng, bao che hạn chế quyền của
người vi phạm hành chính khi xử phạt vi phạm hành chính hoặc khi áp dụng
biện pháp xử lý vi phạm hành chính; ban hành trái thẩm quyền các văn bản
quy định về hành vi vi phạm hành chính,thẩm quyền, hình thức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực quản lý nhà nước và biện pháp xử lý hành chính; can thiệp trái pháp
luật việc xử lý vi phạm hành chính…
- Luật XLVPHC bổ sung một điều quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại (Điều 13) và một điều quy định về hiệu lực của Luật đối với những
hành vi vi phạm hành chính ở ngoài lãnh thổ việt Nam (Điều 20). Theo đó,
người vi phạm hành chính nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Việc bồi
thường thiệt hại được thực hiện theo quy dịnh của pháp luật dân sự. Người có
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
trong việc xử lý vi phạm hành chính gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật. Đối với hành vi vi phạm hành chính ở ngoài lãnh thổ nước
CHXHCN Việt Nam thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định
của Luật này.
- Luật XLVPHC quy định việc quản lý công tác thi hành pháp luật về

xử lý vi phạm hành chính, theo dõi, kiểm tra, báo cáo, thống kê, xây dựng,
quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính. Đây là một điểm mới, có ý
nghĩa hết sức quan trọng về nhiều mặt, như: phục vụ cho việc thống kê, chỉ
đạo công tác quản lý nhà nước, xem xét tình tiết tăng nặng, xác định yếu tố
“đã xử phạt vi phạm hành chính” làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự
trong hơn 70 điều, khoản của Bộ
luật hình sự (BLHS). Luật XLVPHC quy
định trách nhiệm quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính (Điều 17). Theo đó, Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý công
tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp là cơ quan
giúp Chính phủ trong việc thực hiện công tác này, bao gồm: xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật, theo dõi báo cáo công tác xử lý vi phạm hành chính,
thống kê, xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành
chính v.v…
3


Các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra…việc thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
phạm vi, chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Luật XLVPHC còn quy định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan,
đơn vị; trách nhiệm của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân các cấp trong công tác xử lý vi phạm hành chính (Điều 18), giám sát công
tác xử lý vi phạm hành chính (Điều 19).
2. Về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc
phục hậu quả
- Về cơ bản, Luật XLVPHC vẫn giữ nguyên các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính như quy định của Pháp lệnh XLVPHC. Tuy nhiên, so với
Pháp lệnh thi Luật XLVPHC có điểm mới sau đây:
+ Hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành

nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; hình thức xử phạt tịch
thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính
được quy định vừa là hình thức xử phạt chính vừa là hình thức xử phạt bổ
sung.
+ Bổ sung hình phạt mới là đình chỉ hoạt động có thời hạn để áp dụng
đối với trường hợp hoạt động của cá nhân, tổ chức vi phạm gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính
mạng, sức khỏe con người, môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ
mà theo quy định của pháp luật phải có giấy phép (đình chỉ một phân hoạt
động), hoặc được áp dụng đối với trường hợp hoạt động của cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ hoặc họa động khác mà theo quy định của pháp luật
không phải có giấy phép và hoạt động đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có
khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con
người, môi trường và trật tự, an toàn xã hội (đình chỉ một phần hoặc toàn bộ
hoạt động).
- Về mức phạt tiền và mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý
nhà nước
Theo quy định tại Điều 23 Luật XLVPHC thì mức phạt tiền trong xử phạt vi
phạm hành chính từ 50.000đồng đến 1.000.000.000 đồng với cá nhân, từ
100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng với tổ chức, trừ các lĩnh vực thuế; đo
lường; sở hữu trí tuệ; an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa;
chứng khoán; hạn chế cạnh tranh mức phạt tiền tối đa theo quy định tại các
luật tương ứng. Đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc trung
ương thì mức phạt tiền có thể cao hơn, nhưng tối đa không quá 02 lần mức
phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông
đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Như vậy, so với Pháp lệnh XLVPHC thì Luật XLVPHC đã nâng mức phạt tiền
tối thiểu từ 10.000 đồng lên 50.000 đồng; nâng mức phạt tiền tối đa từ
500.000.000 đồng lên 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, đến 2.000.000.000
đồng đối với tổ chức. Đồng thời, quy định cơ chế đặc thù về xử phạt vi phạm

4


hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, môi trường, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội đối với khu vực nội thành của các thành phố trực thuộc trung
ương nhằm đảm bảo hiệu quả của việc xử phạt vi phạm hành chính, đáp ứng
yêu cầu phòng, chống vi phạm hành chính trong giai đoạn hiện nay.
Đối với quy định về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước,
Luật XLVPHC tiếp tục kế thừa Pháp lệnh XLVPHC về việc quy định khống
chế mức phạt tiền tối ta với các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh
vực quản lý nhà nước, nhưng các lĩnh vực quản lý nhà nước đều được nâng
mức phạt tiền tối đa cho phù hợp với tính chất, mức độ vi phạm của hành vi
trong các lĩnh vực đó (lĩnh vực an ninh, trật tự nâng từ 30.000.000 đồng lên
40.000.000 đồng, lĩnh vực giao thông đường sắt; giao thông đường thủy nội
địa từ 40.000.000 đồng lên 75.000.000 đồng…).
Đối với những lĩnh vực quản lý các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước
CHXHCN Việt Nam; quản lý hạt nhân và chất phóng xạ, năng lượng nguyên
tử; tiền tệ, kim loại quý, đá quý, ngân hàng, tín dụng; thăm dò, khai thức dầu
khí và các loại khoáng sản; bảo vệ môi trường, mức phạt tối đa được quy định
là 1.000.000.000 đồng. Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quản lý nhà nước
đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Đối với lĩnh vực thuế, đo lường, sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, chất lượng
sản phẩm, hàng hóa, chứng khoán, hạn chế cạnh tranh thì áp dụng theo quy
định tại các luật tương ứng.
+ Đối với các lĩnh vực hoặc nhóm hành vi vi phạm hành chính mới
chưa được quy định trong Luật thì giao cho Chính phủ quy định sau khi được
sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm sự linh hoạt và bao
quát, không bỏ sót các hành vi vi phạm hành chính mới xuất hiện.
- Về các biện pháp khắc phục hậu quả
Các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định từ Điều 28 đến Điều 37 của

