Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nâng cao năng suất và chất lượng ớt cay (capsicum annuum l ) ở tỉnh bình định TOM TAT (t VIET)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.83 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------------------------------

VŨ VĂN KHUÊ

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT NÂNG
CAO NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG ỚT CAY
(CAPSICUM ANNUUM L.) Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành:

Khoa học cây trồng

Mã số:

9 62 01 10

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP

Hà Nội - 2018


Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Trần Khắc Thi
2. TS. Hoàng Minh Tâm


Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở họp tại:
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
1. Thư viện Quốc gia Việt Nam;
2. Thư viện Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam;
3. Thư viện Viện KHKT Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ;ang
25-30.
2. Vũ Văn Khuê (20


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ớt cay (Capsicum annuum L.) là một trong các loại rau gia vị có giá trị
kinh tế cao được sử dụng tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Với hình thức
sử dụng đa dạng như ăn tươi, phơi khô xay làm bột ớt, chế biến tương ớt, các loại
sốt đặc biệt của một số nước, ngâm dấm, trái đóng hộp,… nên cây ớt có tiềm
năng phát triển rất lớn. Trên thế giới, tổng diện tích ớt tươi và khô tăng từ 2,94
triệu ha năm 1994 lên 3,63 triệu ha năm 2014, sản lượng tăng từ 14,88 triệu tấn
năm 1994 lên 36,14 triệu tấn năm 2014 và giá trị sản xuất đạt 1,93 tỷ USD năm
1994 lên 30,60 tỷ USD năm 2014 (Faostat, 2017).
Ở Việt Nam, cây ớt được đưa vào trồng trọt từ rất lâu đời, do thích hợp
được nhiều vùng đất khác nhau nên khả năng mở rộng diện tích rất lớn, đặc biệt

những năm gần đây, nhiều địa phương đã triển khai thành công mô hình trồng
ớt xuất khẩu nên đã mở ra hướng đi mới cho bà con nông dân trong việc chuyển
đổi cơ cấu cây trồng để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá đem lại thu nhập cao.
Năm 2013, nước ta xuất khẩu khoảng 3.563 tấn ớt khô, ớt bột với giá trị 4,665
triệu USD (Faostat, 2017).
Tại Bình Định, ớt cay là cây rau gia vị quan trọng trong cơ cấu cây trồng ở một
số địa phương bởi ngoài việc đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh thì nó còn là
mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
việc một số địa phương mở rộng nhanh diện tích trồng ớt để xuất khẩu đã bộc lộ
nhiều hạn chế như: Bộ giống quá nhiều (khoảng trên dưới 20 giống) và các giống
chưa có tính ổn định bởi giống mới xuất hiện thường xuyên hàng năm mà chưa
được đánh giá tính thích nghi hoặc đánh giá chưa kỹ, thị trường hạt giống thất
thường; Bón thiếu phân hữu cơ, vôi bột và dư thừa phân vô cơ so với khuyến cáo,
tỷ lệ phân bón chưa cân đối so với nhu cầu sinh lý của cây ớt, sử dụng thuốc BVTV
chưa đúng và chưa quan tâm đến biện pháp quản lý dịch hại theo IPM; Do phụ
thuộc vào thị trường xuất khẩu nên phần lớn người dân tập trung vào sản xuất vụ ớt
Thu đông và Đông xuân (tháng 9 – tháng 4 năm sau). Trong khoảng thời gian này,
điều kiện thời tiết ở tỉnh Bình Định có 2 tháng mưa nhiều (tháng 10 và 11) nên ẩm
độ đất và không khí cao, nhiệt độ và số giờ chiếu sáng thấp là những nguyên nhân
làm cho sâu bệnh phát sinh và gây hại nặng, đặc biệt là bệnh thán thư vào giai đoạn
thu hoạch đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất ớt tại địa phương;
Việc sản xuất không theo quy hoạch và không dự tính dự báo được thị trường đã
dẫn đến tình trạng giá ớt luôn có biến động lớn và chưa có thị trường ổn định.
Những yếu tố hạn chế nêu trên là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến năng
suất và hiệu quả sản xuất ớt cay của tỉnh Bình Định. Chính vì vậy, để cây ớt cay
phát triển bền vững trong giai đoạn tới rất cần có sự đầu tư đồng bộ về cơ sở hạ
tầng, nghiên cứu tuyển chọn các giống ớt có năng suất cao, phẩm chất tốt và
nghiên cứu đề xuất được các biện pháp canh tác hợp lý.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, việc triển khai đề tài "Nghiên cứu một
số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và chất lƣợng ớt cay

(Capsicum Annuum L.) ở tỉnh Bình Định" là yêu cầu cấp thiết đối với sản
xuất ớt cay ở địa phương.


2

2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá được hiện trạng sản xuất ớt cay ở tỉnh Bình Định, xác định được
giống ớt cay mới phù hợp với thị trường xuất khẩu và giải pháp kỹ thuật hợp lý
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất loại gia vị này tại
tỉnh Bình Định.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài đã góp phần vào việc xây dựng cơ sở khoa
học trong việc khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng
như biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả
sản xuất ớt cay ở tỉnh Bình Định.
- Bổ sung kiến thức về cây ớt ở khu vực miền Trung, là tài liệu tham khảo
cho các nhà khoa học, cán bộ kỹ thuật và quản lý tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy, sản xuất kinh doanh và hoạch định chính sách.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài đã xác định được những yếu tố hạn chế cơ bản về kinh tế - xã hội,
sinh học và phi sinh học đối với sản xuất ớt cay ở tỉnh Bình Định.
- Đã xác định được giống ớt cay Solar 135 có năng suất, chất lượng tốt,
chống chịu với một số sâu bệnh hại chính cùng ngưỡng phân bón phù hợp và
gốc ghép tốt nhất. Kết quả này đáp ứng được nhu cầu cấp bách trong phát triển
sản xuất ớt cay của tỉnh Bình Định.
4. Những đóng góp mới của đề tài.
- Đánh giá được thực trạng sản xuất ớt cay tại Bình Định, từ đó đưa ra một
số định hướng nghiên cứu nhằm khắc phục hạn chế, góp phần nâng cao hiệu

quả sản xuất ớt cho người dân.
- Tuyển chọn và giới thiệu cho sản xuất được giống ớt Solar 135 có năng
suất cao, phẩm chất tốt và phù hợp với điều kiện sinh thái của tỉnh Bình Định.
Từ đó góp phần làm phong phú và đa dạng bộ giống ớt cay năng suất cao trong
sản xuất.
- Đề xuất được mức phân bón đạm, kali và canxi hợp lý cho giống ớt mới
Solar 135 trên đất xám phù sa cổ ở Bình Định là: 150 kg N : 150 kg K2O : 500
kg CaO trên nền 20 tấn phân chuồng và 100 kg P2O5/ha.
- Áp dụng tổng hợp các biện pháp kỹ thuật triển vọng xác định được trên đất
xám phù sa cổ ở tỉnh Bình Định đã làm tăng năng suất 21,6% (từ 25,7 tấn/ha lên
32,8 tấn/ha), lãi thuần tăng từ 201,8 triệu đồng lên 278,7 triệu đồng và tỷ suất lãi
so với vốn đầu tư tăng từ 1,60 lên 2,40 so với phương thức canh tác truyền thống.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Các dòng, giống ớt cay chỉ địa được thu thập từ các nguồn ở trong và ngoài
nước; Phân bón đa lượng N, K2O (Urê, kali clorua), phân bón trung lượng Ca
(vôi bột).
5.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Điều tra tại 2 huyện có diện tích sản xuất ớt cay lớn của tỉnh Bình Định là
Phù Cát và Phù Mỹ.


3

- Các thí nghiệm được triển khai tại Viện KHKT NN Duyên hải Nam
Trung bộ, TP. Quy Nhơn và huyện Phù Mỹ, Bình Định, từ năm 2012 – 2017.
5.3. Phạm vi giới hạn của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu trên đất xám phù sa cổ, trong điều kiện vụ
Đông xuân, các giải pháp kỹ thuật về giống; liều lượng và tỷ lệ phân đạm, kali,
canxi; và nghiên cứu thăm dò biện pháp ghép ớt.

6. Cấu trúc của luận án.
Luận án chính có 161 trang đánh máy vi tính khổ A4 với 39 bảng số liệu ,
7 hình. Luận án gồm 5 phần; Mở đầu (5 trang), Chương I: Tổng quan tài liệu
nghiên cứu (4 trang). Chương II. Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu
(12 trang). Chương III: Kết quả nghiên cứu và thảo luận (84 trang), Kết luận và
đề nghị (2 trang), tài liệu tham khảo (10 trang).
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Luận án đã tham khảo và tổng quan 45 tài liệu tiếng Việt và 60 tài liệu
tiếng Anh, 7 tin bài từ các website với các nội dung liên quan bao gồm: 1.
Nguồn gốc, phân bố và phân loại cây ớt cay; 2. Giá trị dinh dưỡng và giá trị
kinh tế của cây ớt cay; 3. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của cây ớt; 4. Tình hình
sản xuất ớt cay trên thế giới và ở Việt Nam; 5. Tình hình nghiên cứu ớt cay trên
thế giới và ở Việt Nam.
Với các dẫn liệu thu thập được cho thấy:
- Điều kiện đất đai, khí hậu ở tỉnh Bình Định cơ bản thuận lợi cho sản xuất
các cây trồng ngắn ngày nói chung và cây ớt nói riêng, sản xuất nông nghiệp
đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế và an sinh xã hội ở tỉnh Bình
Định và giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp chiếm từ 32,8 - 39,0% so với
tổng sản phẩm trên địa bàn của tỉnh.
- Cây ớt là một trong những cây rau chủ lực đóng góp vào tổng giá trị sản
xuất trong nhóm rau, đậu, hoa và cây cảnh.
- Ớt là cây rau gia vị có giá trị dinh dưỡng cao, là nguồn vitamin quan trọng
cho dân số trên toàn thế giới. Các chất chống oxy hóa như vitamin C, E và tiền
vitamin A tập trung ở rất nhiều các loại ớt khác nhau. Ớt còn là nguồn
Carotenoids, Xanthophylls và chứa một lượng lớn vitamin P (Citrin), B1
(Thiamin), B2 (Riboflavin) và B (niacin). Ớt giàu vitamin C và A hơn các nguồn
thực phẩm được khuyến cáo thông thường.
- Theo FAO (2017), thì diện tích, năng suất và sản lượng của các nước
thuộc châu Á đang chiếm ưu thế và Trung Quốc là nước đứng đầu về diện tích

và sản lượng ớt tươi, trong khi đó Ấn Độ là nước đứng đầu về diện tích và sản
lượng ớt khô, ớt bột.
- Ở Việt Nam, ớt là cây trồng truyền thống nhưng diện tích manh mún,
năng suất thấp. Đầu tư cho nghiên cứu ớt chưa được chú trọng nên các kết quả
đạt được còn hạn chế. Những năm gần đây một số nghiên cứu về kỹ thuật canh


