Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

Vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay (LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 161 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DIỆU LINH

VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành

: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử

Mã số

: 9 22 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. PHẠM VĂN ĐỨC

HÀ NỘI - 2018
1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận án tiến sĩ triết học với đề tài “Vấn đề khai thác nội lực
và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân dưới sự
hướng dẫn nghiên cứu của GS.TS. Phạm Văn Đức. Các số liệu, tài liệu trích dẫn và tài
liệu tham khảo trong luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.


TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Diệu Linh

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ..................................................................................................................................5
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận về khai
thác nội lực và khai thác ngoại lực..............................................................................5
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực ở
Việt Nam hiện nay .......................................................................................................16
1.3. Những công trình nghiên cứu về các giải pháp khai thác nội lực và ngoại
lực ở Việt Nam .............................................................................................................21
1.4. Nhận định chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực đề tài ............26
Chƣơng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC .........29
2.1. Khái niệm và mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực.........................29
2.2. Vai trò của nội lực và ngoại lực đối với sự phát triển của một quốc gia................46
2.3. Kinh nghiệm khai thác nội lực, ngoại lực của một số nước trên thế giới...............59
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .........................................................................................................72
3.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam
hiện nay.........................................................................................................................72
3.2. Thực trạng khai thác nội lực ở Việt Nam hiện nay................................................80
3.3. Thực trạng khai thác ngoại lực ở Việt Nam hiện nay...........................................100
Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHAI THÁC NỘI
LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...............................................124

4.1. Phương hướng cơ bản trong khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện
nay...............................................................................................................................124
4.2. Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn nội lực.........................126
4.3. Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn ngoại lực.....................138
KẾT LUẬN ................................................................................................................148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................151
3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự lực, tự cường là một trong những đức tính quý báu của con người Việt
Nam. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dựa vào sức mình là chính,
khai thác sức mạnh nội lực luôn luôn là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của dân
tộc. Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận được vai trò
quan trọng của yếu tố ngoại lực - những tinh hoa về văn hóa, khoa học công
nghệ hiện đại, trình độ quản lý của thế giới, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài những yếu tố vô cùng cần thiết cho quá trình phát triển nhanh và bền vững của
đất nước trong giai đoạn hiện nay. Bởi vậy, phát huy dân chủ, khơi dậy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước
là bài học mà chúng ta luôn coi trọng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Chính sách đổi mới toàn
diện là một bước đột phá tạo đà phát huy các nguồn nội lực, khơi thông ngoại
lực, làm cho sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên rất nhiều. Đất nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo tiền đề quan trọng để đẩy
nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh

tế phát triển chưa bền vững. Bởi vì, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững
chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng, khai thác các
nguồn lực (nội lực và ngoại lực) còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải.
Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng,
chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo
dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp gây
bức xúc trong xã hội. Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh
tế. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được
quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa
phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng
1


vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Việc khai thác, tiếp nhận những
nguồn lực từ bên ngoài vào để "đi tắt đón đầu" như vốn, khoa học công nghệ...
chưa thực sự hiệu quả. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố
gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Con đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta cũng đang đặt ra
nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết trên tất cả các lĩnh vực. Đổi mới là cần
thiết, hội nhập là tất yếu, nhưng đổi mới làm sao để khai thác tối đa các nguồn
nội lực của quốc gia và hội nhập phải trên cơ sở khai thác hiệu quả các nguồn
ngoại lực. Bởi vậy vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực như thế nào, mối quan
hệ giữa khai thác nội lực và khai thác ngoại lực ra sao đang là mảng lý luận mở
cho các nhà khoa học tập trung nghiên cứu để bổ sung vào lý luận phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
và nhiều biến động của thế giới hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá mà trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đang
tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến mọi quốc gia, dân tộc,

thì không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được mà lại tách biệt, cô
lập với thế giới. Mở cửa, hội nhập, chủ động gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá
là đòi hỏi tất yếu, nhưng cũng chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và phát
huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển. Nhận thức sâu sắc
tính tất yếu và cơ hội đó, Đảng ta luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong những bài học
kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã đưa ra một trong các quan
điểm phát triển quan trọng là: “Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng
thời chủ động hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài để phát triển nhanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển
mạnh doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân, làm động lực nâng
cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế” [34, tr.270, 271].
Với tất cả những lý do trên, tác giả luận án đã chọn “Vấn đề khai thác nội
lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2


- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ các khái niệm về nội lực và ngoại lực cũng như những
đặc điểm của đất nước trong giai đoạn hiện nay, luận án tập trung phân tích,
đánh giá những mặt thành tựu cũng như hạn chế của quá trình khai thác các
nguồn nội lực và ngoại lực, từ đó đề xuất những giải pháp khai thác, sử dụng có
hiệu quả hơn các nguồn lực ấy.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận án phải giải quyết một số nhiệm vụ sau:
Một là, khái quát tổng quan chung về các công trình nghiên cứu liên quan
đến nội lực và ngoại lực, vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực hiện nay.
Hai là, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về nội lực và ngoại lực.

Ba là, phân tích làm rõ thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt
Nam hiện nay.
Bốn là, đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả
hơn các nguồn nội lực và ngoại lực của đất nước.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về đối tượng nghiên cứu: đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là vấn đề
khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay.
- Về phạm vi nghiên cứu: đề tài xác định khảo sát ở góc độ triết học dựa
trên các mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, về vai trò của con người
đối với xã hội, với lịch sử, về vị trí, vai trò của việc khai thác các nguồn nội lực
và ngoại lực tạo động lực phát triển đất nước.
Để định hướng cho quá trình nghiên cứu, đề tài xác định nghiên cứu trong
lãnh thổ Việt Nam, với các nguồn nội lực sẵn có và các nguồn ngoại lực đã và
đang tác động đến Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, từ năm 1986 đến nay. Cụ
thể là các nguồn nội lực và ngoại lực như: nguồn lực con người, văn hóa, tài
nguyên thiên nhiên, vị thế địa chính trị, khoa học - công nghệ, vốn đầu tư vào
Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài còn
sử dụng một số phương pháp sau: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp lôgíc, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp quy nạp và diễn dịch.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
3


- Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của những người đi trước,
luận án sẽ đi sâu phân tích làm rõ về mặt lý luận khái niệm nội lực và ngoại lực
cũng như mối quan hệ giữa khai thác nội lực và ngoại lực.
- Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực của
đất nước hiện nay, tác giả sẽ tập trung chỉ ra những tiềm năng chưa khai thác

được ở các nguồn lực, đồng thời đưa ra một số giải pháp tăng cường việc khai
thác có hiệu quả hơn các nguồn lực này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Thực hiện chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, cung cấp các
luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với những kết quả nghiên cứu như trên,
luận án sẽ góp phần làm phong phú hơn những lý luận về quan điểm, đường lối
của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định các chủ chương, chính sách liên
quan tới việc khai thác các nguồn nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước
trong tình hình mới.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác
nghiên cứu về vấn đề khai thác các nguồn lực trong nước, là tài liệu tham khảo
bổ ích cho các giờ giảng của giáo viên khi dạy về phần chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, và là tài liệu bổ ích cho những bạn đọc quan
tâm về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương 13 tiết.

