Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

KHUYNH HƯỚNG NHẠI TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.07 KB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

KHUYNH HƯỚNG NHẠI TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP

Thuộc nhóm ngành khoa học: Văn học Việt Nam

Sơn La, tháng 05 năm 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

KHUYNH HƯỚNG NHẠI TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP

Thuộc nhóm ngành khoa học: Văn học Việt Nam

Sinh viên thực hiện: Võ Thị Hồng Hạnh Giới tính: Nữ
Dân tộc: Kinh
Lê Việt Hưng
Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh
Lớp K55 - ĐHSP Ngữ văn
Khoa: Ngữ văn
Năm thứ 3/ Số năm đào tạo: 4
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn


Sinh viên chịu trách nhiệm chính: Võ Thị Hồng Hạnh
Người hướng dẫn: TS. Ngô Thị Phượng

Sơn La, tháng 05 năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn
tới các Thầy cô trong khoa Ngữ văn, thầy cô ở Trung tâm Thông tin thư viện, Phòng
Khoa học và Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Tây Bắc đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho
chúng tôi trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài.
Đặc biệt, chúng tôi xin cảm ơn TS. Ngô Thị Phượng, cô giáo đã hết lòng chỉ
dẫn cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài.
Do năng lực nghiên cứu và thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi nhiều
thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến từ quý Thầy cô và
các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2017
Nhóm đề tài
Võ Thị Hồng Hạnh
Lê Việt Hưng


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1

Lí do chọn đề tài


1.1. Trong nền văn học Việt Nam sau năm 1975, Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn
xuất hiện muộn trong văn đàn Việt Nam (năm 1987). Nhưng sau hơn hai mươi năm
trình làng, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã khiến thế giới dư luận trong và ngoài nước
tốn không biết bao nhiêu giấy mực, người khen, người chê, người say đắm, kẻ hững
hờ. Tác giả Nguyễn Văn Thọ từng nhận xét: "Cứ ngẫm lại mà xem, văn học nước ta,
giai đoạn từ 1985 tới 1996 có ai hơn Nguyễn Huy Thiệp về thể tài truyện ngắn? Ông
ấy xuất hiện như vệt sét đầu thời đổi mới”, “Tướng về hưu - Vừa là vé vào cửa vừa là
vương miện”, những tác phẩm sau Tướng về hưu của Thiệp mới thực sự mang dấu ấn
riêng, làm mới mẻ bộ mặt văn chương nước nhà. Một mâm cỗ thịnh soạn đấy chứ, vì
cho tới hôm nay, có ăn lại vẫn ngào ngạt hương vị. Văn chương cũng giống như món
ăn. Thứ tưởng sơn hào hải vị, hôm sau thấy nhạt hoét, ấy là thứ sơn hào hải vị rởm.
Tôi nghĩ, có người kính nể ông Thiệp, vì bản thân ông ấy tự làm ra một thương hiệu
văn chương của thời kỳ đầu Đổi mới”.[29]
Văn Nguyễn Huy Thiệp khiến kẻ yêu và người ghét. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Hoàng Đức cho rằng, văn ông cũng chỉ từa tựa lối văn hiện thực phê phán, không hơn
không kém. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thúy Ái thì cho rằng: “viết như thế cũng là một
cách bắn súng lục vào quá khứ” [18;203]. Qua đó cho chúng ta thấy, Nguyễn Huy
Thiệp là một tác giả gây nhiều tranh cãi nhất trong nền văn học Việt Nam ở giai đoạn
này. Sự phức tạp trong đánh giá Nguyễn Huy Thiệp là lí do chúng tôi chọn đề tài
"Khuynh hướng nhại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp".
1.2. Ở bậc Đại học, trong chương trình đào tạo Cử nhân Sư phạm ngữ văn, từ 4
năm qua, học phần Văn học Việt Nam sau 1975 đến nay được chính thức đưa vào
giảng dạy. Việc đưa học phần vào giảng dạy cho sinh viên là điều thiết yếu. Nguyễn
Huy Thiệp là tác giả được đưa vào giới thiệu, giảng dạy trong chương trình văn học
sau 1975. Vì chương trình thực hiện chưa lâu nên với sinh viên Ngữ văn của nhà
trường thì đây vẫn là lĩnh vực còn nhiều mới mẻ và đòi hỏi cần có thời gian tìm tòi,
nghiên cứu.
Xuất phát từ nhu cầu học hỏi, chúng tôi mong muốn tìm hiểu đề tài này nhằm
tăng cường vốn hiểu biết về tác giả cũng như về văn học sau 1975. Đồng thời, chúng

tôi cũng hi vọng, đề tài hoàn thiện sẽ giúp cho các bạn sinh viên khoa Ngữ văn, trường
Đại học Tây Bắc có thêm nguồn tư liệu tìm hiểu về Nguyễn Huy Thiệp, phục vụ quá
trình học tập.
5


2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng phức tạp
Xuất hiện trong bối cảnh của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nguyễn
Huy Thiệp là một hiện tượng lạ, độc đáo, hiếm có. Vì vậy những sáng tác của ông đã
gây nên “cơn sốt” trong dư luận. Đánh giá về “cơn sốt” này Phạm Xuân Nguyên nhận
xét: “Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là người đầu tiên trong văn học Việt Nam lập kỷ lục có
nhiều bài viết nhất về sáng tác của mình, chỉ trong một thời gian ngắn và không có độ
lùi thời gian. Phê bình tức thời theo sáng tác liên tục lâu dài. Không chỉ trong nước cả
ngoài nước; không chỉ người việt cả người ngoại quốc” [18;7]; Đỗ Đức Hiểu cũng có
ý kiến tương tự, cho rằng, Nguyễn Huy Thiệp là “... người tái tạo truyện ngắn ở Việt
Nam này, ở nửa sau thế kỷ XX. Cái tôi ấy đứng dậy, đau khổ, cô đơn, đầy khát vọng.
Cái tôi ấy gieo bão táp trong văn chương Việt Nam lúc ấy” [18;472]; Năm 1987,
Nguyễn Hải Hà - Nguyễn Thị Bình cũng hào hứng: “có thể nói Nguyễn Huy Thiệp
mới thật là mới, là độc đáo, chỉ mình anh cũng đủ tạo nên một đời sống văn học sôi
động kéo dài mấy năm trời và còn nóng bỏng đến tận ngày hôm nay” . Hai tác giả này
còn đưa ra thống kê “từ khoảng giữa năm 1987 đến giữa năm 1989 đã có trên 70 bài
viết về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp”. Năm 2001, Phạm Xuân Nguyên, trong một
công trình tuyển chọn công phu nghiêm túc và có hệ thống mang tên Đi tìm Nguyễn
Huy Thiệp đã tổng hợp được 54 bài viết khá tiêu biểu cũng thông báo: “Những bài viết
tập hợp trong sách này ước tính mới chỉ là một phần ba số bài viết đã đăng trên các
báo chí khắp nơi về tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp gần 15 năm qua. Đây còn là
chưa kể một số lượng các luận văn đại học và sau đại học trực tiếp lấy sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu, hoặc dành cho ông một số trang quan trọng
khi chọn khảo sát một phương diện, một thể loại nào đó của văn học Việt Nam thời

gian qua”. Tuy nhiên nhìn bao quát ta thấy một nét khá rõ là Nguyễn Huy Thiệp sáng
tác chủ yếu theo ba mảng đề tài chính: đề tài sinh hoạt, đề tài lịch sử - nhân vật và
chùm “truyện dân gian”.
2.2. Trong văn học đổi mới, yếu tố giễu nhại đã xuất hiện trở lại. Cùng với đó,
nhiều công trình nghiên cứu văn học đã chỉ ra ý nghĩa của yếu tố giễu nhại đối với một
giai đoạn văn học mới. PGS.TS Nguyễn Thị Bình là người đầu tiên có công trình
nghiên cứu quy mô về những đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 với phát hiện
cảm hứng giễu nhại chính là một trong những đặc điểm nổi bật trong giai đoạn văn học
này. Với luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn “Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật
Việt Nam sau 1975” (1996), tác giả đã đưa ra nhận xét: “ở các nhà văn trẻ, nổi bật lên
là giọng giễu nhại...”, “họ đưa vào văn chương cái nhìn suồng sã, không quan trọng
6


hóa cái gì, có khi cực đoan đến mức không coi cái gì là quan trọng” [4;117]. Qua nhận
định trên tác giả của luận án đã đánh giá đặc điểm nổi bật của văn học đương đại Việt
Nam với sự trở lại của yếu tố giễu nhại. Nhà nghiên cứu Lã Nguyên trong bài viết
“Nhìn lại những bước đi, lắng nghe những tiếng nói” đã khẳng định đặc điểm nổi bật
của văn học sau 1975 với: “Giọng lu loa sừng sộ, tiếng gầm gào cuộn réo trong văn
học thời kì đổi mới không thể cất lên thành tiếng hát. Cái vô lí, cái phi lí, chất văn xuôi
và vẻ đẹp của đời sống phồn tạp chỉ có thể hóa thân vào tiếng cười trào tiếu, giễu nhại
để văn học thế sự biến thành tiếng nói nghệ thuật. Hình như giễu nhại đã trở thành
kiểu quan hệ đời sống mang phong cách thời đại...” [4;117].
2.3. Nghiên cứu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy, có một số nhận định trực
tiếp về giọng điệu giễu nhại của Nguyễn Huy Thiệp, và dường như, tất cả các ý kiến
đều nhận định rằng, trong những khuynh hướng làm nên thành công về mặt bút pháp
của Nguyễn Huy Thiệp là giễu nhại.
Trong giễu nhại, bao giờ nhà văn cũng phải dựa vào tiền đề có trước, Nguyễn
Huy Thiệp, ở nhiều tác phẩm đã dựa vào tiền đề lịch sử. Không đồng tình với cách
thức mượn lịch sử để giễu nhại, năm 1989, nhà phê bình văn học Nguyễn Văn Lưu