4

tác ớt như: thời vụ, phân bón, mật độ trồng, tưới nước... đã được quan tâm
nghiên cứu song tăng trưởng về diện tích, năng suất chưa xứng với tiềm năng.
- Nhiều giống ớt cay mới có năng suất cao, chống chịu tốt với với điều kiện
bất lợi của môi trường, kháng bệnh (thán thư, héo xanh, virus ...), có chất lượng
quả đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu (màu sắc quả, kích thước quả, độ cay ...) đã
được các nhà khoa học trong và ngoài nước lai tạo thành công. Các giống này
chính là nguồn vật liệu vô cùng phong phú và quý giá để đưa vào sử dụng cho
các nghiên cứu tuyển chọn giống ớt cay thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng,
khí hậu và kinh tế-xã hội của tỉnh Bình Định.
- Các BPKT phòng trừ sâu bệnh tổng hợp được áp dụng trên cây ớt đã làm
giảm đáng kể thiệt hại do các bệnh thán thư, thối gốc rễ và HXVK.
- Các nghiên cứu về gốc ghép ở trong và ngoài nước đều tập trung chủ yếu
tìm gốc ghép kháng bệnh nấm Phytophthora (Phytophthora capsici) và HXVK
(Ralstonia solanacearum). Việc nghiên cứu thành công gốc ghép kháng hai
bệnh trên sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, thiệt hại kinh tế cho người trồng ớt do bệnh
gây ra.
- Cây ớt mẫn cảm với phân hữu cơ và phân khoáng. Sử dụng phân bón
thích hợp sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm ớt. Lượng phân đạm, kali cũng như
canxi được khuyến cáo ở các nghiên cứu cho các vùng khác nhau có sự dao
động lớn: 75-300 kg N/ha, 60-150 kg K2O/ha, canxi 500-800 kg vôi bột/ha. Do
đó, cần có những nghiên cứu cụ thể để có cơ sở khuyến cáo lượng phân bón hợp

lý cho tỉnh Bình Định.
- Để cải tạo đất, tăng lượng mùn và số lượng vi sinh vật có lợi trong canh
tác ớt có thể sử dụng phân hữu cơ với lượng từ 8-25 tấn/ha và các dung dịch
chiết xuất từ phân gia cầm, phân chim.
Các thành tựu trên chính là cơ sở khoa học để ứng dụng vào thực tiễn sản
xuất, hoặc kế thừa để nghiên cứu xác định biện pháp kỹ thuật canh tác hợp lý
nhằm nâng cao năng suất ớt cay ở tỉnh Bình Định.
CHƢƠNG II
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Các giống sử dụng ở nội dung xác định giống gồm: 18 dòng, giống ớt cay
chỉ địa được thu thập từ các nguồn khác nhau ở trong và ngoài nước.
- Các giống sử dụng ở nội dung nghiên cứu thăm dò ghép ớt: 05 giống
được thu thập từ các địa phương: Ninh Thuận, Khánh Hòa, Bình Định, Thừa
Thiên Huế và Nghệ An.
- Phân bón các loại: Phân chuồng hoai (phân bò), phân đạm urê, phân lân
super, phân kali clorua, Canxi (vôi bột).
- Tài liệu tham khảo trong và ngoài nước có liên quan đến luận án.


5

- Đất bố trí các thí nghiệm là đất xám phù sa cổ có pHKCL từ 4,4 - 4,7, chất
hữu cơ tổng số (OM%) từ 1,14 - 1,24%, đạm tổng số (N%) từ 0,12 - 0,14%, lân
tổng số (P2O5%) từ 0,08 - 0,09%, kali tổng số (K2O%) từ 0,20 - 0,27% và Ca2+
từ 3,25 - 5,15 (me/100g).
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Đánh giá hiện trạng sản xuất ớt cay ở tỉnh Bình Định.
2.2.2. Xác định giống ớt cay thích nghi với điều kiện đất đai và khí hậu ở tỉnh
Bình Định.

2.2.3. Xác định liều lượng và tỷ lệ phân đạm, kali và canxi đối với cây ớt cay
trên đất xám phù sa cổ ở tỉnh Bình Định.
2.2.4. Nghiên cứu thăm dò ảnh hưởng của gốc ghép khác nhau đến sinh trưởng,
năng suất và khả năng chống chịu bệnh hại của giống ớt solar 135.
2.2.5. Đánh giá việc áp dụng thử nghiệm các kết quả nghiên cứu đến năng suất
và phẩm chất ớt cay trên đất xám phù sa cổ ở tỉnh Bình Định.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra, thu thập thông tin để đánh giá hiện trạng sản
xuất ớt cay ở tỉnh Bình Định
- Kế thừa các thông tin thứ cấp có liên quan được thu thập từ Sở Nông
nghiệp và PTNT Bình Định, các phòng Nông nghiệp và PNTN huyện Phù Cát
và huyện Phù Mỹ, UBND xã Cát Lâm, huyện Phù Cát và UBND xã Mỹ Hiệp,
huyện Phù Mỹ và Cục Thống kê Bình Định;
- Điều tra, khảo sát được thực hiện trên địa bàn huyện Phù Cát và huyện
Phù Mỹ thông qua mẫu Phiếu điều tra. Các thông tin liên quan được thu thập từ
120 hộ gia đình (60 hộ thuộc xã Cát Lâm, huyện Phù Cát và 60 hộ thuộc xã Mỹ
Hiệp, huyện Phù Mỹ);
- Sử dụng phương pháp PRA để thu thập thông tin; phỏng vấn người am
hiểu (KIP) và phỏng vấn nhóm (Group Interview) để rà soát, bổ sung thông tin;
Phân tích SWOT để đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
trong canh tác;
- Xử lý thống kê số liệu điều tra bằng phần mềm Microsoft Excel 2010.
- Thời gian thực hiện: Năm 2013.
2.3.2. Phương pháp đánh giá xác định giống ớt cay thích nghi điều kiện đất
đai và khí hậu ở tỉnh Bình Định
2.3.2.1. Thí nghiệm phân lập tập đoàn giống:
- Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối ngẫu nhiên đủ tăng cường
(Augmented RCB Design), chia làm 2 khối, có 2 giống đối chứng và 16 giống
khảo nghiệm, trong mỗi khối đều bố trí 2 giống đối chứng, các giống khảo
nghiệm bố trí tuần tự không lặp lại, diện tích ô thí nghiệm là 14m2 (10m x 1,4m).

- Thí nghiệm được tiến hành trong vụ Đông xuân 2012 – 2013 tại nhà lưới
thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ - KV8
phường Nhơn Phú, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.


6

2.3.2.2. Thí nghiệm đánh giá các dòng, giống ớt triển vọng:
- Thí nghiệm được bố trí kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCBD), lặp lại 3
lần, diện tích ô thí nghiệm là 14m2 (10m x 1,4m), mỗi ô theo dõi 5 cây.
- Thí nghiệm tiến hành trong các vụ Đông xuân 2013 – 2014 và Đông xuân
2014 - 2015 tại Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trên đất xám phù sa cổ.
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu xác định liều lượng và tỷ lệ phân đạm, kali
và canxi hợp lý
2.3.3.1. Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng và tỷ lệ phân đạm
và kali đến sinh trưởng, phát triển và năng suất giống ớt Solar 135.
- Thí nghiệm được bố trí theo kiểu ô chính - ô phụ (split-plot), trong đó nhân
tố chính là phân kali và nhân tố phụ là phân đạm, lặp lại 3 lần, diện tích ô thí
nghiệm là 14m2 kể cả rãnh luống (10m x 1,4m), mỗi ô thí nghiệm theo dõi 5 cây.
- Thí nghiệm tiến hành trong các vụ Đông xuân 2015 - 2016 và Đông xuân
2016 – 2017 tại xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
- Phân bón sử dụng cho thí nghiệm quy ra trên 1,0 ha là:
+ Nền: 20 tấn phân chuồng + 100 kg P 2O5 + 500 kg vôi bột.
+ Nhân tố đạm: N1 = 360 kg N (Bón theo lượng của người dân - Đ/c); N2
= 200 kg N; N3 = 150 kg N.
+ Nhân tố kali: K1= 350 kg K2O (Bón theo lượng của người dân - Đ/c) ;
K2 = 200 kg K2O; K3 = 150 kg K2O.
- Các công thức thí nghiệm: N1K1, N1K2, N1K3, N2K1, N2K2, N2K3,
N3K1, N3K2, N3K3 (Công thức Đ/c là: N1K1).
2.3.3.2. Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân đạm và can

xi đến sinh trưởng, phát triển và năng suất giống ớt Solar 135.
- Thí nghiệm được bố trí theo kiểu ô chính - ô phụ (split-plot), trong đó nhân
tố chính là can xi và nhân tố phụ là phân đạm, lặp lại 3 lần, diện tích ô thí nghiệm
là 14m2 kể cả rãnh luống (10m x 1,4m), mỗi ô thí nghiệm theo dõi 5 cây.
- Thí nghiệm tiến hành trong các vụ Đông xuân 2015 - 2016 và Đông xuân
2016 – 2017 tại xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
- Phân bón sử dụng cho thí nghiệm quy ra trên 1,0 ha là:
+ Nền: 20 tấn phân chuồng + 100 kg P 2O5 + 160 kg K2O.
+ Nhân tố phân đạm: N1 = 360 kg N (Đ/c); N2 = 200 kg N; N3 = 150 kg N.
+ Nhân tố can xi: C1= 350 kg CaO (Đ/c) ; C2 = 500 kg CaO; C3 = 800 kg CaO.
- Các công thức thí nghiệm: N1C1, N1C2, N1C3, N2C1, N2C2, N2C3,
N3C1, N3C2, N3C3 (Công thức Đ/c là: N1C1).
2.3.4. Phương pháp nghiên cứu thăm dò ảnh hưởng của gốc ghép khác nhau
đến sinh trưởng, năng suất và khả năng chống chịu bệnh hại của giống ớt
solar 135
- Thí nghiệm được bố trí kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCBD), lặp lại 3
lần, với 5 tổ hợp ghép (gốc ghép là các giống ớt Tím Bình Định, Trắng Khánh
Hòa, Xiêm lai Ninh Thuận, Bom Huế và Catu Nghệ An; ngọn ghép là giống
Solar 135) và 1 giống đối chứng không ghép (Solar 135), diện tích ô thí nghiệm


7

là 14 m2 kể cả rãnh luống (10m x 1,4m), mỗi ô thí nghiệm theo dõi 5 cây.
- Thí nghiệm tiến hành trong vụ Đông xuân 2015 – 2016 tại xã Mỹ Hiệp,
huyện Phù Mỹ, Bình Định.
2.3.5. Phương pháp đánh giá việc áp dụng thử nghiệm các kết quả nghiên
cứu đến năng suất và phẩm chất ớt cay trên đất xám phù sa cổ ở tỉnh Bình
Định
Thử nghiệm được triển khai trên đất xám phù sa cổ tại xã Mỹ Hiệp, huyện

