Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn giúp HS lớp 6 học tốt tiết luyện tập toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.94 KB, 19 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương trình Toán rất đa dạng và phong phú, bởi vậy việc đề ra một
phương pháp dạy học phù hợp với tất cả các dạng bài là điều khó có thể thực
hiện được. Với mỗi dạng bài lên lớp có một phương pháp tối ưu nhất, phương
pháp này thì phù hợp với kiểu bài này nhưng lại không thực sự phù hợp với kiểu
bài khác. Do đó mỗi giáo viên cần cố gắng trau dồi nghiệp vụ sư phạm của mình
để hướng dẫn học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng, phương pháp nhằm đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Nếu như tiết học lý thuyết cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản
ban đầu thì tiết học luyện tập có tác dụng hoàn thiện các kiến thức cơ bản đó,
nâng cao lý thuyết trong chừng mực có thể, làm cho học sinh nhớ và khắc sâu
hơn vấn đề lý thuyết đã học. Tiết luyện tập không phải chỉ đơn thuần là giải các
bài tập đã học, cho học sinh làm ở nhà hay cho học sinh làm ở trên lớp. Thầy
luyện, trò tập làm đó là nội dung chủ yếu của tiết luyện tập.
Trong tiết luyện tập phần nào đó thầy được “ tự do” hơn trong việc lựa
chọn nội dung dạy học so với tiết học lý thuyết, miễn sao đạt được mục đích yêu
cầu đề ra. Học sinh cũng được “tự do” phát triển tư duy sáng tạo để đưa ra nhiều
phương án giải quyết vấn đề khác nhau và rút ra được phương án nhanh nhất.
Đặc biệt tiết luyện tập học sinh có điều kiện thực hành, vận dụng các kiến
thức đã học vào việc giải quyết các bài toán thực tế, các bài toán có tác dụng rèn
luyện kỹ năng tính toán, rèn luyện các thao tác tư duy để phát triển năng lực
sáng tạo sau này. Vì vậy việc dạy học tiết luyện tập rất quan trọng trong chương
trình dạy học, đặc biệt đối với môn toán. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy
môn toán lớp 6, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số phương án dạy tiết luyện tập toán
6 vào lớp học và gây được nhiều hứng thú học tập cho học sinh.
Vì những lí do trên tôi đưa ra đề tài: “Giúp học sinh lớp 6 học tốt tiết
luyện tập toán” làm đề tài nghiên cứu.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề

1




Trên địa bàn mà trường tôi trực thuộc, học sinh đa số là con em nông
thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên việc đầu tư về vật chất cũng như thời
gian cho việc học tập chưa cao, ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ bố
mẹ các công việc gia đình, gần như không có thời gian để tự học. Vì vậy việc
học luyện tập ở trên lớp là thực sự cần thiết đối với học sinh đặc biệt là học sinh
trên địa bàn tôi phụ trách.
Để tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển
năng lực tự học nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo,
gây hứng thú học tập thì việc sử dụng phương pháp, cách thức. cách tổ chức dạy
học một tiết luyện tập toán là thực sự cần thiết.
II. Thực trạng của vấn đề
Theo hướng đổi mới của phương pháp dạy học hiện nay, bản thân giáo
viên với quan niệm quá trình học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội các kiến
thức có sẵn mà còn là quá trình học sinh tự khám phá, tự phát hiện, tự tìm tòi
đến với kiến thức mới nhờ sự hướng dẫn, giúp đỡ và tổ chức của giáo viên.
Tuy nhiên theo tôi nhận định từ trước tới nay đa số giáo viên chưa thực sự
chú trọng, đầu tư vào việc dạy các tiết luyện tập, mà xem luyện tập chỉ là tiết
học dùng để chữa các bài tập đã giao về nhà cho học sinh. Vì vậy các tiết luyện
tập bao giờ cũng chỉ tiến hành theo trình tự rập khuôn, giáo viên kiểm tra lý
thuyết rồi gọi học sinh lần lượt lên chữa bài tập, giáo viên kết luận và cho điểm.
Việc làm này đem lại sự nhàm chán cho bản thân giáo viên cũng như học sinh,
tiết học diễn ra một cách buồn tẻ, học sinh không có hứng thú học tập.
Nếu giáo viên trong quá trình dạy tiết luyện tập lại máy móc, cứng nhắc
không quan tâm đến tính chất và yêu cầu cụ thể của từng tiết luyện tập, bao giờ
cũng phải kiểm tra lý thuyết rồi mới cho ra bài tập đã đươch giao về nhà làm,
không có các trò chơi giải trí, câu đố vui... thì không thể phát triển tư duy, mặt
bằng văn hóa noi chung của học sinh không được nâng cao. Các bài tập bổ sung
ở sách bài tập, giáo viên cần đọc và lựa chọn phù hợp. Sách giáo khoa rất quan