viết: “Phàm là việc vay mượn bao giờ cũng phải đứng đắn. Không thể mượn nhiều trả
ít, mượn đồ tốt trả đồ xấu, khi mượn hứa làm đồ thờ cúng nhưng về lại đem kê giường
lót chiếu. Sự vay mượn của Nguyễn Huy Thiệp không nghiêm túc, thậm chí quá trớn,
đối đãi với lịch sử như một trò đùa tếu” [18;307]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình,
khi thẩm bình về “Sự đa dạng về giọng điệu” có nhận xét chung: “Văn xuôi từ sau
1975, đặc biệt từ thời điểm đổi mới chủ yếu diễn đạt kinh nghiệm cá nhân, đáp ứng sự
đòi hỏi cao về giá trị các nhân. Ý thức cá tính lên ngôi, cái công thức, nhàn tẻ, đơn
điệu bị chế giễu, bị coi là thiếu thẩm mĩ. Rất dễ nhận ra giọng chế giễu dành cho
những gì phi cá tính” [4;118], “Nguyễn Huy Thiệp viết: “Tôi ngồi viết truyện ngắn
này, căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy... Còn tôi, tôi có cách kết thúc khác
(Truyện Trương Chi)". Như vậy, tác giả cho rằng, giọng điệu chế giễu hay giễu nhại là
đặc điểm chung của văn xuôi thời kì này, trong đó có tác giả Nguyễn Huy Thiệp
[4;117].
Ở bài viết Tinh thần hoài nghi trong một số truyện ngắn viết về đề tài lịch sử
của Nguyễn Huy Thiệp, đăng tải 17/1/2013, cập nhật 24/3/2016 trang mạng Đại học
Duy Tân, nhà nghiên cứu Hoàng Thị Hường viết: “Nguyễn Huy Thiệp cho người đọc
một cái nhìn mới về những niềm tin cũ, vào cái vẹn toàn. Ông giễu nhại sự cả tin. Bởi
con người là hữu hạn. Bởi con người là bất toàn. Dù là anh hùng. Dù là đế vương.
Nhân vật anh hùng của Nguyễn Huy Thiệp đòi hỏi người ta phải xem lại cách nhận
7


thức lịch sử, nhận thức cuộc đời”. Như vậy, Hoàng Thị Hường cho rằng, giễu nhại thể
hiện tinh thần hoài nghi, để giải thiêng, nhằm phản tỉnh và xác lập những giá trị mới.
Trong Chương 14, cuốn Văn học hậu hiện đại, lí thuyết và tiếp nhận, nhà
nghiên cứu Lê Huy Bắc nhận xét khái quát: “Yếu tố nhại trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp thật phong phú. Ông đã tạo được dấu ấn của riêng mình ở lĩnh vực này. Đặc
biệt lối nhại của Nguyễn Huy Thiệp ít khi gắn với tiếng cười. Mà nếu có thì tiếng cười
thực sự bi đát... Không có sự hả hê trong tiếng cười bởi những nhận xét cay nghiệt,
chua xót trực tiếp trong đối thoại của hai nhân vật. Đấy chính là phong cách nhại của

Nguyễn Huy Thiệp” [2;203]. Nhận định của Lê Huy Bắc đã chú ý đến phong cách
nhại của riêng Nguyễn Huy Thiệp so với cách nhại của các nhà văn khác.
Nguyễn Văn Thuấn trong cuốn Thế hệ nhà văn sau 1975 – Diện mạo và thành
tựu có viết: “Trong văn học thời kì đổi mới đến nay, các tác giả văn xuôi như nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài đã có ý thức sử dụng giễu nhại trong sáng tác... Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài không chỉ là người mở đường mà còn là hai trong số
những nhà văn tiêu biểu nhất của nghệ thuật giễu nhại” [19;425]. Nguyễn Huy Thiệp
cũng được coi là người mở đường xuất sắc.
Như vậy, qua khảo sát người viết nhận thấy chưa có công trình nào đi sâu tìm
hiểu yếu tố giễu nhại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp một cách cụ thể. Đặc biệt,
trong phạm vi đào tạo nhà trường Đại học Tây Bắc cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu
về vấn đề này. Đó là lí do chúng tôi triển khai đề tài: "Khuynh hướng nhại trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp".
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là yếu tố nhại trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về tài liệu sử dụng, đề tài này chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu trong tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp gồm 42 truyện ngắn, số lượng 611 trang, do NXB Văn
hóa Sài Gòn ấn hành, năm 2006.
Đề tài này của chúng tôi chỉ nghiên cứu xoay quanh vấn đề khuynh hướng nhại
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, còn các vấn đề khác đề tài không đề cập đến.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tới làm sáng rõ khuynh hướng Nhại trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp .
Đi sâu tìm hiểu vấn đề nhằm phục vụ cho công việc học tập nghiên cứu của
8



sinh viên chuyên ngành Ngữ văn , đóng góp vào công việc xây dựng những tài liệu
học tập có ích cho công việc giảng dạy và học tập trong nhà trường.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thống kê, phân loại các yếu tố nhại trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Phân tích các yếu tố nhại, chỉ ra biểu hiện và khẳng định những cống hiến đặc
sắc của Nguyễn Huy Thiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê phân loại
Thống kê, phân loại là thao tác đầu tiên để chúng tôi xử lí đề tài này.
Dựa vào kết quả khảo sát, thống kê, phân loại dữ liệu cần thiết, cụ thể chúng tôi
phân tích và tìm ra các biểu hiện của khuynh hướng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Đây là phương pháp cần thiết để nghiên cứu tác giả tác phẩm và môi trường
sáng tác của tác giả cũng như lịch sử nghiên cứu vấn đề của các nhà phê bình.
5.3. Phương pháp phân tích tác phẩm
Dựa trên cơ sở những tài liệu thu thập được từ những tác giả đã nghiên cứu về
Nguyễn Huy Thiệp từ đó chúng tôi đi sâu vào phân tích những tài liệu đó nhằm làm
nổi bật nên những vấn đề chính trong đề tài này.
5.4. Phương pháp so sánh
Qua việc khảo sát tài liệu, chúng tôi tiến hành so sánh khuynh hướng nhại trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp với một số tác giả khác liên quan nhằm chỉ ra sự khác
biệt giữa Nguyễn Huy Thiệp và các tác giả khác khi cùng sử dụng thủ pháp này.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài trước hết phục vụ nhóm nghiên cứu đề tài tích lũy thêm kiến thức cần có
trong quá trình học tập chuyên ngành Ngữ văn.
Sau khi hoàn thiện, chúng tôi hy vọng nó có thể giúp đỡ cho các sinh viên cùng
chuyên ngành Ngữ văn có thêm tư liệu tham khảo khi học tác giả Nguyễn Huy Thiệp.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài được chia thành ba
chương :

Chương 1: Khuynh hướng nhại và tác giả Nguyễn Huy Thiệp
Chương 2: Biểu hiện và ý nghĩa khuynh hướng nhại trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện khuynh hướng nhại trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp.
9


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
KHUYNH HƯỚNG NHẠI VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN HUY THIỆP
1.1. Khuynh hướng nhại
Theo Từ điển Tiếng Việt, "nhại" có nghĩa là "bắt chước tiếng nói hay điệu bộ
của người khác để trêu chọc, giễu cợt "hoặc" bắt chước, phỏng theo lời bài thơ có sẵn
để làm bài mới, thường để giễu cợt, châm biếm" [21;681]. Các tác giả cho rằng ý
nghĩa của nhại là để chế giễu.
Thuật ngữ "nhại" gắn liền với "giễu nhại" (tiếng Anh: parody, tiếng Pháp:
parodie) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ paroidia. Khi phân tách nghĩa của từ, các
nhà ngôn ngữ chú ý tới tiền tố para (nghĩa là ngược lại, dựa vào) và danh từ ode
(nghĩa là bài hát). Từ đó, "giễu nhại" được hiểu là một bài hát dựa vào hoặc sinh ra từ
bài hát gốc, nhưng tương phản, trái ngược hoặc song song tồn tại với bài hát gốc.
Nhà nghiên cứu Henri Benac trong công trình Dẫn giải ý tưởng văn chương cho
rằng "nhại là bắt chước một người hay một tác phẩm nghệ thuật, nổi tiếng hay một tác
phẩm nghệ thuật, nổi tiếng hay nghiêm túc, mục đích đạt tới là gây hứng thú cho người
xem hay trào lộng nhạo báng" [8;623].
Nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc cho rằng: "Trong văn học, nhại là hình thức phê
bình châm biếm hoặc là hình thức chế giễu khôi hài bằng cách bắt chước phong cách
(style) và bút pháp (manner) của một nhà văn hoặc một nhóm các nhà văn đặc biệt để
nhấn mạnh đến sự non yếu của nhà văn ấy hoặc những quy luật bị lạm dụng bởi
trường phái ấy" [2;82] và ông chú thích thêm: "Nhại khác với chế giễu ở độ sâu từ sự

xâm nhập kĩ thuật của nó và bởi độ sâu từ sự bôi bác, được dùng để xử lí những vấn đề
được đề cao trong bút pháp tầm thường".
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài cố gắng làm rõ một số khái niệm có tính
chất công cụ như nhại, văn học nhại, giễu, giễu nhại, cái hài, châm biếm, trào phúng...
trên cơ sở đối chiếu để tìm ra sự tương đồng và khác biệt của khái niệm này.
Đặc điểm của nhại là sự mô phỏng, hùa theo, bắt chước đối tượng nhại hoặc
một đặc điểm nào đó của đối tượng nhại để làm nổi bật nên cái đáng cười, đáng phê
phán, chế giễu. Nhại gắn liền với bắt chước, mô phỏng âm thanh, dáng hình, cử chỉ
điệu bộ, phong cách của đối tượng nhại...
Văn học nhại là kiểu sáng tác văn học phổ biến trong thời kì hậu hiện đại khi ý
thức về cái tôi cá nhân đã trở thành một giá trị để nhìn nhận trình độ văn minh của
xã hội. Văn học nhại thường gắn liền với tiếng cười nhằm tống tiễn cái xấu, cái ác
và chào đón cái thiện, cái tốt đẹp: tiếng cười của văn học nhại luôn có tác dụng
thanh lọc tâm hồn: cảnh tỉnh, định hướng suy nghĩ và hành động của con người.
Rất gần với nhại, trong văn học còn có giễu. Thuật ngữ này chủ yếu được các
nhà lý luận, phê bình văn học Việt Nam sử dụng trong các công trình nghiên cứu
gần đây. Khái niệm này được sử dụng song hành với nhại một cách khá phổ biến
trong nghiên cứu các tác phẩm văn học chứa đựng yếu tố hài hước, trào lộng, châm
10


biếm... Tuy nhiên nội hàm của khái niệm này lại chưa được nghiên cứu một cách
thấu đáo kể cả những công trình mang tính chất công cụ như Từ điển thuật ngữ văn
học.
Giễu nhại được sử dụng khá phổ biến trong nghiên cứu, phê bình văn học sau
1975. Giễu nhại vừa là sự nhắc lại, mô phỏng, bắt chước một lời nói, một cử chỉ
hay một phong cách, giọng điệu của đối tượng nhại nhằm làm bật lên cái đáng cười,
cái tầm thường, xấu xa, kệch cỡm đáng phê phán của chúng. Trong giễu nhại luôn
có sự bắt chước, mô phỏng các đặc điểm của đối tượng giễu nhại nhằm tạo ra sự đối
lập giữa bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức, bên trong và bên ngoài...