Luật. Ngoài 04 biện pháp khắc phục hậu quả như quy định của Pháp lệnh
XLVPHC, Luật XLVPHC còn bổ sung 05 biện pháp khắc phục hậu quả: buộc
cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm
trên hàng hóa, bao bì, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; buộc thu hồi sản
phẩm, hàng hóa không đảm bảo chất lượng; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp
có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng giá
trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy
trái quy định của pháp luật.
3. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính áp dụng các biện
pháp khắc phục hậu quả
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả được quy định từ Điều 38 đến Điều 54. So với Pháp lệnh XLVPHC
thì Luật XLVPHC có những điểm mới sau:
- Tăng thẩm quyền xử phạt cho cấp cơ sở, nhất là các chức danh trực
tiếp phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính, nhằm góp phần cải cách thủ
tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người bị xử phạt nhanh chóng thi
5


hành quyết định xử phạt, nâng cao tính kịp thời và hiệu quả của việc xử phạt
vi phạm hành chính, giảm tình trạng dồn việc xử phạt lên cấp trên.
- Về các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, Luật
XLVPHC cơ bản vẫn giữ các cơ quan, chức danh có thẩm quyền xử phạt như
quy định của Pháp lệnh, song có sửa đổi, bổ sung một số cơ quan, chức danh
khác có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho phù hợp với Luật thanh
tra, một số luật khác được Quốc hội thông qua trong thời gian qua và thực tiễn
hiện nay.
Riêng đối với thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân, Luật đã bổ
sung một số chức danh cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức
của Bộ Công an hiện nay như sau:

Bổ sung thẩm quyền xử phạt của Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục cảnh sát
giao thông đường bộ, đường sắt, Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục cảnh sát
đường thủy, Trưởng phòng các phòng Anh ninh chính trị nội bộ, An ninh kinh
tế, An ninh văn hóa tư tưởng, An ninh thông tin, Trưởng phòng cảnh sát bảo
vệ và cơ động, Trưởng phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn trên
sông, Trưởng phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy các quận, huyện thuộc
Sở Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy, Cục trưởng các Cục An ninh chính trị
nội bộ, An ninh kinh tế, An ninh văn hóa, tư tưởng, An ninh thông tin, Cục
Trưởng Cục cảnh sát bảo vệ và cơ động, Cục trưởng Cục cảnh sát phòng,
chống tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Luật vẫn tiếp tục giao thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt trục xuất cho
Giám đốc Công an tỉnh, Cục Trưởng Cục Quản lý xuất cảnh, nhập cảnh Bộ
Công an.
Nhằm đảm bảo tính linh hoạt trong việc áp dụng quy định về thẩm
quyền xử phạt, một trong những điểm mới của Luật XLVPHC là trong trường
hợp có thay đổi tên gọi của chức danh có thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính quy định tại Luật này, thì chức danh được thay đổi có thẩm xử phạt
(Điều 53).
4. Thủ tục xử phạt, thi hành quyết định xử phạt và cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
- Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính gồm 14 điều (từ Điều 55 đến
Điều 68)
So với Pháp lệnh XLVPHC, Luật XLVPHC có một số điểm mới sau đây:
+ Thứ nhất, bổ sung các quy định về hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính;
xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính; xác định giá trị tang vật vi
phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử
phạt; giải trình; những trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính. Các quy định này tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thi hành Pháp lệnh; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị xử phạt vi
phạm hành chính nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền xử

phạt.

6


+ Thứ hai, quy định rõ, cụ thể việc xác định giá trị tang vật vi phạm
hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, nhằm bảo đảm cho việc
xử phạt chính xác, áp dụng thống nhất, tạo sự bình đẳng trong xử phạt vi
phạm hành chính.
+ Thứ ba, nâng mức phạt tiền cao hơn trong trường hợp không phải lập
biên bản vi phạm hành chính (đến 250.000 đồng đối với cá nhân, đến 500.000
đồng đối với tổ chức).
- Thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính gồm 17 điều (từ
Điều 69 đến Điều 85). Một số điểm mới trong các quy định về Thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính tại Luật XLVPHC so với Pháp lệnh:
+ Thứ nhất, đề cập một cách đầy đủ, cụ thể việc việc thi hành các hình
phạt và biện pháp khắc phục hậu quả mà trước đây Pháp lệnh quy định còn
chung chung hoặc thiếu.
+ Thứ hai, bổ sung một số quy định: Thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong trường hợp người bị xử phạt chết, mất tích, tổ chức bị
xử phạt giải thể, phá sản; hoãn thi hành quyết định phạt tiền; giảm, miễn tiền
phạt; công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc xử phạt
đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
- Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính gồm 3
điều (từ Điều 86 đến Điều 88); trong đó đề cập tới việc cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thi hành quyết định cưỡng chế và
thẩm quyền quyết định cưỡng chế.
5. Về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Luật XLVPHC vẫn giữ nguyên 04 biện pháp xử lý vi phạm hành chính như
Pháp lệnh XLVPHC. Tuy nhiên, Luật XLVPHC có một số điểm mới sau đây:

- Về tên gọi, đổi tên biện pháp “ Đưa vào cơ sở giáo dục” thành “Đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc”; đổi tên biện pháp “Đưa vào cơ sở chữa bệnh”
thành “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” cho chính xác và phù hợp với đối
tượng đã thu hẹp (bỏ người mại dâm) của các biện pháp này.
- Về đối tượng, Luật đã bỏ một số đối tượng bị áp dụng các biện pháp
này, cụ thể như sau:
+ Không áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với
người từ đủ 12 tuổi đến 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại BLHS hoặc nhiều lần có hành vi
trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng; người bán
dâm.
+ Không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người
từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do vô ý quy định tại BLHS;
Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một
tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại BLHS mà
trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa
bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; người từ đủ
7


14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít
nghiêm trọng do vô ý quy định tại BLHS mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng
không có nơi cư trú nhất định.
+ Không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc đối với người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;
phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi đó cư trú xác nhận.
+ Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với

người bán dâm.
- Về thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính:
Luật XLVPHX có những điểm mới sau đây:
Thứ nhất, sau khi hoàn tất việc lập hồ sơ, cơ quan đã lập hồ sơ phải
chuyển hồ sơ đó đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để giao cho công chức
tư pháp-hộ tịch kiểm tra hồ sơ (đối với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn), chuyển hồ sơ đến Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện để kiểm tra tính
hợp lý của hồ sơ.
Thứ hai, công chức tư pháp-hộ tịch có trách nhiệm tổ chức cuộc họp tư
vấn để Chủ tịch UBND cấp xã xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn. Trưởng Công an cấp huyện (đối với biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc), Trưởng phòng
Lao động- Thương binh xã hội (đối với biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc) có trách nhiệm xem xét, quyết định chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án
nhân dân cấp huyện áp dụng các biện pháp này.
Thứ ba, người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền được
đọc và ghi chép các nội dung có trong hồ sơ.
Thứ tư, thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do tòa án
nhân dân quyết định.
6. Thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
Về cơ bản, các quy định về Thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử
lý hành chính của Luật đã kế thừa trên cơ sở quy định của Pháp lệnh hiện
hành; Luật XLVPHC bổ sung các quy định về quản lý người được hoãn hoặc
tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo
dục, cơ sở chữa bệnh nhằm giải quyết vướng mắc trong thực tiễn là không có
cơ quan, tổ chức nào quản lý người được hoãn, miễn chấp hành quyết định xử
lý vi phạm hành chính. Theo quy định này, người được hoãn hoặc được tạm
đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ
sở chữa bệnh có trách nhiệm trình diện với chính quyền xã, phường, thị trấn

hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú phải có sự đồng ý của các cơ quan, tổ
chức nêu trên. Trong thời gian được hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành quyết
định, nếu đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh trật tự, an toàn xã
hội hoặc có căn cứ cho rằng người đó bỏ trốn thì người đã ra quyết định hoãn
8


hoặc quyết định tạm đình chỉ hủy bỏ quyết định đó và ra quyết buộc chấp
hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
Luật XLVPHC cũng bổ sung quy định về việc đưa người không xác định
được nơi cư trú là người chưa thành niên, người ốm đau không còn khả năng
lao động đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính về Trung tâm bảo trợ
xã hội tại địa phương nơi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh
đóng trụ sở.
7. Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành
chính
So với Pháp lệnh, Luật XLVPHC có một số điểm mới sau:
Thứ nhất, tuy cơ bản vẫn giữ nguyên các biện pháp ngăn chặn và bảo
đảm xử lý vi phạm hành chính như quy định của Pháp lệnh, song Luật
XLVPHC đã bỏ biện pháp “ Bảo lãnh hành chính”; đồng thời, bổ sung hai
biện pháp là: áp giải người vi phạm và giao cho gia đình, tổ chức quản lý
người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian làm thủ
tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Theo đó, nếu người vi phạm không
tự nguyện chấp hành yêu cầu của người có thẩm quyền thì áp giải trong các
trường hợp: bị tạm giữ người theo thủ tục hành chính; đưa trở lại trường giáo
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc trong trường hợp
người đang chấp hành tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc bỏ trốn. Quy định này xuất phát từ thực tế thời gian vừa
qua, nhiều đối tượng vi phạm có hành vi chống đối thi hành công vụ hoặc bỏ
trốn khỏi địa phương, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai

nghiện bắt buộc. Luật quy định người có thẩm quyền đang thi hành công vụ
thực hiện việc áp giải người vi phạm.
Thứ hai, về thủ tục, Luật XLVPHC quy định cụ thể, đầy đủ và chặt chẽ hơn
thủ tục áp dụng các biện pháp này như quy định về: tạm giữ người theo thủ
tục hành chính, tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy tờ, chứng chỉ hành nghề
theo thủ tục hành chính, việc xử lý tang vật, phương tiện, giấy tờ, chứng chỉ
hành nghề theo thủ tục hành chính, v.v…
Thứ ba, về thẩm quyền, với mục đích là để người có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính ngăn chặn kịp thời vi phạm hành chính hoặc là để
bảo đảm cho việc xử lý vi phạm hành chính, mặc dù Luật XLVPHC có sửa
đổi, bổ sung thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, nhưng về cơ bản giữ
nguyên tắc chủ yếu là giao thẩm quyền áp dụng các biện pháp này cho cấp cơ
sở, đây là một trong những vướng mắc khi thực hiện Pháp lệnh XLVPHC.
Theo đó, ngoài việc vẫn giữ chức danh có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
này như quy định của Pháp lệnh, Luật XLVPHC có bổ sung một số chức danh
khác, đặc biệt là một số chức danh của lực lượng CAND, ví dụ như:
- Về biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính, bổ sung:
+ Trưởng Công an phường;
+ Trưởng Công an cấp huyện;
+ Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH….
9


+ Thủ trưởng đơn vị Cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên, Trạm
Trưởng Trạm Công an Cửa khẩu.
- Về biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy
phép, chứng chỉ hành nghề, bổ sung:
+ Trưởng Công an cấp xã, Trưởng đồn Công an, Trạm trưởng trạm
Công an Cửa khẩu.
+ Trưởng Công an cấp huyện; Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục

Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt…
+ Giám đốc Công an cấp tỉnh, Giám đốc Sở cảnh sát phòng cháy, chữa
cháy.
+ Cục trưởng cục An ninh chính trị nội bộ, Cục trưởng cjc An ninh kinh
tế, Cục trưởng Cục An ninh văn hóa, tư tưởng…
+ Thủ trưởng trực tiếp của chiến sỹ Cảnh sát nhân dân có quyền tạm
giữ 24 giờ, trong trường hợp có căn cứ để cho rằng nếu không tạm giữ ngay
thì tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tẩu tán, tiêu hủy.
8. Những quy định đối với người chưa thành niên vi phạm hành
chính
Từ Điều 133 đến Điều 140 Luật XLVPHC quy định về phạm vi áp
dụng, nguyên tắc xử lý, áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp khắc
phục hậu quả, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; thời hạn được coi là
chưa bị xử lý vi phạm hành chính, nhắc nhở và quản lý tại gia đình.
Đây là quy định mới của Luật XLVPHC, theo đó, Luật XLVPHC đã dành một
phần riêng để quy định về chính sách xử lý đối với người chưa thành niên vi
phạm hành chính. Xuất phát từ đặc điểm tâm, sinh lý của người chưa thành
niên và yêu cầu bảo vệ quyền trẻ em, Luật XLVPHC quy định theo hướng:
trong một số các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc
phục hậu quả áp dụng chung cho các đối tượng vi phạm, thì chỉ áp dụng đối
với người chưa thành niên vi phạm 03 hình thức xử phạt (cảnh cáo, phạt tiền,
tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính) và 4 biện pháp khác phục hậu quả ( buộc khắc phục tình trạng
ban đầu; buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường, lây lan dịch bệnh; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức
khỏe con người, vật nuôi cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung
độc hại; buộc nộp lại khoản thu bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm
hành chính hoặc nộp lại số tiền bằng giá trị giá tang vật, phương tiện đã bị
tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái với quy định của pháp luật). Luật XLVPHC còn
quy định về các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính như nhắc nhở,

giám sát tại gia đình, hòa giải tại cộng đồng; điều kiện, thẩm quyền và thủ tục
áp dụng các biện pháp thay thế.
Việc Luật XLVPHC dành một chương quy định biện pháp thay thế xử
lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm là một nội dung
mới tiến bộ, nhằm bảo về quyền, lợi ích chính đáng của người chưa thành

10


niên; đồng thời, nâng cao trách nhiệm quản lý, giáo dục của gia đình đối với
người chưa thành niên vi phạm hành chính.
9. Điều khoản thi hành
Điều 141 và Điều 142 Luật XLVPHC quy định: Luật này có hiệu lực
thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2013, trừ các quy định liên quan đến việc áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định
thì có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014.
Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, Pháp lệnh XLVPHC số
44/2002/PL-UBTVQH10, Pháp lệnh số 31/2007/PL-UBTVQH11 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và Pháp lệnh số
04/2008/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh XLVPHC
hết hiệu lực, trừ các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh tiếp
tục có hiệu lực đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2013./.
II. So sánh Luật XLVPHC năm 20-12 của Việt Nam với pháp luật
xử phạt hành chính ở một số nước
So sánh với pháp luật nước ngoài, nhất là của các nước phát triển,
chúng ta có thể thấy hệ thống pháp luật xử phạt VPHC của Việt Nam rất
khác. Sự hiện diện hệ thống pháp luật xử phạt VPHC của Việt Nam dày đặc,
như là một đặc điểm có một không hai trên thế giới. Nhưng điểm khác đặc
biệt là việc xử phạt - tức là việc tước bỏ, việc hạn chế quyền con người của