4


Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Ở bất cứ một quốc gia nào, vấn đề sử dụng, khai thác và phát huy sức mạnh
nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội luôn thu hút được sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu.

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận
về khai thác nội lực và khai thác ngoại lực
1.1.1. Về khái niệm nội lực và ngoại lực
- Khái niệm nội lực:
Định nghĩa về nguồn lực trong nước, nhà nghiên cứu Trần Văn Chử nhấn
mạnh giới hạn xác định các nguồn lực, cho rằng:
“Nguồn lực trong nước là các nguồn lực chỉ có khả năng khai
thác, sử dụng nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Các nguồn lực đó bao
gồm: lao động, khoa học và công nghệ, vốn và tài nguyên thiên
nhiên, cùng với các yếu tố nguồn lực mang tính chính trị xã hội thể chế chính trị, cơ chế chính sách, truyền thống và tính cộng
đồng, kinh nghiệm quản lý” [14, tr.32].
Trong bài “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng
và phát triển đất nước hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Phúc - Viện Triết học,
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 7-5-2012, tác giả đã phân tích khá sâu sắc khái niệm sức mạnh dân
tộc. Tác giả cho rằng khái niệm sức mạnh dân tộc đồng nhất với khái niệm nội
lực:
“Sức mạnh dân tộc hay nội lực của một dân tộc, một quốc gia
chính là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của
dân tộc, quốc gia đó. Những lợi thế, những nguồn lực này bao
hàm trong toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội;
chúng là tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, là tổng thể
những giá trị vật chất, tinh thần, truyền thống văn hoá,... Sức
mạnh dân tộc, vì thế là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của một dân tộc. Như vậy, sức mạnh dân tộc, nội lực
5


của chúng ta bao gồm cả những nguồn lực, những tiềm lực tự

nhiên và xã hội” [83].
Từ đó, tác giả Nguyễn Văn Phúc xác định nguồn nội lực có thể xác định
trên hai bình diện là nguồn lực tự nhiên và nguồn lực xã hội. Trên bình diện
nguồn lực tự nhiên, Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lí, giao thông, có bờ biển
dài rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển; lâm sản, hải sản, khoáng sản tuy
không thật nhiều nhưng khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, những nguồn lực
tự nhiên, tự nó, chỉ tồn tại như là tiềm năng. Vấn đề là làm sao khơi dậy, huy
động được những nguồn lực, những lợi thế đó trong phát triển. Trên bình diện
nguồn lực xã hội, Việt Nam cũng có những ưu thế về mặt văn hoá và con người.
Có thể nói, đó là những nguồn lực nội sinh giữ vị trí trung tâm của phát triển;
bởi con người với những sức mạnh về văn hoá, chính là chủ thể của sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước, là chủ thể của sự khai thác, huy động và hợp
nhất các lợi thế, các nguồn nội lực khác.
Nguyễn Văn Hoà trong bài viết “Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội lực”
đăng trên Tạp chí Triết học, số 3, 2008 đã phân tích quan điểm của Phan Bội
Châu về những yếu tố cấu thành nội lực của đất nước: Thiên thời, địa lợi, nhân
hoà là các yếu tố cấu thành nội lực. Các yếu tố đó có quan hệ mật thiết với nhau,
trong đó nhân hòa là yếu tố đóng vai trò quyết định. Bên cạnh đó, tri thức cũng
là thành tố quan trọng của nội lực [49].
Bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong phòng,
chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay"
của nhà nghiên cứu Phạm Thanh Sơn in trên Tạp chí Khoa học quân sự (tháng
8-2010) đã nêu lên các yếu tố cấu thành sức mạnh dân tộc “là kết quả tổng hợp
của các tiềm lực kinh tế, chính trị, tinh thần, văn hoá… của một dân tộc, của một
quốc gia, được biểu hiện ở năng lực huy động, kết quả khai thác và sử dụng hiệu
quả các tiềm lực ấy vào nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”. Tuy nhiên,
tác giả phân tích tiếp, "các tiềm lực kinh tế, chính trị, tinh thần, văn hoá…, tự
bản thân nó chưa bao hàm hết sức mạnh dân tộc; bởi dân tộc vừa được hiểu theo
nghĩa "chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung sinh
hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, văn hoá có những đặc thù”, vừa được hiểu theo

nghĩa "chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh
thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống
nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn
hoá và truyền thống đấu tranh chung trong quá trình lịch sử lâu dài dựng nước
6


và giữ nước”. Dù được hiểu theo nghĩa nào thì dân tộc và quốc gia cũng không
tách rời nhau, sức mạnh quốc gia có cội nguồn từ sức mạnh dân tộc, đồng thời
hun đúc, liên kết sức mạnh dân tộc, tạo nên sự bền vững của sức mạnh quốc gia.
Vì vậy, phát huy sức mạnh dân tộc ở nước ta hiện nay là phát huy nguồn nội lực
của quốc gia, từ sức mạnh vật chất đến sức mạnh tinh thần, văn hoá, khoa học công nghệ…, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường, củng cố quốc phòng, an
ninh, xây dựng và kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng và thế trận quốc phòng với thế
trận và lực lượng an ninh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các
thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" [91].
Trong bài “Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt
Nam”, tác giả Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Tokyo) đưa ra một yếu tố cấu
thành nội lực của đất nước: “Nội lực, nếu hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm
khả năng của chính phủ trong việc hoạch định kế hoạch, chính sách phát triển và
khả năng quản lý, sử dụng vốn nước ngoài” [104].
Trong cuốn Những nguồn lực (Sách tham khảo) của tác giả E.F.
Schumacher, Anh Quế dịch, Nhà xuất bản Lao động ấn hành năm 1994, tác giả
đã phân tích các nguồn lực trong một đất nước và nhấn mạnh cần sử dụng tốt
các nguồn lực trong xã hội để đẩy mạnh phát triển kinh tế. Nguồn lực đầu tiên là
nền giáo dục, sử dụng đất đai hợp lý, nguồn lực cho nền công nghiệp, năng
lượng hạt nhân, sử dụng công nghệ mới [40].
Bên cạnh đó, có một số bài nghiên cứu cũng đề cập đến khái niệm nội lực
như: Suy nghĩ thêm một số yếu tố trong các nguồn nội lực của tác giả Nguyễn
Quang Luyện thuộc Viện Kinh tế học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn

quốc gia, đăng trên Tạp chí Hoạt động khoa học, số 4, năm 1999; Nguồn nội lực
của dân tộc, Văn Hùng, Tạp chí Thương mại, số 17, 2006.
- Khái niệm ngoại lực:
Bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong phòng,
chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay"
của tác giả Phạm Thanh Sơn in trên Tạp chí Khoa học quân sự (tháng 8-2010)
cho rằng: “Sức mạnh thời đại là khái niệm chỉ các thành tựu do con người sáng
tạo ra theo các quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, theo đó
thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội” [91].
Trong bài viết Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt
Nam của tác giả Trần Văn Thọ (Giáo sư kinh tế, Đại học Waseda, Tokyo) trên
7