tâm đến việc hướng dẫn học sinh sử dụng máy tính bỏ túi để làm các phép tính

2


một cách nhanh chóng và thuận tiện. nếu trong các tiết luyện tập giáo viên
không quan tâm đến việc này thì học sinh sẽ không biết sử dụng thành thạo máy
tính bỏ túi để tính. Bên cạnh đó học sinh mất dần hứng thú học toán, máy móc
trong việc phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong bài tập, hạn chế khả
năng sử dụng ngôn ngữ chính xác, các phẩm chất của tư duy linh hoạt, độc lập
và sáng tạo không được phát triển, từ đó hình thành cho học sinh thói quen ỷ lại,
không mạnh dạn trình bày ý tưởng của mình.
Trước tình trạng và phân tích kết quả có thể xảy ra của thực trạng tôi thấy
mình cần phải nắm vững mục tiêu, phương pháp dạy tiết luyện tập toán, góp
phần tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động của học sinh nhằm phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng lóng say mê
học tập và ý chí vươn lên.
Để công việc đạt hiệu quả cao hơn, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy
môn toán lớp 6 tôi đã mạnh dạn đưa một số phương án dạy tiết luyện tập vào
quá trình giảng dạy của mình
Để kiểm chứng kết quả nghiên cứu tôi đã khảo sát hai lớp trước khi thực
hiện và thu được kết quả như sau:
Lớp

Số bài

6A
6B

24

25

Điểm dưới TB
SL
%
11
46
14
56

Điểm 5 - 6
SL %
12 50
10 40

Điểm 7- 8
SL
%
1
4
1
4

Điểm 9- 10
SL
%
0
0
0


III. Giải pháp và tổ chức thực hiện
1. Để thực hiện thành công một tiết luyện tập, giáo viên cần:
- Tham gia đầy đủ các buổi học chuyên đề toán để kịp thời vận dụng được
các phương pháp tích cực, phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
- Thường xuyên tham gia dự giờ đồng nghiệp để rút kinh nghiệm cho bản
thân.
- Tham khảo các tài liệu về việc đổi mới phương pháp dạy học để học hỏi
kinh nghiệm như: Thiết kế bài giảng, Sách giáo viên, Sách bài tập...

3


2. Trong quá trình tìm tòi nghiên cứu, tôi nhận thấy để đem lại hiệu quả,
phát triển tư duy của học sinh ở một tiết luyện tập toán, giáo viên cần quan tâm
đến các vấn đề sau:
- Tích cực hóa hoạt động tự luyện tập của học sinh từ khâu chuẩn bị ở
nhà.
- Khi luyện tập cho học sinh áp dụng thành thạo một quy tắc, công thức
nào đó cần lựa chọn một số bài tập có cách giải quyết riêng, đơn giản hơn là áp
dụng quy tắc tổng quát đã học.
- Khuyến khích học sinh tìm nhiều lời giải khác nhau của cùng một bài
toán.
- Rèn cho học sinh khả năng chuyển từ tư duy thuận sang tư duy nghịch
đối với một số bài toán khó để đưa ra hướng giải quyết đơn giản.
- Tổ chức trò chơi bằng nhiều hình thức phong phú, góp phần tăng hứng
thú học tập.
- Rèn kỹ năng sử dụng máy tính bỏ túi để giảm nhẹ những khâu tính toán.
- Giúp học sinh hệ thống kiến thức, rèn luyện kỹ năng, thuật toán, rèn nề
nếp học.
3. Mục tiêu của tiết luyện tập

- Hoàn thiện, nâng cao ( ở mức độ cho phép của chương trình ) lý thuyết
qua hệ thống bài tập.
- Rèn luyện kỹ năng, thuật toán, nguyên tắc giải toán ( tùy từng bài cụ
thể).
- Rèn luyện nếp học tập có khoa học, rèn luyện các thao tác tư duy,
phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo.
4. Tiến hành soạn bài và thực hiện tiết dạy trên lớp
a. Nghiên cứu tài liệu: Cần nghiên cứu lại phần lý thuyết mà học sinh
được học. Trong các nội dung lý thuyết, phải xác định rõ ràng kiến thức cơ bản
và trọng tâm, kiến thức nâng cao hoặc mở rộng cho phép.
Đối với bài tập cần biết:

4


- Cách giải từng bài toán.
- Tìm hết các cách giải một bài toán.
- Xác định cách giải thường gặp, cách giải cơ bản.
- Hiểu được ý đồ của tác giả khi viết bài toán.
- Hiểu được mục đích và tác dụng của từng bài tập.
Sau khi nghiên cứu kỹ các tài liệu mới xây dựng nội dung và đưa ra
phương pháp cho tiết luyện tập.
b. Xây dựng bài soạn
* Mục tiêu ( càng cụ thể càng tốt)
* Cấu trúc
- Chữa các bài tập đã hướng dẫn và giao về nhà
+ Số lượng bài tập – dự kiến thời gian
+ Chốt lại các kiến thức qua các bài tập
( Lý thuyết, thuật toán cần ghi nhớ,...)
- Cho học sinh làm bài tập mới ( chọn lọc trong SGK, SBT hoặc tự đưa

ra).
+ Số lượng bài tập – dự kiến thời gian.
+ Mỗi bài đưa ra có dụng ý gì?
+Chốt lại những vấn đề khi cho học sinh làm các bài tập.
- Hướng dẫn học sinh học bài, làm bài ở nhà sau tiết luyện tập.
+ Hệ thống các bài tập cho về nhà làm.
+ Gợi ý đối với những học sinh yếu, các bài tập khó.
* Tiến trình thực hiện: Cần có cách thực hiện các tiến trình trên lớp để
phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
c. Một số phương án dạy tiết luyện tập
Trong một tiết luyện tập toán 6, người thầy có thể hướng dẫn cho học sinh
nhiều phương án khác nhau, nhiều hướng đi khác nhau, tôi xin đưa ra 2 phương
án tôi sử dụng để dạy tiết luyện tập đối với đối tượng học sinh của tôi như sau:
* Phương án 1:

5


- Hoạt động 1: Học sinh trình bày lời giải các bài tập cũ đã làm ở nhà,
nhằm kiểm tra:
+ Học sinh hiểu lý thuyết đến đâu?
+ Kỹ năng vận dụng lý thuyết trong việc giải bài tập.
+ Học sinh mắc những sai lầm nào?
+ Cách trình bày lời giải bằng ngôn ngữ, bằng kí hiệu chuẩn xác chưa?
- Hoạt động 2: Giáo viên chốt lại những vấn đề trọng tâm
+ Nhắc lại một số vấn đề chủ yếu về lý thuyết mà học sinh chưa vận dụng
được khi giải bài tập.
+ Chỉ ra những sai sót của học sinh, những sai sót thường mắc phải mà
giáo viên tích lũy được trong quá trình giảng dạy.
+ Hướng dẫn học sinh các trình bày, diễn đạt bằng ngôn ngữ, kí hiệu toán

học....
- Hoạt động 3: Làm thêm bài tập mới, nhằm đạt được yêu cầu:
+ Hoàn thiện lý thuyết, khắc phục sai lầm học sinh thường mắc phải.
+ rèn luyện một vài thuật toán cơ bản mà học sinh cần ghi nhớ trong quá
trình học tập.
+ Rèn luyện cách phân tích bài toán, tìm phương hướng giải quyết bài toán.
* Phương án 2:
- Hoạt động 1: Nhắc lại một cách có hệ thống các nội dung lý thuyết đã
học, chú ý đến phương pháp giải các dạng toán. Giáo viên có thể mở rộng phần
lý thuyết ở mức độ phổ thông nếu cần thiết.
- Hoạt động 2: Kiểm tra sự vận dụng lý thuyết, kiểm tra kỹ năng tính toán,
diễn đạt bằng ngôn ngữ, kí hiệu, trình bày lời giải của học sinh.
+ Cho học sinh lớp nhận xét ưu khuyết điểm trong lời giải, đánh giá đúng,
sai hoặc đưa ra cách giải khác hay hơn.
+ Giáo viên chốt lại vấn đề: Phân tích những sai lầm và nguyên nhân dẫn
đến những sai lầm nếu có. Khẳng định những bài làm, bước làm đúng, làm tốt

6


của học sinh để kịp thời động viên. Đưa ra những cách giải khác ngắn gọn hơn,
hay hơn hoặc vận dụng lý thuyết linh hoạt hơn( nếu có thể).
- Hoạt động 3: Giáo viên cho học sinh làm một số bài tập mới nhằm mục
đích:
+ Kiểm tra ngay sự hiểu biết của học sinh phần lý thuyết mở rộng mà giáo
viên đưa ra ở đầu giờ học ( nếu có).
+Khắc sâu, hoàn thiện lý thuyết qua các bài tập có tính chất phản ví dụ,
các bài tập vui có tính thiết thực.
* Tóm lại : Dù sử dụng phương án nào thì cũng có ba phần chủ yếu
- Hoàn thiện lý thuyết.