hướng người đọc đến nhận thức cái khiếm khuyết, cái lỗi thời, lạc hậu, phản tiến bộ
của đời sống xã hội và trong bản thân con người để cùng nhau nhận thức lại, hoàn
thiện bản thân và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Điểm khác biệt chủ yếu của giễu nhại với
các khái niệm khác là ở độ sâu của sự xâm nhập vào đối tượng giễu nhại, tức là sự
giễu nhại có thể có ở tất cả các cấp độ trong chỉnh thể tác phẩm từ cảm hứng chủ đạo,
nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Giễu nhại thường tạo ra “độ mờ hóa” cao
sự kiện, hình tượng nên nó thường đòi hỏi ở người đọc và cả người sáng tác một tầm
trí tuệ cao, một nền tảng kiến thức văn hóa đủ rộng và sâu sắc mới có cơ sở để suy
luận, liên hệ, khái quát nên những giá trị của giễu nhại.
Cảm hứng giễu nhại trong văn học là trạng thái tình cảm phê phán ở mức độ
mãnh liệt xuyên suốt tác phẩm được lồng trong những phương thức biểu hiện có tính
chất hài hước, trào lộng, gợi lại, vẽ lại, bắt chước đối tượng giễu nhại để làm bật lên
tiếng cười nhằm tác động mạnh mẽ đến nhận thức và tình cảm của chủ thể tiếp nhận.
Nó trở thành một yếu tố của nội dung nghệ thuật, của thái độ, tư tưởng và cảm xúc phê
phán của người nghệ sĩ: có quan hệ thống nhất với chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
Như vậy, các nghiên cứu đều cho rằng, nhại đi liền với chế giễu, do đó, nhại
còn có thể diễn đạt là giễu nhại. Giễu nhại trong văn học xuất hiện khá sớm. Giễu nhại
thường đi kèm giễu cợt, thậm chí châm biếm trong kịch của Molìere, ở Rabelais và
Beaumarchais. Có khi bắt chước nhại sử dụng một tác phẩm trái ngược, chẳng hạn
cuốn Virgile giả trang giễu cợt một hình mẫu tôn kính của thời Cổ đại L' Enesdie...
Lợi ích của văn nhại trước hết là mua vui cho người đọc và khêu gợi sự tán
đồng của tác giả, tôn giá trị tính tất yếu của các thủ pháp văn học, làm đảo lộn các giả
dối, những điều bịp bợm, sự nổi loạn của lương tri và tinh thần phê phán chống sự giả
mạo.
Khuynh hướng nhại là kiểu sáng tác văn học phổ biến trong thời kì hậu hiện
đại khi ý thức về cái tôi cá nhân đã trở thành một giá trị để nhìn nhận trình độ văn
minh của xã hội. Tiếng cười của văn học nhại luôn có tác dụng thanh lọc tâm hồn:
cảnh tỉnh, định hướng suy nghĩ và hành động của con người. Rất gần với nhại, trong
văn học còn có giễu. Thuật ngữ này chủ yếu được các nhà lý luận, phê bình văn học
Việt Nam sử dụng song hành với nhại một cách khá phổ biến trong nghiên cứu các tác

phẩm văn học chứa đựng yếu tố hài hước, trào lộng, châm biếm...
11


1.2. Khuynh hướng nhại trong văn xuôi từ 1900 đến nay
1.2.1. Khuynh hướng nhại trong văn xuôi Việt Nam từ 1900 - 1975
Trong văn học Việt Nam trước 1975, giọng điệu này đã xuất hiện trong các tác
phẩm của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan...
Đối tượng nhại trong sáng tác của các tác giả này khá phong phú. Những kiểu
ăn bẩn của bọn tham quan, thói học đòi nhố nhăng của bọn trọc phú, những kẻ cậy
giàu sang, quyền thế bắt nạt người nghèo, “xã hội văn minh nhưng chó đểu”... thường
là đối tượng phê phán và giọng điệu giễu nhại đóng vai trò chủ âm trong các sáng tác
đó. Cuộc đời được cảm nhận và được tái hiện như một sân khấu hài kịch, một canh bạc
bắt đầu những chuyện vô lý, con người tham lam, vô nhân tính, biến chất... bằng giọng
điệu giễu cợt, đả phá, phẫn uất, châm biếm, giễu nhại. Trong số đó, tiêu biểu nhất phải
kể tới là tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, các truyện ngắn: Đồng hào có ma; Cô
Kếu, gái tân thời,... của Nguyễn Công Hoan đều là những trang viết mang đậm giấu ấn
giễu nhại ấy. Trong tác phẩm Đồng hào có ma tác giả giễu nhại giá trị của đồng tiền,
khắc họa nổi bật tính cách bọn quan lại chuyên ăn hối lộ, chuyên đục khoét, chuyên ăn
bẩn,... Một trong những viên quan mà ông miêu tả là Huyện Hinh trong truyện ngắn
này. Hay như trong tác phẩm Cô Kếu, gái tân thời giễu nhại hình ảnh một cô Kếu học
đòi lối ăn mặc, cung cách đi lại theo lối “văn minh” Tây hóa, không theo nề nếp gia
phong. Một cô Kếu hận cha mẹ đặt cho một cái tên xấu suốt ngày bị chúng bạn đem ra
làm trò giễu cợt, nhiều lần bực quá, cô Kếu thề quyết đổi tên Kếu thành Bạch Nhạn
cho xứng với những cô Bích Ngọc, Song Khuê, Minh Nguyệt trên cùng phố Hàng
Đào. Sau khi đổi được tên nhưng cô không đổi được cách ăn mặc lỗi thời, cổ hủ mà
mẹ cô ép cô phải mặc để giữ nề nếp gia phong. Nhìn chúng bạn thi nhau diện đồ tân
thời, cô hậm hực, cô ghen: "Sao trời đã sinh ra cô là con gái; con gái phố Hàng Đào;
con gái phố Hàng Đào có nhan sắc của một nhà giàu; đương thì đào tơ mơn mởn, mà
không được sinh trưởng vào một gia đình được ăn mặc tự do, để được xứng đáng với

từng ấy cái mà cô được hơn người. Trong truyện giễu nhại hình ảnh một cô gái đua đòi
theo lối sống tân thời, cách tân mà bỏ đi những giá trị truyền thống sẵn có là kiểu nhân
vật phổ biến thời kì này. Ngoài nhân vật cô Kếu, chúng ta còn bắt gặp giọng điệu đó
trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng qua nhân vật cô Tuyết hoặc tuyên ngôn của tiệm may
Âu hóa...
Tới giai đoạn văn học 1945 -1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
được coi là chủ đạo. Đây là nền văn học phục vụ cho công cuộc cách mạng. Lúc này,
văn học là vũ khí đấu tranh làm nhiệm vụ chiến đấu, hướng tới mục tiêu tất cả cho
chiến thắng. Đấy là giai đoạn bão táp nhất của lịch sử dân tộc, vì thế văn học cũng sôi
nổi và hào hùng hơn bao giờ hết. Tất cả những vụn vặt của đời sống bình thường đều
bị gác lại, văn học hướng đến mục đích chung của Tổ quốc, theo sát từng nhiệm vụ
chính trị của đất nước: ca ngợi cách mạng và cuộc sống mới, cổ vũ kháng chiến, ngợi
ca thành tựu khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cổ vũ cuộc đấu
tranh giải phóng ở miền Nam, thống nhất đất nước. Giai đoạn này, nhân vật trung tâm
12


của văn học là những người có sự kết tinh các phẩm chất cao quý của cộng đồng, gắn
bó số phận mình với số phận đất nước. Đó là những người anh hùng đại diện cho giai
cấp, cho dân tộc và thời đại. Vì vậy, yếu tố nhại gần như vắng bóng để nhường chỗ cho
khuynh hướng ngợi ca.
1.1.2. Khuynh hướng nhại trong nền văn học Việt Nam sau năm 1975 đến
nay
Bước sang giai đoạn sau 1975, nhu cầu đổi mới đã trở nên vô cùng bức thiết
không chỉ với nền kinh tế đang đòi hỏi được phục hồi khẩn thiết sau chiến tranh mà
còn đối với những lĩnh vực khác liên hệ trực tiếp với kinh tế như văn hóa, xã hội,
chính trị, pháp luật, đạo đức... Đổi mới văn nghệ trong đó có văn học cũng nằm trong
cái tất yếu ấy. Nhu cầu đổi mới đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nhận định:
"Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn
đề có ý nghĩa sống còn, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể

vượt qua khó khăn ..." [27;64]. Trên tinh thần dân chủ của thời đại, quan điểm chỉ đạo
văn nghệ thông thoáng và cởi mở hơn đã "thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học
nghệ thuật nước nhà, mở ra một thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần
đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật" [27;11] cho phép công dân thể hiện chính
kiến, quan điểm của mình về mọi vấn đề trong đời sống xã hội một cách thẳng thắn,
trung thực. Có thể nói, ý thức cá nhân, trách nhiệm cá nhân và tinh thần dân chủ hóa
được đề cao hơn bao giờ hết. Điều này lại càng có ý nghĩa với người nghệ sĩ, nhất là
với giới văn chương - những người có trái tim và ngòi bút giàu nhạy cảm trước cuộc
đời. Bên cạnh đó, bản thân những người nghệ sĩ, đặc biệt là các nhà văn, có đầy đủ tự
tin thể hiện cá tính, phát huy tinh thần dân chủ, nâng cao vai trò cá nhân của mình
trong mối quan hệ với tập thể, cộng đồng. Năng lực của họ gặp gỡ với nhu cầu được
thư giãn, giải tỏa, nhu cầu được đánh giá, được bình phẩm của độc giả về các hiện
tượng đời sống mà văn học phản ánh, thể hiện. Chính vấn đề được thỏa mãn nhu cầu
chính đáng ấy trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã khơi nguồn cho những cảm
hứng phê phán mới mẻ trong những sáng tác của họ. Trên cơ sở đó, tiếng cười và cảm
hứng giễu nhại trở lại xuất sắc hơn, ấn tượng hơn.
Giai đoạn sau 1986, những gợi mở của Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu và Tô Hoài
đã chuẩn bị cho những bước phát triển tiếp theo của cảm hứng giễu nhại. Với những
nhà văn trẻ "thuộc thế hệ thứ tư" như Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài và nhất là
Nguyễn Huy Thiệp thì cảm hứng giễu nhại đã thực sự rõ nét cả trong nội dung tư
tưởng lẫn hình thức nghệ thuật. Các tác giả đã tập trung giễu nhại sự tha hóa và lối
sống thực dụng của con người hiện đại, những bất ổn của cơ chế xã hội, những quan
niệm lệch lạc ấu trĩ của con người, cái lố bịch nảy sinh trong đời sống xã hội. Có thể
nói, hồi sinh mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu của cảm hứng giễu nhại trong
văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới là một thực tế không thể phủ nhận. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Thị Bình đã xác nhận điều này: “Ở các nhà văn trẻ, nổi bật giọng giễu nhại.
Tuổi trẻ nhạy cảm với cái mới và sớm được hít thở làn giá dân chủ lai nhập cuộc hầu
13



như cùng “cơ chế thị trường” năng động, họ công khai chống lại các thứ nguyên tắc
bảo thủ, lỗi thời, các quy phạm, thói trịnh trọng cứng đờ, tính giáo huấn, những quan
hệ xã giao nhiều đạo đức giả, thói gửi thưa khúm núm, những húy kị... tóm lại là
những gì trói buộc cá tính. Họ thích cười đùa hơn là tư lự nghiêm trang. Biến thái của
giọng giễu nhại có lẽ là những sắc thái của Vương Trí Nhàn gọi là “chất cay đắng, tàn
nhẫn” [4;119].
Giai đoạn 1975-1985 đây là giai đoạn khởi động của văn học thời kỳ đổi mới.
Gọi đó là giai đoạn “khởi động” bởi vì, nếu chỉ nhìn ở bề ngoài thì sau ngày 30 tháng 4
năm 1975, đất nước thống nhất, lịch sử Việt Nam chuyển qua một thời đại mới, nhưng
văn học nghệ thuật thì hình như vẫn vận động theo quán tính của văn học thời chiến.
Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn là đề tài cơ bản của nhiều sáng tác văn học.
Các sáng tác ấy vẫn thể hiện nhãn quan giá trị và nguyên tắc tư duy nghệ thuật của nền
văn học sử thi. Nhưng hình như giới sáng tác đã cảm thấy không thể tiếp tục viết văn
như trước. Khoảng thời gian mười năm sau chiến tranh, từ 1975 đến 1985, trong lĩnh
vực sáng tác, khuynh hướng đổi mới chưa trở thành một phong trào rầm rộ. Chưa thấy
xuất hiện những cây bút trẻ có khuynh hướng đổi mới. Những nhà văn đi tiên phong
trong công cuộc đổi mới văn học ở giai đoạn này là Nguyễn Minh Châu, Ma Văn
Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn... Họ là những nhà văn từng sáng tác từ trước
năm 1975.
Giai đoạn 1986-1991, tiếp theo lớp nhà văn đã thành danh như Nguyễn Minh
Châu, Ma Văn Kháng…, người ta thấy nổi lên những cây bút mới rất sung sức, trước
hết là Nguyễn Huy Thiệp. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp thực sự tạo ra bước ngoặt
của văn xuôi sau 1975. Nhưng nói tới văn học thời kì đổi mới, người đọc còn nhớ tới
một loạt tên tuổi như Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Dương Thu Hương, Nguyễn Quang
Lập, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Nhật Tuấn, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Tạ
Duy Anh, Ngô Ngọc Bội, Lê Thị Minh Khuê… Sáng tác của họ đã tạo nên diện mạo
vừa độc đáo, vừa đa dạng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
Xu hướng dân chủ hóa của văn học không chỉ thể hiện ở các quan niệm như đã
nói trên mà đã xâm nhập và được biểu hiện ra trên nhiều bình diện sáng tác, từ hệ đề
tài, các kiểu kết cấu và mô tả chủ đề, cốt truyện, nhân vật cho đến giọng điệu và ngôn

ngữ. Ở đây, chỉ xin nói thêm một chút về giọng điệu, một yếu tố bộc lộ rất rõ xu hướng
dân chủ hóa của văn học từ sau 1975. Ai cũng dễ nhận ra trong nền văn học sử thi của
giai đoạn trước có giọng điệu bao trùm là ngợi ca, trang trọng với những sắc thái hào
hùng, tráng lệ hoặc chữ tình ngọt ngào, thắm thiết. Tính độc thoại cũng là đặc điểm
không thể tránh được trong khuynh hướng sử thi. Khi văn học hướng tới tinh thần dân
chủ, thì tính đơn giọng sẽ dần dần nhường chỗ cho tính đa thanh phức điệu; độc thoại
sẽ chuyển sang đối thoại. Gọng điệu văn chương trở nên đa dạng, từ tỉnh táo, lạnh lùng
đến suy tư, triết luận, xót xa,thương cảm, đặc biệt là có sự trở lại của tiếng cười với
nhiều sắc thái, hài hước, trào lộng, giễu nhại.
Sự chuyển biến ấy có thể nhận ra rất rõ trong các thể loại và nhiều cây bút tiêu
14


biểu, chẳng hạn như các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Mã Văn
Kháng ở hai giai đoạn trước và sau 1975. Trong văn xuôi từ những năm 80, các cây
bút ấy và nhiều người khác, đặc biệt là Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, tính đối
thoại và nguyên tắc đa âm đã thấm sâu vào mọi bình diện của thi pháp truyện, từ cốt
truyện đến nhân vật, người trần thật, kết cấu, và tổ chức ngôn ngữ từ lời chân thật đến
lời đối thoại, cả trong mạch ngầm văn bản.
"Khúc rẽ" của văn học ở giai đoạn này rất rõ nét: Thế hệ nhà văn sau năm 1975,
đặc biệt phần lớn nở rộ, được chú ý từ những năm 1980 trở đi, bởi khi ấy, xuất bản
sách được mở rộng, các góc nhìn về đời sống, con người đã dần thay đổi, sự đón chào
của bạn đọc,... "Trong cuộc cách tân đó, văn xuôi tiên phong. Sau cuộc "bạo động" về
thi pháp của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, thì văn xuôi đã không thể
viết như trước. Cuộc bứt phá đa dạng và liên tục về thi pháp đã được châm ngòi, tiếp
ứng hàng loạt cây bút như Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Sương Nguyệt Minh,... Tuy sau
một chút, nhưng thơ bao giờ cũng hoàn tất cho một cuộc "đảo chính" về thi pháp với
Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn,... Lề
lối kiến tạo thế giới nghệ thuật như tượng trưng, siêu thực, huyền ảo, kinh dị, viễn
tưởng, dã sử, cổ tích, giả cổ tích,... được huy động với các kĩ thuật tự sự hiện đại xâm

nhập vào văn xuôi, kỹ năng trữ tình tân kỳ hấp thụ từ cả Đông lẫn Tây được nhập tịch
vào thơ" - TS. Chu Văn Sơn nhận định. Nhiều thể loại mới bùng nổ, và ngay trong
những thể loại quen thuộc, thì hình thái thể loại cũng hoàn toàn khác trước. Nếu hình
dung lịch sử văn học như cuộc chạy tiếp sức thì đường chạy họ đang dồi dào, dù chặng
này đã xuất hiện khá nhiều gương mặt của lớp kế tiếp.
Theo nhà văn Nguyễn Quang Thiều: Có thể không có những tác giả được vinh
danh thế giới, nhưng thế hệ nhà văn sau 1975 là "khúc rẽ" của văn học Việt Nam. Họ
đã làm nên giọng nói và ngôn ngữ của họ, tương ứng với ngôn ngữ, giọng nói của thời
đại, ở đó hòa bình, kết thúc chiến tranh, con người bắt đầu ngồi suy nghĩ về cá nhân
mình và những con người bé nhỏ bên cạnh mình.
Văn học đã chuyển sang thế giới khác, sâu hơn, rộng hơn, đi sâu vào số phận
con người nhưng cũng chạm đến đại lộ rộng lớn của nghệ thuật muôn thuở. Bàn về
Văn học Việt Nam sau năm 1975 không thể không chăm chú lắng nghe những tiếng
nói nhỏ, nói thầm đang âm vang trong truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyễn Minh
Châu, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Binh Phương, Châu
Diên,... nhập vào thế giới nghệ thuật của những nhà văn này, ta thấy có người nói, kẻ
nghe và có cả những kẻ chăm chú suy ngẫm về tiếng nói của người khác. Nhưng người
đọc hiện nay, không phải ai cũng hứng thú đến với sáng tác của họ. Cũng không thể
không kể đến những sáng tác to lớn của nhóm sáng tác Trần Dần, Lê Đạt, Dương
Tường, Hoàng Hưng. Hồi đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam bắt đầu phát triển
theo hướng hiện đại hóa, Hoài Thanh tâm niệm rằng nghệ thuật là vương quốc của cái
đẹp, văn chương trước hết phải là văn chương. Nhưng rồi gần nửa thế kỉ, hoàn cảnh
lịch sử đã biến nền nghệ thuật dân tộc là nơi bàn luận quốc sự và văn chương thì mải
15


