Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận vận dụng những quan điểm, tư tưởng của hồ chí minh về cán bộ và công tác cán bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.16 KB, 28 trang )

A - LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt
xuất, người thầy vĩ đại và là nhà tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng
của Người là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta, là ngọn cờ thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người không chỉ có giá trị trong đấu tranh giải
phóng dân tộc mà còn có giá trị bền vững lâu dài đối với sự phát triển của đất nước
trong hiện tại và tương lai. Trong việc xây dựng Đảng cũng như trong toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và trong
vấn đề cán bộ, Người đặc biệt chú trọng đến vấn đề rèn luyện đạo đức, tư cách của
người cán bộ cách mạng, với mục tiêu nhằm xây dựng Đảng ta thành một Đảng thật
sự đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, mỗi cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người dạy: “Cũng như sông thì
có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”, những tư tưởng của Người về cán bộ thực sự có
ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại của Đảng, của cách mạng Việt Nam.
Theo tư tưởng của Người, trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi thắng lợi hay
sai lầm đều không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng, tách rời phẩm chất, năng lực
của người đảng viên. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh luôn kiên trì giáo dục đạo đức, đề cao hàng đầu “tư cách người cách mệnh”,
coi đạo đức là cái gốc của người cán bộ, nêu cao đạo đức cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư, khiêm tốn, giản dị, luôn nhắc nhở người cách mạng phải “ít lòng tham
muốn về vật chất”. Người chỉ rõ người cán bộ cách mạng phải thường xuyên chống
tham ô, lãng phí, quan liêu, những căn bệnh bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ,
đó là những “giặc nội xâm” có thể làm đổ vỡ sự nghiệp cách mạng.

1


Trong công cuộc đổi mới hiện nay, đất nước ta đang đứng trước nhiều vận mệnh
mới, với nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn, thử thách. Đảng ta xác định


"phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là then chốt, tư tưởng
của Người vẫn giữ nguyên giá trị đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta trong
hiện tại và tương lai. Bên cạnh những yếu tố tích cực trong cơ chế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang thực hiện, vẫn còn tồn tại nhiều yếu
kém của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã và đang bộc lộ cần phải kiên quyết sửa
chữa, khắc phục.
Những lời dạy của Người về tầm quan trọng về cán bộ và công tác cán bộ
trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt là vấn đề trau dồi đạo đức, phẩm chất của người
cán bộ…cho đến nay, vẫn giữ nguyên giá trị. Trong những năm qua, trước những
diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và nhiều khó khăn trong nước, nhờ nắm
vững và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
ta đã lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, vượt qua khủng hoảng, đưa
đất nước tiếp tục vững bước tiến lên.

2


B - NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
1. Về vị trí, vai trò của cán bộ
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam.
Về vị trí, vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là dây chuyền của
bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, “cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng1.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”2, Người

cho rằng:“bất cứ công việc gì nếu thiếu cán bộ khó thực hiện được” 3. Với ý nghĩa
đó, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí
vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực kỳ quan trọng của hệ
thống chính trị nước ta.
2. Yêu cầu đối với cán bộ cách mạng
Về tư cách người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một số mặt sau:
Một là: Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng.
Hai là: Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và
lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.269.

2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.269.

3

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.4, tr.260.

3


khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải
phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân dân. Vì toàn
dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng”4. Hồ Chí Minh đề ra nguyên
tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ
phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải
phục tùng lợi ích lâu dài”5.

Trong việc chống chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh rất coi trọng lợi ích cá
nhân, miễn là lợi ích cá nhân của cán bộ là phù hợp với lợi ích của Đảng, của cách
mạng. Trong cuộc sống, nhiều khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích của Đảng,
nhưng cũng có lúc không, vì thế Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu gặp khi lợi ích
chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh
lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình cũng
phải vui lòng hy sinh cho Đảng”6; đảng viên và cán bộ “phải đặt lợi ích của Đảng
lên trên hết, lên trước hết…Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ
phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc
cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”7.
Ba là: Người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương
sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác ở
trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là tấm gương sáng về đạo
đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều dài lịch sử của
dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ các dân tộc ở
trên đất nước Việt Nam. Nếu cán bộ không có một đời tư trong sáng thì sẽ không
thuyết phục, vận động được nhân dân trong các phong trào cách mạng. Người cán
4

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.250.

5

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.250.

6

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.251.

7


Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.251.