Phù Mỹ trong vụ Đông xuân 2016 - 2017 với hai phương pháp canh tác là:
Theo truyền thống của người dân và thử nghiệm kết quả của đề tài.
* Canh tác theo truyền thống của người dân: Sử dụng giống và kỹ thuật
canh tác truyền thống.
* Canh tác thử nghiệm theo các kết quả nghiên cứu của đề tài: Dùng
giống mới và kỹ thuật canh tác cải tiến.
2.3.6. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi được áp dụng theo QCVN 0164:2011/BNNPTNT về khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng của giống ớt.
Bao gồm: Các chỉ tiêu sinh trưởng, đặc điểm hình thái và phẩm chất của quả,
các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất và tình hình sâu, bệnh hại.
2.3.7. Phương pháp xử lý số liệu
- Phương pháp phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm Microsoft Office
Excel 2013 và Statistix 8.2 để xử lý thống kê số liệu trong điều tra hiện trạng,
các thí nghiệm xác định giống và kỹ thuật canh tác.
- Phương pháp phân tích hiệu quả kinh tế: Sử dụng phương pháp phân
tích hiệu quả kinh tế của cây trồng để phân tích hiệu quả theo các tiêu chí sau:
Tổng giá trị thu nhập (GR) = Năng suất x Giá bán trung bình; Tổng chi phí lưu
động (TVC) = Chi phí vật tư + Chi phí lao động + Chi phí năng lượng + Lãi
suất vốn đầu tư; Lợi nhuận (RVAC) = GR - TVC; Tỷ suất lãi so với vốn đầu tư
(VCR) = GR/TVC.
CHƢƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đánh giá hiện trạng sản xuất ớt cay ở tỉnh Bình Định
3.1.1. Tình hình sản xuất ớt ở tỉnh Bình Định
- Về hiện trạng các yếu tố xã hội:
Phần lớn các hộ có diện tích sản xuất từ 1.000 – 5.000 m2 nên có điều kiện
để đầu tư thâm canh và sản phẩm mang tính hàng hóa. Tuy nhiên, khó khăn
trong khâu tiêu thụ sản phẩm, nông hộ thiếu giống chất lượng để sản xuất, thiếu
thông tin về tiến bộ kỹ thuật và thiếu vốn trong sản xuất là những yếu tố xã hội
hạn chế trong sản xuất ớt ở tỉnh Bình Định.

- Về hiện trạng các yếu tố sinh học:


8

+ Nhóm giống ớt: Các hộ dành 95,8% diện tích để trồng các giống ớt chỉ
địa, còn lại 4,2% diện tích để sản xuất các giống ớt chỉ thiên và ớt địa phương.
+ Năng suất trung bình của nhóm giống ớt chỉ địa đạt 20,4 tấn/ha, trong khi
đó nhóm ớt chỉ thiên đạt 14,8 tấn/ha.
+ 100% các hộ trồng ớt được điều tra đều có mua giống lai F1 từ các đại lý
tại địa phương. Tỷ lệ sử dụng giống F1 chiếm 100% đối với nhóm giống ớt chỉ
địa và 86,0% đối với nhóm giống ớt chỉ thiên.
+ Bọ trĩ, rệp muội, nhện đỏ, sâu khoang, sâu đục quả, bệnh thối rễ/gốc,
bệnh héo xanh vi khuẩn và bệnh thán thư là những loại sâu, bệnh hại thường
gặp trong sản xuất ớt. Trong đó, phổ biến nhất là bệnh thán thư với tỷ lệ xuất
hiện gây hại ở các hộ điều tra là 93,3%.
- Về hiện trạng các yếu tố phi sinh học:
+ Các biện pháp kỹ thuật canh tác như: Lên luống, che phủ luống bằng
nilon, mật độ và phương thức trồng, phương thức tưới nước và làm giàn đã
được các nông hộ áp dụng hợp lý.
+ Về bón phân: So với khuyến cáo thì có trên 80% các hộ bón thiếu phân
chuồng và vôi bột, trong khi đó 100% số hộ bón đạm và kali cao hơn gấp
khoảng 2,0 lần và lân từ 3,5 đến 7,0 lần. Tỷ lệ phân bón N, P, K được các hộ sử
dụng để bón cho cây ớt là: 1:1,25:1.
+ Về thuốc BVTV: Việc sử dụng thuốc BVTV trong canh tác ớt cay ở tỉnh
Bình Định còn nhiều tồn tại, phần lớn chưa tuân thủ theo nguyên tắc “Bốn
đúng” trong sử dụng thuốc BVTV.
+ Về tiêu thụ sản phẩm: Trên địa bàn huyện Phù Mỹ đã có các đại lý thu
mua tập trung để xuất khẩu, ngoài việc sơ chế thì một số đại lý đã quan tâm đầu
tư hệ thống kho lạnh bảo quản và chế biến. Tuy nhiên, giá cả còn bấp bênh và

phụ thuộc lớn vào một thị trường truyền thống.
3.2. Xác định giống ớt cay thích nghi với điều kiện đất đai và khí hậu ở tỉnh
Bình Định
3.2.1. Phân lập tập đoàn các giống ớt cay trong vụ Đông xuân 2012 – 2013
3.2.1.1. Đặc điểm hình thái và phẩm chất quả của các giống ớt cay
Kết quả đánh giá cho thấy:
- Hình dạng quả theo mặt cắt dọc: Hầu hết các giống đều có hình dạng
quả theo mặt cắt dọc là tam giác hẹp, đây là dạng quả phù hợp với nhu cầu thị
trường và là một trong những chỉ tiêu cần đạt khi xuất khẩu. Chỉ có 2 giống địa
phương là Xiêm Lai và Bom Huế có hình dạng quả theo mặt cắt dọc là sừng bò,
dạng quả này ngắn và cong nên ít được thị trường ưa chuộng, đặc biệt là thị
trường xuất khẩu.
- Chiều dài quả: Các giống có chiều dài quả dao động từ 10,6 – 17,5 cm,
trong đó ngắn nhất là 2 giống Xiêm Lai và Bom Huế chỉ đạt 10,6 và 10,8 cm thấp
hơn so với 2 giống đối chứng từ 2,0 – 2,4 cm. Trong số các giống còn lại có 2
giống quả dài vượt trội so với đối chứng là VRQ3 và VRQ4 lần lượt đạt 16,0 và
17,5cm, cao hơn so với 2 giống đối chứng từ 3,0 - 4,7 cm, các giống còn lại tương
đương hoặc có sự chênh lệch không đáng kể so với giống đối chứng.


9

- Đường kính quả: Tất cả các giống đều đạt đường kính quả lớn hơn
10mm. Tuy nhiên, để quả cân đối giữa chiều dài và đường kính quả thì giống
Bom Huế và Xiêm Lai còn mất cân đối bởi quả ngắn và to.
- Độ dày thịt quả: Trong các giống thí nghiệm thì thấp nhất là giống
Xiêm Lai 1,8 mm, tiếp đến là giống Nun và Super 20 đạt 2,0mm, cao nhất là
giống Bom Huế 2,6mm (tương đương với giống Đ/c 1), các giống còn lại dao
động từ 2,1 – 2,4mm.
- Màu sắc quả trước khi chín: Đa số các giống có màu xanh đậm, 3 giống

có màu trắng vàng là VRQ1, PP9955-15 và Bom Huế, còn lại duy nhất giống
Long Định 3 là có màu vàng chanh.
- Màu sắc quả khi chín: Chia thành 2 nhóm là đỏ nhạt và đỏ đậm, trong đó
phần lớn các giống đều có màu đỏ đậm – là màu được thị trường rất ưa chuộng,
chỉ có 3 giống có màu đỏ nhạt là VRQ1, Xiêm Lai và Bom Huế.
- Về độ cay: 100% các giống có độ cay nhẹ
3.2.1.2. Thời gian sinh trưởng của các giống ớt cay
- Thời gian từ trồng – thu quả đợt 1: Thời gian từ trồng đến thu quả lần 1
giữa các giống có sự chênh lệch từ 1 – 7 ngày, giống cho thu quả lần 1 sớm
nhất là VRQ4 với 88 ngày, các giống còn lại dao động từ 90 – 95 ngày.
- Thời gian từ trồng – kết thúc thu hoạch: Thời gian từ trồng đến kết thúc
thu hoạch giữa các giống có sự chênh lệch lớn, khoảng 20 ngày, giống kết thúc
thu hoạch sớm nhất là Long Định 3 (136 ngày), sớm hơn so với 2 giống đối
chứng từ 8 – 9 ngày, 2 giống cho thu hoạch muộn nhất là 2 giống địa phương
Bom Huế và Xiêm Lai (156 và 155 ngày), muộn hơn so với 2 giống đối chứng
từ 10 – 12 ngày, các giống còn lại dao động từ 138 – 145 ngày.
3.2.1.3. Khả năng sinh trưởng của các giống ớt cay
Kết quả theo dõi khả năng sinh trưởng của các giống ớt cay cho thấy:
- Chiều cao cây: Chiều cao cây của các giống dao động từ 63,6 – 119,0 cm,
trong đó thấp nhất là giống PP9955-15 đạt 63,6 cm và cao nhất là TN185 (Đ/c 1)
đạt 119,0 cm, cao hơn so với các giống còn lại từ 15,0 – 55,4 cm.
- Đường kính tán: Đường kính tán giữa các giống có sự chênh lệch đáng kể
và dao động từ 61,2 – 92,6 cm. Trong đó, cao nhất là giống TN356 đạt 92,6 cm,
cao hơn so với 2 giống đối chứng từ 8,0 – 13,0cm, thấp nhất là giống Xiêm Lai đạt
61,2cm, thấp hơn so với 2 giống đối chứng từ 18,4 – 23,4cm.
3.2.1.4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất cuả các giống ớt cay
Số liệu theo dõi được trình bày ở bảng sau:
Bảng 3.10. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ớt
cay trong vụ Đông xuân 2012 – 2013 tại TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
Chỉ tiêu

Tên giống
TN185 (Đ/c 1)
F1 Số 20 (Đ/c 2)
Super 20

Số cây thu Số quả/cây
hoạch/ ô TN
(quả)
(cây)
53,4
49,0
49,6
49,0
67,8
49,0

KL trung
bình quả
(gam)

Năng suất
thực thu
(tấn/ha)

15,1
15,0
12,4

24,3
22,3

29,3


10

TN 155
TN356
Nun
Koregon
Solar 135
VRQ1
VRQ2
VRQ3
VRQ4
HB9
Long Định 3
PP9955-15
Hot Chilli
Bom Huế
Xiêm lai