miết ra trận. Phải đến khi đất nước thanh bình, những Trần Dần, Lê Đạt, Dương
Tường, Hoàng Hưng và rất nhiều nhà thơ trẻ khác mới lại dám nghĩ tới việc tìm cách
giải phóng nghệ thuật thoát khỏi những chức năng xã hội thuần túy để mở đường cho
thơ tiến lên phía trước. Nhưng sáng tác của mấy "kẻ phu chữ" (chữ của Lê Đạt), của

những thi sĩ "làm thơ tức là làm chữ", "làm thơ tức là làm Tiếng Việt" (ý của Trần
Dần), xem ra, chưa thể lôi cuốn sự chú ý của đông đảo người đọc.
Yếu tố nhại là một cảm hứng nổi bật của Văn học Việt Nam sau 1975.
1.3. Nguyễn Huy Thiệp
1.3.1. Cuộc đời Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950, là nhà văn đương đại Việt
Nam trong địa hạt kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết với những góc nhìn mới, táo bạo.
Nguyễn Huy Thiệp quê huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Thuở nhỏ ông
cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú
Thọ, Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên,... Năm 1960, ông cùng gia đình về quê quán và định cư ở
xóm Cò, làng Khương Hạ (nay là phường Khương Đình, quận Thanh Xuân), Hà Nội,
tiếp tục công việc trồng cấy. Vì vậy, xuất hiện trong tác phẩm khá nhiều những đoạn
văn mang dấu ấn này: "Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn" (Truyện
Những bài học nông thôn)
Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng của giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn là
người am hiểu Nho học và ảnh hưởng từ mẹ, vốn là người sùng đạo Phật. Văn chương
ông tỏ ra am tường hai tôn giáo này.
Năm 1970, ông tốt nghiệp Khoa Sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Vì bố
ông có làm việc với Pháp, cho nên lý lịch ông vì vậy bị xếp vào loại "không sạch" và
ông bị điều đi dạy học tại Tây Bắc đến năm 1980. Đây là môi trường ghi dấu mạnh mẽ
nhất trong văn ông, là nỗi ám ảnh không nguôi và ông viết như để trả ơn mảnh đất này.
Năm 1980, ông chuyển về làm việc tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó, làm việc tại
Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi về hưu. Đây cũng là thời
điểm ông bắt đầu sự nghiệp văn chương.
Tháng 1 năm 1987 Nguyễn Huy Thiệp lần đầu tiên ra mắt bạn đọc những câu
chuyện cổ tích ảo mới lạ, lý thú Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát,
song tên tuổi vẫn còn mờ nhạt. Phải đến tháng 6 năm 1987 khi Tướng về hưu xuất hiện
thì cái tên Nguyễn Huy Thiệp mới được chú ý. Nhưng mảng truyện được bạn đọc và
giới
nghiên cứu quan tâm nhiều nhất phải kể đến bộ ba truyện ngắn lịch sử ra đời năm

1988: Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết và một số truyện danh nhân như Thoáng chút
Xuân Hương, Nguyễn Thị Lộ...
1.3.2. Con người của Nguyễn Huy Thiệp
Trong văn học người ta thường dẫn câu nói của M.Groky: "Văn là nhân học"
điều ấy có nghĩa rằng học văn là học cách làm người, hay người làm văn là những
người có tâm hồn đẹp, đa sầu đa cảm. Với Nguyễn Huy Thiệp cũng vậy, đọc mỗi tác
16


phẩm của ông chúng ta lại thấy tính cách, bóng dáng của một con người, một nhà văn
trần trụi, giàu lòng yêu thương và trắc ẩn. Một con người tài hoa, tinh anh và sắc sảo.
Nếu có một thứ “quả bóng vàng” (hay là “cây bút vàng”) dành để tặng cho các
cây bút xuất sắc hàng năm, thì trong năm vừa qua – và cả nửa đầu năm nay nữa –
người xứng đáng được giải trong văn xuôi ta, có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp. Nhắc tới
anh, người ta nhớ Tướng về hưu gây xôn xao một dạo, bởi cách viết vòi, trần trụi; nhớ
Muối của rừng tưởng như không đâu, hóa ra lại đượm nhiều ngụ ý âm thầm; nhớ Chút
thoáng Xuân Hương lịch duyệt mang đậm vị kẻ sĩ Bắc Hà; nhớ Con gái thủy thần lẫn
lộn hư thực, và liều lĩnh đến tùy tiện. Với mỗi một truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp
như đang làm một cuộc phiêu lưu cho ngòi bút mà cũng là tự phác ra chân dung mình.
Cuộc phiêu lưu đó đang tiếp tục nhưng do chỗ mỗi truyện ngắn đã là một nét vẽ hằn
lên rõ ràng, nên người đọc vẫn có thể vượt qua những khoảng trống để phác ra hình
ảnh Nguyễn Huy Thiệp. Khi một ngòi bút có được cá tính mạnh mẽ thì sự định hình
dẫu có đến sớm cũng là một điều dễ hiểu.
Sự độc đáo kỳ lạ một yêu cầu nhất thiết với văn học, thế nhưng một phong cách
như Nguyễn Huy Thiệp lại hai lần kỳ lạ, vì nó mang tới cái chất mà lâu nay trong văn
học Việt Nam hơi thiếu – chất kiêu bạc, tàn nhẫn, cay đắng. Bằng một lối kể trầm trầm
của một kẻ vừa trải đời, vừa chán đời và không còn những hy vọng dễ dãi vào đời,
trong Tướng về hưu, tác giả vẽ ra một khung cảnh ở đó nếp sống thực dụng lan tràn,
trở thành một thói quen; con người lì lợm lâu ngày đến mức mất hết cảm giác về sự lì
lợm của chính mình; cái tốt bé nhỏ như một cái gì trớ trêu rơi rớt lại không được việc

gì; lương tri vẫn còn trong mỗi người nhưng nó chỉ đủ sức làm cho người ta nghẹn
ngào khi phải đối mặt với những cảnh tha hóa, bần cùng. Vả chăng, như là sản phẩm
của tất yếu, tất cả giản dị hồn nhiên, nhiều hành động bột phát lại như đã tính toán sẵn
từ trước, một câu nói buột miệng lại sắc cạnh như một châm ngôn. Con người không
phải muốn làm gì thì làm, và càng giãy giụa, nó càng chứng tỏ mình đã bị hoàn cảnh
khống chế chặt chẽ.
Trong một nét vẽ thoáng qua có lần Nguyễn Huy Thiệp tả một nhân vật “mặt
nhàu nát vì đau khổ”. Vẻ nhàu nát ấy phải cũng là nét chính trên khuôn mặt văn học
của Nguyễn Huy Thiệp mà ta thấy hiện lên qua các sáng tác – nhàu nát, tê dại, để rồi
trở nên hung hãn, táo tợn. Chỉ người xa lạ với tác phong đám học trò nhạy cảm học đòi
làm văn mới dám viết – tức là “chường mặt mình ra” – như vậy, viết bất chấp mọi lề
thói trong nghề, chỉ tuân theo một luật chơi duy nhất là nói những điều đào sâu chôn
chặt trong lòng. Những sinh thể kỳ dị vốn có sức sống lạ lùng, câu chuyện về lão Tôn
(Tôn Ngộ Không) nứt ra từ đá đã nói rất hay về điều đó. Về phần mình, mượn cách nói
mà chính tác giả đã dùng, văn chương Nguyễn Huy Thiệp, có phần giống “con gái
thủy thần”, hoặc một thứ con hoang, kết quả của những cuộc lang chạ đầy đau khổ.
Chỉ biết điều là phong cách con hoang dị dạng đó lại biết nói về những nét đặc trưng
của cuộc sống hôm nay đích đáng, mà ta không thể tìm thấy trong bất cứ phong cách
nào khác. Có phải đã đến lúc lối sống, lối nghĩ tự mệnh danh là tinh tế ý nhị đã trở
17


thành vô nghĩa: mọi điều phải trái xưa nay lấp lửng phải được nói toẹt cho rõ ràng;
mọi sự ngộ nhận phải được đính chính? Và như vậy thì lối viết lạnh lùng, suồng sã,
không coi cái gì là quan trọng, cái gì cũng muốn nói tuột ra – lối viết ấy có cái lý của
nó.
Trừ một vài cây bút “chuyên đề”. Còn đối với phần lớn các nhà văn ta hiện nay,
thực tại lịch sử thường là một cái gì xa lạ. Con người tác giả, con người bạn đọc
thường lo sống sát với nhu cầu hàng ngày. Ai dám tự nhận biết rõ khuôn mặt lịch sử
mà dây vào cho phiền?