4


bộ, ngoài việc phải hoàn thành tốt công việc chung của Đảng đã được phân công, lại
phải còn là một thành viên tốt của gia đình, là một người công dân tốt, kiểu mẫu ở
khu dân cư và ngoài xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người chung
quanh trong cùng bản làng, thôn xóm…
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực. Trước hết, cán bộ phải có đạo đức cách
mạng. Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Hồ Chí Minh đã nêu. Đây cũng
chính là quan điểm xuất phát, một yêu cầu có tính chất tiên quyết đối với cán bộ
cách mạng. Không ít lần, Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng không phải là một tổ chức
để làm quan phát tài”8, người cán bộ cách mạng không phải là người “làm quan cách
mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ là để “thăng quan tiến chức”,
“một người làm quan cả họ được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ
dân chúng như dưới thời thực dân - phong kiến”, v.v. Người cán bộ phải tận tụy với
sự nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, “phải làm tròn nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”9. Trung
thành ở đây trước hết đòi hỏi cán bộ phải hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ của mình được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
kể cả khi thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì không kiêu căng, chủ
quan, tự mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ, trở ngại thì không hoang mang, dao động;
“vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi” 10; phải luôn luôn có ý
thức và hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc. Trung thành với cách mạng là phải
hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân, dù
nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng hết sức tránh.
Đồng thời, về năng lực, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.

8

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.249.

9

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.249.

10

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.278.

5


Muốn thế, phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
quyết định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống, ngoài yêu cầu về
đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng đắn, còn phải tổ chức
lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi. Không như thế thì đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể nhân dân
chỉ nằm trên giấy.
Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu đối với cán
bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ Đảng cầm quyền càng đặc
biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán bộ, bằng hành động
thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục; đừng có mang
danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu dân, kính dân; phải việc gì có
lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố tránh;
phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa là người lãnh đạo vừa là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Cán bộ phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học suốt đời,

học không biết chán, dạy không biết mỏi (Nho giáo); học, học nữa và học mãi
(V.I.Lênin)… đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào trong cuộc
sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên. Hồ Chí
Minh quan niệm: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Hồ Chí Minh cho rằng, ngày
nay không thể lãnh đạo chung chung được nữa, rằng, chỉ có lòng nhiệt tình không
thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tri thức nữa. Hồ Chí Minh suốt đời chăm chỉ học
tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn còn học; học ở nhà trường, học trong cuộc sống, và
quan niệm của Hồ Chí Minh học không phải là để có bằng cấp, để thăng chức.
Cán bộ phải có phong cách tốt. Theo Hồ Chí Minh, muốn có phong cách công
tác tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái, ham
chuộng hình thức, phô trương cho oai, làm đại khái, qua loa. Phải sâu sát, tỷ mỷ;
6


nắm việc lớn, phải giải quyết bắt đầu từ những việc cơ bản, không cận thị, có đầu óc
quan sát; phải chân đi, miệng nói, tay làm, không như thế thì đầy túi quần thông cáo,
đầy túi áo công văn nhưng công việc không chạy.
Riêng về phong cách công tác của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới các
vấn đề chủ yếu: Sửa cách lãnh đạo về công tác cán bộ; biết chọn trình tự ưu tiên
công việc; thường xuyên tổng kết công tác; phải luôn luôn có sáng kiến; sâu sát, gần
gũi nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ; có
lãnh đạo chung, nhưng có chỉ đạo điểm.
Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật Đảng
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều này đúng như điều tất
yếu mà Hồ Chí Minh đã nêu: Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã
hội mà ra, do đó, Đảng phải thường xuyên phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, và đó chính
là quy luật phát triển của một Đảng Mác - Lênin, một Đảng chiến đấu dưới lá cờ của
chủ nghĩa cộng sản, vì một xã hội tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con
người.
II. QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN

BỘ
1. Về vị trí, vai trò của công tác cán bộ
Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong những công tác
chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định tới sự thành công của toàn bộ
công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt công tác
cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi, và
ngược lại. Với quan điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến công tác cán
bộ, từ đánh giá, lựa chọn, huấn luyện, thử thách, rèn luyện, sử dụng, đãi ngộ.

7


Từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 trở đi, Hồ Chí Minh
luôn luôn chú ý huấn luyện và xây dựng lực lượng cán bộ. Người chỉ rõ: “chỉnh
huấn là cốt để giúp cán bộ nâng cao tư tưởng cách mạng, củng cố lập trường, rửa
gột khuyết điểm, phát triển ưu điểm”11. Người khuyên: “Cán bộ phải ra sức học tập
chỉnh huấn, phát triển ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, hết lòng hết dạ phục vụ nhân
dân, thực hiện đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, đi đúng đường lối quần
chúng”12, Nhờ làm tốt công tác cán bộ, cho nên Đảng đã lãnh đạo thành công Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, lãnh đạo thắng lợi các cuộc kháng chiến tranh xâm
lược.
2. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Phạm vi của vấn đề công tác cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng, xin
nêu chủ yếu một số nội dung sau đây:
Hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn và sử dụng đúng cán bộ. Đây là yêu
cầu xuất phát để tiến hành các mặt khác của công tác cán bộ. Nếu không đánh giá
đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ thì không thể đề ra chính sách cán bộ một
cách đúng đắn được. Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi lần xem xét lại cán bộ, một mặt
sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị lòi ra. Hiểu
và đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ phải có những yêu cầu riêng.