cơ sở tập trung vào các nguồn lực như vốn, công nghệ và tri thức quản lý, kinh
doanh, tác giả đưa ra cái nhìn biện chứng giữa nội lực và ngoại lực trong các
nguồn lực: Tri thức quản lý và năng lực kinh doanh có thể gọi chung là nguồn
lực kinh doanh (managerial resources). Nguồn vốn (capital resources), công
nghệ và nguồn lực kinh doanh là những biểu hiện cụ thể của từ lực trong nội lực
và ngoại lực. Các nguồn lực này được vận dụng qua hoạt động của các doanh
nghiệp. Do đó, nội lực và ngoại lực vừa có thể được đánh giá trên bình diện vĩ
mô (vị trí của hai nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân) vừa có thể được đánh
giá qua kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn trong nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư của nước ngoài.
Đặc biệt, bàn sâu về nội lực và ngoại lực, trong bài "Kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc" của Nguyễn Ngọc
Hồi trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân (tháng 5 - 2014), tác giả đã phân biệt cho
chúng ta thấy sự giống và khác nhau giữa các khái niệm: nội lực, sức mạnh bên
trong, sức mạnh dân tộc và ngoại lực, sức mạnh bên ngoài, sức mạnh thời đại.
Trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX), vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với

sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc chưa đứng riêng thành một quan điểm độc
lập, mà được xem xét trong mối quan hệ giữa nội lực với ngoại lực, giữa sức
mạnh trong nước với sức mạnh bên ngoài (điều kiện quốc tế). Tại quan điểm thứ
năm, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) xác định: “ra sức phát huy nội lực,
đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài”; đồng thời
nhấn mạnh ở quan điểm thứ ba: “Sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định”. Ở
đây, dường như “nội lực” - yếu tố bên trong của đất nước, được xem là “sức
mạnh dân tộc”; và “thuận lợi ở bên ngoài”, hay là yếu tố bên ngoài - ngoại lực,
được xem là “sức mạnh thời đại”. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ, chưa toàn diện.
Với nhận thức biện chứng hơn, sâu sắc hơn nội hàm “sức mạnh của dân
tộc” và “sức mạnh của thời đại” trong so sánh với yếu tố nội lực - bên trong và
yếu tố ngoại lực - bên ngoài, Nghị quyết số 28-NQ/TW (khóa XI) không chỉ đặt
vấn đề “phát huy nội lực” và “kết hợp phát huy nội lực với tranh thủ tối đa mọi
thuận lợi từ bên ngoài”, mà còn bổ sung thêm mệnh đề “Phát huy sức mạnh của
dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại”. Rõ ràng ở đây, sức mạnh của dân
tộc không chỉ là sức mạnh nội lực và không chỉ bó hẹp ở sức mạnh bên trong,
bởi nó còn bao gồm cả một phần ngoại lực cần được huy động cho sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là nguồn lực to lớn về vật chất và tinh thần, chất xám
cùng nguồn lực tài chính và tấm lòng hướng về cội nguồn của hơn 4,5 triệu
8


người Việt Nam ở nước ngoài, vốn đã được coi “là một bộ phận không tách rời
của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Do vậy, “sức mạnh của dân tộc” có nội hàm
rộng hơn “nội lực” và “sức mạnh bên trong”; nó “thể hiện ở sức mạnh tổng hợp
cả về vật chất và tinh thần. Đó là sự phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền
vững; sức mạnh quốc phòng toàn dân ngày càng hiện đại; sự ổn định chính trị xã hội vững chắc; bản sắc văn hóa dân tộc không ngừng được phát huy; sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân”. Còn sức mạnh của thời đại cần phát huy cũng không hoàn toàn chỉ là các
yếu tố bên ngoài - ngoại lực, mà còn bao gồm cả một phần yếu tố bên trong - nội

lực. Sự kiên định của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - mục tiêu được hình thành do có yếu tố thời
đại - trong đường lối chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đâu phải là ngoại lực,
mà đó chính là nội lực, là sức mạnh bên trong, nhưng lại được gắn kết nhuần
nhuyễn với yếu tố thời đại, yếu tố bên ngoài. Tương tự khi chúng ta kiên định
thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài - thành phần kinh tế do yếu tố thời đại đem lại - được coi là một
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, được khuyến khích phát
triển. Đó chính là sức mạnh bên trong, sức mạnh nội lực, nhưng lại chứa đựng ở
đó những yếu tố ngoại lực, của thời đại. Trên tầm tư duy biện chứng như vậy,
Nghị quyết 28-NQ/TW (khóa XI) không đồng nhất “sức mạnh dân tộc” với “sức
mạnh nội lực, sức mạnh bên trong”; không đồng nhất “sức mạnh thời đại” với
các yếu tố “từ bên ngoài”, mà tiếp cận vấn đề một cách toàn diện hơn và khoa
học hơn, khi vừa khẳng định “Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp
với sức mạnh của thời đại”, vừa nhấn mạnh bộ phận căn bản nhất, nòng cốt nhất
của sức mạnh dân tộc là nhân tố nội lực giữ vai trò quyết định.
Như vậy, về khái niệm nội lực và ngoại lực, còn có cách hiểu khác nhau,
chủ yếu đồng nhất nội lực với sức mạnh dân tộc, ngoại lực với sức mạnh thời
đại. Tác giả đồng tình với quan điểm của Nguyễn Ngọc Hồi trong bài "Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc" khi
có sự phân biệt giữa các khái niệm: nội lực với sức mạnh dân tộc, sức mạnh bên
trong; ngoại lực với sức mạnh thời đại, sức mạnh bên ngoài. Tuy nhiên nội dung
bài viết trên chỉ xoay quanh vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
9


1.1.2. Về vai trò của khai thác nội lực và ngoại lực đối với sự phát triển
của đất nước

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định:
"Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng
thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng
để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh
tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
sâu rộng và có hiệu quả" [33, tr.102].
Trong cuốn sách “Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2012, các
tác giả Phạm Ngọc Anh (chủ biên), Ngô Xuân Dương, Lê Thị Hằng đã trình bày
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy các nguồn lực của dân làm lợi
cho dân. Phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp chủ yếu vận dụng, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân
trong công cuộc đổi mới.
Với quan điểm cho rằng sự đồng lòng, chung sức của nhân dân là một yếu
tố quan trọng tạo nên sức mạnh nội lực của dân tộc, Phan Bội Châu cho rằng,
lòng người có quyền nắm tất cả thiên thời địa lợi. Vận thời sẽ trở về và thành
công sẽ đến, khi mọi người đồng lòng chung sức. Nội dung này được tác giả
Nguyễn Văn Hoà phân tích trong bài “Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội lực”
đăng trên Tạp chí Triết học, số 3, 2008.
Trong bài "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc” trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân (tháng 5-2014), tác giả
Nguyễn Ngọc Hồi đã chỉ ra: sự kết hợp giữa nội lực và ngoại lực phải theo tinh
thần “phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc”, lấy việc “phát huy nội lực là
nhân tố quyết định” trong khi tận dụng tối đa những thuận lợi từ bên ngoài. Đây
chính là sự quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết
mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại, mà theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải nêu cao tinh thần “tự
lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Dựa vào sức mình là chính đòi hỏi
phải chăm lo xây dựng nội lực, phát huy sức mạnh dân tộc. Điểm mới mà Nghị

quyết 28-NQ/TW (khóa XI) nhấn mạnh không chỉ là phát huy sức mạnh dân tộc
nói chung, mà là “phát huy cao nhất” sức mạnh đó. Điều này là cần thiết và khả
thi, khi mà thế và lực của đất nước được nâng lên rất nhiều so với trước đây;
10