các nước - đều phải được theo một thủ tục tố tụng đúng (due process) của tư
pháp, do một thẩm phán thực hiện, và người dân có quyền được khiếu nại lên
Tòa án để bảo vệ quyền của mình… Pháp luật nhiều quốc gia cho phép các
chủ thể bị xử phạt có điều kiện thể hiện ý chí của mình một khi không đồng ý
với quyết định xử phạt, và thậm chí, họ có thể mời luật sư tham tụng trong
trường hợp không đồng ý với quyết định xử phạt họ. Họ còn có thể chủ động
đưa vụ việc ra tòa để tìm công lý cho mình. Nguyên tắc một thủ tục tố tụng
đúng đòi hỏi không ai bị tước đoạt quyền được sống, quyền tự do, quyền sở
hữu tài sản, mà không phải qua một quy trình tố tụng đúng.
Do những điều kiện riêng về lịch sử, kinh tế, xã hội, thể chế chính trị,
cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, truyền thống lập pháp… mỗi quốc gia
xây dựng một hệ thống pháp luật riêng về XLVPHC. Ở một số nước, cơ quan
lập pháp không ban hành đạo luật hay pháp lệnh riêng về XLVPHC, mà các
quy định về XLVPHC được xác lập ngay trong các văn bản luật chuyên
ngành.
Trong luật của Pháp, chế tài hành chính còn được gọi là “luật hình sự
đặc biệt.”4 Thụy Sĩ cũng vậy, gọi là “luật hình sự trong lĩnh vực hành chính”.
Ở Pháp hiện nay có 03 quan điểm về xử phạt hành chính: 1. Quan điểm thực
11


dụng, do yêu cầu của lợi ích công, đặc biệt là tính nhanh chóng của hoạt động
hành chính, nên cơ quan hành chính phải được trao quyền xử phạt hành chính
- nghĩa là tự mình áp dụng các chế tài mà không cần qua cơ quan tư pháp. 2.
Quan điểm dựa trên nguyên tắc pháp chế, chế tài hành chính cũng phải do
thẩm phán áp dụng, đặc biệt là các chế tài liên quan đến việc tước đoạt tự do
cá nhân. 3. Quan điểm trung gian, phụ thuộc vào việc phân biệt các mức độ vi
phạm, nếu vi phạm chỉ đơn thuần là không tôn trọng các quy định thủ tục, vi
phạm nhẹ, thì cơ quan hành chính có quyền xử lý, tuy nhiên, nếu việc thực thi
chậm trễ thì Tòa án cảnh sát có thể can thiệp; đối với trường hợp gây hậu quả

nghiêm trọng, không tuân thủ lệnh kiểm tra, thì thẩm quyền thuộc Tòa án.
Cơ quan hành chính nào có quyền cấp phép thì cũng có quyền tước giấy
phép nếu có những vi phạm kỷ luật (quy tắc sử dụng giấy phép), ngay cả khi
không có văn bản nào quy định quyền này: “xuất phát từ nội dung chấp nhận,
cơ quan cấp giấy phép có quyền tước giấy phép của chủ sử dụng đã không
tuân thủ đầy đủ những điều kiện được cấp phép”5.
Ở Bỉ, chế tài hành chính không chỉ là phạt tiền mà còn có thể áp dụng hình
thức lao động công ích, bởi đã dự liệu đến các trường hợp không thể phạt tiền.
Ngoài ra, biện pháp này cũng có tác dụng giáo dục tốt. Tuy nhiên, điều kiện
để thực hiện phải là sự phân quyền rất nhiều cho địa phương trong xử phạt
hành chính. Ở Thụy Sĩ, khái niệm chế tài hình sự trong lĩnh vực hành chính
được dùng để chỉ các biện pháp xử phạt mang tính hình sự mà cơ quan hành
chính có thể áp dụng thì hình phạt chủ yếu là phạt tiền dưới 5000 fr. Mức phạt
là cố định, không cần cân nhắc đến các yếu tố khác, nhưng có thể chuyển
đổi : 30fr = 1 ngày giam, nhưng thời hạn giam không được vượt quá 3 tháng.
Khi nào nộp tiền phạt, sẽ giảm trừ ngày giam.
Luật pháp của Mỹ rất ít sử dụng đến khái niệm “vi phạm hành chính”.
Những vi phạm pháp luật được gọi là những hành vi phải áp dụng các chế tài
hành chính, gọi là xử phạt hành chính thì ở Mỹ, các vi phạm này được gọi là
các tội phạm nhỏ, tội phạm ít nghiêm trọng. Một số tiểu bang có sự xác định
rõ hơn một số loại tội phạm ít nghiêm trọng gọi là “tội phạm nhỏ” (petty
ffenses/infractions/violations ~ misdemeanors). Những tội phạm này không bị
lên án mạnh và chỉ bị phạt tiền. Ví dụ như: đánh bạc bất hợp pháp (illegal
gambling); làm ồn (disturbing the peace); người vị thành niên sử dụng rượu
(possession of alcohol by a minor); gian lận tuổi (presenting false evidence of
age); gây cản trở người có thẩm quyền tại nơi xảy ra việc khẩn cấp (going to
the scene of an emergency for viewing when it results in impeding official
personnel); vứt bỏ tủ lạnh mà cửa còn nguyên vẹn (discarding a refrigerator
with its door intact)...