Đồng thời, hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có những chuẩn mực phù hợp với từng
thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, đánh giá một cách hoàn toàn công minh,
khách quan. Yêu cầu về mặt này cho chúng ta thấy không thể đem cái thước đo chất
lượng của cán bộ vùng thành thị để đo chất lượng cán bộ vùng dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa; không thể đem thước đo chất lượng cán bộ lĩnh vực này vào đo chất
lượng cán bộ ở lĩnh vực khác.
11

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.92.

12

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.137.

8


Người làm công tác cán bộ khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết mình”,
tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm của mình, để
“mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”, như thế mới không
phạm những căn bệnh như: thứ nhất tự cao tự đại; thứ hai ưa người ta nịnh mình; thứ
ba do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người; thứ tư đem một cái khuôn khổ nhất
định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu
phạm một trong bốn bệnh đó thì người làm công tác cán bộ cũng như mắt đã mang
kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xem xét một người cán bộ không nên chỉ xem
xét mặt bên ngoài, xem xét qua một việc, mà phải xem xét kỹ cả toàn bộ công việc
của người cán bộ đó. Quan niệm của Hồ Chí Minh là: trong thế giới, cái gì cũng biến
hoá, tư tưởng con người cũng vậy, cho nên xem xét cán bộ phải toàn diện, xem xét
cả một quá trình công tác của người cán bộ. Có người trước đây có sai lầm nhưng

nay đã sửa chữa được, có người nay không có sai lầm nhưng sau lại mắc sai lầm, có
người trước đây đi theo cách mạng nay lại phản cách mạng, ngược lại có người
trước đây không theo cách mạng nay lại tham gia cách mạng… nghĩa là quá khứ,
hiện tại, tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau. Do đó, xem xét
cán bộ phải xem xét cả lịch sử của họ, toàn bộ công việc của họ.
Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc
nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích
người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng
không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay
thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao
giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ
cũng không thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ

9


tốt. Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo
sửa chữa chỗ xấu cho họ”13.
Phải “khéo dùng cán bộ”, “dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều
tùy chỗ mà dùng được. Hồ Chí Minh phê bình rằng, thường chúng ta không biết tùy
tài mà dùng người, thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao,
thành thử hai người đều lúng túng, nếu biết tùy tài mà dùng người thì hai người đều
thành công.
Hồ Chí Minh phê bình nghiêm khắc tệ “kéo bè kéo cánh” trong công tác cán
bộ. Tệ này phát sinh từ bệnh bè phái, ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là
tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp với
mình thì người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm
pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Khuyết điểm này, như Hồ Chí Minh chỉ
ra, nó rất tai hại, nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ

chính sách của mình, làm hại sự thống nhất, nó làm mất sự thân ái, đoàn kết đồng
chí, gây ra những mối nghi ngờ…
Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm toàn diện khi xem xét để đề bạt, bổ nhiệm cán
bộ: Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gũi quần chúng, có
được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc
gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất
nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm,
vào những địa vị lãnh đạo, như thế rất có hại.
Hồ Chí Minh phê phán những bệnh sau đây: thứ nhất ham dùng người bà con,
anh em quen biết, bầu bạn, vì cho họ tốt hơn người bên ngoài; thứ hai ham dùng
những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực; thứ ba ham
13

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.278 – 279.

10


dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp
với mình.
Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm dùng cán bộ đúng với 5 nội dung: một là phải
có độ lượng vĩ đại thì mới có thể có thái độ và tinh thần chí công vô tư đối với cán
bộ, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi; hai là phải có tinh thần rộng
rãi mới có thể gần gũi với những người mà mình không ưa; ba là phải có tính chịu
khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những cán bộ còn kém, giúp cho họ tiến bộ; bốn là
phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây mà cách xa cán bộ tốt; năm là phải có
thái độ vui vẻ, thân mật, cán bộ mới vui lòng gần gũi mình.
Phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương, hẹp hòi. Hồ Chí Minh hay
nhấn mạnh đến việc chống cánh hẩu, họ hàng, thân quen trong công tác cán bộ nói
chung cũng như trong chính sách cán bộ nói riêng. Người phê bình một cách nghiêm

khắc việc ưa kẻ nịnh người làm công tác cán bộ, tìm cách lợi dụng chức quyền để đưa
anh em, họ hàng, bạn bè thân quen vào chức này chức nọ. Hồ Chí Minh chỉ rõ tác hại
của bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương cục bộ. Theo Người, những bệnh chủ nghĩa địa
phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa
vị, dìm người giỏi, v.v. đều do bệnh hẹp hòi mà ra.
Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh cũng đề cập việc kết hợp cán bộ tại chỗ với
cán bộ do cấp trên điều về. Người phê bình do hẹp hòi mà cán bộ cấp trên phái đến
và cán bộ địa phương không đoàn kết chặt chẽ. Hồ Chí Minh cho rằng, phải chữa
cho “tiệt nọc” bệnh hẹp hòi, khắc phục kèn cựa, mất đoàn kết giữa cán bộ trên điều
về và cán bộ tại chỗ. Người viết: “Phải biết rằng: chỉ có hai hạng cán bộ đó đoàn
kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ địa phương ngày càng thêm nhiều, thì nền tảng của
Đảng mới phát triển vững vàng. Cán bộ phái đến, trình độ thường cao hơn, kinh
nghiệm nhiều hơn. Nhưng cán bộ địa phương lại biết rõ nhân dân, quen thuộc công