- Rèn luyện kỹ năng thực hành.
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
5. Các ví dụ
a. Tích cực hóa hoạt động tự luyện tập của học sinh từ khâu chuẩn bị ở
nhà
Ví dụ: Tiết 21- Luyện tập ( Sau tiết 20: Tia phân giác của góc- Toán 6 tập
2)
- Mục tiêu :
+ Khắc sâu kiến thức về tia phân giác của một góc.
+ Rèn kỹ năng giải bài tập về tính góc, áp dụng tính chất về tia phân giác
của một góc để làm bài tập.
+ Vẽ hình cẩn thận, chính xác.
- Giáo viên tiến hành hoạt động 1 như sau:
Ra bài tập kiểm tra bài cũ:

+ Vẽ góc mOn có số đo bằng 1800
+ Vẽ tia phân giác Ot của góc mOn
+ Tính góc mOt, góc tOn.
+ Rút ra nhận xét?

7


Để làm được bài tập này học sinh cần ôn tập kiến thức về vẽ góc khi biết
số đo hoặc góc có số đo 180 0 là góc bẹt. Học sinh còn phải biết cách vễ tia phân
giác.
t
m

n

O

Học sinh nhận xét: Tia phân giác của góc bẹt hợp với mỗi cạnh của góc
một góc 900. Vì vậy giáo viên không cần hỏi :”Thế nào là tia phân giác của một
góc” hoặc “Nêu cách vẽ tia phân giác của một góc” mà thông qua bài tập trên
học sinh vẫn tái hiện lại các kiến thức đó. Ngoài ra còn rèn luyện kỹ năng tính
toán từ đó rút ra nhận xét về tia phân giác của góc bẹt.
Để quá trình tự luyện giải bài tập ở nhà của học sinh được tốt hơn giáo
viên cần chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi, bài tập giao về nhà hợp lí để học sinh
vận dụng ngay kiến thức vừa học vào giải quyết các yêu cầu đó mà không gặp
nhiều khó khăn.
b. Khi luyện tập cho học sinh áp dụng thành thạo một công thức nào đó,
giáo viên cần lựa chọn một số bài tập có cách giải quyết đơn giản hơn là áp dụng
quy tắc tổng quát đã học
Ví dụ 1: Sau khi học bài “So sánh phân số”. Tiết luyện tập, giáo viên có
thể cho học sinh làm một số bài tập so sánh phân số mà không nhất thiết phải áp
dụng quy tắc đã học ( đưa về cùng mẫu dương, rồi so sánh tử với nhau), mà có
thể dùng phân số trung gian để so sánh hoặc tìm phân số bù của hai phân số để
so sánh.
Chẳng hạn như so sánh phân số

2
−5

giáo viên nên hướng dẫn học
3
6

sinh so sánh với phân số trung gian là 0.
Vì:


2
−5
>0;
<0
3
6

Hoặc so sánh hai phân số

=>

2
−5
>
3
6

3
8

9
4

8


Ta thấy phần bù của

3

1
1
1
1
3
8
8
là ; phần bù của là ; Mà > nên <
9
9
4
4
9
4
9
4

Ví dụ 2: Tìm BCNN và ƯCLN của các số không nhất thiết phải đúng theo
quy tắc.
Chẳng hạn như:

Tìm ƯCLN ( 13, 78) = 13 ( Vì 13 là ước của 78)
Tìm BCNN ( 12, 36, 72) = 72 ( Vì 72 là bội của 12 và 36).