49,0
49,0
49,0
49,0
49,0
49,0
49,0
41,0
49,0

49,0
49,0
47,0
49,0
45,0
44,0

204,0
64,2
59,8
61,4
60,4
61,0
79,3
84,8
73,8
67,3
66,8
65,4
76,6
78,3
66,3

4,1
15,6
15,4
15,8
15,5
15,7
10,5

9,4
12,8
14,5
14,8
14,6
14,2
10,4
6,8

28,7
32,5
29,5
29,8
32,7
28,7
28,2
23,1
27,8
27,8
28,4
26,4
30,7
25,8
13,0

Kết quả thu được từ bảng 3.10 cho thấy:
- Số cây thu hoạch/ô: Số cây thu hoạch/ô ở các giống dao động từ 41,0 –
49,0 cây/ô, trong đó có 4 giống giảm từ 2,0 – 8,0 cây/ô so với giối đối chứng và
các giống còn lại lần lượt là giống PP9955-15 còn 47,0 cây/ô, Bom Huế còn 45,0
cây/ô, Xiêm lai còn 44,0 cây/ô và giảm nhiều nhất là giống VRQ3 còn 41,0

cây/ô, nguyên nhân 4 giống giảm số cây thu hoạch/ô là do bị nhiệm bệnh thối rễ,
gốc và bệnh héo xanh vi khuẩn với tỷ lệ từ 2,0 – 12,2%. Các giống còn lại và 2
giống đối chứng đều thu được số cây/ô tối đa so với mật độ chuẩn 49 cây/ô.
- Số lượng quả trên cây: Số quả/cây dao động từ 49,6 – 204,0 quả, trong đó
cao nhất là giống TN 155 đạt 204 quả/cây, cao hơn so với 2 giống đối chứng từ
150,6 – 154,4 quả/cây. Các giống còn lại đạt từ 59,8 – 84,8 quả/cây, cao hơn so
với 2 giống đối chứng từ 6,4 – 35,2 quả/cây.
- Khối lượng trung bình quả: Đa số các giống đều đạt khối lượng trung bình
quả trên 10g, trong đó có 9 giống đạt từ 14,2 – 15,8g (tương đương so với 2
giống đối chứng), còn lại 6 giống có khối lượng đạt nhỏ hơn so với giống đối
chứng và 3 giống đạt dưới 10g lần lượt là TN155 (4,1g), Xiêm Lai (6,8g) và
VRQ3 (9,4g).
- Năng suất thực thu: Năng suất thực thu của các giống có sự chênh lệch khá
lớn, dao động từ 13,0 – 32,7 tấn/ha. Trong số các giống thí nghiệm thì chỉ có
giống Xiêm Lai đạt năng suất thấp hơn so với 2 giống đối chứng từ 9,3 – 11,3
tấn/ha. Các giống còn lại đều đạt năng suất cao hơn so với 2 giống đối chứng từ
0,8 – 10,4 tấn/ha, trong đó các giống đạt năng suất cao nhất lần lượt là Solar 135
(32,7 tấn/ha), TN356 (32,5 tấn/ha), Hotchilli (30,7 tấn/ha), Koregon (29,8
tấn/ha), Nun (29,5 tấn/ha) và Super 20 (29,3 tấn/ha), các giống còn lại dao động
từ 23,1 – 28,7 tấn/ha.
3.2.1.5. Tình hình sâu, bệnh hại của các giống ớt cay
Kết quả theo dõi tình hình sâu, bệnh hại của các giống cho thấy:


11

- Bệnh thán thư: Mức độ gây hại của các giống dao động từ 2,4 – 7,5%,
trong đó giống bị nhiễm nặng nhất là Xiêm Lai với tỷ lệ 7,5%, nhẹ nhất là 2
giống Koregon và Solar 135 với tỷ lệ quả bị hại chỉ từ 2,4 – 2,6%, thấp hơn so
với 2 giống đối chứng từ 2,0 – 2,9%.

- Bệnh thối rễ, gốc: Trong số 18 giống thí nghiệm thì chỉ có 3 giống bị gây
hại lần lượt là Bom Huế 6,1%, Xiêm Lai 8,1% và VRQ3 là 12,2%, các giống còn
lại đều không bị gây hại (0%).
- Bệnh héo xanh vi khuẩn: Chỉ có 4 giống bị nhiễm là Bom Huế, Xiêm Lai,
VRQ3 và PP9955-15 với tỷ lệ cây bị hại từ 2,0 – 4,1%, các giống còn lại đều
không bị nhiễm bệnh héo xanh vi khuẩn.
Như vậy, từ tập đoàn 18 dòng, giống ở trên đã chọn được 6 giống triển vọng
cho năng suất cao và có khả năng chống chịu sâu, bệnh hại để tiếp tục đánh giá
gồm: Super 20, TN356, Nun, Koregon, Solar 135, Hotchilli và giống đối chứng là
TN185.
3.2.2. Đánh giá các dòng, giống ớt cay triển vọng trong vụ Đông xuân 2013 –
2014 và Đông xuân 2014 - 2015
3.2.2.1. Thời gian sinh trưởng của các giống thí nghiệm
- Thời gian từ gieo đến mọc và trồng: Tương tự như ở vụ Đông xuân năm
2012 – 2013 thì thời gian từ gieo đến mọc giữa các giống dao động từ 7 – 8 ngày
và từ gieo đến trồng 30 – 32 ngày ở cả 2 thời vụ.
- Thời gian từ trồng tới 50% số cây ra hoa: Thơi gian từ trồng đến 50% số
cây ra hoa của các giống ở 2 thời vụ dao động từ 33 – 41 ngày. Mặt khác, trong
cùng một thời vụ thì các giống khác nhau có sự chênh lệch nhau từ 1 – 7, trong
khi đó, giữa 2 thời vụ thì các giống cũng có sự chênh lệch nhau từ 1 – 3 ngày.
- Thời gian thu quả đợt 1 đến kết thúc thu hoạch: Thời gian cho thu hoạch
lứa quả đầu tiên ở cả 2 vụ đều dao động từ 93 – 97 ngày và kết thúc thu hoạch
từ 136 – 147 ngày ở vụ Đông xuân 2013 – 2014 và từ 138 – 145 ngày ở vụ
Đông xuân năm 2014 – 2015.
3.2.2.2. Khả năng sinh trưởng của các giống ớt cay thí nghiệm.
- Chiều cao cây: Ở vụ Đông xuân năm 2013 – 2014, chiều cao cây của các
giống dao động từ 84,4 – 121,4 cm, trong vụ Đông xuân năm 2014 – 2015 dao
động từ 85,2 – 120,6 cm, trong đó các giống thí nghiệm đều có chiều cao cây
thấp hơn so với giống đối chứng TN185 từ 12,7 – 27,0cm.
- Đường kính tán: Tương tự như chiều cao cây thì đường kính tán giữa các

giống khác nhau cũng có sự chênh lệch khá lớn, dao động từ 72,6 – 93,2cm
(chênh lệch từ 0,6 – 20,6cm) ở cả 2 thời vụ. Tuy nhiên, trong cùng 1 giống thì
sự chênh lệch không đáng kể ở vụ Đông xuân 2013 – 2014 so với vụ Đông
xuân 2014 – 2015 (chênh lệch từ 0,3 – 3,1cm).
3.2.2.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất cuả các giống ớt cay
Số liệu thu được về các yếu tố cấu thành năng suất của các giống ớt cay ở
bảng 3.14 cho thấy:


12

Bảng 3.14. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ớt
cay trong vụ Đông xuân 2013 – 2014 và Đông xuân 2014 – 2015 tại huyện
Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
Chỉ tiêu

Tên giống
TN185 (Đ/c)
Super 20
TN 356
Nun

Số cây thu hoạch/ ô
TN
(cây)
Vụ 1
Vụ 2

Khối lƣợng
trung bình

quả (gam)
Vụ 2 Vụ 1 Vụ 2
52,2d 15,3a 14,6a

Số quả/cây
(quả)

Vụ 1
49,0 ± 0,0 47,7 ± 1,2 51,6d
49,0 ± 0,0 49,0 ± 0,0 63,7c 65,4bc 14,8a 14,2a
48,3 ± 1,2 49,0 ± 0,0 68,3b 66,7b 15,2a 15,2a

Năng suất
lý thuyết
(tấn/ha)
Vụ 1
Vụ 2

Năng suất
thực thu
(tấn/ha)
Vụ 1 Vụ 2
23,2c 21,5d

27,6c

26,7e

33,0b


32,5cd 29,8b 28,0c
35,5b 29,4b 28,7bc

36,3a

Solar 135

47,7 ± 0,6 48,3 ± 0,6 65,4bc 61,3c 15,5a 15,0a 35,5ab 32,2d 30,2d 28,0c
49,0 ± 0,0 49,0 ± 0,0 66,2bc 64,4bc 15,2a 15,6a 35,2ab 35,2bc 30,4d 30,9b
49,0 ± 0,0 49,0 ± 0,0 67,5b 65,2bc 15,4a 15,2a 36,4a 34,7bcd 33,3a 33,7a

Hot Chilli

49,0 ± 0,0 48,0 ± 1,0 73,2a

Koregon

78,6a 14,6a 14,5a

37,4a

39,9a

28,7b 30,2bc

CV (%)

3,22

4,34


4,79

4,42

4,91

4,98

4,36

5,54

LSD0,05

3,68

4,77

0,96

1,16

2,96

2,95

2,46

2,70


Ghi chú: Vụ 1 – Vụ Đông xuân 2013 – 2014, Vụ 2 - Vụ Đông xuân 2014 – 2015

Số cây thu hoạch/ô: Số cây thu hoạch/ô ở các giống dao động từ 47,7 –
49,0 cây/ô, trong đó giống Nun có số cây thu hoạch/ô giảm ở cả 2 vụ thí
nghiệm, chỉ đạt 47,7 cây/ô ở vụ 1 và 48,3 cây/ô ở vụ 2 (giảm trung bình từ 0,7 –
1,3 cây/ô so với mật độ chuẩn 49,0 cây/ô), nguyên nhân là do giống bị nhiễm
bệnh thối rễ, gốc ở cả 2 vụ với tỷ lệ từ 1,4 – 2,7%. Bên cạnh đó, giống TN185
(Đ/c) do bị nhiễm cả bệnh thối rễ, gốc và bệnh héo xanh vi khuẩn ở vụ 2 nên số
thu hoạch cây/ô cũng chỉ đạt 47,7 cây/ô (giảm 1,3 cây/ô so với mật độ chuẩn là
49,0 cây/ô). Các giống còn lại có số cây thu hoạch/ô đạt tối đa so với mật độ
chuẩn 49 cây/ô, hoăc giảm không đáng kể (giảm ≤ 0,5 cây/ô).
Số quả/cây: Tất cả các giống thí nghiệm đều đạt số quả/cây cao hơn so với
giống đối chứng ở mức sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 95% từ 10,3 - 27,0 quả/cây
ở cả 2 vụ Đông xuân 2013 – 2014 và 2014 – 2015. Trong đó, giống đạt số
quả/cây cao nhất so với giống đối chứng và các giống còn lại là giống Hot
Chilli đạt 73,2 quả/cây ở vụ Đông xuân 2013 – 2014 và 78,6 quả/cây ở vụ Đông
xuân 2014 – 2015. Số quả/cây của các giống giữa 2 vụ có sự chênh lệch không
đáng kể, dao động từ 0,6 – 5,4 quả/cây.
Khối lượng TB quả: Khối lượng TB quả của các giống ở cả 2 vụ Đông xuân
2013 – 2014 và Đông xuân 2014 – 2015 dao động từ 11,8 – 15,6 gam. Trong đó,
thấp nhất là giống Super 20 chỉ đạt 11,8 – 12,2 gam, thấp hơn so với giống đối
chứng và các giống khác ở mức sai khác LSD 95%. Các giống còn lại đều đạt từ
14,5 – 15,6 gam, tương đương với giống đối chứng ở mức sai khác LSD 95%.
Năng suất lý thuyết: Năng suất lý thuyết của các giống dao động từ 26,7 –
39,9 tấn/ha, trong đó tất cả các giống thí nghiệm đều đạt cao hơn so với giống
đối chứng ở mức sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 95%. Trong số các giống thí