11


việc hơn. Hai hạng cán bộ phải giúp đỡ nhau, bồi đắp nhau, thì công việc mới
chạy”14. Theo quan điểm của Người, tốt nhất là kiếm cán bộ tại chỗ, đào tạo, bồi
dưỡng, đề bạt, sử dụng cán bộ tại chỗ; song nếu không có hoặc thiếu thì điều động
cán bộ ở nơi khác về. Chúng ta thấy rằng, đây chính là thực hiện quan điểm coi
Đảng ta là một cơ thể sống, đội ngũ cán bộ là một đội ngũ thống nhất, cán bộ có thể
và cần phải được bố trí công tác ở bất cứ địa bàn nào miễn là người cán bộ đó có đủ
đức và tài, có tính đến đặc điểm, yêu cầu của từng vùng, từng lĩnh vực.
Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa cán bộ mới và cán bộ cũ cũng được Hồ
Chí Minh đề cập không ít trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Hồ Chí
Minh chỉ rõ tính tất yếu, tự nhiên, hợp quy luật của vấn đề này, khi cho rằng: “Số
cán bộ cũ có ít, không đủ cho Đảng dùng. Đồng thời, theo luật tự nhiên, già thì phải
yếu, yếu thì phải chết. Nếu không có cán bộ mới thế vào, thì ai gánh vác công việc
của Đảng”15. Hồ Chí Minh phân tích rằng, cán bộ mới “vì công tác chưa lâu, kinh

nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ
cũ: họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng kiến hơn”16. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo, dìu dắt, yêu mến cán bộ mới…Hai bên phải
tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau…Cán bộ cũ
thường giữ địa vị lãnh đạo. Vì vậy, nếu từ nay, quan hệ giữa hai hạng cán bộ ấy
không ổn thoả, thì cán bộ cũ phải chịu trách nhiệm nhiều hơn. Như thế mới chữa
khỏi bệnh hẹp hòi”17
Phải chú trọng đến công tác đề bạt cán bộ. Hồ Chí Minh lưu ý việc phải xem
xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt rồi thì phải theo dõi, giúp đỡ,
kiểm tra người cán bộ đó; nếu không như thế thì hỏng việc. Hồ Chí Minh viết rõ: cất
14

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.236.

15

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.237.

16

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.237.

17

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.237.

12


nhắc cán bộ không nên làm theo lối giã gạo, nghĩa là trước khi cất nhắc không xem

xét kỹ, khi cất nhắc rồi thì không giúp đỡ họ, khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ
lúc họ làm khá lại cất nhắc lên; một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là
hỏng cả đời. Hồ Chí Minh bày tỏ quan điểm quý trọng cán bộ khi cho rằng: “Đảng
phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải
trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của
chúng ta”18.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong công tác cán bộ, phải chú ý việc đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, đây là công việc gốc của Đảng khi đặt
trong mối quan hệ với nội dung vai trò của cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ là một công việc quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên. Ở đây, có mấy
điểm đáng chú ý mà Hồ Chí Minh đã nêu: Học phải thiết thực, “lấy tự học làm cốt.
Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”19; học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với
thực tế; sắp xếp thời gian và bài học phải hợp lý; tuyệt đối chống bệnh chủ quan, hẹp
hòi, ba hoa; các tài liệu huấn luyện phải do cơ quan lãnh đạo xét kỹ; những giờ học
tập đều tính như những giờ làm việc; khi cất nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập
cũng như kết quả công tác khác mà định; phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên
phụ trách việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; những người lãnh đạo phải tham gia giảng
dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng; đầu tư cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ phải có kinh phí tương xứng với yêu cầu, “không nên bủn xỉn về các
khoản chi tiêu trong việc huấn luyện”20
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa và thực tiễn
sâu sắc. Đó là những quan điểm cơ bản chỉ đạo chung vào công tác đổi mới và chỉnh
đốn Đảng trong tất cả các thời kỳ hoạt động của Đảng, đặc biệt trong thời kỳ cách
18

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.273

19

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.273.


20

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.273.

13


,&

#

?

!

h3

1?

*

E

%X# ,&

I

", D #< (O


1?

%&9

'

*

' 9'

2

O

%&

%

L D > E/
III. VẬN DỤNG NHỮNG QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ

MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY
0 ?
% !

c

+


,&

(> %F
2

H

% !
+

(L

? 9

% !
_

'9

!

,

%&9 +

(' ,5
+
?

7


+

+

[
D

V

$
>

E

D

+

[

%[ ,*

2

< 2

5

(6 (

'

O

%
/

•&
+

,& P
+ ;

+P Q%[ ,*
5,

(>

%&9 D "

u , ]ltkv %O %< 8

+ ;

U/ 0N % %E

% @, % !