Ở chỗ mọi người ngại ngùng, Nguyễn Huy Thiệp lại sẵn sàng "lĩnh đủ". Sự định
hướng trong cách hiểu đời sống trước mắt mạnh mẽ đến nỗi nó chi phối luôn cách khai
thác lịch sử và khơi mào cho những hư cấu, có thể là bịa đặt mà không dễ gì nghi ngờ.
Và thế là trong những thiên truyện như Kiếm sắc, Vàng lửa, chất dã sử và chất hiện đại
có dịp thâm nhập vào nhau, tạo ra những món ăn lạ miệng cho trí tuệ. Sở dĩ một thiên
truyện như Tướng về hưu như khắc vào đầu óc ta, một phần vì ở đó, tác giả biết trình
bày hiện tại như một cái gì đã thuộc về lịch sử, còn trong Vàng lửa, Kiếm Sắc, người
viết lại nhìn lịch sử bằng con mắt ngày hôm nay. Biết nhìn hiện tại như lịch sử thì có thể
tránh được những yêu ghét cá nhân vớ vẩn, những run rẩy vô lối mà đám nghệ sĩ kiêu
căng và yếu lòng thường có. Còn biết nhìn lịch sử như hiện tại thì tuy có thể mang
suồng sã nhưng sẽ tránh được những cái chắp tay vái dài trước người xưa và biết sử
dụng lịch sử như một phương tiện để hiểu hiện tại (Người sành văn học phương Đông
có thể bảo ở chỗ này, Nguyễn Huy Thiệp muốn học theo bút pháp lạnh lùng hằn học của
nhà viết sử Tư Mã Thiên, nhưng một sự ức đoán như thế lúc này còn là quá sớm!)
Ở cuối truyện Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp kể Đặng Phú Lân nghe xong giọng
hát cô Cầm “thở dài, trào máu ra từ ngũ khiếu”. Hôm sau “Lân bỏ đi, không chào chủ
quán cũng không hỏi người khách trẻ tuổi với cô Cầm chủ quán”. Tại sao? Người ta
đoán rằng sau những im lặng và cái hành động giật cục của nhân vật võ biền là mọi
xúc cảm lớn lao không nói lên lời.
Cách bày tỏ tình cảm kiểu này của nhân vật Kiếm sắc là một gợi ý tốt giúp
chúng ta hiểu mạch lạc trữ tình kín đáo nơi văn Nguyễn Huy Thiệp. Chắc hẳn trên
khuôn mặt nhàu nát kia còn những nét trữ tình ẩn giấu không dễ mấy ai nhận ra.
Chẳng thế mà thỉnh thoảng vẫn bắt gặp những thoáng rưng rưng của tác giả khi nói về
con người yếu đuối trước trận cuồng phong của lịch sử, hoặc về nỗi cô đơn của người
nghệ sĩ. Trong phạm vi của một cái gì manh nha hé mở, chúng ta cảm thấy tác giả
muốn đưa hình ảnh cô Cầm và Ngô Thị Vinh Hoa ra như là biểu hiện cái đẹp và sự yếu
đuối, những thứ mãi mãi còn lại trên cõi đời này, và càng hiếm lại càng đáng quý.
Giữa cuộc sống nghiệt ngã, phải chăng đây vẫn là một phần lý do để mỗi chúng ta
sống, hy vọng vào cuộc sống? Chính thế! Mà trước hết, sự sáng tạo văn chương phải
được hiểu theo nghĩa đó. Khi cái ác được viết ra, tức là có điều kiện để đẩy lùi nó. Mỗi

lần nghệ thuật chiến thắng là một lần cái thiện chiến thắng.
Với thói bi phẫn thường trực, ở cuối Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp viết rằng
18


công việc viết văn phức tạp, nhọc nhằn, lại buồn tẻ nữa. Nhưng tôi ngờ có lúc Nguyễn
Huy Thiệp sẽ thấy mình nhầm! Cái việc oan nghiệt ấy cũng rất thú vị, dù chỉ là một
thứ thú vị kiểu Xi – díp. Nếu tác giả không cảm thấy trước, thì làm sao tác phẩm của
anh có được cái hấp dẫn ma quái với bạn đọc như nó đang có? (Văn nghệ, số 35 – 36,
20/8/1988)
1.3.3. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp
Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên
Báo Văn nghệ năm 1986. Năm 1996, Tiểu Long Nữ được coi là "Tiểu thuyết đầu tay",
cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông được chính thức xuất bản bởi Nhà xuất bản Công an
nhân dân.
Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu khá đậm nét về nông thôn và những
người lao động. Sở trường của ông là truyện ngắn, mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và
văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê
và những người lao động.
Nguyễn Huy Thiệp là một bông hoa nở muộn trên văn đàn. Vài truyện ngắn của
ông đã xuất hiện lần đầu tiên trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986.
Một vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh
luận về những tác phẩm của ông. "Có người lên án gay gắt, thậm chí coi văn chương của
ông có những khuynh hướng thấp hèn. Người khác lại hết lời ca ngợi ông và cho rằng
ông có trách nhiệm cao với cuộc sống hiện nay". (Lời cuốn sách của NXB Đa Nguyên).
Sở trường của Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn, có thể tạm được phân loại
như sau:
+ Về lịch sử và nhân vật văn học: Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Thị
Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút thoáng Xuân Hương...
Truyện ngắn mang hơi hướng huyền thoại hoặc "cổ tích": Những ngọn gió Hua

Tát, Con gái Thủy Thần, Giọt máu, Muối của rừng, Chảy đi sông ơi, Trương Chi...
+ Về xã hội Việt Nam đương đại: Không có vua, Tướng về hưu, Cún, Sang
sông, Tội ác và trừng phạt...
+ Về đồng quê và những người dân lao động: Thương nhớ đồng quê, Những bài
học nông thôn, Những người thợ xẻ,...
Ngoài ra Nguyễn Huy Thiệp còn viết nhiều kịch, tiêu biểu là Xuân hồng, Còn
lại tình yêu, Nhà tiên tri, Hoa sen nở ngày 29 tháng 4...
Năm 1994, Nguyễn Huy Thiệp gác bút và xoay ra mở nhà hàng ở Hà Nội tên là
Hoa Ban rất ăn khách.
Ông cũng viết tiểu luận phê bình đăng trên nhiều báo, tạp chí, trong nước.
Năm 2004, bài viết "Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn"
đăng trên Tạp chí Ngày nay của ông tạo ra những tranh luận sôi nổi trong giới văn chương
trong một thời gian dài trên Báo Văn Nghệ và một số trang mạng tại Việt Nam.
Lâu lắm rồi văn học Việt Nam mới xuất hiện một hiện tượng như hiện tượng
Nguyễn Huy Thiệp. Mở đầu bằng Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, sau đó văn xuôi Việt
19


Nam bắt đầu nở rộ bởi các nhà văn Tự lực văn đoàn và các nhà văn hiện thực sắc sảo:
Nam Cao, Nguyên Hồng, Ngố Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài...
Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay văn xuôi Việt Nam tiếp tục trưởng thành
già dặn hơn, bề thế hơn. Nhiều nhà văn mới thực sự tài năng đã xuất hiện, đóng góp
cho văn xuôi hiện đại nhiều dáng dấp mới, phong cách mới. Nhưng nhìn chung họ vẫn
chưa vượt qua được những đỉnh cao trước đó, chưa thoát khỏi được quỹ đạo trước đó
của văn học. Phải đợi đến ngày nay, khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện, mặc dù với tất
cả sự thận trọng đến mức e dè, cố hữu, người ta vẫn không thể không khen rằng
Nguyễn Huy Thiệp đã mang đến cho văn xuôi Việt Nam một cuộc cách tân. Liệu lời
khen này có quá vội vàng chăng ta chỉ có trước mặt mình tập truyện ngắn Tướng về
hưu và các truyện ngắn Kiếm sắc, Vàng lửa... của ông?
Cuộc đời thường chứa nhiều nghịch lí: Có những người dành trọn cả đời mình

cống hiến cho văn học hàng chục quyển sách dày cộp mà nào có được ai nhớ tới đến
tên! Ngược lại cũng có những tên tuổi buộc phải nhớ đời mặc dầu tác phẩm của họ
mỏng hơn sự nghiệp của họ rất nhiều. Vả chăng, chỉ cần đọc bấy nhiêu truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp người đọc cũng đã rất ngạc nhiên trước sự phong phú của vốn
sống, sự lịch lãm của bản lĩnh, sự sắc sảo của óc quan sát, sự sâu sắc của trí tuệ, sự
đằm thắm của tình người, sự đa dạng của bút pháp của ông. Chỉ bấy nhiêu truyện
ngắn, Nguyễn Huy Thiệp đã mang đến cho văn học chúng ta một diện mạo mới: từ
cách chọn đề tài, cách xây dựng nhân vật, cách dựng truyện, lối hành văn... đều mới,
để cuối cùng diễn đạt được những chủ đề tư tưởng mới.
Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã làm sáng rõ và nổi bật các
khuynh hướng văn học như: khuynh hướng nhận thức lại (ở đây là nhận thức lại lịch
sử), khuynh hướng thế sự - đời tư, khuynh hướng triết luận,...
Khuynh hướng nhận thức lại, bước sang thời kì mới, văn học cũng như nhiều
lĩnh vực khác trong đời sống tinh thần, có nhu cầu nhìn lại chặng đường đã qua, nhận
rõ những hạn chế, ảo tưởng, sai lầm, để vượt qua nó. Cùng với những trăn trở trong
vấn đề viết về chiến tranh, nhu cầu nhận thức lại hiện thực ở thời kì trước và đổi mới
cái nhìn đời sống hiện tại sau chiến tranh, đã được thể hiện trong sáng tác của một số
nhà văn có mẫn cảm trước đời sống. Khuynh hướng nhận thức lại văn xuôi ở chặng
đầu thường đặt trọng tâm vào cảm hứng phê phán, thì về sau lại được nhấn mạnh hơn
ở cảm hứng phân tích, triết luận, nhiều khi nhập vào khuynh hướng triết luận đến khó
mà tách biệt được. Các truyện mượn đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp, những tiểu
thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo cũng có thể coi là sự nhận thức
lại về lịch sử, đề xuất những triết lí và giả thuyết về lịch sử, bằng cách phát huy tối đa
ý thức chủ quan, năng lực tưởng tượng của người viết. Góp phần vào việc nhận thức
lại những giai đoạn lịch sử xã hội đã qua, còn phải kể đến những hồi kí, tiểu thuyết tự
truyện của Tô Hoài, Nguyễn Khải, Bùi Ngọc Tấn.
Ở nửa đầu những năm 80, khi cảm hứng sử thi đã mờ nhạt dần, thì đời sống thế
sự và số phận riêng tư đã trở thành mối quan tâm chủ đạo của nhiều cây bút văn xuôi.
20



Trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài hay Lưu Quang Vũ lại thường
có những phát hiện khái quát khá sâu về trạng thái nhân thế và các quan hệ xã hội ở
một thời kì khủng hoảng. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã gây ra tiếng vang
lớn từ việc nhại truyện dân gian. Truyện dân gian kể về một ông Trương Ba có tài chơi
cờ, quen biết Tiên Đế, được Đế Thích tặng ba nén hương bảo khi nào có việc thì thắp
nén hương lên, Đế Thích sẽ hiện lên giúp không may Trương Ba chết, vợ Trương Ba
trong lúc dọn nhà thấy ba nén hương liền mang thắp cho chồng. Tiên Đế xuất hiện và
giúp ông sống lại nhưng hồn phải nhập vào hàng thịt, vợ hàng thịt thấy chồng mình
sống lại và đi về nhà Trương Ba thì đâm đơn kiện quan. Quan đã dùng phép thử bằng
một ván cờ. Hồn Trương Ba được về nhà mình cùng xác hàng thịt. Từ đó, dân gian đặt
linh hồn cao hơn thể xác. Lưu Quang Vũ không đồng tình với kết thúc này, ông đặt ra
vấn đề nhân sinh quan thời đại: Được sống là đáng quý, nhưng sống trọn vẹn những gì
mình có sẽ đáng quý hơn. Để được sống là mình, bảo vệ giá trị cao quý, con người
phải biết đấu tranh chống lại cái dung tục, dẫu phải trả giá.
Khi văn học không dừng lại ở yêu cầu phản ánh thực tại, mà coi trọng hơn sự
nghiền ngẫm, lí giải về hiện thực, đề xuất những ý tưởng mới, cách nhìn mới, thì hệ
quả tất yếu là triết lí suy tưởng được gia tăng và dẫn đến việc hình thành rõ nét khuynh
hướng triết luận. Triết luận cũng trở thành một nét phong cách nổi trội ở nhiều cây bút
của thế hệ đổi mới, từ Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, đến Tạ Duy Anh, Hồ Anh
Thái, Hòa Vang... cả trong những trang viết tinh tế, nhậy cảm, dường như rất hồn
nhiên của Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần cũng chứa
đựng những ý vị triết lí bàng bạc, có khi khá sâu sắc về nhân sinh, về con người.
Nguyễn Huy Thiệp chẳng những ném ra vô số triết lí về cuộc đời, về con người,
về nghệ thuật, mà còn cả những triết lí thâm trầm lịch sử, trong đó không phải không
có những triết lí nhuốm màu sắc hoài nghi, bi quan.
1.3.4. Quan niệm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp
Cũng như rất nhiều các tác giả khác, Nguyễn Huy Thiệp cũng có những quan
niệm văn chương của riêng mình. Đó là những quy chuẩn, thước đo ông đặt ra cho các
tác phẩm, nhân vật của mình. Nguyễn Huy Thiệp thường gián tiếp phát biểu quan

niệm về văn chương.
Có thể thấy, hầu hết những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều chứa đựng
một hoặc vài lời triết lý của ông về văn chương. Điều đó chứng tỏ, Nguyễn Huy Thiệp
là người hay trăn trở về văn chương và ý nghĩa của nó. Những triết lý đó, được phát
biểu gián tiếp qua các nhân vật, qua tình huống truyện. Với Nguyễn Huy Thiệp, văn
chương không đơn giản và rành mạch như Nam Cao. Cái nhìn của ông về văn chương
có gì đó rất phức tạp - phức tạp như chính cuộc đời, khi thì “văn chương là thứ bỉ ổi
nhất” (Chút thoáng Xuân Hương), khi thì “văn chương có cái gì từa tựa lẽ phải” (Giọt
máu), khi thì: “văn chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm
sống, có thứ văn chương sửa mình, có thứ văn chương trốn đời, trốn việc. Lại có thứ
văn chương làm loạn” (Giọt máu). Đây là cái nhìn phức tạp về văn chương. Cái ông
21


đem đến cho người đọc lại là một sự hoài nghi về chân lý. Và với những người đọc đã
quen cái tâm thế đón chờ chân lý, người ta lạ lẫm trước trang văn của ông. Người ta
thấy nó xa lạ với truyền thống, xa lạ với chuẩn mực. Và người ta ghẻ lạnh ông, vội
vàng kết tội ông là giũ bỏ quá khứ, mắng ông là không có tâm, không nhân văn… Thật
ra, Nguyễn Huy Thiệp thừa sức viết ra những triết lý văn chương “chuẩn mực” cả nội
dung và hình thức. Nhưng, ông đã chọn cho mình một con đường khác, xây nên một
thế giới khác. Để giải mã cái thế giới bí ẩn ấy, ta hãy thử làm một cuộc hành trình đến
với các triết lý văn chương trên trang viết của ông.
Ở truyện Trương Chi, Quan điểm văn chương được hiện lên qua nhân vật
Trương Chi. Ba lần viên quan trưởng bảo Trương Chi hát:
Lần thứ nhất: “Viên quan trưởng bảo:
- Hát ca ngợi công danh đi!”
Lần thứ hai: “Viên quan trưởng bảo:
- Nên hát về sự nhẫn nhục”
Lần thứ ba: “Viên quan trưởng bảo:
- Hát ca ngợi tiền bạc đi!”

Ca ngợi. Nhẫn nhục. Nhẫn nhục để ca ngợi. Để ca ngợi, văn chương một thời
phải “nấu mình” trong những tiếng hô vang. Với Thiệp đó là một thứ văn chương “thô
bỉ”, như một sự “nhẫn nhục đê hèn”: “Chưa bao giờ chàng hát một bài hát thô bỉ như
thế. Bài hát chỉ toàn “ấy a” với lại “huầy dô”… Có chỗ còn bắt chước tiếng chó sủa,
tiếng gà cục tác, tiếng dê kêu nữa.Bài hát đông người”. “Đông người” thường ồn ào và
náo nhiệt. “Đông người” thường là phong trào, là bắt chước.Văn chương đánh mất
mình trong đám đông. Với văn chương, đánh mất mình còn đáng sợ hơn cả cái chết.
“Chàng chỉ sợ chính bản thân chàng lâm vào tình thế phải tự hạ nhục bản tính của
mình, thế là mất hết, không còn tiếng hát, không còn Trương Chi”. Theo ông làm văn
chương phải có quyền dân chủ, không bị câu thúc. Nguyễn Huy Thiệp lại đề cập đến
cái vấn đề muôn thủa của văn chương: Bản tính cá nhân. Trong tác phẩm, hát về tình
yêu - là hát về cái phần cá nhân, riêng tư nhất của của mỗi người - điều mà văn học
trước đây gọi là cá nhân chủ nghĩa. Nhưng chính ở cái phần cá nhân chủ nghĩa này,
văn học mới thực sự có ý nghĩa đối với con người. Văn chương cảm hoá được tất cả cảm hoá cả chính trị, bằng tình yêu: “Những giọt nước mắt long lanh trên mắt Mị
Nương. Nàng chưa từng được nghe ai hát như thế này. Bọn hoạn quan, những gã đồng
cô, những tên hề lùn, bọn bói toán, tướng số, lang băm… đứng dạt cả ra”. Những giọt
nước mắt ấy chính là ý nghĩa đích thực của văn chương.
Văn chương không nên là những lời thuyết giáo về đạo đức mà phải phản ánh
trung thực quy luật cuộc sống. Những lời thuyết giáo chỉ làm cho người ta sợ chứ
không làm cho người ta phục. Văn chương là sự ăn năn về đạo đức. Văn chương là nơi
để người ta sám hối, để người ta xưng tội với chính mình. Đó cũng là thứ văn chương
mà Nguyễn Huy Thiệp đã lựa chọn và theo đuổi. Nguyễn Huy Thiệp ghét cái kết thúc
truyền thống của truyện cổ vì nó nhân văn quá, đẹp quá mà thành ra dối đời. Sự nhân
22


văn phải đạo ấy, loài người thưở sơ khai có thể chấp nhận được. Nhưng loài người bây
giờ thì không!
“Mị Nương sống suốt đời sung sướng và hạnh phúc
Điều ấy vừa tàn nhẫn, vừa phi lý

Lẽ đời là thế”
Và văn chương phải dám đối mặt, dám nhìn thẳng với cái lẽ đời - vừa tàn nhẫn,
vừa phi lý ấy.
Các nhà chính trị trực tiếp phát biểu về văn chương của Nguyễn Huy Thiệp.
Trương Chi chỉ là cách thể hiện gián tiếp quan niệm của chính trị về văn chương. Có
lúc Nguyễn Huy Thiệp đã để cho chính các nhà chính trị phát biểu quan niệm của
mình một cách rất thẳng thắn.
Trước hết là lời của tri huyện Thặng trong Chút thoáng Xuân Hương: “Hách
chứ, Thặng giơ ngón tay như quả chuối nắm ra trước Ấm Huy. Không hách để văn
chương các chú làm loạn à? Văn chương là miếng đất nghịch”.
“Văn chương làm loạn” - Nó làm loạn trong tiềm thức của con người - một
cuộc nổi loạn mà không có một thế lực nào có thể dập tắt được. Chính Thặng đã khẳng
định: “Dân quen nô lệ, luật cứ ngặt nghèo, nghiêm khắc là xong. Không có bàn bạc gì
cả”. Nhưng Thặng lại phải “hách” với văn chương – tức là Thặng sợ!
Đó cũng là tâm sự của Nguyễn Phúc Ánh trong Kiếm sắc: “Ta ghét bọn chữ
nghĩa thôi. Chữ nghĩa chúng nó thối lắm, ngụy biện, xảo trá, tinh vi… Hành tung
chúng ta chẳng lo. Toàn lũ ấm o như dòi chò, hèn mọn cả. Chúng nó quen tỉ tê với chữ
nghĩa sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng nó, ta mệt lắm”.
Nói là “ta chẳng lo” nhưng lại muốn “rửa đầu óc chúng nó”, tức là Ánh cũng
sợ. Song dẫu Ánh muốn cũng không thể nào làm được. Ánh đã sai Lân đi chiêu mộ
các danh sĩ Bắc Hà. Nhưng trớ trêu thay, chính Lân lại được văn chương “chiêu mộ”:
“Thâm tâm Lân cũng không biết nên vui hay buồn, chỉ thấy trong lòng cảm động”. Đó
cũng là sức mạnh phi thường của văn chương. Lân đã phải chịu tội, chết dưới lưỡi
gươm gia truyền. Hay là văn chương đã hoá kiếp cho Lân?… Để từ đây và mãi mãi
bàn tay của Lân sẽ không hề dính máu. Lân chết khi trong lòng đang cảm động - cái
chết ấy có ý nghĩa hơn vạn lần kiếp sống vô tâm. Có thể, đó là ý nghĩa mà Nguyễn
Huy Thiệp gởi gắm trong hình thức một câu chuyện lịch sử.Vậy mà khi đọc Kiếm sắc
(cùng với Vàng lửa và Phẩm tiết) người ta mặc sức gán cho Nguyễn Huy Thiệp biết
bao nhiêu là tội danh. Thể hiện những quan niệm văn chương qua con mắt của những
nhà chính trị, Nguyễn Huy Thiệp không hề có ý muốn đối lập chính trị với văn