13


nghiệm ở cả 2 vụ Đông xuân 2013 – 2014 và Đông xuân 2014 – 2015 thì giống
đạt năng suất lý thuyết cao nhất là Hot chilli từ 37,4 – 39,9 tấn/ha, cao hơn so
với giống đối chứng TN185 từ 9,8 - 13,2 tấn/ha và các giống còn lại từ 1,0 – 7,4
tấn/ha ở mức sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 95%. Ngoài ra, năng suất lý thuyết
giữa các giống ở 2 vụ khác nhau cũng có sự chênh lệch nhưng không lớn, dao
động từ 0,5 – 3,3 tấn/ha.
Năng suất thực thu: Năng suất thực thu của các giống dao động từ 21,5 –
33,7 tấn/ha, tương tự như năng suất lý thuyết thì tất cả các giống thí nghiệm đều
đạt cao hơn so với giống đối chứng ở mức sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 95%.
Tuy nhiên, khác với năng suất lý thuyết, giống đạt năng suất cao nhất là Solar
135 từ 33,3 – 33,7 tấn/ha ở cả 2 vụ Đông xuân 2013 – 2014 và Đông xuân 2014
– 2015, cao hơn so với giống đối chứng từ 10,2 - 12,3 tấn/ha và các giống còn lại
từ 2,9 – 5,8 tấn/ha ở mức sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 95%. Ngoài ra, năng suất
thực thu giữa các giống ở 2 vụ khác nhau cũng có sự chênh lệch nhưng không
lớn, dao động từ 0,4 – 2,2 tấn/ha.
3.2.2.4. Tình hình sâu, bệnh hại của các giống ớt cay
Kết quả theo dõi tình hình sâu, bệnh hại của các giống ớt cay cho thấy:
Đối với sâu hại: Ở cả 2 vụ, các giống đều bị nhiễm bọ trĩ từ mức độ nhẹ đến
trung bình (cấp 1-2). Tương tự với sâu đục quả, các giống bị hại từ 2,6 – 5,7% ở
cả 2 vụ Đông xuân 2013 – 2014 và Đông xuân 2014 - 2015, bị nặng nhất là
giống TN 185 (Đ/c) từ 4,6 – 5,7%, nhẹ nhất là giống Solar 135 từ 2,6 – 3,2%.
Đối với bệnh hại: Tất cả các giống đều bị bệnh thán thư với tỷ lệ số quả bị
hại từ 2,7 – 6,4%, trong đó bị gây hại nặng nhất là giống đối chứng TN 185 từ
5,4 – 6,4%, giống bị nhẹ nhất là Solar 135 từ 2,7 – 3,1%. Đối với bệnh thối rễ,
gốc chỉ xuất hiện ở 3 giống là Hot Chilli với tỷ lệ 2,0% số cây bị hại trong vụ
Đông xuân 2014 – 2015, giống Nun bị hại ở cả 2 vụ với tỷ lệ từ 1,4 – 2,7% và
giống đối chứng tỷ lệ bị hại 1,4% trong vụ Đông xuân năm 2014 – 2015. Bệnh
héo xanh vi khuẩn chỉ bị duy nhất ở giống đối chứng TN185 với tỷ lệ 1,4%
trong vụ Đông xuân 2014 – 2015, các giống còn lại đều không bị nhiễm.

Tóm lại, qua đánh giá 06 giống triển vọng (Super 20, TN356, Nun,
Koregon, Solar 135 và Hotchilli) trong 2 vụ Đông xuân 2013 – 2014 và Đông
xuân 2014 – 2015 đã tuyển chọn được giống ớt Solar 135 với những đặc điểm
tốt như: giống chín tập trung; màu sắc quả trước khi chín là xanh đậm, khi chín
màu đỏ đậm; dạng quả theo mặt cắt dọc hình tam giác hẹp, quả dài, thẳng và
cân đối, có độ cay nhẹ; năng suất đạt trên 30 tấn ở cả 3 vụ (từ 33,3 – 33,7
tấn/ha); và có khả năng chống chịu tốt với các loại sâu bệnh hại chính như: Bọ
trĩ, sâu đục quả, bệnh thán thư, bệnh thối rễ/gốc, và bệnh héo xanh vi khuẩn.
3.3. Xác định liều lƣợng và tỷ lệ phân đạm, kali và canxi đối với cây ớt cay
trên đất xám phù sa cổ ở tỉnh Bình Định

3.3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng và tỷ lệ phân đạm và kali đến
sinh trưởng và năng suất ớt

3.3.1.1. Thời gian sinh trưởng của giống ớt Solar 135 trên các nền phân bón
đạm và kali khác nhau tại Bình Định
Ở các công thức bón đạm 360 kg N/ha có thời gian từ trồng tới ra hoa,
trồng tới thu hoạch lần đầu và trồng tới kết thúc thu hoạch đạt trung bình lần lượt


14

là 36,3 ngày, 97,2 ngày và 141,7 ngày; khi bón giảm xuống còn 200 kg N/ha thì
thời gian từ trồng tới ra hoa, trồng tới thu hoạch lần đầu và trồng tới kết thúc thu
hoạch đạt trung bình lần lượt là 35,0 ngày, 95,5 ngày và 139,0 ngày (rút ngắn so
với mức bón 360kg N/ha lần lượt là 1,3 ngày, 1,7 ngày và 2,7 ngày) và ngắn nhất
khi bón đạm 150 kg N/ha chỉ còn 33,7 ngày ra hoa, 94,3 ngày thu quả lần đầu và
135,2 ngày kết thúc thu hoạch (rút ngắn so với mức bón 360kg N/ha lần lượt là
2,6 ngày, 2,9 ngày và 6,5 ngày). Ngược lại, giữa các công thức bón phân kali
khác nhau thì thời gian sinh trưởng của ớt lại ít có sự sai khác (chênh lệch từ 0,6

- 1,4 ngày trong cùng thời vụ). Thời gian từ trồng đến ra hoa ở 3 mức phân bón
kali dao động từ 34,0 - 35,0 ngày (vụ 1) và 35,3 - 36,0 ngày (vụ 2), từ trồng đến
thu quả lần 1 từ 94,7 - 95,3 ngày (vụ 1) và 96,0 - 96,7 ngày (vụ 2), từ trồng đến
kết thúc thu hoạch từ 137,3 - 138,7 ngày (vụ 1) và 138,7 - 140,0 ngày (vụ 2).
3.3.1.2. Khả năng sinh trưởng của giống ớt Solar 135 trên các nền phân bón
đạm và kali khác nhau tại Bình Định
Chiều cao cây ở các công thức bón 360 kg N/ha đạt bình quân là 92,2 cm
(dao động từ 91,4 - 92,9 cm), cao hơn 4,3% so với các công thức bón 200 kg
N/ha (đạt bình quân 88,2 cm và dao động từ 87,3 - 89,0 cm) và cao hơn 6,6% so
với công thức bón 150 kg N/ha (đạt bình quân 86,1 cm và dao động từ 85,7 86,5 cm). Ngược lại, giữa các công thức bón phân kali khác nhau lại ít có sự sai
khác về chiều cao cây. Tương tự như chiều cao cây, đường kính tán và đường
kính gốc thân giữa các công thức bón phân đạm cũng có sự sai khác. Đường kính
tán ở công thức bón 360 kg N/ha đạt trung bình qua 2 vụ là 76,8 cm, cao hơn so
với công thức bón 200 kg N/ha (đạt trung bình qua 2 vụ là 74,1 cm) là 3,5% và
150 kg N/ha (đạt trung bình qua 2 vụ là 72,2 cm) là 5,9%. Trong khi đó, đường
kính gốc thân ở công thức bón 360 kg N/ha đạt trung bình qua 2 vụ là 1,72 cm,
cao hơn so với công thức bón 200 kg N/ha (đạt trung bình qua 2 vụ là 1,61 cm) là
6,4% và 150 kg N/ha (đạt trung bình qua 2 vụ là 1,60 cm) là 6,7%.
3.3.1.3. Tình hình sâu, bệnh hại của giống ớt Solar 135 trên các nền phân bón
đạm và kali khác nhau tại Bình Định
Ở các công thức phân bón khác nhau, giống ớt Solar 135 bị nhiễm bọ trĩ từ
cấp 1 - 2, sâu đục quả từ 2,5 - 7,3%, bệnh thán thư từ 5,1 - 13,2%, bệnh thối rễ và
gốc từ 0,7 - 5,4% và bệnh héo xanh vi khuẩn (HXVK) từ 0 - 2,7%.
Đối với phân kali, ở các công thức bón lượng khác nhau không cho thấy sự
sai khác hoặc sai khác không đáng kể về mức độ nhiễm sâu, bệnh hại của giống
ớt Solar 135. Tuy nhiên, đối với phân đạm, mức độ nhiễm sâu, bệnh hại nặng
nhất khi bón 360 kg N/ha và giảm dần khi bón với lượng 200 và 150 kg N/ha. Bọ
trĩ xuất hiện cấp 2 ở mức bón 360 kg N/ha nhưng đã giảm xuống cấp 1 ở mức
bón 200 và 150 kg N/ha. Tương tự với sâu đục quả và các bệnh thán thư, thối
gốc rễ và HXVK bị nhiễm khi bón 360 kg N/ha trung bình lần lượt là 6,3% (dao

động từ 5,4-7,3%), 13,0% (dao động từ 11,7-13,7%), 4,9% (dao động từ 4,1 5,4%) và 1,9% (dao động từ 1,4-2,7%). Nhưng khi bón 200 kg N/ha thì tỷ lệ sâu,
bệnh hại giảm xuống còn 4,2% (sâu đục quả), 8,8% (bệnh thán thư), 2,6% (thối


15

gốc rễ) và 0,2% (HXVK) và bị nhiễm nhẹ nhất khi bón 150 kg N/ha, tỷ lệ sâu
bệnh gây hại chỉ còn lần lượt là 3,0%, 5,5%, 1,5% và 0,2%.
3.3.1.4. Các yếu tố cấu thành năng suất của giống ớt Solar 135 trên các nền
phân bón đạm và kali khác nhau tại Bình Định
Số quả/cây giữa các công thức bón phân khác nhau dao động từ 61,3 - 68,2
quả/cây. Đối với phân đạm, các công thức bón 360 kg N/ha có số quả/cây đạt
bình quân là 64,0 quả, trong khi đó, các công thức bón 200 kg N/ha đạt 65,3 quả
và khi bón 150 kg N/ha các công thức đạt trung bình 66,8 quả. Như vậy, khi bón
tăng lượng đạm từ 150 lên 200 và 360 kg N/ha, số quả/cây không tăng mà còn có
xu thế giảm ở giá trị tuyệt đối. Ngược lại, đối với phân kali, khi bón ở mức 350
kg K2O/ha thì trung bình số quả/cây đạt 67,0 quả và lần lượt giảm dần xuống
65,0 quả/cây khi bón 200 kg K2O/ha, 64,2 quả/cây khi bón 150 kg K2O/ha.
Đối với khối lượng trung bình quả, chiều dài quả, đường kính quả và độ
dày thịt quả đều không có sự sai khác đáng kể giữa các công thức bón phân
đạm và kali khác nhau. Nguyên nhân có thể do lượng bón 150 kg N/ha và 150
kg K2O/ha đã đáp ứng đủ nhu cầu đạm và kali của cây ớt trên đất xám phù sa cổ
ở Bình Định nên không có sự sai khác đáng kể so với lượng bón 200 và 360 kg
N/ha cũng như 200 và 350 kg K2O/ha. Sự sai khác về các yếu tố cấu thành năng
suất trong thí nghiệm chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi số cây/ô và số quả/cây.
Ở góc độ tỷ lệ cân đối giữa đạm và kali, bốn công thức N3K1, N3K2,
N3K3 và N2K1 có số quả/cây đạt cao nhất trong thí nghiệm và biến động từ
65,8 - 68,2 quả, các công thức còn lại chỉ đạt từ 61,3 - 65,2 quả/cây.
3.3.1.5. Năng suất và hiệu quả kinh tế của giống ớt Solar 135 trên các nền phân
bón đạm và kali khác nhau tại Bình Định