(O


$

+
%+

'

,( 6



%O

%O %

(', J

,' 3
,&

=

H

>

H -w

3


+

* % (J

+ ; _ 3&

84

/

+ ;
8

B
E

* / -< 2
H

,&

($

E %

("

+

F


0[ D > %

8 *

P1

o, 2

B + ;

+

%

8K

2

2

';

'9 D "

h %[ ,* •&

,
+


,4

, I/ 3
L

H

# S,/

0+, ' +

B + ;

! (', 2

>

,&

",

>

> %[ ,* %

%&9

>

+


^
+

=

(O

+ ; (' +

%&9 %H

,4

9

9'

(6

9 + ;

(> %[ ,* 9'

;[ 1

5

P


3

,&

=

> D #E %

c

(>

a *

%O

9 (', >

?

6 D

1^

,D

,&
B + ;

(? [

F

%

;& %<

+

% 6 %
8 A

g

9C

089

. , A te

+ ; ('

N
'

-

B

+ ; (O


5 %@

# •
+

'%

F %X#

2
+ ;

N
'

J

8R

/

]n


Do điều kiện lịch sử để lại, phần lớn cán bộ sau khi kết thúc cuộc kháng
chiến, chưa được đào tạo cơ bản, hẫng hụt về trình độ lý luận, trình độ chuyên
môn, nhất là sự hiểu biết về quản lý kinh tế, phát triển sản xuất... Đảng ta nhận
thấy cần đào tạo, bồi dưỡng khẩn trương đội ngũ cán bộ phục vụ cho mọi lĩnh vực.
Đại hội VI chỉ rõ muốn có được đội ngũ cán bộ tốt không thể không đẩy mạnh đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách bài bản, nghiêm túc: “nhân tài không phải là sản

phẩm tự phát, mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu. Nhiều tài năng có
thể mai một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng chỗ, đúng lúc. Việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ phải tuân theo một quy trình chặt chẽ. Đó là kết hợp giữa
bồi dưỡng kiến thức ở các trường học với rèn luyện trong thực tiễn”21.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định: “Cán bộ và
công tác cán bộ thật sự là yêu cầu vừa cơ bản, vừa bức xúc, đòi hỏi phải đổi mới từ
quan điểm, đến phương pháp, chính sách và tổ chức, chẳng những để đáp ứng nhu
cầu xây dựng đất nước hiện nay mà còn phải chuẩn bị những thế hệ cách mạng kế tục
sự nghiệp của Đảng ta và dân tộc trong tương lai”22. Đại hội VII cho rằng “khẩn
trương xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại, từng chức danh cán bộ ở các cấp,
các ngành và căn cứ vào đó để đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ, chấm dứt tình trạng
bố trí cán bộ theo kiểu thân quen, cảm tính chủ quan”23.
Tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra rất nhiều yêu cầu cho công tác cán bộ, Đại
hội VIII của Đảng khẳng định toàn Đảng phải hết sức chăm lo xây dựng thật tốt đội
ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ kế cận vững vàng, đủ bản lĩnh về các mặt. Sớm
xây dựng chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại đất
nước. Quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ cho cả hệ thống chính trị, quan điểm về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chỉ rõ: “Đảng phải lo cán bộ cho cả hệ thống chính
21

ĐCSVN (1987), Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.34.

22

ĐCSVN, Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1991, tr.91.

23

ĐCSVN (1991), Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.99.


15


trị, trên tất cả các lĩnh vực. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên hệ thống
chính trị trong công tác cán bộ. Bảo đảm nguyên tắc tập thể, dân chủ đi đôi với phát
huy trách nhiệm cá nhân trong công tác cán bộ...
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo
đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cả
cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp và các chuyên gia trước
hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị; coi trọng cả đức và tài,
đức là gốc”24.
Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, Đảng ta rất chú trọng việc
bố trí, sử dụng cán bộ. Đại bội VIII của Đảng nhấn mạnh việc bố trí, sử dụng cán bộ
một cách khoa học: “Bố trí và sử dụng cán bộ phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn và sở
trường, Đề bạt, bổ nhiệm đúng lúc, giao việc đúng tầm, thay thế kịp thời khí cần
thiết, Xây dựng quy chế bầu cử có nhiệm kỳ, bổ nhiệm có thời hạn. Có chế độ cho
cán bộ được từ chức hoặc rút chức để nhận công việc thích hợp”25.
Kế thừa và phát triển những quan điểm về công tác cán bộ, sau Đại hội VIII,
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 3 đã ban hành Nghị quyết về chiến lược phát
triển cán bộ, trong đó đưa ra 5 quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: thứ nhất, phải xuất phát từ yêu
cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thứ hai, quán
triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và
đoàn kết dân tộc; thứ ba, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và
đổi mới cơ chế, chính sách...; thứ tư, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào
cách mạng của nhân dân, nâng cao trinh độ dán tri để tuyển chọn, giáo dục, rèn
24

ĐCSVN (1996), Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.145-146.


25

ĐCSVN (1996), Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.145-147.