chương. Thật ra, Nguyễn Huy Thiệp luôn ý thức văn học phục vụ chính trị. Nhưng
phục vụ chính trị không đơn thuần là là truyền bá những tư tưởng chính trị. Với
Nguyễn Huy Thiệp, ý nghĩa cao nhất của văn học đối với chính trị là ở chỗ: Văn học
giữ gìn lương tri cho chính trị. Ý nghĩa này thể hiện rõ qua một truyện ngắn Quan âm
chỉ lộ của ông. Câu truyện khơi nguồn từ mối quan hệ giữa nhà văn và anh Lai - Vụ
trưởng một vụ. Ở đó thông qua suy nghĩ của anh Lai về anh bạn nhà văn của mình
23


(nhân vật xưng “tôi”), Nguyễn Huy Thiệp đã để cho chính trị lên tiếng về văn chương.
Đoạn văn như sau: “Anh Lai nói: “Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ
làm cho người ta dằn vặt lòng mình? Chú có quyền gì? Ai cho chú cái quyền năng ấy?
Tư cách chú tôi gạt sang một bên. Tôi không hiểu vì sao mọi người lại vị nể một người
như chú? Ở chú có phẩm chất gì? Cao thượng ư? Không phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng
không phải nốt. Tôi chỉ nhận ra chú dục vọng hão huyền và cái khả năng đánh thức cái
dục vọng ghê gớm ấy ở mỗi người. Điều đó là tốt ư? Không phải? Xấu ư? Không phải!
Từ bản chất tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm phục những người như chú”.
Một câu trong mạch đối thoại mà ngỡ như một lời độc thoại - đúng hơn là đối
thoại với chính mình. Hầu như tất cả đều tồn tại ở dạng câu hỏi. Hỏi nhà văn, nhưng
chính anh Lai lại trả lời. Anh Lai nói là “không thể hiểu”. Nhưng thật ra, anh đã hiểu
và hiểu rất rõ. Văn chương chính là như thế, như chính những lời anh Lai nói: làm ta
dằn vặt, có khả năng đánh thức cái dục vọng ghê gớm ở mỗi người”… Điều đó là tốt
hay xấu? Chính anh Lai cũng đã nói - không tốt - nhưng cũng không xấu. Văn chương
đang đứng ở một độ chênh rất mỏng manh giữa nhân văn và giả dối, giữa nói lên sự
thật và thóa mạ con người. Chỉ cần nhà văn chệch chân một chút thôi, sẽ rơi vào hố
sâu thăm thẳm. Và Nguyễn Huy Thiệp đã giữ văn chương ở cái độ chênh ấy. Chính tại
đây, văn chương thể hiện ý nghĩa của nó đối với chính trị. Văn chương giữ gìn lương
tri cho chính trị – giữ gìn bằng chính những điều anh Lai nói: sự tự dằn vặt. Tại sao chị
Hỷ lại mang trả bức tượng Quan Âm chỉ lộ? Phải chăng vì những giọt nước mắt trên
tượng Quan Thế Âm Bồ Tát? Bồ Tát nhân từ cũng đâu thể cứu rỗi con người. Vậy thì

văn học cũng đâu có tham vọng làm được điều đó. Với Thiệp, văn chương chỉ giữ cho
con người không bị rơi xuống thẳm sâu của cái ác, và đánh thức ở họ cái ý thức tự cứu
rỗi chính mình.
Nguyễn Huy Thiệp tự phát biểu những triết lý của mình về văn chương.
Xen lẫn với những lời phát biểu của những nhà chính trị về văn chương là
những trăn trở của chính Nguyễn Huy Thiệp. Cuối truyện Kiếm sắc, Nguyễn Huy
Thiệp đã khái quát về công việc viết văn của mình: “Công việc viết văn vốn rất nhọc
nhằn, phức tạp, lại buồn tẻ nữa”. Nhọc nhằn, phức tạp vì văn Nguyễn Huy Thiệp
không phải là thứ văn dễ dãi. Người ta viết văn như một sự giải thoát. Nguyễn Huy
Thiệp viết như một sự chất vấn chính mình – chất vấn về nghĩa lý của văn chương, về
ý nghĩa của cuộc đời cầm bút.
Vì thế, trang viết của ông như một sự trăn đi trở lại, như một sự dằn vặt, cào xé
chính mình: “Ở trường Đại học, tôi đã thuyết giảng về sự vô minh của con người và
thế giới, lòng khao khát của cá nhân tôi với cuộc sống mà thượng đế đã ban cho. Giờ
nhớ lại những điều tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và phù phiếm, thậm chí dối trá” (Quan
Âm chỉ lộ). Nguyễn Huy Thiệp sợ mình trở thành một thằng lừa đảo. Với Thiệp,
những kẻ lừa đảo trong văn chương còn đáng sợ hơn nhiều những kẻ lừa đảo tiền bạc,
tài sản. Nhưng thật trớ trêu, vì sự thật bao giờ mà chẳng đắng và khó nghe. Ông đau
đớn nhận ra thứ văn chương sự thật của mình đã gây ra bao nhiêu đau khổ cho người
24


đời: “Văn chương là thứ bỉ ổi nhất. Nó gây ra sự nổi lọan trong đời thường. Cuộc đời
trôi đi đơn giản. Day đi dứt lại để làm gì? (Chút thoáng Xuân Hương). Nhưng rồi, ông
không thể làm khác được. Ông không thể viết ra thứ văn chương dễ dãi, sẵn sàng ca
ngợi, tung hô, sẵn sàng dối trá. Ông thà để người ta đau đớn trong đời thật còn hơn
chìm đắm trong thứ hạnh phúc giả tạo. Thật ra mà nói, đó cũng là một sự lựa chọn đầy
khó khăn của Nguyễn Huy Thiệp.
Như trên đã nói, Nguyễn Huy Thiệp suốt đời kiếm tìm nghĩa lý của văn
chương, nhưng ít khi nào ông phát biểu một ý nghĩa rõ ràng về văn chương. Và đây là

một trong số những định nghĩa hiếm hoi của Nguyễn Huy Thiệp – hiếm hoi và khác
thường: “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành
bướm và hoa. Đó là chí thành” (Giọt máu). Chính tại đây, nhiều người đã phê phán
Nguyễn Huy Thiệp sao nỡ nhấn văn chương xuống bùn. Với ông, văn chương chỉ là
thứ để người ta chiêm ngưỡng về sự đạo mạo, thanh khiết của nó thì thật tẻ nhạt. Và
chính con người sẽ ngập sâu xuống vũng bùn đen tối!
Như vậy, những triết lý văn chương trên trang văn Nguyễn Huy Thiệp dẫu có
được nhìn qua đôi mắt của các nhà chính trị hay là những trăn trở của chính nhà văn
thì vẫn có sự thống nhất. Văn chương mà Nguyễn Huy Thiệp đã lựa chọn là thứ văn
chương dấn thân. Dấn thân cả hai chiều – nhà văn dấn thân và chính người đọc cũng
phải dấn thân.
Từng mang khuôn mặt của một kẻ kiêu ngạo cô đơn, Nguyễn Huy Thiệp đã ý
thức được nỗi cô đơn tột cùng trong sáng tạo của nhà văn. Trong Giọt máu, ông đã
từng thốt lên đau đớn: “Thằng bé mơ hồ hiểu rằng học đòi văn chương là nó bước vào
một cõi mà ở đấy, nó không thể nương tựa vào bất cứ thứ gì, ngoài bản thân nó”…
Nguyễn Huy Thiệp cô đơn trong sáng tạo, hay cô đơn để sáng tạo? Ông chấp nhận sự
cô đơn để được là mình. Đây cũng là điều xảy ra đối với nhà văn thực thụ.
Tiểu kết chương 1
Nhại là thuật ngữ chỉ một giọng điệu sáng tác. “Nhại” có nghĩa là "bắt chước
tiếng nói hay điệu bộ của người khác để trêu chọc, giễu cợt "hoặc" bắt chước, phỏng
theo lời bài thơ có sẵn để làm bài mới, thường để giễu cợt, châm biếm.
Nhại là khuynh hướng trong văn học kể từ sau 1975. Nhưng thực chất xu hướng
nhại đã xuất hiện rải rác trong các sáng tác giai đoạn trước đó, nhất là trong văn xuôi
giai đoạn 1900 – 1945. Sau năm 1975, do điều kiện và môi trường thay đổi, nhại đã trở
thành khuynh hướng sáng tác phổ biến.
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những cây bút xuất sắc giai đoạn từ 1975 đến
nay. Văn Nguyễn Huy Thiệp có xuất hiện khuynh hướng nhại. Yếu tố giễu nhại dần
bộc lộ khá ấn tượng, đầu tiên chỉ là nét chấm phá sau trở thành một thủ pháp thể hiện
hiệu quả cảm hứng phê phán thời kì mới.
Với khuynh hướng nhại, Nguyễn Huy Thiệp đã góp phần tạo ra cuộc cách tân

văn học, đưa văn học Việt Nam tiếp cận với văn học thế giới.
25


×