12


Luật Hành chính của Mỹ luôn luôn nhấn mạnh đến tính thủ tục hành chính.
Điểm khởi đầu cho sự nhấn mạnh này là yêu cầu của Hiến pháp về quy trình
tố tụng đúng. “Khi chúng ta nói về việc lắng nghe phía bên kia (audi alteram
partem) là chúng ta đã đề cập đến nhận thức cơ bản đã ăn sâu bám rễ trong
văn hoá pháp lý Anh - Mỹ”6, nhận thức này giờ đây đã thành mệnh lệnh bắt
buộc, được phát biểu dưới hình thức của quy trình tố tụng đúng. Được xây
dựng trên nền tảng của quy trình tố tụng đúng, luật pháp Mỹ đã tạo ra một
khối vững chắc các thủ tục chính thức bắt buộc. Kết quả là sự “tư pháp hoá”
của các cơ quan hành chính Mỹ - từ khi ra đời Uỷ ban Thương mại giữa các
bang tới nay - là phần lớn các quy trình hành chính của Mỹ đã được định hình
theo khuôn mẫu của ngành tư pháp có sửa đổi.
Yêu cầu về quy trình tố tụng đúng được diễn giải là đòi hỏi phải có một
phiên điều trần tranh biện chính thức - được gọi là điều trần về bằng chứng trước khi đưa ra các quyết định hành chính có tác động bất lợi tới các cá nhân.
Chính vì liên quan tới các quyết định xét xử, mà quy trình hành chính của Mỹ
được định hình chủ yếu theo mô thức của ngành tư pháp. Điều này có nghĩa
là, trước khi đưa ra các quyết định hành chính có ảnh hưởng bất lợi đến cá
nhân, thì cá nhân đó được quyền có một phiên điều trần về bằng chứng, phiên
điều trần này gần giống như một phiên xét xử của toà án. Những cá nhân đó
có những quyền như sau: 1. được thông báo cả danh sách cụ thể các đối tượng
và vấn đề liên quan đến vụ việc; 2. trình bày các bằng chứng, lời khai, tài liệu
và lập luận; 3. bác bỏ các bằng chứng của đối phương thông qua việc thẩm tra
chéo và các biện pháp thích hợp khác; 4. xuất hiện cùng với luật sư; 5. phán
quyết đưa ra dựa trên các bằng chứng được ghi vào hồ sơ của phiên điều trần;
6. có đầy đủ hồ sơ của phiên điều trần, bao gồm bản tốc ký lời khai và các lý
lẽ nêu ra cùng các bằng chứng, tài liệu, các giấy tờ khác được đệ trình trong
quá trình xét xử; 7. được cơ quan giải thích cơ sở đưa ra quyết định - một biện
pháp quan trọng để bảo đảm rằng, cơ quan đã tuân thủ luật pháp, trong phạm

vi quyền tự quyết rộng rãi dựa trên sự việc, chính sách và thậm chí, cả trên
các vấn đề pháp lý.
Nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài đã so sánh và chỉ trích yêu cầu của pháp
luật Mỹ về một phiên điều trần toàn diện với hồ sơ chính thức trước khi đưa
ra các phán quyết hành chính. Làm thế nào một cơ quan hành chính có thể
thực thi công việc một cách hiệu quả nếu mỗi quyết định hành chính tác động
đến quyền hạn và lợi ích của cá nhân đều phải tiến hành một phiên điều trần
theo kiểu phiên xét xử tại Toà án trước khi được ban hành? Quyền được tiến
hành phiên điều trần sẽ có xu hướng làm tê liệt các công việc hành chính của
cơ quan hành chính vốn đang cần phải được tiến hành liên tục?

13


Câu trả lời là “không phải thế”, không phải mọi trường hợp các cá nhân
đều đòi hỏi quyền mà họ có… Điều này không xảy ra vì rất nhiều lý do, một
phần là vì chi phí, một phần là vì thực tế rằng, việc tranh cãi là vô ích và rằng,
không có lợi ích gì khi tiến hành toàn bộ thủ tục của một phiên điều trần chính
thức. Các con số tại các cơ quan và không có cơ quan nào trong số đó có các
vụ đòi quyền được xem xét bởi một phiên điều trần toàn diện lớn hơn 5%. Đó
chính là lý do khiến cho bộ máy hành chính của Mỹ vẫn hoạt động”.

14


BÀI LÀM
Câu 1: Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (XLVPHC) quy
định như thế nào là vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính,
biện pháp xử lý hành chính?
Trả lời:

1.1 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về khái niệm vi
phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính, biện pháp xử lý hành chính
được thể hiện rõ ở khoản 1, 2, 3 - điều 2 của luật này. Cụ thể như sau:
1. Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm
và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
2. Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp
dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức
thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính.
3. Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi
phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao
gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.2. Điểm mới so với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính:
Trước đây, khi Nhà nước chưa ban hành Pháp lệnh Xử phạt VPHC 1989
thì các văn bản pháp luật chỉ đề cập đến khái niệm “vi cảnh”. “Vi cảnh” được
hiểu là việc “vi phạm luật lệ sinh hoạt ở nơi công cộng”, như vi phạm quy
định về giữ gìn vệ sinh công cộng, trật tự công cộng, trật tự an toàn giao
thông… Sau này, trong các văn bản pháp luật, khái niệm “vi cảnh” được hiểu
rộng hơn: không chỉ là những vi phạm luật lệ sinh hoạt nơi công cộng mà
được hiểu là những vi phạm nhỏ chưa đến mức bị coi là tội phạm hình sự.
Khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên được định nghĩa một cách
chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt VPHC 1989. Điều 1 Pháp lệnh quy định
“VPHC là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,