16


luyện, bồi dưỡng cán bộ; thứ năm, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách
nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII là nghị quyết tương đối toàn diện về nội
dung của công tác cán bộ, Nghị quyết đã xây dựng những tiêu chuẩn cán bộ trong
thời kỳ mới, trong đó có tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang; cán
bộ quản lý kinh doanh. Đồng thời, Nghị quyết đưa ra một số nhiệm vụ và giải pháp
lớn về xây dựng quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng; xây dựng các quy chế công tác
cán bộ (đánh giá, tuyển chọn, bầu cử, bổ nhiệm và miễn nhiệm, luân chuyển, chế
độ học tập, nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ, chế độ kiểm tra, bảo vệ
chính trị nội bộ, phân công và phân cấp quản lý cán bộ); đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính sách cán bộ; đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ.
Đại hội IX của Đảng đề ra yêu cầu cao hơn trong xây dụng đội ngũ cán bộ cho
hệ thống chính trị: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý
ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu vê đạo đức, lối sống, có trí tuệ, kiến
thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Có cơ chế và chính sách
phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có
tài. Thực hiện đúng đắn nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người
đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Làm tốt công tác
quy hoạch và đào tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ nữ và cán bộ các dân tộc thiểu số,

chuyên gia trên các lĩnh vực.
Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công
tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu; có phương pháp
khoa học, khách quan, công tâm, theo quy trình chặt chẽ, phát huy dân chủ, dựa
17


vào tập thể và nhân dân để tuyển chọn cán bộ. Đổi mới, trẻ hóa đội ngủ cán bộ
lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát
triển”26.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa IX đã ra kết luận
về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 3
và 7 khóa VIII về công tác tổ chức và cán bộ. Hội nghị đánh giá thẳng thắn
những việc đã làm, ưu điểm, khuyết điểm và thiếu sót trong công tác cán bộ: Đánh
giá và quản lý cán bộ là khâu yếu nhất nhưng chậm được khắc phục, chậm cụ thể
hóa và triển khai chiến lược cán bộ, công tác cán bộ chưa góp phần đẩy lùi tiêu
cực tham nhũng, chính sách cán bộ còn nhiều thiếu sót, bất hợp lý, Hội nghị đưa ra
5 giải pháp để tiếp tục thực hiện 3 nghi quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa
VII và VIII về công tác cán bộ: Tiếp tục cụ thể hóa và thể chế hóa nguyên tắc Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các bộ
phận trong hệ thống chính trị, tập thể quyết định đồng thời phát huy vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu; khắc phục tình trạng trì trệ và những mâu thuẫn hiện
nay trong đội ngũ cán bộ, công chức; Xây dựng quy hoạch, tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng và luân chuyển cán bộ; Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi
ngộ cán bộ, công chức; Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công
chức, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác.
Nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân; lãnh đạo phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ
động, tích cực hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, Đại hội X của Đảng khẳng

định tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Tổng kết nhiệm kỳ 2001-2006, Đại hội X
đánh giá: “Công tác cán bộ có một số đổi mới về nội dung và cách làm. Đã giữ
26

ĐCSVN (2001), Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, tr.141-142.

18


vững và thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ, thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng hơn việc
phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người
đứng đầu các tổ chức; bước đầu tổ chức để nhân dân tham gia ý kiến vào công tác
cán bộ, nhất là ở cơ sở. Tiếp tục cụ thể hóa một bước và xác định một số giải pháp
thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Triển khai tương đối dồng bộ các
khâu công tác cán bộ: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí,
sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Công tác luân chuyển và quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, quản lý bước đầu có chuyển biến rõ rệt, góp phần đào tạo, bồi dưỡng, tạo
nguồn cán bộ và khắc phục một bước tinh trạng hẫng hụt về cán bộ.
Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục,
nhất là việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công tác. Chậm đổi mới cơ
chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán
bộ. Chưa kiên quyết và thiếu những quy chế có hiệu lực để sắp xếp, bố trí lại đội
ngũ cán bộ, thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực, để
công việc trì trệ; hầu như chỉ khi cán bộ bị kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật mới thay
thế được. Chưa có chính sách đủ hiệu lực khơi dậy tài năng và thu hút nhân tài vào
các lĩnh vực quan trọng. Chậm khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, hẫng hụt cán
bộ ở các địa phương, ngành.

Đại hội X đề ra mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới,
sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có tính thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật

19


cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa
và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Ðại hội XI của Ðảng đã đề ra nhiệm vụ:
“Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” và chỉ
rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ”, xây dựng được đội ngũ
cán bộ đủ phẩm chất và năng lực đảm đương nhiệm vụ, có tính kế thừa, phát triển,
khắc phục cho được những hạn chế, yếu kém của đội ngũ cán bộ và công tác cán
bộ thời gian qua.
Ðể đổi mới công tác cán bộ, các cấp ủy đảng, các cơ quan tham mưu về tổ
chức cán bộ cần quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, có hiệu quả các
nhiệm vụ và giải pháp về công tác cán bộ mà Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng đã đề
ra. Ðồng thời, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; Kết luận số 37-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa X) về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Cụ thể là:
Trước hết, phải nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, các tổ chức trong hệ thống