đồng thời, tiềm năng sức mạnh dân tộc còn lớn, chưa được phát huy có hiệu quả
cao. Thêm nữa, trong bối cảnh quốc tế đầy biến động, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất
trắc, khó lường, yêu cầu “phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc”, “phát huy
nội lực là nhân tố quyết định” không chỉ thể hiện tinh thần tích cực, chủ động,
không trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài của chúng ta, mà còn là điều kiện để chúng
ta tiếp nhận có hiệu quả các yếu tố ngoại lực do xu thế thời đại đem lại. Hơn thế,
có phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội lực, chúng ta mới giữ
vững được độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại,… để trên cơ sở đó chủ động chuyển hóa sức
mạnh ngoại lực thành sức mạnh nội lực. Phát huy cao nhất sức mạnh của dân
tộc, coi phát huy nội lực là nhân tố quyết định, đòi hỏi phải chăm lo xây dựng và
phát huy cao độ các yếu tố tạo thành sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội lực.
Cuốn sách Dân chủ hóa và phát huy nội lực của tác giả Hồ Bá Thâm do
Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành. Nội dung cuốn sách phân tích dân chủ ở
Việt Nam; tiến trình, tính chất và trình độ phát triển; vấn đề phát huy vai trò
động lực dân chủ; vấn đề dân chủ hóa và phát huy nội lực. Đó là cái nhìn triết
học chính trị trong dòng chảy triết học nhân văn và triết học phát triển mà tác
giả đã bàn tới.
Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam của
tác giả Trần Văn Thọ, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2006
nêu ra quan điểm Đông Á là khu vực năng động nhất trên địa cầu hiện nay.
Cuốn sách này trả lời các câu hỏi trên và tập trung phân tích hầu hết các vấn đề
liên quan đến công nghiệp hoá, đề khởi các chiến lược, chính sách, biện pháp
nhằm tăng sức cạnh tranh của kinh tế Việt Nam để đối phó hữu hiệu với các

thách thức và tận dụng các cơ hội phát triển ở vùng Đông Á. Công nghiệp hoá
và công bằng xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá và thời đại công nghệ thông tin,
lợi thế so sánh động, công nghiệp phụ trợ, nội lực và ngoại lực, liên kết hàng
dọc và hàng ngang giữa doanh nghiệp trong nước với các công ty đa quốc gia,
chiến lược khám phá và tiếp cận thị trường, tinh thần doanh nghiệp, đạo đức
kinh doanh,... là những chủ đề được bàn đến trong tầm nhìn về con đường công
nghiệp hoá Việt Nam.
Giáo sư Phan Huy Lê đã nhấn mạnh vai trò của yếu tố ngoại lực: “Đóng
góp thêm vào nội lực tiềm tàng đó, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình,
Việt Nam còn tranh thủ được sức mạnh của thời đại, sự ủng hộ của dư luận quốc
tế, của nhân dân các nước kể cả nhân dân nước đi xâm lược”, bài viết "Sức
11


mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại sẽ làm nên thắng lợi", Báo Công lý online cơ quan ngôn luận của Tòa án nhân dân tối cao, ngày 19-5-2014.
Bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong phòng,
chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay"
của tác giả Phạm Thanh Sơn in trên Tạp chí Khoa học quân sự (tháng 8-2010)
đã phân tích sức mạnh của thời đại mà chúng ta đang sống hiện nay gắn liền với
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, tạo ra những tiền đề vật chất,
tinh thần trong đấu tranh vì hoà bình dân tộc, tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong đấu tranh phòng,
chống "diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay là
quá trình tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, huy động và sử dụng tốt nhất các
nguồn nội lực và ngoại lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp, chủ động đối phó và
làm phá sản âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình” trên các lĩnh vực chính trị
tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, quốc phòng an ninh... của các thế
lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phân tích về vai trò của sức mạnh thời đại, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Phúc viết: Mặc dù có vai trò quyết định, nhưng sức mạnh dân tộc hay nội lực

không phải là tất cả. Sẽ là hạn chế và khiếm khuyết nếu không biết đến những
nguồn lực bên ngoài, những sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển, bài
viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát
triển đất nước hiện nay", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 7-5-2012.
Tác giả Nguyễn Nam Thắng đã phân tích trong bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh
về thi đua yêu nước và việc phát huy nội lực bảo vệ Tổ quốc hiện nay": Thực
tiễn phát triển của dân tộc ta qua mấy nghìn năm lịch sử đã chứng tỏ sức mạnh
to lớn về tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta, giúp dân tộc ta vượt lên
mọi khó khăn, thách thức giành những thành tựu vẻ vang trong công cuộc dựng
nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tốt đẹp đã khẳng định tầm cao
nhân cách, chiều sâu văn hóa của mỗi công dân đối với Tổ quốc; đồng thời là
sức mạnh tiềm tàng, nội sinh thường trực trong lòng dân tộc; là nguồn lực không
bao giờ cạn trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Đây còn là đặc trưng tiêu
biểu về nhân cách của con người Việt Nam, là một trong những động lực quan
trọng nhất góp phần gắn kết cộng đồng, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy đất nước phát triển.
"Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay" của tác giả Trần Quang
12


Cơ, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 4 - 2005 nêu: Từ tính chất thời đại sâu
sắc và ý nghĩa quốc tế to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng
ta xác định rõ tầm quan trọng to lớn của những nhân tố bên ngoài đối với cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta và ta có khả năng tranh thủ
được các nhân tố đó để gia tăng sức mạnh của dân tộc lớn gấp bội. Không tận
dụng được các nhân tố bên ngoài, không vận dụng được sức mạnh của các lực
lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới ủng hộ ta thì có thể nói, kháng chiến
khó giành được thắng lợi, hoặc phải đấu tranh rất trầy trật và không thể thắng lợi
hoàn toàn. Tất nhiên, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta giành được