Những bài tập như vậy rất tốt để giúp học sinh rèn luyện trí tuệ linh hoạt,
không máy móc và thay đổi phù hợp với điều kiện mới. Tuy nhiên giáo viên cần
phải chọn thời điểm phù hợp, nếu không học sinh dần dần sẽ không còn tin vào
quy tắc nữa. Học sinh cần được rèn luyện tư duy linh hoạt, vừa hiểu rõ quy tắc
tổng quát để có thể áp dụng có hiệu quả cho mọi bài toán cùng dạng, đồng thời
biết phân biệt có thể giải bằng phương pháp đơn giản hơn.

c. Khuyến khích học sinh tìm hiểu nhiều lời giải khác nhau của một bài
toán
Ví dụ: Tiết 49 – Luyện tập ( SGK toán 6)
Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 39a SGK.
Tính tổng 1 + ( -3) + 5 + (-7) + 9 + (-11)
Học sinh có thể tìm ra các cách sau:
Cách 1:

1 + ( -3) + 5 + (-7) + 9 + (-11)

= [1 + ( -3) ] +[ 5 + ( -7)] + [ 9 + ( -11)]
= (-2) + ( -2) + ( -2) = - 6
Cách 2:

1 + ( -3) + 5 + (-7) + 9 + (-11)

= ( 1 + 5 + 9) + [ ( -3) + ( -7 ) + ( -11)]
= 15 + ( -21) = - 6
Cách 3:

1 + ( -3) + 5 + (-7) + 9 + (-11)

= ( 1 + 9) + [ ( -3 ) + ( -7) ] + [ 5 +( -11)]
= 10 + ( -10 ) + ( -6) = -6
Học sinh nhận xét về các cách làm.

9


Giáo viên kết luận: Để cộng các số nguyên, ta có thể:

+ Cộng từ trái sang phải
+ Cộng các số nguyên dương với nhau, cộng các số nguyên âm với nhau,
rồi cộng các kết quả lại.
+ Nhóm các số nguyên tròn trục, tròn trăm,... vào một nhóm rồi tính.
Mỗi cách giải là một phương hướng khác nhau, giáo viên gợi ý để học sinh tìm
ra nhiều cách giải. Việc tìm ra nhiều cách giải của một bài toán tất nhiên phải
đòi hỏi học sinh phải so sánh các kết quả đó, để tìm ra lời giải hay nhất, hướng
cho học sinh có sự sáng tạo phong phú.
d. Trong tiết luyện tập, giáo viên cần quan tâm đến việc rèn luyện cho học
sinh khả năng chuyển dễ dàng, nhanh chóng từ tư duy thuận sang tư duy nghịch
để học sinh nắm vững hơn nội dung kiến thức đã được học ở tiết trước.
Ví dụ 1: Tiết 24 – luyên tập ( SGK toán 6)
Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 104 ( trang 42 SGK toán 6)
Điền chữ số vào dấu * để
a) 5 * 8 chia hết cho 3;

b) 6 * 3 chia hết cho 9

Mục đích: Một số chia hết cho 3 ( cho 9) thì tống các chữ số của số đó
chia hết cho 3 (cho 9)
Học sinh hiểu rõ được điều này thì sẽ dễ dàng tìm được:
a) * = { 2; 5; 8 };
b) * ={0; 9}
Bài tập 105 ( trang 42 SGK toán 6) : Dùng ba trong bốn chữ số 4; 5; 3; 0
ghép thành các số có ba chữ số sao cho các số đó
a) Chia hết cho 9.
b) Chia hết cho 3 mà không chia hết cho 9
Đối với bài tập này đòi hỏi học sinh phải cộng tổng ba trong bốn số 4; 5;
3; 0 nếu tổng nào chia hết cho 9 thì ghép được số chia hết cho 9, tổng nào chia
hết cho 3 mà không chia hết cho 9 thì ghép được số chia hết cho 3 mà không

chia hết cho 9.

10


a) 450; 540; 405; 504;
b) 453; 435; 345; 354; 543; 534
Ví dụ 2: Tiết 65- Luyện tập ( SGK toán 6)
Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 99( SGK toán 6:
Áp dụng tính chất a( b – c) = ab – ac. Điền số thích hợp vào ô trống
a.

. (-13) + 8 . (-13) = ( -7 + 8) . (-13) =

b. (-5). (-4 -

) = (-5). (-4) – (-5) . (-14) =

Mục đích: Sủ dụng tính chất a( b – c) = ab – ac để biết nếu có ab – ac thì
có thể viết thành a( b – c). Suy luận như vậy sẽ nhanh chóng tìm ra kết quả
a) ( -7) ; ( -13);

b) ( -14) ; ( -50)

e. Xen vào các tiết luyện tập sau khi chữa bài tập giáo viên nên tổ chức
các trò chơi giữa các nhóm, học tập bằng nhiều hình thức phong phú, góp phần
tăng thêm tinh thần đoàn kết giữa học sinh trong lớp, giảm tính chất căng thẳng
của tiết học toán. Thông qua các bài tập “đố”, “thi ghép chữ”, “thi tính
nhanh”...học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh hơn và nhớ được lâu hơn.
Ví dụ 1: Tiết 16- Luyện tập ( SGK toán 6)