chính trị và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan,
đơn vị ở các cấp về vị trí, vai trò quan trọng của công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách và
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ðảng đối với công tác cán bộ. Tiếp tục cụ thể
20


hóa, xây dựng hệ thống các quy chế bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác
cán bộ, nguyên tắc Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Phát huy đầy đủ vai trò,
quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Xây
dựng, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định nhằm mở rộng và phát huy dân chủ,
thực hiện công khai trong công tác cán bộ, làm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp,
có tầm nhìn xa và có tính khoa học, tránh được tình trạng tùy tiện, áp đặt chủ quan,
cảm tính. Tiếp tục hoàn thiện chế độ bầu cử, thực hiện bầu cử có số dư một cách
thực chất; mở rộng quyền tiến cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự
trong bầu cử và bổ nhiệm cán bộ. Ðổi mới và thực hiện tốt chế độ bỏ phiếu tín
nhiệm, từ chức, thôi chức, miễn chức để kịp thời thay thế những cán bộ không hoàn
thành nhiệm vụ. Ðổi mới việc ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết
định về công tác cán bộ; về quy trình công tác cán bộ, bảo đảm sự lãnh đạo của
Ðảng, phát huy đầy đủ trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu các
cơ quan nhà nước.
Thứ ba, tiếp tục cụ thể hóa để thực hiện các quan điểm, chủ trương của Ðảng
về công tác cán bộ một cách đồng bộ ở tất cả các khâu của công tác cán bộ. Tiếp tục
đổi mới phương pháp, quy trình đánh giá cán bộ; bảo đảm đánh giá cán bộ công
khai, minh bạch, dân chủ, khách quan, toàn diện; lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ
làm thước đo chủ yếu; chống các biểu hiện tiêu cực, lệch lạc trong đánh giá cán bộ,
khắc phục tình trạng nể nang, chủ quan, cảm tính, dĩ hòa vi quý trong đánh giá cán
bộ. Ðồng thời, làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong đánh giá cán bộ, khắc

phục tình trạng không có cá nhân nào chịu trách nhiệm cụ thể về kết quả đánh giá
cán bộ. Ðổi mới công tác tuyển dụng trên cơ sở xây dựng và thực hiện cơ chế, chính
sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Cần thay đổi phương pháp
tuyển dụng hiện nay, thực hiện tuyển dụng theo chức danh, vị trí công tác. Ðối với

21


mỗi chức danh, vị trí công tác cần đề ra tiêu chí tuyển dụng rõ ràng, tổ chức thi
tuyển công khai để chọn người thật sự có năng lực đảm đương nhiệm vụ. Tiếp tục
đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ; khi tiến hành quy hoạch cán bộ cần
có cơ chế bảo vệ, xác định rõ lộ trình đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt, bố trí
và sử dụng cán bộ theo quy hoạch. Xem xét, lựa chọn nguồn cán bộ đưa vào quy
hoạch là những người ưu tú có triển vọng phát triển về năng lực lãnh đạo, quản lý để
tạo nguồn cán bộ lâu dài. Ðịnh kỳ rà soát bổ sung quy hoạch, đưa ra khỏi quy hoạch
những người không đáp ứng được yêu cầu, điều kiện và bổ sung nhân tố mới. Xây
dựng và hoàn thiện cơ chế phát hiện, tiến cử, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân
tài; xây dựng, cụ thể hóa tiêu chuẩn các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý làm cơ
sở cho việc phát hiện, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng cán bộ. Tiếp
tục đổi mới quy trình, thủ tục bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử, cụ thể hóa trách
nhiệm của tập thể, cá nhân trong việc phát hiện, giới thiệu cán bộ theo hướng mở
rộng dân chủ, công khai, minh bạch; một người hoặc nhiều người có thể giới thiệu
và chịu trách nhiệm về việc giới thiệu cán bộ để bổ nhiệm hoặc ứng cử. Xây dựng
quy định về thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công
tác cán bộ.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng tăng
cường quản lý, nâng cao chất lượng. Cần tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ làm công tác quản lý, giảng dạy; đổi mới phương pháp quản lý đào tạo, tăng
cường giảng viên là cán bộ đang đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý trong
hệ thống chính trị. Ðổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo các tiêu

chuẩn chức danh; lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn cứ xây dựng chương trình đào tạo
phù hợp với từng đối tượng; chú trọng bổ sung và cập nhật kiến thức mới; đổi mới
cách dạy, cách học, cách thi cử nhằm phát huy tính tích cực của học viên, vận dụng
kiến thức vào giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn. Khắc phục tình