thắng lợi hay không chủ yếu là do quyết tâm của nhân dân ta, do sức mạnh của
quân đội ta, của dân tộc ta, nhưng yếu tố quốc tế cũng quyết định một phần lớn.
Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn và hết sức sáng tạo, nên đã vận
dụng được tối đa các nhân tố quốc tế, phát huy được sức mạnh thời đại ủng hộ
nhân dân ta chống Mỹ thắng lợi.
Ngoài ra, có nhiều bài viết, sách báo nêu lên vai trò của nội lực đối với sự
phát triển của đất nước như: "Malayxia trông cậy vào sức mạnh và nguồn lực
của chính mình" của Phương Ly đăng trên Tạp chí Đông Nam Á, số 3, 2005;
"Nội lực Việt Nam" của Trần Thanh Đạm, Tạp chí Xưa và nay, số 236, 2005;
"Vốn hóa các tài sản trong dân - Vấn đề quan trọng để huy động các nguồn lực
cho đầu tư" của Đan Đức Hiệp, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 149, 2009;
"Quản lý ODA trong giáo dục ở Việt Nam: Nâng tầm ngoại lực" của Nguyễn
Hữu Hiếu, Tạp chí Tài chính, số 4, 2007; "Nội lực vẫn là yếu tố quyết định" của
Lê Hải, Tạp chí Đầu tư chứng khoán, số 286, 2005.
1.1.3. Về mối quan hệ giữa khai thác nội lực và khai thác ngoại lực
Bài viết "Kết hợp sức mạnh với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát
triển đất nước hiện nay", nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Phúc - Viện Triết học,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 7-5-2012, phân tích mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại: Với tư cách là nguồn lực của phát triển, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại là thống nhất. Tuy nhiên, việc huy động và kết hợp hai nguồn lực này trong
thực tế là có một vấn đề miển, đặc biệt là tài
nguyên du lịch biển. Về du lịch biển, các địa phương cần quan tâm đầu tư, nâng
cấp cơ sở vật chất, phát huy yếu tố văn hoá của từng địa phương trong phát triển
du lịch biển để tạo dấu ấn riêng và thu hút khách du lịch. Đẩy mạnh đầu tư hạ
tầng các cảng biển, bến neo đậu, cầu cảng tại các vịnh, đô thị ven biển kết nối
với các đảo, đặc biệt là hạ tầng cầu cảng tại các đảo. Nghiên cứu tính khả thi đầu
tư xây dựng sân bay phù hợp với điều kiện ở các đảo; kết nối các đảo của Việt
Nam với đất liền và quốc tế. Đầu tư hạ tầng về năng lượng điện và nước sạch
trên các đảo để từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ trên đảo.

Nhà nước cần quan tâm định hướng cho doanh nghiệp du lịch về sản phẩm
du lịch biển hướng ra Biển Đông (đến nay, du lịch Việt Nam mới khai thác dịch
vụ ven bờ và các bãi biển là chủ yếu; các hoạt động du lịch trên mặt nước và
dưới đáy biển, ngoài đảo xa còn hạn chế).
Hướng tới phát triển du lịch theo chiều sâu, khai thác các dịch vụ nghỉ
dưỡng, giải trí, khám phá, thể thao trên mặt biển, dưới đáy biển và ngoài đảo xa;
đa dạng hóa sản phẩm du lịch biển, nâng cao giá trị gia tăng và khai thác các
tiềm năng, lợi thế từ biển.
- Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, nhất là trong bối
cảnh nước ta hội nhập quốc tế càng sâu, rộng trong bối cảnh hợp tác và đấu
tranh trên trường quốc tế đan xen phức tạp, cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc
liệt. Tất cả mọi hoạt động đối ngoại, xử lý các vấn đề liên quan đến địa chính trị
của Việt Nam và khu vực đều trên nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế, những
quy tắc ứng xử chung và đảm bảo lợi ích căn bản của quốc gia, dân tộc.
4.3. Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn ngoại lực
Ngoại lực là những yếu tố đến từ bên ngoài, bởi vậy, muốn có giải pháp
khai thác tốt, trước tiên chúng ta phải lưu ý một số định hướng và nguyên tắc
sau:
Một là, cần nâng cao nhận thức về bản chất của từng loại nguồn lực và có
quan điểm tổng thể, toàn diện trong việc khai thác các nguồn lực cũng như quan
điểm cụ thể và đặc thù của từng loại. Quan điểm khai thác ngoại lực đòi hỏi loại
bỏ các loại định kiến hoặc sự phân biệt đối xử hoặc quá chú ý khai thác một
nguồn lực dẫn đến mất cân đối. Do đó, về phía Nhà nước, cần xây dựng chiến
lược khai thác các nguồn ngoại lực mang tính dài hạn và toàn diện trên nguyên
138


tắc khuyến khích thu hút đến mức cao nhất nguồn lực chất lượng cao từ bên
ngoài và bảo hộ thỏa đáng nguồn lực thu hút.

Đồng thời, cần xây dựng cơ chế sàng lọc từng loại nguồn lực và có sự lựa
chọn thậm chí khắt khe các nguồn lực có khả năng gây ra tác động tiêu cực
nhiều hơn tác động tích cực. Các tiêu chuẩn để đánh giá, sàng lọc các nguồn
ngoại lực trong từng lĩnh vực, ngành, vùng cần được xây dựng và công bố công
khai để các cấp, ngành, địa phương áp dụng phù hợp. Hơn nữa, cần xây dựng
quy hoạch thu hút nguồn lực cụ thể, chi tiết, khoa học trên cơ sở dự báo nhu cầu
thu hút nguồn lực này một cách hiệu quả.
Cần học hỏi kinh nghiệm các quốc gia trong thu hút các nguồn ngoại lực,
đặc biệt cần nghiên cứu và đánh giá cả những bài học thành công và chưa thành
công của các quốc gia để xây dựng hệ thống giải pháp có hiệu quả cao nhất.
Hai là, rà soát, đánh giá các chủ trương, chính sách, và biện pháp thu hút
các nguồn ngoại lực trong thời gian qua để đánh giá những kết quả đạt được,
hạn chế và nguyên nhân nhằm hoàn thiện cao nhất chính sách, biện pháp, quan
niệm cũng như bộ máy thực hiện. Sẵn sàng nói không với các nguồn lực không
bảo đảm chất lượng, thậm chí gây tác động tiêu cực đối với nền kinh tế.
Ba là, cần phát huy vai trò của các cơ quan ngoại giao, các doanh nghiệp,
tổ chức hoạt động, cá nhân đang định cư, học tập ở nước ngoài và các cơ quan
chính phủ, cá nhân nước ngoài để khảo sát, tìm hiểu, phân tích, phát hiện và tìm
giải pháp khai thác các tiềm năng về các nguồn ngoại lực phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
Bốn là, các tổ chức, cá nhân cần có sự đồng thuận về nhận thức với Chính
phủ và các địa phương để vừa tranh thủ thu hút các nguồn ngoại lực ở mức cao
nhất vừa có giải pháp để giảm thiểu các nguồn ngoại lực tiềm ẩn hoặc bộc lộ tác
động tiêu cực để vừa khống chế, giảm thiểu, thậm chí loại bỏ chúng mà chính
sách, bộ máy chưa sàng lọc và lựa chọn hiệu quả. Bên cạnh đó, cần coi trọng
việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực thu hút để tránh lãng phí hoặc bị mất đi
do cạnh tranh thu hút từ các quốc gia khác.
4.3.1. Giải pháp khai thác vốn
- Tạo môi trường thông thoáng, cơ chế mở để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài

Trong giai đoạn 2015 - 2020, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút
và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
139