Giáo viên có thể tổ chức trò chơi “ đố” qua bài tập 82 SGK toán 6
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu dân tộc? Học sinh có thể
đưa ra nhiều ý kiến, để biết kết quả chính xác học sinh tiến hành tính giá trị của
biểu thức 34 – 33. Kết quả của phép tính chính là câu trả lời. ( 54 dân tộc).
Ví dụ 2: Tiết 80 – Luyện tập SGK toán 6
Giáo viên có thể tổ chức trò chơi tính nhanh
Hoàn chỉnh bảng sau: ( đề bài ghi trên 2 bảng phụ)

-1

−1
2

2
3

5
6

−3
4

-1

12

11


Luật chơi: Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 5 bạn chơi, mỗi bạn được điền

kết quả vào 1 ô rồi chuyền phấn cho bạn tiếp theo. Kết quả của bạn trước được
dùng vào phép tính của bạn kế tiếp, vì vậy 1 bạn sai thì kết quả của cả đội sẽ sai.
Thời gian chơi là 5 phút.
Kết thúc trò chơi giáo viên cho học sinh nhận xét và thưởng cho đội thắng
cuộc.
Ví dụ 3: Tiết 82 – Luyện tập SGK toán 6
Giáo viên có thể cho học sinh tiến hành làm phiếu học tập theo nhóm ( bài
tập 55 trang 30 SGK toán 6)
+

−1
2

5
9

1
36

− 11
18

−1
2
5
9
1
36
− 11
18


Luật chơi: Mỗi ô điền đúng được 1 điểm, kết quả chưa rút gọn trừ 0,5
điểm . Nhóm nào phát hiện được những kết quả giống nhau điền nhanh được
thưởng 1 điểm. Thời gian chơi 5 phút. Đội thắng cuộc sẽ được khen thưởng.
Tuy nhiên, việc tiến hành tổ chức các trò chơi trong giờ học đòi hỏi giáo
viên phải linh hoạt, điều khiển tốt, nếu không học sinh dễ gây mất trật tự, lộn
xộn, cãi nhau, gây ảnh hưởng đến các lớp xung quanh.
f. Việc chuẩn bị dạy tiết luyện tập, điều quan trọng là phải bám sát tư tưởng chủ
đạo là hoàn thiện hệ thống kiến thức, rèn luyện kỹ năng, thuật toán, rèn luyện nề
nếp học tập.

12


Để đảm bảo phát huy tối đa hoạt động của giáo viên và học sinh, tránh sự
đơn điệu, thụ động như các tiết luyện tập toán trước đây. Giáo viên cần tìm tòi,
thiết kế hệ thống câu hỏi, kèm theo bài tập để kiểm tra nhận thức của học sinh,
tạo tình huống mới về kiến thức đã học, kích thích hứng thú học tập của học sinh
Hệ thống câu hỏi, bài tập cần phải gắn liền với các biện pháp kỹ thuật của
người giáo viên làm cho tiết học sinh động hơn, làm cho học sinh hiểu được
kiến thức sâu sắc hơn.
Ví dụ 2: Tiết 87- Luyện tập SGK toán 6
Mục tiêu của tiết dạy
- Kiến thức: Củng cố và khắc sâu phép nhân phân số, các tính chất cơ bản
của phép nhân phân số.
- Kỹ năng: Vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học về phép nhân phân số
và các tính chất cơ bản của phép nhân phân số để giảo toán.
- Thái độ: Rèn tư duy logic, khơi dậy tình yêu đối với môn toán.
Giáo viên có thể tiến hành theo trình tự sau:
Bước 1: Giáo viên kiểm tra và yêu cầu học sinh làm bài tập đã giao về nhà

để kiểm tra sự vận dụng lý thuyết vào làm bài tập của học sinh ( bài 75; 76 SGK
toán 6).
Bài 75: ( Đề bài ghi trên bảng phụ) Học sinh lên bảng điền vào ô trống:
x

2
3

−5
6

7
12

−1
24

2
3

13


−5
6
7
12
−1
24


( Kết quả:

4 25
49
;
;
;
9 36 144

1
)
576

3 Học sinh lên bảng điền vào 3 ô ở hàng ngang thứ 2
Giáo viên: Từ kết quả của 3 ô hàng ngang thứ 2 ta điền được ngay các ô nào? Vì
sao?
Học simh sẽ điền được ngay 3 ô ở cột thứ hai, do áp dụng tính chất giao hoán
của phép nhân.
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu tính chất giao hoán của phép nhân?
Bước 2: Biết được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh thông qua bước
1, giáo viên chốt lại các vấn đề sau: Với mỗi bài tập có thể có nhiều cách giải
khác nhau, vì vậy cần quan sát kỹ các phân số trong bảng hoặc trong biểu thức
có quan hệ với nhau như thế nào rồi suy nghĩ, tính nhẩm sẽ tìm được cách giải
hợp lý nhất, do đó trong học tập cũng như trong cuộc sống ta luôn cần tìm cách
giải quyết công việc một cách hợp lý nhất.
Bước 3: Giáo viên cho học sinh làm một số bài tập mới
Bài tập: Tính giá trị của biểu thức sau bằng hai cách
1
6


1
8

A = 24 . ( − )
Để làm bài tập này, em có thể làm bằng máy cách? Em chọn cách nào? Vì sao?

14


Cách 1: Thực hiện phép tính trong ngoặc trước, rồi thực hiện phép nhân.
Cách 2: Sử dụng tính chất phân phối giữa phép nhân đối với phép cộng.
Giáo viên: Ta thấy 24 là bội chung của 6 và 8, khi đó nếu sử dụng tính chất phân
phối của phép nhân đối với phép cộng để tính thì bài toán trở nên đơn giản hơn.
Giáo viên tổ chức “ trò chơi thi ghép chữ” ( Bài 79 SGK toán 6)
Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động nhóm thể hiện đầy đủ kết quả phép tính và
ghép chữ hoàn chỉnh vào các ô trống.
Giáo viên giới thiệu sơ lược về nhà toán học Lương Thế Vinh.
Tóm lại, khi dạy tiết luyện tập toán, giáo viên cần phải lưu ý: suy nghĩ tìm
cách giải, tìm những cách giải khác nhau và chọn cách giải hay nhất để giải và
từ đó hướng dẫn học sinh làm theo. Trên cơ sở thiết kế hệ thống câu hỏi khai
thác bài toán, tổng quát hóa, tương tự và mở rộng bài toán. Đồng thời giáo viên
cần phải quan tâm, sửa chữa các sai sót mà học sinh thường mắc phải như: vẽ
hình thiếu chính xác, lập luận chứng minh không chặt chẽ...trong hình học.
Nhầm lẫn trong việc sử dụng các phép toán, áp dụng nhầm lẫn các quy tắc toán
học.
IV. Kiểm nghiệm
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy toán 6 tôi đã tìm tòi, học hỏi và vận dụng
phương pháp nêu trên vào công việc giảng dạy bước đầu mang lại hiệu quả rõ
rệt. Tôi nhận thấy các em dần dần làm quen được với cách làm mới, tiết học sôi
nổi hơn. Qua thăm giò ý kiến của học sinh thì tiết học toán – Luyện tập sử dụng

phương pháp nêu trên thì học sinh rất thích, hăng say học tập.
Bằng những biện pháp phù hợp trong qua trình giảng dạy, kết hợp với quá trình
theo dõi thử nghiệm thực tế, kết quả cho thấy hiệu quả vận dụng của các em khả
quan hơn. Học sinh đã có phương pháp học tập chất lượng hơn, đã có hứng thú

15


với những tiết luyện tập trong chương trình Toán 6, biết lập luận bài toán có
lôgíc và suy nghĩ hướng giải của bài toán. Kĩ năng vận dụng từ lí thuyết vào bài
tập đã bước đầu có chuyển biến.
Qua quá trình giảng dạy chất lượng học sinh được nâng lên rõ rệt. Để kểm
nghiệm phương pháp tôi nghiên cứu tôi đã thường xuyên sử dụng phương pháp
nêu trên đối với lớp 6A và không thường xuyên đối với lớp 6B. Chất lượng lớp
6A được nâng lên rõ rệt hơn lớp 6B.