15


xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và

theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Định nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành
pháp luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật.
Đến Luật XLVPHC đã dành riêng một điều (Điều 2) đề giải thích một
số thuật ngữ như: vi phạm hành chính, tái phạm, vi phạm hành chính nhiều
lần, tình thế cấp thiết, người đại diện hợp pháp, người nghiện ma túy, người
không có năng lực trách nhiệm hành chính. Theo đó, Luật quy định tái phạm
là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời
hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, kể từ ngày chấp hành xong
quyết định xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính
hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định này mà lại thực hiện hành vi vi
phạm hành chính đã bị xử lý. Luật cũng quy định rõ vi phạm hành chính
nhiều lần là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi hành chính mà
trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa bị xử lý và
chưa hết thời hiệu xử lý.
Câu 2: Luật XLVPHC năm 2012 quy định những hành vi nào bị
nghiêm cấm? Trách nhiệm của người có thẩm quyền trong xử lý VPHC?
Trả lời:
* Tại điều 12 Luật XLVPHC năm 2012 quy định những hành vi
nghiêm cấm như sau:
1. Giữ lại vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử lý vi phạm hành chính.
2. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, đòi, nhận tiền, tài sản của
người vi phạm; dung túng, bao che, hạn chế quyền của người vi phạm hành
chính khi xử phạt vi phạm hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính.
3. Ban hành trái thẩm quyền văn bản quy định về hành vi vi phạm hành
chính, thẩm quyền, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với

16



từng hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước và biện
pháp xử lý hành chính.
4. Không xử phạt vi phạm hành chính, không áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả hoặc không áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
5. Xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính không kịp thời, không nghiêm
minh, không đúng thẩm quyền, thủ tục, đối tượng quy định tại Luật này.
6. Áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả không đúng,
không đầy đủ đối với hành vi vi phạm hành chính.
7. Can thiệp trái pháp luật vào việc xử lý vi phạm hành chính.
8. Kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
9. Sử dụng tiền thu được từ tiền nộp phạt vi phạm hành chính, tiền nộp
do chậm thi hành quyết định xử phạt tiền, tiền bán, thanh lý tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính bị tịch thu và các khoản tiền khác thu được từ xử
phạt vi phạm hành chính trái quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
10. Giả mạo, làm sai lệch hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính, hồ sơ áp
dụng biện pháp xử lý hành chính.
11. Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị
xử phạt vi phạm hành chính, người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính,
người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính,
người bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử lý vi phạm
hành chính.
12. Chống đối, trốn tránh, trì hoãn hoặc cản trở chấp hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo
đảm xử lý vi phạm hành chính, quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
* Tại điều 16 Luật XLVPHC năm 2012 quy định trách nhiệm của
người có thẩm quyền trong xử lý VPHC như sau:


17


1. Trong quá trình xử lý vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử lý
vi phạm hành chính phải tuân thủ quy định của luật này và quy định khác của
pháp luật có liên quan.

Lực lượng chức năng xử phạt người vi phạm Luật Giao thông đường bộ
2. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính mà sách nhiễu, đòi,
nhận tiền, tài sản khác của người vi phạm, dung túng, bao che, không xử lý
hoặc xử lý không kịp thời, không đúng tính chất, mức độ vi phạm, không
đúng thẩm quyền hoặc vi phạm quy định khác tại Điều 12 của Luật này và
quy định khác của pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử
lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Điều này được hướng dẫn cụ thể tại Điều 16, Nghị định 81/2013/NĐ-CP:
“Điều 18. Trách nhiệm của người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính khi thi hành công vụ

18


1. Khi tiến hành xử phạt vi phạm hành chính hoặc xem xét quyết định
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, người có thẩm quyền phải:
a) Có lệnh thi hành công vụ, mặc trang phục, sắc phục, phù hiệu của
ngành theo quy định;
b) Xử lý kịp thời, đúng tính chất, mức độ vi phạm, đúng quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, điều lệnh, điều lệ, quy chế của từng
ngành;
c) Có thái độ hòa nhã, nghiêm túc, không gây phiền hà, sách nhiễu, đòi,
nhận tiền, tài sản khác của người vi phạm hoặc dung túng, bao che người vi

phạm; không được vi phạm các điều cấm.
2. Người có hành vi vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều này hoặc vi
phạm quy định về những hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 12 Luật xử lý vi
phạm hành chính hoặc vi phạm quy định khác của pháp luật, thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự; nếu gây thiệt hại phải bồi hoàn theo quy định của pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của nhà nước.”
Câu 3: Luật XLVPHC năm 2012 quy định như thế nào về thời hiệu
xử phạt VPHC, thời hạn ban hành quyết định xử phạt VPHC? Cách tính
thời gian, thời hạn, thời hiệu trong xử lý VPHC?
Trả lời:
* Tại điều 6 Luật XLVPHC năm 2012 quy định về thời hiệu xử phạt
VPHC như sau:
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định:
a) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp
sau:
Vi phạm hành chính về kế toán; thủ tục thuế; phí, lệ phí; kinh doanh bảo
hiểm; quản lý giá; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; xây dựng; bảo vệ nguồn lợi
thuỷ sản, hải sản; quản lý rừng, lâm sản; điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai
thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại
19


khoáng sản khác; bảo vệ môi trường; năng lượng nguyên tử; quản lý, phát
triển nhà và công sở; đất đai; đê điều; báo chí; xuất bản; sản xuất, xuất khẩu,
nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa; sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả;
quản lý lao động ngoài nước thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02
năm.
Vi phạm hành chính là hành vi trốn thuế, gian lận thuế, nộp chậm tiền
thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo

quy định của pháp luật về thuế;
b) Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại
điểm a khoản 1 Điều này được quy định như sau:
Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời
điểm chấm dứt hành vi vi phạm.
Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính
từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm;
c) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân do cơ quan
tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời hiệu được áp dụng theo quy định tại
điểm a và điểm b khoản này. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem
xét được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
d) Trong thời hạn được quy định tại điểm a và điểm b khoản này mà cá
nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi
phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh,
cản trở việc xử phạt.
2. Thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính được quy định như sau:
a) Thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là 01
năm, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều
90; 06 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại
khoản 2 Điều 90 hoặc kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong những
hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 90; 03 tháng, kể từ