Chính phủ cần tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo giảm lạm phát
xuống xoay quanh mức 5%/năm; lãi suất ngân hàng xoay quanh mức 10%/năm;
đồng thời tỷ giá ổn định. Đây là điều kiện tiên quyết giúp cho doanh nghiệp
trong nước ổn định kinh doanh, cũng như cải thiện môi trường kinh doanh hấp
dẫn nhà đầu tư nước ngoài.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần có
sự kết hợp chặt chẽ chính sách đầu tư nước ngoài với các chính sách điều chỉnh
ngành khác, bao gồm chính sách đầu tư chung, chính sách khu công nghiệp theo
hướng hình thành cụm công nghiệp có tính chuyên môn hóa và chính sách phát
triển kinh tế vùng. Các chính sách này cần xây dựng trên nguyên tắc tiếp cận
tổng thể quốc gia để tạo tín hiệu chung dẫn dắt FDI tới ngành, vùng cần khuyến
khích phát triển; hạn chế các địa phương thu hút các ngành nghề như nhau, thiếu
sự phối hợp và bổ sung cho nhau giữa các ngành dẫn đến tình trạng phát triển
tràn lan mà vẫn thiên lệch, thiếu chuyên môn hóa.
Rà soát và sửa đổi, bổ sung quy chế phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài,
bảo đảm tính chủ động của các địa phương nhưng cần gắn với trách nhiệm giải
trình, hoàn thiện hệ thống chế tài để tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát, điều
chỉnh của các Bộ, cơ quan Trung ương trong trường hợp cần thiết.
Có các chính sách, quy định về thuế, phí, đất đai, quản lý ngoại hối... để thu
hút, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, chế biến sử dụng đầu
tư vào trong nước thay vì nhập khẩu, gia công, lắp ráp, chú trọng vào kinh
doanh thương mại, nhất là tại thị trường nội địa. Tăng cường thu hút đầu tư nước
ngoài vào các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Việt Nam là nước đang phát triển nên nhu cầu vốn là rất lớn. Dòng vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là một trong những tác nhân kinh tế quan
trọng trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của nước ta. Đã có
những giai đoạn kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, các nguồn vốn cũng bị
cắt giảm. Tuy nhiên kể từ năm 2011 trở lại đây, các nguồn vốn đầu tư vào Việt
Nam như FDI, ODA… liên tục tăng qua các năm. Năm 2015, tổng vốn FDI
đăng ký cấp mới và tăng thêm là 22,757 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ
năm 2014. Dòng vốn FDI đổ mạnh vào Việt Nam trong thời gian gần đây phần
lớn vẫn tiếp tục tập trung vào lĩnh vực sản xuất hàng điện tử. Dòng vốn ODA
vẫn tập trung vào các công trình về xây dựng hạ tầng xã hội như: giao thông,
điện, nước, bưu chính viễn thông… Tuy nhiên, đối với dòng vốn ODA, chúng ta
phải có những điều chỉnh thích hợp trong việc chọn lọc các dự án, bởi vì nếu
140


như cách đây 30 - 40 năm, lãi suất cho vay các dự án ODA chỉ từ 0,7 - 0,8% thì dự
kiến đến hết tháng 7 - 2017, Việt Nam phải chuyển sang sử dụng nguồn vay ưu đãi
và tiến tới vay theo điều kiện thị trường, lãi suất cao hơn. Nguồn vốn ODA đã vay
chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên 2-3,5%.
- Nâng cao tín nhiệm tín dụng quốc gia
Nhà nước cần thành lập Ủy ban nâng cao tín nhiệm tín dụng quốc gia.
Thành phần bao gồm: Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Ủy ban Giám sát Tài
chính quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ. Ủy ban này xem
xét đề xuất biện pháp, hướng xử lý những khoản nợ của Việt Nam với nước
ngoài đã đến hạn nhưng không có khả năng trả. Ngoài ra, cần có giải pháp cụ thể
nâng dần độ tín nhiệm tín dụng quốc tế của Việt Nam.
- Có chính sách ưu đãi với những nhà đầu tư chiến lược tại Việt Nam
Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích để thu hút các dự
án đầu tư hình thành mạng lưới liên kết sản xuất, kinh doanh, các ngành công
nghiệp hỗ trợ để hình thành chuỗi giá trị. Có chính sách thu hút công ty đa quốc
gia, có chính sách ưu đãi đối với các công ty đa quốc gia có kế hoạch liên kết

với các doanh nghiệp trong nước về tiêu thụ, cung ứng sản phẩm để hình thành
các cụm công nghiệp - dịch vụ.
Nhà nước cần tập trung, cần có nhiều chế độ, chính sách ưu đãi cho những
đối tác đầu tư chiến lược của Việt Nam (như: Hàn Quốc, Nhật Bản...). Tuy
nhiên, cần xem xét cho ký quỹ trước khi đầu tư (hình thức đặt cọc) cũng như
xem xét quy mô sử dụng đất từ thấp nâng dần lên cao. Tránh tình trạng một
doanh nghiệp quốc tế đưa kế hoạch sử dụng hàng 1.000ha đất, nhưng chưa chắc
đã sử dụng đến trong một thời gian dài, làm mất cơ hội đầu tư của nhiều nhà đầu
tư tiềm năng khác.
- Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
Nhà nước cần tập trung, khẩn trương tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
thương mại lành mạnh phát triển bền vững; đây là kênh chứng minh và hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài chuyển tiền vào đầu tư tại Việt Nam. Thực hiện
nghiêm công khai, minh bạch công bố thông tin; thực hiện tuân thủ những chuẩn
mực quốc tế trong hệ thống ngân hàng thương mại.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam.
Nhà nước cần hợp tác với các nước quốc tế trong việc tập trung quản lý sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA. Thông qua đó giữ được nguồn cam kết và
giải ngân nguồn vốn ODA cho Việt Nam.
141


Thu hút vốn FDI phải được điều chỉnh theo hướng chuyển từ thiên về số
lượng như trước đây, sang chú trọng nhiều hơn đến hiệu quả thu hút và nâng cao
chất lượng đầu tư, tận dụng tối đa nguồn FDI để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại và hiệu quả, thực hiện nâng cao chất lượng tăng
trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từ đó góp phần giảm nghèo
nhanh và bền vững.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung thể chế và triển khai áp dụng nghiêm hệ thống
quy định các yêu cầu bắt buộc về công nghệ, chuyển giao công nghệ, thu hút,