Bảng 3.22. Ảnh hƣởng của các nền phân đạm và kali đến năng suất của
giống ớt Solar 135 trong vụ Đông xuân 2015-2016 và 2016-2017 tại huyện
Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
Năng suất trong vụ Đông xuân 2015 - 2016 (tấn/ha)
Loại và lượng phân bón
K1
K2
K3
NS trung bình theo N
N1
32,2 ab 31,8 ab 30,6 b
31,5 b
N2
33,9 a 33,0 a 32,7 ab
33,2 a
N3
33,3 a 32,7 ab 33,1 a
33,0 a
NS trung bình theo K
33,1 a 32,5 a
32,1 a
CV (%) (Khối*N*K)

4,2

Năng suất trong vụ Đông xuân 2016 - 2017 (tấn/ha)
Loại và lượng phân bón
K1
K2
K3

NS trung bình theo N
N1
32,8 ab 31,6 ab 31,1 b
31,8 b
N2
34,5 a 33,9 ab 33,2 ab
33,9 a
N3
34,2 a 33,6 ab 32,7 ab
33,5 a
NS trung bình theo K
33,8 a
33,0 a
32,3 a
CV (%) (Khối*N*K)

5,7


16

Ghi chú: N1 = 360 kg N/ha; N2 = 200 kg N/ha; N3 = 150 kg N/ha; K1= 350
kg K2O/ha; K2 = 200 kg K2O/ha; K3 = 150 kg K2O/ha.

Kết quả ở bảng 3.22 cho thấy: Trong vụ Đông xuân 2015 - 2016 và 2016
- 2017, năng suất ớt ở lượng bón 360 kg N/ha lần lượt đạt 31,5 tấn/ha và 31,8
tấn/ha, ở lượng bón 200 kg N/ha lần lượt đạt 33,2 tấn/ha và 33,9 tấn/ha, và ở
lượng bón 150 kg N/ha lần lượt đạt 33,0 tấn/ha và 33,5 tấn/ha. Trong 3 mức
bón trên thì bón ở mức 200 và 150 kg N/ha đạt năng suất cao hơn và có sai
khác ở mức LSD0,05 so với mức bón 360 kg N/ha trong cả 2 vụ.

Ngược lại, đối với phân kali, do không có sự sai khác ở phần lớn các chỉ
tiêu liên quan đến yếu tố cấu thành năng suất (ngoại trừ số quả/cây) nên năng
suất ớt trong cả 2 vụ ở 3 mức bón kali là 350, 200, 150 kg K 2O/ha không có sai
khác về giá trị thống kê.
Bảng 3.23. Năng suất của giống ớt Solar 135 ở các công thức bón phân đạm
và kali khác nhau trong vụ Đông xuân 2015 - 2016 và Đông xuân 2016 2017 tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
Công thức
N1K1 (ĐC)
N1K2
N1K3
N2K1
N2K2
N2K3
N3K1
N3K2
N3K3
CV (%) (Khối*N*K)
LSD0,05 (Cùng mức đạm)
LSD0,05 (Khác mức đạm)

Năng suất (tấn/ha)
Đông xuân
Đông xuân
2015 - 2016
2016 - 2017
32,2 ab
32,8 ab
31,8 ab
31,6 ab
30,6 b

31,1 b
33,9 a
34,5 a
33,0 a
33,9 ab
32,7 ab
33,2 ab
33,3 a
34,2 a
32,7 ab
33,6 ab
33,1 a
32,7 ab
4,2
2.42
2.33

Trung bình
32,5
31,7
30,9
34,1
33,5
33,0
33,8
33,2
32,9

5,7
3.37

2.93

Ghi chú: N1 = 360 kg N/ha; N2 = 200 kg N/ha; N3 = 150 kg N/ha;
K1= 350 kg K2O/ha; K2 = 200 kg K2O/ha; K3 = 150 kg K2O/ha.
Ở góc độ tỷ lệ cân đối giữa đạm và kali, năng suất bình quân trong 2 vụ
của các công thức phân bón đạt từ 30,9 - 34,1 tấn/ha, trong đó, thấp nhất là
công thức N1K3 chỉ đạt 30,9 tấn/ha, cao nhất là ba công thức N2K1, N2K2 và
N3K1 đạt từ 33,5 - 34,1 tấn/ha (bảng 3.23).
Kết quả phân tích hiệu quả kinh tế của các công thức phân bón đạm và
kali cho thấy, năng suất bình quân của 2 vụ của các công thức phân bón đạt từ
30,9 - 44,1 tấn/ha, doanh thu đạt từ 370,20 - 409,20 triệu đồng/ha, lãi thuần đạt
từ 248,40 - 287,55 triệu đồng/ha và tỷ suất lãi so với vốn đầu tư biến động từ
2,04 - 2,37. Trong đó, công thức N2K1 đạt năng suất bình quân và doanh thu
cao nhất trong thí nghiệm. Tuy nhiên, lãi thuần và tỷ suất lãi so với vốn đầu tư
lại tương đương hoặc không có sai khác lớn so với các công thức N2K2, N2K3,
N3K1, N3K2 và N3K3. Như vậy, với lượng phân bón 200 và 150 kg N/ha kết


17

hợp với 3 mức phân bón kali 350, 200 và 150 kg K 2O/ha đều không có sự sai
khác lớn về lãi thuần và tỷ suất lãi. Do đó, lựa chọn công thức phân bón N3K3
hay bón đạm, kali và lân cho 1 ha theo tỷ lệ 150 kg N, 100 kg P2O5 và 150 kg
K2O (tỷ lệ 1,5 : 1 : 1,5) trên nền 20 tấn phân chuồng, 500 kg vôi bột là mức
phân bón phù hợp để đạt được năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất đối với
cây ớt trên đất xám phù sa cổ ở Bình Định.
3.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân đạm và canxi đến sinh
trưởng và năng suất ớt
3.3.2.1. Thời gian sinh trưởng của giống ớt Solar 135 trên các nền phân bón
đạm và canxi khác nhau tại Bình Định

Giữa các công thức bón phân đạm và canxi khác nhau đã có ảnh hưởng sai
khác về thời gian sinh trưởng của ớt. Ở các công thức bón 360 kg N/ha có thời
gian từ trồng tới ra hoa, trồng tới thu hoạch lần đầu và trồng tới kết thúc thu
hoạch đạt trung bình lần lượt là 36,2 ngày, 99,9 ngày và 143,3 ngày (dao động
lần lượt từ 35 - 38 ngày, 98 - 101 ngày và 142 - 146 ngày ). Khi bón giảm lượng
đạm xuống còn 200 kg N/ha thì thời gian từ trồng tới ra hoa, trồng tới thu hoạch
lần đầu và trồng tới kết thúc thu hoạch đạt trung bình lần lượt là 34,0 ngày, 95,4
ngày và 138,5 ngày (rút ngắn so với mức bón 360kg N/ha lần lượt là 2,2 ngày,
4,5 ngày và 4,8 ngày) và ngắn nhất khi bón 150 kg N/ha chỉ còn 33,5 ngày ra
hoa, 93,2 ngày thu quả lần đầu và 135,0 ngày kết thúc cho thu hoạch (rút ngắn
so với mức bón 360 kg N/ha lần lượt là 2,7 ngày, 6,7 ngày và 8,3 ngày). Kết quả
này tương tự như ở thí nghiệm ảnh hưởng của đạm và kali khi bón giảm lượng
đạm từ 360 kg N/ha xuống 200 kg N/ha và 150 kg N/ha thì thời gian sinh trưởng
cũng giảm dần. Ngược lại, giữa các công thức bón phân canxi khác nhau thì thời
gian sinh trưởng của ớt lại ít có sự sai khác (chênh lệch chỉ từ 0,6 - 2,0 ngày
trong cùng thời vụ). Thời gian từ trồng đến ra hoa ở 3 mức phân bón canxi dao
động từ 33,3 - 34,3 ngày (vụ 1) và 34,7 - 36,0 ngày (vụ 2), từ trồng đến thu quả
lần 1 từ 94,7 - 96,0 ngày (vụ 1) và 96,0 - 98,0 ngày (vụ 2), từ trồng đến kết thúc
thu hoạch từ 137,7 - 138,3 ngày (vụ 1) và 139,3 - 140,7 ngày (vụ 2).
3.3.2.2. Khả năng sinh trưởng của giống ớt Solar 135 trên các nền phân bón
đạm và canxi khác nhau tại Bình Định
Kết quả theo dõi khả năng sinh trưởng của giống ớt Solar 135 ở các công
thức phân bón trong 2 vụ Đông xuân 2015 - 2016 và Đông xuân 2016 – 2017
cho thấy: Chiều cao cây ở các công thức bón 360 kg N/ha đạt bình quân là 92,3
cm (dao động từ 91,1 - 93,6 cm), cao hơn 3,0% so với các công thức bón 200
kg N/ha (đạt bình quân 89,6 cm và dao động từ 88,0 - 91,3 cm) và cao hơn
6,6% so với các công thức bón 150 kg N/ha (đạt bình quân 86,3 cm và dao
động từ 85,0 - 88,0 cm). Ngược lại, giữa các công thức bón phân canxi khác
nhau lại ít có sự sai khác về chiều cao cây.
Tương tự như chiều cao cây, đường kính tán và đường kính gốc thân giữa

các công thức bón phân đạm cũng có sự sai khác. Đường kính tán ở công thức
bón 360 kg N/ha đạt trung bình qua 2 vụ là 77,6 cm, cao hơn so với công thức