Cụ thể kết quả khảo sát cuối học kỳ I như sau:
Lớp

Số bài

Điểm dưới TB

Điểm 5 - 6

Điểm 7 -8

Điểm 9 - 10

6A


24

SL
7

%
29

SL
13

%
54

SL
4

%
17

SL
0

%
0

6B

25


9

36

14

56

2

8

0

0

Kết quả khảo sát cuối kì II như sau:
Lớp
6A
6B

Số bài

Điểm dưới TB Điểm 5 - 6

Điểm 7 -8

Điểm 9 - 10


24
25

SL
4
7

SL
5
3

SL
1
0

%
17
28

SL
14
15

%
58
60

%
21
12


%
4
0

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
* Kết luận:
Việc dạy học là một quá trình phức tạp, đòi hỏi người dạy phải không
ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, luôn luôn tìm ra hướng
đi đúng đắn cho quá trình dạy học của bản thân, sẽ không có một phương pháp
nào để áp dụng cho mọi kiểu bài lên lớp, áp dụng cho mọi đối tượng học sinh.
Bởi vậy mỗi giáo viên phải biết kế thừa có sáng tạo những gì mà các thế hệ đi
trước đã dày công nghiên cứu.

16


Sáng kiến này giúp học sinh học các tiết luyện tập toán với tâm lí
nhẹ nhàng, thoải mái hơn, làm cho tiết học đạt hiệu quả cao hơn. Khơi dậy đựơc
sự đam mê học toán nói chung và giảm được tâm lí "ngại" học tiết luyện tập, đặc
biệt là luyện tập toán 6.
Như vậy, từ chỗ học sinh còn lúng túng trong kiến thức và phương pháp ở
các tiết luyện tập và đặc biệt rất ngại học tiết luyện tập, thậm chí tỏ thái độ
không thích học tiết luyện tập, qua thực tế giảng dạy với hệ thống kiến thức nêu
trên học sinh đã có ý thức thích học tiết luyện tập loán, thích tìm tòi kiến thức
trong các tiết học luyện tập. Khi nắm vững kiến thức và phương pháp giải các
dạng bài tập học sinh sẽ có được hứng thú góp phần khơi dậy niểm say mê trong
học tập từ đó nâng cao chất lượng đại trà trong dạy học bộ môn Toán, đặc biệt là
trong việc dạy học các tiết luyện tập Toán. Với hệ thống kiến thức cơ bản được
xây dựng như trên học sinh sẽ chủ động để đến với những kiến thức mới cũng

như các dạng bài tập Toán mới trong các chương trình ở các lớp trên.
Trên đây là một vài ý kiến nhỏ được đúc rút từ thực tế những năm giảng
dạy của tôi. Tuy nhiên với khả năng của mình tôi chỉ đề cập tới một vài tình
huống mà tôi đã gặp trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh. Với
những việc làm nêu trên tôi đã thu được một số kết quả mà theo tôi không thể
diễn tả bằng các con số cụ thể:
- Phần lớn các em đã phát huy được tính tích cực, sáng tạo, tính nhanh
nhẹn và tinh thần đoàn kết trong việc tiếp thu hay xây dựng kiến thức.
- Tính chất khô khan vốn có của tiết luyện tập, ôn tập đã được hạn chế tối
đa, các em cảm thấy vui vẻ, nhẹ nhàng trong giờ học, sự hứng thú ở các em học
sinh thể hiện rất rõ trong kết quả mà các em đạt được.
- Nhiều học sinh học yếu đã mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong việc tiếp thu
lĩnh hội kiến thức…
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn một số tồn tại, do
thời lượng tiết học hạn chế, một số học sinh kiên thức cơ bản nắm chưa chắc

17


chắn nên phần nào ảnh hưởng đến tiến trình giờ dạy. Hơn nữa do khả năng có
hạn của bản thân nên đôi khi tạo ra sự dán đoạn trong tiết học.
* Kiến nghị:
- Đề nghị Hội đồng tuyển sinh huyện cần qua tâm hơn đến chất lượng đầu vào.
- Đề nghị Phòng giáo dục và đào tạo mở nhiều chuyên đề để chúng tôi có điều
kiện trao đổi và học hỏi thêm.
Những phương pháp trên mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng cũng không
tránh khỏi những sai lầm thiếu sót, rất mong được sự đóng góp chân thành từ
các thầy cô giáo, các bạn bè đồng nghiệp để giúp tôi hoàn thiện phương pháp
dạy học của mình, phần nào giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tối ưu
nhất. Giúp các em có được cơ sở vững vàng bước tiếp trên con đường tri thức.

Tôi xin chân thành cám ơn.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Phùng Giáo, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT

Lê Văn Điệp

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thường xuyên tham gia dự giờ các tiết dạy của cán bộ, giáo viên trong trường
và cụm chuyên môn.
2. Sách giáo viên lớp 6.
3. Tài liệu “Thiết kế bài giảng” của các lớp 6.
4. Tìm hiểu thông qua báo mạng intenet.

18


19



×