đào tạo kỹ năng cho người lao động. Quy định yêu cầu bắt buộc về chất lượng
của các dự án FDI tùy theo lĩnh vực và địa bàn đầu tư. Quy định về trình độ
công nghệ dự án FDI cho từng ngành theo địa bàn đầu tư. Đối với các đô thị có
mật độ công nghiệp cao, những địa bàn phát triển du lịch sinh thái sẽ hạn chế tối
đa thu hút FDI có hàm lượng công nghệ thấp, gây ô nhiễm ở mức độ nhất định
và tỷ trọng gia công cao.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành cần tăng tỷ trọng
đầu tư nước ngoài như đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp và
nông thôn, điện, nước, tài chính, tín dụng, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, hoạt
động phục vụ cá nhân và cộng đồng; các ngành sản xuất có yếu tố hàm lượng
công nghệ, đào tạo lao động và chuyển giao công nghệ, kỹ năng. Hỗ trợ các hoạt
động đầu tư có hiệu quả, đồng thời giảm thiểu những mặt hạn chế, tiêu cực như
nhập khẩu nhiều nhưng không chú trọng sản xuất mà chỉ tập trung vào gia công,
lắp ráp và khai thác thị trường nội địa là chủ yếu; lợi dụng kẽ hở về chính sách,
pháp luật của Việt Nam để thực hiện hành vi chuyển giá, kê khai lỗ hoặc lợi
nhuận thấp để chuyển lợi nhuận về nước, không có đóng góp hoặc đóng góp rất
thấp cho nguồn ngân sách nhà nước của Việt Nam. Không tiếp nhận hoặc hạn
chế tối đa những dự án đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ thấp, có khả năng
tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường sinh thái.
- Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư: Cần nâng cao chất lượng của các
chương trình, đề án thuộc xúc tiến đầu tư quốc gia theo hướng có trọng tâm,
trọng điểm, tổ chức đi vào chiều sâu. Kiến nghị cho phép các tham tán thương
mại Việt Nam tại các nước được phép thu phí hoa hồng tư vấn đối với các doanh
nghiệp trong nước Việt Nam.
Ban hành văn bản pháp quy nhằm điều chỉnh và quản lý thống nhất hoạt
động xúc tiến đầu tư trên cả nước; xây dựng Chiến lược xúc tiến đầu tư điều
142


phối tổng thể các hoạt động xúc tiến ở bình diện quốc gia; xây dựng và công bố

danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2016 - 2020.
4.3.2. Giải pháp khai thác khoa học - công nghệ
Thế giới đang bước vào xây dựng nền kinh tế tri thức bởi tri thức đang trở
thành nguồn lực quan trọng nhất trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần
cho xã hội. Kinh tế tri thức gắn liền với quá trình toàn cầu hóa dựa vào sự phát
triển mạnh mẽ của hệ thống hạ tầng thông tin toàn cầu cũng như sự phân công
lao động quốc tế. Do vậy, kinh tế tri thức đã tác động sâu rộng đến sự biến đổi
phát triển của các quan hệ sản xuất. Kinh tế tri thức với tốc độ hoạt động, biến
đổi rất nhanh sẽ tạo ra những cơ hội, mà các nước đang phát triển có thể đi tắt,
đón đầu, nắm bắt được những cơ hội phát triển để dần thu hẹp khoảng cách đối
với các nước phát triển.
Có thể nói phát triển khoa học công nghệ và kinh tế tri thức là hai mặt của
một quá trình không thể tách rời, đặc biệt trong việc phát triển các công nghệ
cao như công nghệ nano, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... Để thúc
đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, tận dụng những cơ hội do hội nhập mang lại chúng ta cần thực hiện các giải
pháp sau:
- Đẩy mạnh thu hút đầu tư và công nghệ nước ngoài.
Trong quá trình toàn cầu hóa, các dòng hàng hóa được lưu thông tự do hơn
sẽ kéo theo nó sự vận động của các dòng vốn và công nghệ. Trong cơ chế thị
trường, các nguồn lực vận động theo nguyên tắc là di chuyển từ nơi thừa đến nơi
thiếu, từ chỗ sinh lợi ít đến chỗ sinh lợi nhiều hơn... Do tích lũy vốn đến mức
cao và không ngừng hiện đại hóa công nghệ, ở các nước phát triển xuất hiện tình
trạng dư thừa vốn; có những công nghệ mới không tìm được nơi sinh lợi cao,
những công nghệ cũ không có chỗ sử dụng đang xuất hiện ngày càng nhiều.
Những nguồn vốn và công nghệ này tất yếu sẽ chảy sang các nước phát triển nơi có khả năng sinh lợi lớn hơn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Việt Nam mở cửa và tích cực đón nhận những
dòng đầu tư từ nước ngoài, đặc biệt là những công nghệ mới. Việc tiếp nhận
công nghệ mới góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất và sức
cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Các công nghệ này có thể là cũ và không

hiệu quả ở các nước phát triển nhưng lại là mới và có hiệu quả ở Việt Nam.
Do khả năng tiếp cận thị trường bên ngoài Việt Nam còn hạn chế, việc vay
vốn và nhập khẩu công nghệ mới cũng không dễ dàng. Đặc biệt khả năng quản
143


lý kinh doanh còn nhiều yếu kém nên mô hình này tuy đã thành công ở Hàn
Quốc, Đài Loan nhưng không dễ thành công ở nước ta. Con đường thích hợp
với Việt Nam trong điều kiện hiện nay là hội nhập quốc tế sâu rộng để khai
thông thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư có
hiệu quả và có sức hấp dẫn.
Trong các dòng vốn du nhập vào nước ta có dòng vốn FDI có khả năng
đem theo các công nghệ mới và sử dụng chúng có hiệu quả hơn cả. Các công ty
xuyên quốc gia đầu tư trực tiếp vào Việt Nam hiện đang nắm giữ tới 90% công
nghệ tiên tiến của thế giới và có mạng lưới chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới.
Chúng có khả năng di chuyển công nghệ từ nước kém lợi thế cạnh tranh hơn
sang một nước khác. Nhờ đó công nghệ được khai thác có hiệu quả hơn. Hội
nhập kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư sẽ khai thác được dòng di chuyển công
nghệ này.
- Thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, hàng rào bảo hộ mậu dịch dần được
gỡ bỏ, quan hệ buôn bán giữa các quốc gia ngày càng được tăng cường, vì vậy
thị trường thế giới ngày càng được mở rộng. Các hiệp định thương mại song
phương, đa phương sẽ cho phép thị trường của một nước được khai thông với tất
cả các nước đối tác.
Do mở rộng xuất khẩu và sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp bắt buộc
phải đổi mới khoa học - công nghệ. Điều này có nghĩa, yêu cầu về khoa học công nghệ sẽ tăng nhanh. Là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế, khoa
học - công nghệ còn rất thấp so với nhiều nước trên thế giới, tham gia các tổ
chức, liên hiệp của khu vực và quốc tế sẽ giúp Việt Nam có thể tiếp nhận nhiều
công nghệ khác nhau trên thế giới.

- Lựa chọn đầu tư khai thác những ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn.
Nghiên cứu một số vấn đế lý thuyết thuộc lĩnh vực mũi nhọn và ứng dụng
có chọn lọc các thành tựu khoa học hiện đại nhằm tạo cơ sở cho đổi mới công
nghệ, định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Trước mắt tập trung chủ yếu vào các ngành toán học, công nghệ thông tin, các
khoa học hệ thống và điều khiển học; vật lý chất rắn, quang học, vật lý lade, vật
lý hạt nhân; cơ học các kết cấu công trình, cơ học các vật liệu mới, động lực
học, các hệ thuỷ khí động học; hoá hữu cơ, hấp thụ và xúc tác, hoá phân tích;
sinh vật học nhiệt đới, kỹ thuật tế bào, công nghệ gien, sinh học phân tử; cấu
trúc địa chất và đặc điểm địa động lực Việt Nam, vật lý địa cầu, nghiên cứu địa
144