18

bón 200 kg N/ha (đạt trung bình qua 2 vụ là 73,6 cm) là 5,2% và 150 kg N/ha
(đạt trung bình qua 2 vụ là 72,4 cm) là 6,7%. Trong khi đó, đường kính gốc
thân ở công thức bón 360 kg N/ha đạt trung bình qua 2 vụ là 1,74 cm, cao hơn
so với công thức bón 200 kg N/ha (đạt trung bình qua 2 vụ là 1,62 cm) là 6,6%
và 150 kg N/ha (đạt trung bình qua 2 vụ là 1,61 cm) là 7,5%.
3.3.2.3. Tình hình sâu, bệnh của giống ớt Solar 135 trên các nền phân bón đạm
và canxi khác nhau tại Bình Định
Kết quả theo dõi bệnh hại ở các công thức bón phân đạm và canxi khác
nhau trong hai vụ cho thấy: Giống ớt Solar 135 bị nhiễm bệnh thối đỉnh quả từ
2,2 - 6,1%, bệnh thán thư từ 4,8 - 13,7%, bệnh thối rễ và gốc từ 0,0 - 6,1% và
bệnh héo xanh vi khuẩn từ 0 - 3,4%.
Đối với phân đạm, mức độ nhiễm bệnh hại nặng nhất khi bón 360 kg
N/ha và giảm dần khi bón với lượng 200 và 150 kg N/ha. Bệnh thối đỉnh quả,
bệnh thán thư, thối gốc rễ và héo xanh vi khuẩn khi bón 360 kg N/ha, bị nhiễm
ở mức trung bình lần lượt là 5,4% (dao động từ 4,6-6,1%), 11,7% (dao động từ
10,8-13,7%), 4,2% (dao động từ 2,7 - 6,1%) và 1,9% (dao động từ 0,7-3,4%).
Nhưng khi bón 200 kg N/ha thì tỷ lệ bệnh hại giảm xuống còn 3,5% (bệnh thối
đỉnh quả), 8,9% (bệnh thán thư), 1,2% (thối gốc rễ) và 0,7% (héo xanh vi
khuẩn) và bị nhiễm nhẹ nhất khi bón 150 kg N/ha, tỷ lệ bệnh gây hại chỉ còn
lần lượt là 2,7%; 5,7%; 0,7% và 0,2%.
Đối với canxi, khi bón tăng lượng từ 350 kg CaO/ha lên 500 kg CaO/ha
thì tỷ lệ bệnh hại đã giảm xuống đáng kể. Bệnh thối đỉnh quả trung bình từ
4,3% giảm xuống còn 3,8%, bệnh thán thư trung bình từ 9,8% giảm xuống còn
8,3%, bệnh thối gốc, rễ trung bình từ 2,8% giảm xuống còn 1,8% và bệnh héo

xanh vi khuẩn trung bình từ 1,6% giảm xuống còn 0,7%. Tuy nhiên, khi bón
tăng lượng lên 800 kg CaO/ha thì tỷ lệ bệnh không giảm so với mức bón 500 kg
CaO/ha.
3.3.2.4. Các yếu tố cấu thành năng suất của giống ớt Solar 135 trên các nền
phân bón đạm và canxi khác nhau tại Bình Định
Kết quả đánh giá cho thấy: Số quả/cây giữa các công thức bón phân khác
nhau dao động từ 61,7 - 69,3 quả/cây. Đối với phân đạm, các công thức bón 360
kg N/ha có số quả/cây đạt bình quân là 63,9 quả, trong khi đó, các công thức bón
200 kg N/ha đạt 64,9 quả và khi bón 150 kg N/ha các công thức đạt trung bình
67,2 quả. Như vậy, khi bón tăng hàm lượng đạm từ 150 lên 200 và 360 kg N/ha,
số quả/cây không tăng mà còn có xu thế giảm ở giá trị tuyệt đối. Ngược lại, đối
với canxi, khi bón ở mức 350 kg CaO/ha thì trung bình số quả/cây đạt 63,8 quả
và lần lượt tăng dần lên 65,6 quả/cây khi bón 500 kg CaO/ha, và 66,7 quả/cây
khi bón 800 kg CaO/ha.
Đối với các chỉ tiêu về khối lượng trung bình quả, chiều dài quả, đường
kính quả và độ dày thịt quả không có sự sai khác đáng kể giữa các công thức
bón phân đạm khác nhau. Nguyên nhân có thể do lượng bón 150 kg N/ha đã
đáp ứng đủ nhu cầu đạm của cây ớt trên đất xám phù sa cổ ở Bình Định nên


19

không có sự sai khác đáng kể so với lượng bón 200 và 360 kg N/ha. Tuy nhiên,
ở các công thức bón lượng canxi khác nhau lại có sự sai khác đáng kể khi bón
500 và 800 kg CaO/ha cho khối lượng trung bình quả, chiều dài quả và đường
kính quả tăng so với lượng 350 kg CaO/ha lần lượt từ 0,6 - 0,9 gam/quả, 0,3 0,6 cm và từ 0,5 - 1,0 mm. Như vậy, sự sai khác về các yếu tố cấu thành năng
suất trong thí nghiệm ngoài ảnh hưởng chính bởi số cây/ô và số quả /cây thì còn
chịu ảnh hưởng một phần của nhân tố canxi tác động đến các chỉ tiêu về khối
lượng trung bình quả, chiều dài quả và đường kính quả.
Ở góc độ tác động đồng thời giữa đạm và canxi, hai công thức N3C2 và

N3C3 có số quả/cây đạt cao nhất trong thí nghiệm và biến động từ 66,9 - 69,0
quả, các công thức còn lại chỉ đạt từ 62,3 - 66,2 quả/cây.
3.3.2.5. Năng suất và hiệu quả kinh tế của giống ớt Solar 135 trên các nền phân
bón đạm và canxi khác nhau tại Bình Định
Bảng 3.30. Ảnh hƣởng của lƣợng phân đạm và canxi đến năng suất của
giống ớt Solar 135 trong vụ Đông xuân 2015 - 2016 và Đông xuân 2016 2017 tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
Năng suất trong vụ Đông xuân 2015 - 2016 (tấn/ha)
Loại và lượng phân bón
C1
C2
C3
NS trung bình theo N
N1
28,9 c
31,3 bc 32,0 ab
30,7 b
N2
32,2 ab
34,5 a
34,3 a
33,7 a
N3
32,2 ab 33,9 ab 34,4 a
33,5 a
NS trung bình theo canxi
31,1 b
33,2 a
33,6 a
CV (%) (Khối*N*C)


4,2

Năng suất trong vụ Đông xuân 2016 - 2017 (tấn/ha)
Loại và lượng phân bón
C1
C2
C3
NS trung bình theo N
N1
28,2 d
30,5 c 31,3 bc
30,0 b
N2
32,0 bc
34,3 a
33,8 a
33,4 a
N3
31,4 c
33,6 ab 34,1 a
33,0 a
NS trung bình theo canxi
30,5 b
32,8 a
33,1 a
CV (%) (Khối*N*C)
2,9
Ghi chú: N1 = 360 kg N/ha; N2 = 200 kg N/ha; N3 = 150 kg N/ha; C1= 350 kg
CaO/ha; C2= 500 kg CaO/ha; C3= 800 kg CaO/ha.


Kết quả thu được ở bảng 3.30 cho thấy: Trong vụ Đông xuân 2015 - 2016
và 2016 - 2017, năng suất ớt ở lượng bón 360 kg N/ha lần lượt đạt 30,7 tấn/ha và
30,0 tấn/ha, ở lượng bón 200 kg N/ha lần lượt đạt 33,7 tấn/ha và 33,4 tấn/ha, và ở
lượng bón 150 kg N/ha lần lượt đạt 33,5 tấn/ha và 33,0 tấn/ha. Trong 3 mức bón
trên thì bón ở mức 200 và 150 kg N/ha đạt năng suất cao hơn và có sai khác về
giá trị thống kê ở mức xác suất 95% so với mức bón 360 kg N/ha ở cả 2 vụ.
Đối với canxi, ở lượng bón 500 và 800 kg CaO/ha đạt năng suất cao hơn
từ 2,1 - 2,5 tấn/ha so với mức bón 350 kg CaO/ha và có sai khác về giá trị thống
kê ở mức xác suất 95% ở cả 2 vụ.


20

Bảng 3.31. Năng suất của giống ớt Solar 135 ở các công thức bón phân đạm
và canxi khác nhau trong vụ Đông xuân 2015 - 2016 và Đông xuân 2016 2017 tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
Công thức
N1C1 (ĐC)
N1C2
N1C3
N2C1
N2C2
N2C3
N3C1
N3C2
N3C3
CV%(Khối*N*C)
LSD0,05 (Cùng mức đạm)
LSD0,05 (Khác mức đạm)

Năng suất (tấn/ha)

Đông xuân
Đông xuân
Trung bình
2015 - 2016
2016 - 2017
28,9 c
28,2 d
28,6
31,3 bc
30,5 c
30,9
32,0 ab
31,3 bc
31,7
32,2 ab
32,0 bc
32,1
34,5 a
34,3 a
34,4
34,3 a
33,8 a
34,1
32,2 ab
31,4 c
31,8
33,9 ab
33,6 ab
33,8
34,4 a

34,1 a
34,3
4,2
2,9
2,42
1,64
2,95
2,24

Ghi chú: N1 = 360 kg N/ha; N2 = 200 kg N/ha; N3 = 150 kg N/ha; C1= 350 kg
CaO/ha; C2= 500 kg CaO/ha; C3= 800 kg CaO/ha.

Ở góc độ tương tác giữa đạm và canxi, năng suất bình quân trong 2 vụ
của các công thức đạt từ 28,6 - 34,4 tấn/ha, trong đó, thấp nhất là công thức
N1C1 chỉ đạt 28,6 tấn/ha, cao nhất là bốn công thức N2C2, N2C3, N3C2 và
N3C3 đạt từ 33,8 - 34,4 tấn/ha (bảng 3.31).
Kết quả phân tích hiệu quả kinh tế của các công thức phân bón đạm và
canxi cho thấy, năng suất bình quân của 2 vụ của các công thức phân bón đạt từ
28,6 - 34,4 tấn/ha, doanh thu đạt từ 342,60 - 412,80 triệu đồng/ha, lãi thuần đạt từ
220,87 - 294,32 triệu đồng/ha và tỷ suất lãi so với vốn đầu tư biến động từ 1,81 2,49. Trong đó, hai công thức N2C2 và N3C3 đạt năng suất bình quân và doanh
thu cao nhất trong thí nghiệm. Tuy nhiên, lãi thuần và tỷ suất lãi so với vốn đầu
tư lại tương đương hoặc không có sai khác lớn so với các công thức N2C3 và
N3C2. Như vậy, với lượng phân bón 200 và 150 kg N/ha kết hợp với 2 mức bón
canxi 500 và 800 kg CaO/ha đều không có sự sai khác lớn về lãi thuần và tỷ suất
lãi. Do đó, lựa chọn công thức phân bón N3C2 hay bón đạm và canxi với lượng
150 kg N và 500 kg CaO cho 1 ha trên nền 20 tấn phân chuồng, 100 kg P2O5 và
160 kg K2O là mức phân bón phù hợp để đạt được năng suất và hiệu quả kinh tế
cao nhất đối với cây ớt trên đất xám phù sa cổ ở Bình Định với độ pHkcl<5,0.