22


trạng chạy theo bằng cấp đơn thuần hiện nay. Ðẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán
bộ theo quy hoạch; thực hiện việc bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt không phải là
người địa phương và không giữ chức vụ quá hai nhiệm kỳ; giải quyết tốt mối quan
hệ giữa luân chuyển, điều động và tăng cường cán bộ; kết hợp hài hòa giữa luân
chuyển với ổn định đội ngũ cán bộ và giữa luân chuyển dọc với luân chuyển ngang;
nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với cán bộ luân chuyển, tạo điều kiện
để cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ năm, cùng với giảm biên chế hành chính, cần đổi mới và hoàn thiện chính
sách đối với cán bộ, trước hết là chế độ tiền lương, nhà ở và môi trường, điều kiện
làm việc thuận lợi để cán bộ, công chức an tâm công tác, tận tâm với công việc. Có
chính sách, quy chế tôn vinh những người có đức, có tài, tâm huyết với công việc;
phát huy, sử dụng tốt tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức và tầng lớp doanh nhân,
không phân biệt là đảng viên hay người ngoài Ðảng. Cần quan tâm giáo dục mục
tiêu, lý tưởng cách mạng cho cán bộ, tạo động lực để cán bộ luôn phấn đấu vươn
lên.
Thứ sáu, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát đối với
công tác cán bộ. Chú trọng kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên thực hiện Ðiều lệ
Ðảng, thực hiện các nguyên tắc, chỉ thị, nghị quyết của Ðảng; xử lý nghiêm các tập
thể và cá nhân vi phạm các nguyên tắc, quy định của Ðảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra của Ðảng với thanh tra của Nhà nước,
giữa tự kiểm tra của mỗi cấp ủy với kiểm tra của cấp trên. Xây dựng quy chế tiếp
nhận, xử lý những ý kiến đóng góp của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã

hội và của nhân dân trong việc nhận xét, đánh giá, phê bình tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên.
Thứ bảy, đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị ở các cấp phải quán
triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, nắm vững các yêu cầu nhiệm vụ và tích cực,
23


chủ động trong công tác cán bộ; phát huy trách nhiệm của mình để xây dựng đội ngũ
cán bộ, không “khoán trắng” cho cơ quan, tổ chức. Ðồng thời, xây dựng các cơ quan
và đội ngũ cán bộ tham mưu cho cấp ủy về công tác tổ chức cán bộ; đổi mới phương
pháp công tác và lề lối làm việc nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác; có cơ
chế, chính sách thu hút người có đức, có tài nhằm bổ sung cán bộ có chất lượng làm
công tác cán bộ. Trong điều kiện hiện nay, cấp ủy các cấp cần đặc biệt chú ý đến
việc đánh giá, tuyển chọn, bố trí, sử dụng, giám sát, kiểm tra sự trung thành, tận tụy,
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong, tinh thần trách nhiệm, sự vô tư,
trong sáng, công tâm, khách quan, không cục bộ địa phương và năng lực công tác
chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ làm tham mưu về tổ chức cán bộ.
Ðổi mới công tác cán bộ vừa là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, vừa là mục
tiêu, yêu cầu tất yếu, bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng trong công cuộc đổi mới. Việc
đổi mới công tác cán bộ phải đặt trong tổng thể của công tác xây dựng Ðảng và đổi
mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Các
cấp ủy, tổ chức đảng và toàn bộ hệ thống chính trị phải thống nhất quan điểm, nhận
thức, có giải pháp đồng bộ và quyết tâm cao để thực hiện, tạo chuyển biến mạnh mẽ,
mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.

24



C - KẾT LUẬN
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là kết tinh
truyền thống dùng người của ông cha ta trong lịch sử, là đỉnh cao của “nghệ thuật”
hay “phương sách” dùng người - bí quyết thành công của sự nghiệp Cách mạng. Đó
là tư tưởng vĩ đại đầy tính nhân văn và khoa học. Ngày nay, những tư tưởng đó đã
trở thành những bài học, những nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Nhờ đó
mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được hiền tài, đã thu hút được các
nhân sỹ yêu nước, đã thu hút được tất cả các lực lượng đoàn kết xung quanh Đảng,
đưa đến thành công của cách mạng Tháng Tám vĩ đại, thắng lợi Điện Biên chấn
động địa cầu, đại thắng Mùa xuân 1975 hào hùng và cả nước vững bước đi lên Chủ
nghĩa xã hội.
Ở mỗi giai đoạn nhất định của tiến trình cách mạng, quan niệm về phẩm chất
đạo đức, tư cách của người cán bộ, đảng viên lại có những yêu cầu cụ thể. Song nhất
quán và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì đó phải là những con người:
nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, dám xả thân cho cách
mạng, đi tiên phong trong phong trào quần chúng, phải biết “làm việc”, biết “sửa đổi
lối làm việc” và luôn luôn phải rèn luyện đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, kiên quyết đấu tranh loại các căn bệnh như: bệnh địa phương chủ nghĩa, óc bè
phái, óc hẹp hòi, lối làm việc bàn giấy, tính vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa, bệnh tham
lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh... Đạo đức cách mạng, theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh là đạo đức hành động vì nhân dân, thể hiện bản lĩnh chính trị,
phẩm chất cách mạng vững vàng, tự tin và dám chịu trách nhiệm trước bất kỳ khó
khăn nào.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vai trò, vị trí
trọng yếu của Đảng qua các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay khi
mà đội ngũ cán bộ nước ta có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt, cùng với đó
25



×