lý, biến đổi khí hậu, dự báo các quá trình tai biến thiên nhiên Việt Nam, nghiên
cứu biển, thềm lục địa.
Lấy ứng dụng, chuyển giao công nghệ là chính. Tạo được khả nǎng lựa
chọn, thích nghi và làm chủ các công nghệ nhập; đi thẳng vào các công nghệ
tiên tiến nhất, trước hết ở những ngành, những lĩnh vực có tác động chi phối nền
kinh tế quốc dân, những ngành có giá trị gia tǎng cao, ngành công nghiệp mới
xây dựng, ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Đồng thời, đổi mới công
nghệ từng phần, hiện đại hoá từng khâu đối với những lĩnh vực còn cơ sở vật
chất - kỹ thuật và sản xuất còn hiệu quả.
- Tăng cường hợp tác về khoa học - công nghệ.
Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, nhiệm vụ nghiên cứu
chung trong khuôn khổ các thỏa thuận song phương, đa phương. Khuyến khích
hợp tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ giữa doanh nghiệp, trường
đại học, viện nghiên cứu, cá nhân trong nước với các đối tác nước ngoài. Thu
hút nguồn kinh phí từ nước ngoài thông qua các dự án nghiên cứu tại Việt Nam.
Tăng cường tổ chức và chủ trì các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế tại Việt
Nam và tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học ở nước ngoài. Tổ chức triển

lãm giới thiệu các thành tựu khoa học và công nghệ mới, tiên tiến của các nước
và Việt Nam.
Xây dựng và triển khai nội dung, kế hoạch hợp tác khoa học và công nghệ
tầm quốc gia với các nước mạnh về khoa học và công nghệ và là đối tác chiến
lược của Việt Nam. Hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học xuất sắc trên
cơ sở hợp tác dài hạn giữa các tổ chức nghiên cứu khoa học của Việt Nam và
của nước ngoài. Thí điểm hợp tác xây dựng một số viện khoa học và công nghệ
tiên tiến có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Xây dựng đội ngũ, nhóm nghiên cứu mạnh về khoa học - công nghệ.
Phát huy hiệu quả hoạt động của mạng lưới đại diện khoa học và công nghệ
Việt Nam ở nước ngoài. Thu hút các chuyên gia, nhà khoa học là người nước
ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia các chương trình, dự án nghiên
cứu, đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, hình thành các nhóm nghiên cứu
mạnh ở Việt Nam, trong đó chú trọng đến các nhóm nghiên cứu khoa học trẻ.
Xây dựng mạng lưới chuyên gia tìm kiếm công nghệ, xây dựng báo cáo về
thông tin công nghệ quốc tế, hồ sơ công nghệ quốc tế và các báo cáo khác liên
quan đến xu hướng phát triển công nghệ ở nước sở tại và thế giới. Tổ chức
nhóm chuyên gia theo từng lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên của quốc
145


gia, kết hợp giữa chuyên gia công nghệ với chuyên gia quản trị công nghệ; tổ
chức hội nghị, hội thảo khoa học; sinh hoạt chuyên đề, giao lưu giữa các nhóm
chuyên gia tìm kiếm công nghệ với các doanh nghiệp, tổ chức cơ quan trong
nước có nhu cầu tìm kiếm công nghệ nước ngoài; tiến hành thí điểm cử các nhà
khoa học và công nghệ trẻ Việt Nam vào làm việc trong các doanh nghiệp công
nghệ của thế giới.
- Xây dựng danh mục đặt hàng công nghệ cần tìm kiếm (bao gồm nhu cầu
về kỹ thuật, quy trình công nghệ; mục đích sử dụng công nghệ cần tìm; nguồn
sở hữu công nghệ đang tìm kiếm (quốc gia, chủ sở hữu công nghệ, đặc tính công

nghệ); năng lực tiếp thu của đơn vị tiếp nhận công nghệ) và tổ chức tìm kiếm
công nghệ. Xây dựng và hỗ trợ thực hiện các dự án chuyển giao công nghệ.
Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách và thông tin dữ liệu hội nhập quốc tế về
khoa học và công nghệ.

Tiểu kết chƣơng 4
Muốn xây dựng được hệ thống giải pháp tốt để khai thác hiệu quả các
nguồn nội lực và ngoại lực của đất nước thì vai trò hoạch định chiến lược, quan
điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước là yếu tố quan
trọng, có tác dụng định hướng, tạo môi trường, chi phối hầu hết các hoạt động
liên quan đến quá trình khai thác. Bởi vậy, cần phải không ngừng nâng cao năng
lực quản lý, điều hành và khả năng dự báo, nắm bắt xu thế của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta trên các ngành, các lĩnh vực.
Bên cạnh đó, việc khai thác và sử dụng các nguồn lực, cũng phụ thuộc vào
đặc điểm, tiềm năng, xu thế vận động, phát triển của các nguồn lực. Con người
bằng khả năng, trình độ và cách thức triển khai các hoạt động của mình chính là
yếu tố chủ quan, trực tiếp quyết định hiệu quả quá trình khai thác các nguồn nội
lực và ngoại lực. Do đó, cần không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết, kỹ năng
lao động để nắm bắt và thực hiện khai thác các nguồn lực đạt hiệu quả cao nhất.
Cụ thể, đối với nguồn lực con người, cần giải quyết tốt các nhu cầu cơ bản
của người lao động, đảm bảo tính công bằng trong hưởng thụ; có chính sách sử
dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo; ưu tiên dành vốn đầu
tư của Nhà nước và huy động vốn xã hội để giải quyết việc làm, nâng cao chất
lượng và hiệu quả sử dụng nguồn lao động; hoàn thiện cơ cấu hoạt động và việc
146


làm của nguồn lao động và chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao; động viên có hiệu quả tính tích cực của người lao động và nhất là
tinh thần yêu lao động... Về tài nguyên thiên nhiên, cần kết hợp khai thác hiệu

quả với việc nâng cao ý thức bảo vệ, tiết kiệm nguồn lực quý giá này. Có những
giải pháp hữu hiệu khai thác các giá trị văn hoá phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tận dụng các ưu điểm về vị thế địa chính trị trong
bối cảnh toàn cầu hóa, đa dạng hóa quan hệ với các nước trên các lĩnh vực, cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, cả về mặt Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ với nhiều hình thức linh hoạt.
Về ngoại lực, tạo môi trường thông thoáng, cơ chế mở để thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, nâng cao tín nhiệm tín dụng quốc gia, có chính sách ưu đãi với
những nhà đầu tư chiến lược tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
vốn đầu tư vào Việt Nam. Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư: Khoa học công
nghệ là chìa khóa để chúng ta tạo đà bứt phá trong thế giới hiện đại, trong quá
trình toàn cầu hóa, các dòng hàng hóa được lưu thông tự do hơn sẽ kéo theo nó
sự vận động của các dòng vốn và công nghệ. Bởi vậy cần đẩy mạnh thu hút đầu
tư và công nghệ nước ngoài, tăng cường hợp tác về khoa học - công nghệ, xây
dựng đội ngũ, nhóm nghiên cứu mạnh, trình độ cao...
Thực tế luôn luôn vận động và biến đổi, trong quá trình khai thác đó sẽ có
mặt chúng ta làm được, có mặt còn tồn tại, hạn chế. Tuy nhiên, điều quan trọng
là chúng ta tìm ra được nguyên nhân và hướng đi phù hợp để cải thiện và tăng
cường khai thác hiệu quả hơn.

147


×