21

3.4. Nghiên cứu thăm dò ảnh hưởng của gốc ghép khác nhau đến sinh trưởng,
năng suất và khả năng chống chịu bệnh hại của giống ớt solar 135
3.4.1. Tỷ lệ sống sau ghép của giống ớt Solar 135 ghép trên các loại gốc khác
nhau
Kết quả theo dõi tỷ lệ sống sau ghép của giống ớt Solar 135 trên 5 giống
làm gốc ghép khác nhau cho thấy, tỷ lệ sống sau ghép bắt đầu có sự ổn định sau
9 ngày ghép bởi đến ngày thứ 12 và ngày thứ 15 thì tỷ lệ sống của các tổ hợp
ghép gần như không có sự thay đổi so với thời điểm 9 ngày sau ghép. Trong đó
đạt cao nhất vẫn là ghép trên gốc ghép Trắng Khánh Hòa đạt 95,0%, cao hơn so
với 4 gốc ghép còn lại từ 5,0 – 8,7%.
3.4.2. Khả năng sinh trưởng của giống ớt Solar 135 ghép trên các loại gốc
khác nhau
Thời gian từ trồng tới kết thúc thu hoạch của các tổ hợp ghép có sự chênh
lệch khá lớn, dao động từ 122 – 162 ngày. Trong đó, khi ghép trên 3 giống Xiêm
Lai Ninh Thuận, Bom Huế và Catu Nghệ An thì thời gian kết thúc thu hoạch chỉ
từ 122 – 131 ngày, ngắn hơn so với giống đối chứng từ 8 – 17 ngày. Ngược lại,
khi ghép trên giống Tím Bình Định và Trắng Khánh Hòa thì thời gian cho thu
hoạch lần lượt là 154 và 162 ngày, dài hơn so với giống đối chứng không ghép
lần lượt là 15 và 23 ngày.
Chiều cao cây: Tại thời điểm sau trồng 30 ngày thì chiều cao cây ở tất cả
các tổ hợp ghép đều thấp hơn so với giống đối chứng từ 1,3 – 10,9 cm, nhưng
đến thời điểm 60, 90 và 120 ngày sau trồng thì chiều cao cây khi ghép trên gốc
Trắng Khánh Hòa đạt cao nhất trong 5 giống làm gốc ghép và cao hơn cả giống
đối chứng (không ghép) lần lượt là 0,7 cm (60 ngày sau trồng), 1,1 cm (90 ngày
sau trồng) và 3,7 cm (120 ngày sau trồng), trong khi đó khi ghép trên 4 gốc
ghép còn lại là Tím Bình Định, Xiêm Lai Ninh Thuận, Bom Huế và Catu Nghệ
An đều có chiều cao cây thấp hơn so với giống đối chứng (không ghép) từ 4,3 –
27,1 cm (60 ngày sau trồng), từ 3,8 – 15,7 cm (90 ngày sau trồng) và từ 5,1 –

18,9 cm (120 ngày sau trồng).
Tỷ số đường kính thân gốc ghép/thân ngọn ghép qua các thời điểm sau
trồng 1, 60, 90 và 120 ngày cho thấy: Trong số 5 giống làm gốc ghép thì ghép
trên gốc ghép Trắng Khánh Hòa cho chỉ số T ở mức độ ổn định và gần 1 nhất
so với 4 gốc ghép còn lại. Tại thời điểm 120 ngày sau trồng, khi cây ớt đã có sự
sinh trưởng và phát triển ổn định thì tỷ số T của gốc ghép Trắng Khánh Hòa =
0,98, trong khi đó 4 gốc ghép còn lại có chỉ số T đều xa 1 hơn là Catu Nghệ An
(T=0,84), Tím Bình Định (T=0,90), Xiêm Lai Ninh Thuận (T=0,91) và Bom
Huế (T=0,94).
3.4.3. Tình hình nhiễm bệnh hại của giống ớt Solar 135 ghép trên các loại
gốc khác nhau
Tỷ lệ nhiễm bệnh thối gốc, rễ và héo xanh vi khuẩn của các loại gốc ghép
là khác nhau. Đối với bệnh thối gốc, rễ tỷ lệ bệnh dao động từ 0,7 – 2,7%, trong
đó nhiễm thấp nhất là gốc ghép Tím Bình Định chỉ bị 0,7%, thấp hơn so với


22

giống đối chứng, gốc ghép Trắng Khánh Hòa và Xiêm Lai Ninh Thuận là 0,7%,
hai gốc ghép Catu Nghệ An và Bom Huế nhiễm nặng nhất với tỷ lệ nhiễm từ
2,0 – 2,4%.
Đối với bệnh héo xanh vi khuẩn, chỉ có giống ớt Trắng Khánh Hòa không bị
nhiễm (tỷ lệ 0,0%), giống Tím Bình Định và Xiêm Lai Ninh Thuận nhiễm tương
đương so với giống đối chứng (0,7%). Trong khi đó, giống Bom Huế và Catu
Nghệ An bị nhiễm với tỷ lệ 1,4%, cao hơn so với giống đối chứng là 0,7%.
3.4.5. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống ớt Solar 135
ghép trên các loại gốc khác nhau
Bảng 3.37. Ảnh hƣởng của các loại gốc ghép khác nhau đến yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất của giống ớt Solar 135 trong vụ Đông xuân
2015 - 2016 tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

Gốc ghép
Solar 135 (Đ/c)
Tím Bình Định
Trắng Khánh Hòa
Xiêm lai Ninh Thuận
Bom Huế
Catu Nghệ An
CV (%)
LSD0,05

Số cây thu
Số quả/cây
hoạch trên
(quả)
ô (cây)
48,0 ± 1,0 65,3 ± 2,8
48,3 ± 1,2 55,7 ± 3,3
48,3 ± 0,6 66,4 ± 4,1
48,0 ± 0,0
55,6 ± 2,2
47,0 ± 1,0 52,3 ± 2,8
47,3 ± 1,5 46,3 ± 2,4

Khối lƣợng
trung bình
quả (gam)
15,4 ± 0,8
14,2 ± 0,6
15,2 ± 0,5
13,4 ± 0,7

13,5 ± 0,6
13,3 ± 0,6

Năng suất
thực thu
(tấn/ha)
33,2 a
25,4 b
33,7 a
23,2 bc
22,6 cd
20,4 d
5,0
2,4

Số liệu ở bảng 3.37 cho thấy: Số cây thu hoạch/ô dao động từ 47,0 – 48,3
cây. Sự chênh lệch số cây thu hoạch/ô giữa các gốc ghép khác nhau là do tỷ lệ
bệnh thối gốc, rễ và héo xanh vi khuẩn khác nhau.
Số quả/cây giữa các gốc ghép khác nhau có sự dao động khá lớn, từ 46,3
– 66,4 quả. Trong 5 gốc ghép khác nhau thì chỉ có gốc ghép Trắng Khánh Hòa
đạt số quả tương đương so với giống đối chứng, các gốc ghép còn lại chỉ đạt từ
46,3 – 55,7 quả/cây, thấp hơn so với giống đối chứng từ 9,6 – 19,0 quả/cây.
Tương tự như số quả/cây, khối lượng trung bình quả khi ghép trên gốc
ghép Trắng Khánh Hòa đạt 15,2 gam, tương đương so với giống đối chứng
(15,4 gam), nhưng khi ghép trên các gốc ghép còn lại chỉ đạt từ 13,3 – 14,2
gam, thấp hơn so với giống đối chứng từ 1,2 – 2,1 gam.
Do số cây thu hoạch/ô, số quả/cây và khối lượng trung bình quả giữa các
gốc ghép khác nhau có sự chênh lệch nên năng suất thực thu của giống ớt Solar
135 khi ghép trên các loại gốc ghép khác nhau cũng có sự biến động lớn từ 20,4
– 33,7 tấn/ha. Trong đó, đạt cao nhất khi ghép trên gốc Trắng Khánh Hòa là

33,7 tấn/ha, cao hơn so với giống đối chứng là 0,5 tấn/ha, nhưng khi phân tích
phương sai thì không thấy có sai khác ở mức xác suất 95%, các gốc ghép còn
lại chỉ đạt từ 20,4 – 25,4 tấn/ha, thấp hơn có ý nghĩa ở mức xác suất 95% so với
giống đối chứng từ 7,8 – 12,8 tấn/ha.


23

3.5. Đánh giá việc áp dụng thử nghiệm các kết quả nghiên cứu đến năng
suất và phẩm chất ớt trên đất xám phù sa cổ ở Bình Định
Kết quả đánh giá so sánh năng suất và hiệu quả kinh tế giữa biện pháp
thâm canh tổng hợp giống ớt Solar 135 với biện pháp canh tác theo phương
thức truyền thống cho thấy: Năng suất ở biện pháp canh tác theo truyền thống
của người dân do bón phân chưa cân đối nên tỷ lệ nhiễm bệnh thối đỉnh quả và
thán thư cao dẫn đến tổng số quả/cây thấp, mặt khác mức độ nhiễm bệnh thối
gốc, rễ và bệnh héo xanh vi khuẩn cao nên năng suất ớt giống TN 185 chỉ đạt
25,7 tấn/ha. Trong khi đó, với biện pháp canh tác ứng dụng các kết quả của đề
tài khi sử dụng giống ớt Solar 135 kết hợp với bón phân cân đối nên khả năng
kháng bệnh cao, số quả/cây lớn, do đó năng suất đạt 32,8 tấn/ha, cao hơn 21,6%
so với biện pháp canh tác theo phương thức truyền thống của người dân.
Bảng 3.39. Hiệu quả kinh tế của các biện pháp canh tác trong vụ Đông
xuân 2016 - 2017 tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
(Đơn vị tính: 1,0 ha)

Tiêu chí đánh giá
Tổng chi phí (1.000 đồng)
NVL, năng lượng (1.000 đồng)
Công lao động (1.000 đồng)
Tổng doanh thu (triệu đồng)
Năng suất (tấn/ha)

Giá bán sản phẩm (1.000 đồng/kg)
Lãi thuần (triệu đồng)
Tỷ suất lãi so với vốn đầu tƣ

Biện pháp canh
tác theo truyền
thống của ngƣời
dân
128.200,0
57.250,0
70.950,0
330,0
27,5
12,0
201,8
1,6

Biện pháp canh
tác áp dụng theo
kết quả nghiên
cứu của đề tài
114.910,0
46.210,0
68.700,0
393,6
32,8
12,0
278,7
2,4


Kết quả phân tích hiệu quả kinh tế cho thấy, với cùng giá bán sản phẩm
nhưng do năng suất và tổng chi phí có sự chênh lệch giữa 2 biện pháp canh tác
nên tổng doanh thu, lãi thuần và tỷ suât lãi thu được là khác nhau. Ở biện pháp
canh tác theo truyền thống của người dân, tổng doanh thu là 330,0 triệu đồng,
lãi thuần đạt 201,8 triệu đồng và tỷ suất lãi so với vốn đầu tư là 1,6. Trong khi
đó, ở biện pháp canh tác áp dụng theo kết quả nghiên cứu của đề tài đạt tổng
doanh thu là 393,6 triệu đồng, lãi thuần 278,7 triệu đồng và tỷ suất lãi so với
vốn đầu tư là 2,4 (bảng 3.39).
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận
1.1. Năng suất ớt ở Bình Định vẫn còn thấp (trung bình ớt chỉ địa đạt 20,4
tấn/ha, ớt chỉ thiên đạt 14,8 tấn/ha) do một số nguyên nhân: bộ giống tuy đa dạng
nhưng luôn thay đổi qua từng năm, nhiều giống chưa qua khảo nghiệm nên năng
suất và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và thị trường; các
nông hộ sử dụng ít phân hữu cơ (phần lớn từ 10 – 15 tấn/ha) và vôi bột (trung


×