20


ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 90 của
Luật này;
b) Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là 01 năm, kể
từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều 92; 06 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại

khoản 3 Điều 92 hoặc kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong những
hành vi vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 92 của Luật này;
c) Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là 01
năm, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong các hành vi vi phạm
quy định tại khoản 1 Điều 94 của Luật này;
d) Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03
tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối hành vi vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 96 của Luật này.
- Nội dung hướng dẫn điểm a, khoản 2, điều 6 được quy định rõ ở
khoản 2 điều 4 Nghị định 111/2013/NĐ-CP:
“ Đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn quy định
tại Điều 90 Luật xử lý vi phạm hành chính và thời hiệu áp dụng quy định
tại Điểm a Khoản 2 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính đối với các đối
tượng này được xác định như sau:
a) Đối tượng là người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có
dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình
sự, thì thời hiệu là 01 năm, kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm;
b) Đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi
có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình
sự, thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm;
c) Đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong 06 tháng đã ít
nhất hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh
bạc, gây rối trật tự công cộng, thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày thực hiện

21


lần cuối một trong những hành vi vi phạm hành chính nêu trên bị xử phạt vi
phạm hành chính theo quy định;
d) Đối tượng là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú

ổn định, thì thời hiệu là 03 tháng, kể từ ngày đối tượng có hành vi sử dụng ma
túy bị phát hiện;
đ) Đối tượng là người từ đủ 18 tuổi trở lên, trong 06 tháng đã ít nhất hai
lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm tài sản của cơ quan,
tổ chức; tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân hoặc người nước
ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội, thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày
thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm hành chính nêu trên bị xử
phạt vi phạm hành chính theo quy định.
3. Không áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với
người nước ngoài.
4. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 03
tháng đến 06 tháng, tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân,
tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng của người vi phạm.”
Sửa đổi bởi Khoản 1, Điều 1, Nghị định 56/2016/NĐ-CP:
“1. Sửa đổi, bổ sung các điểm c, d và đ khoản 2 Điều 4 như sau:
c) Đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong thời hạn 06
tháng đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi trộm
cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà lại tiếp tục thực hiện một
trong các hành vi vi phạm nêu trên đến lần thứ ba nhưng chưa đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự và đã bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi
phạm này, thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày thực hiện lần cuối một trong
những hành vi vi phạm hành chính nêu trên;
d) Đối tượng là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú
ổn định, thì thời hiệu là 03 tháng, kể từ ngày đối tượng có hành vi sử dụng ma
túy bị phát hiện.

22


Người nghiện ma túy đang tham gia chương trình cai nghiện tự nguyện

tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc tham gia chương trình điều trị nghiện các
chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật mà bị
phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy thì cũng bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn. Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn đối với đối tượng này được tiến hành đồng thời với việc cai nghiện tự
nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc điều trị nghiện các chất dạng thuốc
phiện bằng thuốc thay thế;
đ) Đối tượng là người từ đủ 18 tuổi trở lên, trong thời hạn 06 tháng đã
hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi xâm phạm tài
sản của cơ quan, tổ chức; tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân
hoặc người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội mà lại tiếp tục thực
hiện một trong các hành vi vi phạm nêu trên đến lần thứ ba nhưng chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị lập biên bản vi phạm hành chính
đối với lần vi phạm này, thì thời hiệu là 06 tháng, kể từ ngày thực hiện lần
cuối một trong những hành vi vi phạm hành chính nêu trên.”
* Tại điều 66 Luật XLVPHC năm 2012 quy định về thời hạn ban
hành quyết định xử phạt VPHC như sau:
1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi
phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc
trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này thì thời hạn ra quyết
định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và
thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều
61 của Luật này mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì
người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực
23



tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản,
thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày.
2. Quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này hoặc khoản 3 Điều 63 của
Luật này, người có thẩm quyền xử phạt không ra quyết định xử phạt nhưng
vẫn quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1
Điều 28 của Luật này, quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc
tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành.
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nếu có lỗi trong việc
để quá thời hạn mà không ra quyết định xử phạt thì bị xử lý theo quy định của
pháp luật.
- Ở Khoản 1 điều này thì thủ trưởng trực tiếp của người có thẩm quyền
đang giải quyết vụ việc được hướng dẫn bởi Khoản 13, Điều 1, Nghị định
97/2017/NĐ-CP: “ Thủ trưởng trực tiếp của người có thẩm quyền đang giải
quyết vụ việc theo quy định tại các Điều 66, 77, 125 và 128 Luật xử lý vi
phạm hành chính là cấp trên trực tiếp trong quan hệ hành chính đối với người
đang giải quyết vụ việc.”
* Tại điều 8 Luật XLVPHC năm 2012 quy định rõ cách tính thời gian,
thời hạn, thời hiệu trong xử lý VPHC như sau:
1. Cách tính thời hạn, thời hiệu trong xử lý vi phạm hành chính được áp
dụng theo quy định của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp trong Luật này có quy
định cụ thể thời gian theo ngày làm việc.
+ Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định cụ thể về cách tính thời hạn tại điều
145, điều 146, điều 147
+ Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định cụ thể về cách tính thời hạn tại điều
151
Thời hạn
- Khi thời hạn được xác định
bằng phút, giờ thì thời hạn

24


Thời hiệu


×